Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Tuyến điểm du lịch miền tây sông nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.24 KB, 36 trang )

Tuyến điểm du lịch miền tây sông nước
1. 1. Bài Thuyết Minh TP.Hồ Chí Minh - Tiền Giang - Đồng Tháp - An Giang
– - ( 246 Km ) Dzoãn Tiến Đạt IA. Tp.HCM – Tx.Tân An ( 47 Km ) : . Năm
1698, Nguyễn Phƣớc Chu - tức chúa Minh - sai Thống suất Nguyễn Hữu
Kính (thƣờng đọc là Cảnh) vào Nam kinh lý và lập phủ Gia Định. Nhƣng
trƣớc đó, có lẽ hàng thế kỷ, nhiều sử liệu cho thấy ngƣời Việt Nam đã tới
buôn bán và khẩn hoang lập ấp rải rác trong đồng bằng sông Mê Kông ở
châu thổ miền Nam và sông Mê Nam bên Xiêm rồi. Biên niên sử Khơ Me
chép:Năm 1618, vua Chey Chettha II lên ngôi. Ngài liền cho xây cung điện
nguy nga tại U Đông, rồi cử hành lễ cƣới trọng thể với một công chúa Việt
Nam rất xinh đẹp con chúa Nguyễn (ngƣời ta phỏng đoán đó là công nữ
Ngọc Vạn con chúa Sãi, Nguyễn Phƣớc Nguyên). Hoàng hậu Sam Đát Việt
Nam cho đem nhiều ngƣời đồng hƣơng tới Campuchia, có ngƣời đƣợc làm
quan lớn trong triều, có ngƣời làm các nghề thu công và có ngƣời buôn bán
hay vận chuyển hàng hóa. Năm 1623, chúa Nguyễn sai một phái bộ tới yêu
cầu vua Chey Chettha II cho lập đồn thu thuế tại Prei Nokor (Sài Gòn) và
Kas Krobei (Bến Nghé). Đây là vùng rừng rậm hoang vắng nhƣng cũng là
địa điểm qua lại và nghỉ ngơi của thƣơng nhân Việt Nam đi Campuchia và
Xiêm La. Chẳng bao lâu, hai đồn thu thuế trở thành thị tứ trên bến dƣới
thuyền, công nghiệp và thƣơng nghiệp sầm uất. Giáo sĩ Ý tên Christoforo
Boni sống tại thị trấn Nƣớc Mặn gần Qui Nhơn từ năm 1681 đến năm 1622,
viết hồi ký "Chúa Nguyễn phải chuyên lo việc tập trận và gởi quân sang
giúp vua Campuchia - cũng là chàng rể lấy con gái hoang của chúa! Chúa
viện trợ cho vua cả tàu thuyền lẫn binh lính để chống lại vua Xiêm". Borri
cũng tả khá tỉ mỉ về sứ bộ của chúa Nguyễn đi Campuchia hồi 1620: "Sứ
thần là ngƣời sinh trƣởng tại Nƣớc Mặn, một nhân vật quan trọng đứng sau
chức tổng trấn. Trƣớc khi lên đƣờng, ông đã để nhiều ngày giờ bàn bạc và
nhận lệnh của chúa. Sứ bộ gồm khá đông ngƣời, cả quan lẫn lính, vừa nam
vừa nữ, chuyên chở trên những chiếc thuyền lớn có trang bị vũ khí và bài trí
lộng lẫy. Khi sứ bộ tới kinh U Đông, thì dân chúng Khơ Me, thƣơng nhân



Bồ Đào Nha, Nhật Bản và Trung Hoa đã tụ hội đông đảo để đón tiếp và hoan
nghênh. Vì sứ thần đây là ngƣời quan thuộc, đã lui tới nhiều lần, từng làm
đại diện thƣờng trú từ lâu, chứ không phải sứ giả mới tới lần đầu. Borri còn
cho biết tòa sứ bộ khá quan trọng và đông đúc, nào là thê thiếp, ngƣời hầu
kẻ hạ của sứ thần, nào binh sĩ giữ an ninh và phục dịch sứ bộ. Một giáo sĩ
khác ngƣời Pháp tên là Chevreuil tới thăm Colompé (tức Pnom Penh, Nam
Vang) hồi 1665 đã thấy "hai làng An Nam nằm bên kia sông, cộng số ngƣời
đƣợc độ 500 mà kẻ theo đạo Công giáo chỉ có 4 hay 5 chục ngƣời". Ngoài
Nam Vang, tại các nơi khác cũng có nhiều ngƣời Việt Nam sinh sống, ở thôn
quê thì làm ruộng, gần phố thì buôn bán, làm thủ công hay chuyên chở ghe
thuyền, kể hàng mấy ngàn ngƣời. Nhƣ ở Đất Đỏ, Bà Rịa, Bến Cá, Cù lao
Phố, Mỹ Tho, Hà Tiên, v.v...
2. 2. Ngoài đồng bằng sông Mê Kông, ngƣời Việt Nam còn đến làm ăn và định
cƣ rải rác trong đồng bằng sông Mê Nam. Lịch sử cho biết: dân tộc Thái
mới lập quốc từ thế kỷ VII sau công nguyên ở giữa bán đảo Đông Dƣơng và
chủ yếu trên lƣu vực sông Mê Nam. Nƣớc này gọi là Xiêm hay Xiêm La
(Siam), đến năm 1939 mới đổi tên là Thái Lan. Kinh đô Xiêm xƣa ở
Ayuthia, xây dựng thừ năm 150 trên một khúc quanh của sông Mê Nam cách
biển gần 100 km. Theo bản đồ Loubère vẽ năm 1687, thì kinh đô Ayuthia
nằm trong một hòn đảo lớn, giữa hai nhánh sông Mê Nam. Đƣờng sá, cầu
cống, phố chợ, lâu đài... đƣợc ghi khá rõ ràng. lại có thêm chú chích minh
bạch nhƣ: A=Thành phố, B=cung điện, C=bến cảng, D=xƣởng thủy hải
quân, E=xƣởng thủy ghe thuyền, F=phố thị, G=chủng viện... Chung quanh
hòn đảo chính có những khu vực dành riêng cho dân Xiêm hay ngƣời nƣớc
ngoài cƣ trú: ngƣời Xiêm ở phía Bắc và Tây Bắc, ngƣời Hoa ở phía Đông,
ngƣời Việt Nam, Mã Lai, Nhật Bản, Hòa Lan, Bồ Đào Nha ở phía Nam. Nơi
ngƣời Việt ở cũng là một cù lao khá rộng, qua sông là tới phố thị kinh đô,
việc đi lại giao dịch rất thuận lợi. Nhìn cách bố trí thôn trại chung quanh
Ayuthia, ta có thể phỏng đoán cộng đồng ngƣời Việt ở đây khá đông và là

một trong mấy nhóm ngoại quốc tới lập nghiệp sớm nhất. Trên bản đồ có ghi


rõ chữ Cochinchinois nơi thôn trại Việt. Đƣơng thời, địa danh này chỉ ngƣời
Đàng Trong và cũng có thể chỉ chung ngƣời VIệt Nam, vì trƣớc đó - trong
thời gian chƣa có phân ranh Trịnh Nguyễn, Tây phƣơng dùng địa danh ấy,
biến dạng bởi Giao Chỉ - Cauchi - Cauchinchina - Cochinchine để gọi chung
Việt Nam. Đa số ngƣời Việt ở đây là ngƣời Đàng Trong, song cũng có
ngƣời Đàng Ngoài. Họ tới định cƣ và lập nghiệp có lẽ từ thế kỷ XVI hay
đầu thế kỷ XVII tồi, nghĩa là từ thời nhà Mạc khi trong nƣớc rất xáo trộn là
loại ly. Theo ký sự của Vachet thì cả nam nữ già trẻ. Ngoài Ayuthia, ngƣời
Việt còn tới làm ăn định cƣ tại Chân Bôn (Chantaburi) và Bangkok là những
thƣơng điếm trung chuyển từ Hà Tiên tới kinh đô Xiêm. Sử Việt Nam và sử
Khơ Me cùng nhất trí ghi sự kiện:Năm 1674, Nặc Ong Đài đánh đuổi vua
Nặc Ong Nộn. Nộn chạy sang cầu cứu chúa Nguyễn. Chúa liền sai thống
suất Nguyễn Dƣơng Lâm đem bính đi tiến thảo, thâu phục luôn 3 lũy Sài
Gòn, Gò Bích và Nam Vang (trong sử ta, địa danh Sài Gòn xuất hiện từ 1674
vậy). Đài thua chạy rồi tử trận. Chúa Nguyễn phong cho Nặc Ong Thu làm
Cao Miên quốc vƣơng đóng đô ở U Đông, cho Nặc Ong Nộn làm phó
vƣơng. Sử ta còn ghi rõ:năm 1679, chúa Nguyễn Phƣớc Tần tức Hiền
Vƣơng cho "nhóm ngƣời Hoa" muốn "phục Minh chống Thanh" là Dƣơng
Ngạn Địch tới Mỹ Tho, Trần Thƣợng Xuyên tới Biên Hòa và Sài Gòn để
lánh nạn và làm ăn sinh sống. Những nơi đó đã có ngƣời Việt tới sinh cơ lập
nghiệp từ lâu. Nhƣ Trịnh Hoài Đức đã chép: các chúa Nguyễn "chƣa rảnh
mƣu tính việc ở xa nên phải tạm để đất ấy cho cƣ dân bản địa ở, nối đời làm
phiên thuộc ở miền Nam, cống hiến luôn luôn". Nhƣng năm 1658, "Nặc
Ong Chân phạm biên cảnh", Hiền Vƣơng liền sai "phó tƣớng Tôn Thất Yên
đem ngàn binh đi 2 tuần đến thành Mô Xoài (Bà Rịa), đánh phá kinh thành
và bắt đƣợc vua nƣớc ấy". Sau đƣợc tha tội và đƣợc phong làm Cao Miên
quốc vƣơng "giữ đạo phiên thần, lo bề cống hiến, không xâm nhiễu dân sự ở

ngoài biên cƣơng. Khi ấy địa đầu Gia Định là Mô Xoài và Đồng Nai đã có
lƣu dân của nƣớc ta đên ở chung lộn với ngƣời Cao Miên khai lhẩn ruộng


đất". Nhƣ vậy là từ trƣớc 1658, Mô Xoài và Đồng Nai đã thuộc "biên cảnh"
của Việt Nam.
3. 3. Bốn mƣơi năm sau (tức 1698), chúa Nguyễn mới sai Nguyễn Hữu Kính
vào "kinh lý" miền Nam. Đó là cuộc kinh lý miền biên cảnh - khi ấy "đất đai
đã mở rộng khắp miền đông Nam Bộ nay. Trên cơ sở lƣu dân Việt Nam tự
phát tới "khẩn hoang lập ấp", Nguyễn Hữu Kính đã lập phủ Gia Định và 2
huyện Phƣớc Long, Tân Bình (một phần nay là TPHCM). Đúng là dân làng
đi trƣớc, nhà nƣớc đến sau. Và miền biên cảnh Nam Bộ sáp nhập vào
cƣơng vực Việt Nam một cách thật êm thắm và hòa hợp dân tộc vậy. Hình
ảnh đầu tiên tạo nên địa thế Sài Gòn chính là vùng Bến Nghé – Sài Gòn.
Vùng này xƣa kia là rừng rậm đầm lầy, hoang vắng, "mênh mông rừng tràm,
bạt ngàn rừng dừa", song cũng nổi tiếng là vùng đất màu mỡ phì nhiêu có
đƣờng giao thông thuận tiện. Năm 1698Chúa Nguyễn sai Thống suất
Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý miền biên cảnh phía Nam, lập phủ Gia Định
và thời điểm này đƣợc ghi vào lịch sử nhƣ cột mốc thời gian để tính tuổi
cho thành phố Năm 1896, thành phố đổi tên từ "Gia Định Tỉnh" thành Sài
Gòn và từ đây tên tuổi này ngày càng rực sáng trên trƣờng quốc tế qua
những hình ảnh và trang sử rất gợi nhớ: "Là trung tâm thƣơng mại sầm uất,
có thƣơng cảng thuận tiện cho giao lƣu kinh tế với nƣớc ngoài"; "Sài Gòn
hòn ngọc của Viễn Đông", "Sài Gòn có cảng Nhà Rồng, nơi Bác Hồ đã ra đi
tìm đƣờng cứu nƣớc"; Sài Gòn còn là điểm khởi đầu của Nam Bộ kháng
chiến oanh liệt. Trong kháng chiến chống Mỹ, Sài Gòn luôn đi đầu trên mọi
trận tuyến, lịch sử Sài Gòn gắn liền với những trang sử đấu tranh hào hùng
của công nhân, lao động, trí thức, học sinh, sinh viên và đỉnh cao là chiến
dịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã tô thắm thêm cho bản anh hùng ca dựng nƣớc
và giữ nƣớc của ngƣời Sài Gòn, của dân tộc Việt Nam kiên cƣờng. Từ đây

lịch sử đã sang trang mới, "Sài Gòn" đƣợc Quốc Hội đổi tên thành "Thành
phố Hồ Chí Minh" (tháng 07/1976), và một thời kỳ mới đã bắt đầu - Thời kỳ
xây dựng xã hội mới vì mục tiêu: Dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng,
văn minh. Địa danh: Gia Định – Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh - 1698 –


1802: Phủ Gia Ðịnh - 1790 – 1802: Gia Ðịnh Kinh - 1802 – 1808: Gia Ðịnh
Trấn - 1808 – 1832: Gia Ðịnh Thành - 1836 – 1867: Tỉnh Gia Ðịnh - 1889 –
1975: Tỉnh Gia Ðịnh (Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Ðịnh) - 1976 đến nay: Thành
phố Hồ Chí Minh Địa danh Gia Định đã xuất hiện từ 300 năm qua, nhƣng
khi là phủ, là tỉnh, là toàn xứ Nam bộ, lại chỉ định những địa bàn hành chính
to nhỏ rất khác nhau. Thật là phức tạp, chúng ta cần xem xét cho thấu đáo.
Phủ Gia Định từ 1698 đến 1802. Năm 1698, Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh
vào kinh lý miền Nam, thấy nơi đây đất đã mở mang "hàng ngàn dặm và có
dân trên 4 vạn hộ". Để chấm dứt tình trạng lƣu dân tự khẩn hoang lập ấp đó,
Cảnh bèn lập phủ Gia Định để coi hai huyện: Phƣớc Long (Biên Hòa) và
Tân Bình (Sài Gòn, từ sông Sài Gòn đến sông Vàm Cỏ Đông). Diện tích
rộng khoảng 30.000 km2. Năm 1708, Mạc Cửu xin cho trấn Hà Tiên thuộc
quyền Chúa Nguyễn. Năm 1732,
4. 4. chúa Nguyễn cho lập châu Định Viễn và dựng dinh Long Hồ (sau là Vĩnh
Long). Năm 1756, tổ chức cai trị đạo Trƣờng Đồn (sau là Định Tƣờng).
Năm 1757, chúa Nguyễn cho lập các đạo Đông Khẩu, Tân Châu, Châu Đốc.
Từ đó toàn miền Nam thuộc về lãnh thổ và chính quyền Việt Nam. Từ 1779,
phủ Gia Định bao gồm cả: Dinh Phiên trấn (Sài Gòn) Dinh trấn Biên (Biên
Hòa) Dinh Trƣờng Đồn (Định Tƣờng) Dinh Long Hồ (Vĩnh Long, An
Giang). Trấn Hà Tiên. Nhƣ vậy, diện tích phủ Gia Định là diện tích toàn
Nam bộ rộng khoảng 64.743 km2. Gia Định kinh từ 1790 đến 1802 Sau khi
thâu hồi đất Gia Định, Nguyễn Ánh cho xây thành Bát Quái rộng lớn theo
cách bố phòng Vauban, theo định hƣớng phong thổ Aá Đông, theo mỹ thuật
dân tộc Việt Nam và mệnh danh là Gia Định kinh. Gia Định trấn từ 1802 đến

1808. Năm 1802, Nguyễn Ánh thâu phục kinh thành Phú Xuân rồi lên ngôi
và lấy đế hiệu Gia Long. Gia Long bèn hạ cấp Gia Định kinh xuống làm Gia
Định trấn thành. Cải tên phủ Gia Định làm trấn Gia Định và đặt "trấn quan"
để cai quản cả ngũ trấn là: trấn Phiên An, trấn Biên Hòa, trấn Định Tƣờng,
trấn Vĩnh Long, trấn Hà Tiên. Gia Định thành từ 1808 đến 1832 Gia Định
thành thay cho Gia Định trấn. Gia Định thành là đơn vị hành chính lớn cũng


nhƣ Bắc thành cai quản cả xứ Bắc gồm nhiều trấn. Có lẽ phải đổi tên Gia
Định trấn ra Gia Định thành để khỏi lẫn với 5 trấn dƣới quyền cai quản. Từ
đó, thành cai quản trấn. Để dễ phân biệt. Khi Trịnh Hoài Đức viết Gia Định
thành thông chí là có ý nghiên cứu toàn hạt 5 trấn đã kể trên. Tỉnh Gia Định
từ 1836 đến 1867. Năm 1832, sau khi Tổng trấn Lê Văn Duyệt mất, Minh
Mạng liền cải ngũ trấn thành lục tỉnh là Phiên An, Biên Hòa, Định Tƣờng,
Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Đổi thành Gia Định - nơi trú đóng của Tổng
trấn - làm tỉnh thành Phiên An - nơi trị sở của Tổng đốc coi riêng Phiên An
thôi. Năm 1835, sau vụ Lê Văn Khôi, Minh Mạng cho phá thành Bát Quái
và xây dựng Phụng thờ nhỏ, gọi là tỉnh thành Phiên An. Năm 1936, cải tỉnh
Phiên An ra tỉnh Gia Định. Tỉnh thành Phiên An cũng đổi ra tỉnh thành Gia
Định. Tỉnh Gia Định đƣơng thời rộng khoảng 11.560 km2. Năm 1859, Pháp
tới chiếm Sài Gòn và phá bình địa thành Gia Định (Pháp gọi là thành Sài
Gòn). Sau Hòa ƣớc 1862 mất đi ba tỉnh miền Đông, Pháp vẫn chia tỉnh Gia
Định làm 3 phủ nhƣ cũ: Tân Bình, Tân An, Tây Ninh. Hạt Gia Định từ 1885
đến 1889. Từ năm 1867, Pháp bỏ tên tỉnh Gia Định mà gọi là tỉnh Sài Gòn.
Tỉnh Sài Gòn cũng là địa bàn tỉnh Gia Định trƣớc, song không chia ra phủ
huyện, mà chia ra 7 hạt tham biện (inspection), trong đó có hạt Sài Gòn
(không kể thành phố Sài Gòn). Hạt Sài Gòn gồm 2 huyện Bình Dƣơng và
Bình Long. Nhƣng từ năm 1872, hạt Sài Gòn gồm thêm huyện Ngãi An
(Thủ Đức) nguyên thuộc tỉnh Biên Hòa.
5. 5. Năm 1885,đổi tên hạt Sài Gòn thành hạt Gia Định (có lẽ để phân biệt rõ

với thành phố Sài Gòn). Tỉnh Gia Định từ 1889 đến 1975. Năm 1889,bỏ
danh xƣng hạt (arrondissement), lấy tên tỉnh cho thống nhất với toàn quốc
Việt Nam. Tỉnh Gia Định là 1 trong 20 tỉnh của cả Nam Kỳ lục tỉnh cũ. Tỉnh
Gia Định (thu hẹp) này chia ra 18 tổng với 200 xã thôn, rộng khoảng 1.840
km2. Năm 1944,thiết lập tỉnh Tân Bình trên một phần đất của tỉnh Gia Định
(bắc Sài Gòn nhƣ Phú Nhuận, Phú Thọ, Hạnh Thông, Tân Sơn Nhì..., vùng
Thủ Thiêm và một phần Nhà Bè). Tỉnh này chỉ tồn tại đến cuộc Cách mạng
5-1945 rồi giải thể. Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, một


phần không nhỏ của địa phận tỉnh Gia Định đã là căn cứ Cách mạng kháng
chiến. Năm 1956,vùng Củ Chi đƣợc trích ra để lập thêm 2 tỉnh Hậu Nghĩa
và Bình Dƣơng, Hậu Nghĩa lấy phần đất phía tây vẫn gọi là quận Củ Chi.
Bình Dƣơng lấy phần đất phía đông gọi là quận Phú Hòa. Sau vụ chia cắt,
Củ Chi cho 2 tỉnh Hậu Nghĩa và Bình Dƣơng, tỉnh Gia Định (1970) còn chia
ra 8 quận với 74 xã, rộng 1.499 km2. Tình hình đó tồn tại đến ngày Giải
phóng 1975. Từ năm 1975đến nay, địa danh Gia Định không còn dùng để
chỉ bất cứ một đơn vị hành chính nào. Song nhân dân miền Nam vẫn nhớ tên
đó với nhiều ấn tƣợng sâu sắc và tốt đẹp, Sử sách Thành phố và toàn Nam
Bộ luôn nói đến Gia Định từ suốt 300 năm qua để ghi dấu bao chiến công và
thành tích phát triển vƣợt bậc của phần đất phía Nam của Tổ quốc. . Ngay
cái nhìn đầu tiên, Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh đã để lại ấn tƣợng sâu
sắc của một đô thị lớn nhất, náo nhiệt nhất và năng động nhất trong cả nƣớc.
Những phố xá đèn sáng choang, sinh hoạt và vui chơi giải trí kéo dài đến tận
khuya. Những dòng xe cộ hối hả trên khắp các ngả đƣờng nhƣ không bao
giờ dứt. Dãy dãy cửa hiệu với hàng hóa phong phú đủ màu, đủ loại góp phần
làm nên danh tiếng "Sài Gòn - thiên đƣờng mua sắm". Nhan nhãn những
quán ăn, cửa tiệm, nhà hàng với thực đơn rất đa dạng khiến ẩm thực trở
thành một cái thú không thể thiếu đối với du khách đến nơi đây. Nhƣng
đàng sau sự sôi nổi ấy là một cuộc sống phóng khoáng mà hài hòa, với

những phong tục tập quán lâu đời của một nền văn hóa truyền thống đã thích
nghi với cuộc sống khai hoang mở đất ở một vùng đồng bằng sông nƣớc, và
sớm giao thoa với các nền văn hóa trong khu vực và phƣơng Tây. Hàng
trăm chùa chiền, hàng trăm ngôi đình thờ phụng các anh hùng đất nƣớc và
các tiền hiền có công mở cõi vẫn quanh năm nhang khói. Các chứng tích của
sự nghiệp giải phóng thành phố và đất nƣớc đƣợc trân trọng bảo tồn. Ngoài
các lễ tết chính thức, ngƣời dân thành phố tổ chức rất trọng thể nhiều lễ hội
theo truyền thống "uống nƣớc nhớ nguồn" nhƣ Lễ hội Nghinh Ông, Ngày
giỗ tổ nghề, Ngày Thầy thuốc, Ngày Nhà giáo, Ngày Báo hiếu, Ngày Phụ
nữ… Các kiến trúc của Sài Gòn - Hòn ngọc Viễn Đông xƣa đƣợc giữ gìn và


tôn tạo, trở thành những điểm tham quan lý thú. Bên cạnh đó là những công
trình hiện đại phát huy từ cảm hứng trong kiến trúc truyền thống Việt Nam.
Ởû nơi đất hẹp ngƣời đông này, du khách sẽ bất ngờ với những đại lộ rợp
bóng cổ thụ trăm năm, những công
6. 6. viên rộng rực rỡ hoa lá, những khu biệt thự thanh bình. Bên cạnh những
tòa cao ốc mới ở trung tâm thành phố, khách sẽ có dịp ghé thăm Chợ Lớn
của ngƣời Hoa với những khu phố cổ nhộn nhịp, hoạt động thƣơng mại và
sản xuất luôn nhộn nhịp ngày đêm. Là trung tâm du lịch và cửa ngõ du lịch
lớn nhất trong cả nƣớc, thành phố Hồ Chí Minh có hệ thống cơ sở vật chất
và dịch vụ du lịch khá phát triển, từ những điểm vui chơi giải trí cho đến
khách sạn, nhà hàng. Khí hậu thành phố dễ chịu, nắng không quá nóng và
mƣa không kéo dài nên mùa nào cũng có thể là mùa du lịch. Ngƣời dân
thành phố, thân thiện và phóng khoáng, luôn mong đƣợc tiếp đón du khách
từ mọi phƣơng trời. . Để chuyến du lịch đến thành phố Hồ Chí Minh trọn
vẹn, có những điểm tham quan tiêu biểu mà bạn không thể bỏ qua. Với hệ
thống 11 bảo tàng, thành phố Hồ Chí Minh là nơi có số bảo tàng nhiều nhất
so với các tỉnh, thành trong cả nƣớc. Nội dung trƣng bày của các bảo tàng
khá phong phú, và không chỉ về lịch sử và văn hóa địa phƣơng, mà của cả

Nam bộ, quốc gia và khu vực Đông Nam Á, cung cấp nhiều kiến thức lý thú.
Trên 1.000 ngôi chùa, đình, đền và miếu đƣợc xây dựng qua nhiều thời kỳ
cũng là những tài sản quý về văn hóa, kiến trúc và nghệ thuật. Bạn sẽ tìm
thấy những chùa Phật giáo Nam bộ tiêu biểu, những ngôi đình xƣa gắn liền
với lịch sử khẩn hoang mở đất. Bên cạnh đó là những chùa "cách tân" lớn
nhất và đẹp nhất trong cả nƣớc, kết hợp nhuần nhuyễn giữa phong cách hiện
đại với kiến trúc chùa cổ truyền. Thành phố có đến nửa triệu ngƣời Hoa
sống tập trung nên số chùa Hoa cũng nhiều nhất so trong nƣớc, kiến trúc đa
dạng và phong phú, nhiều chùa đã đƣợc công nhận di tích lịch sử - văn hóa
của thành phố và quốc gia. Ngƣời Pháp đã để lại nhiều công trình đẹp và đa
dạng. Có thể nói hiếm có đô thị nào ở Đông Nam Á lại có nhiều dạng kiến
trúc, nhiều trƣờng phái, phong cách nghệ thuật phƣơng Tây nhƣ Sài Gòn -


thành phố Hồ Chí Minh. Điển hình nhƣ trụ sở Ủy ban Nhân dân Thành phố
theo phong cách Đệ Tam Cộng hòa Pháp, Ngân hàng Nhà nƣớc chịu ảnh
hƣởng trào lƣu Tân Nghệ thuật, Nhà Thiếu nhi với phong cách Tân Cổ điển,
Nhà Rồng phong cách Đông Dƣơng, Bƣu điện với trƣờng phái Chiết Trung,
nhà thờ Đức Bà với nghệ thuật Rôman, nhà thờ Huyện Sĩ theo Tân Gôtic…
Mảng kiến trúc đƣơng đại, đang bùng nổ, trăm màu trăm vẻ, tạo cho thành
phố một diện mạo vui mắt, trong đó có một số tòa nhà đẹp, có giá trị thẩm
mỹ cao. Nhƣng điểm du lịch độc đáo nhất của thành phố vẫn là Địa đạo Củ
Chi, một công trình độc đáo trong lịch sử quân sự thế giới, biểu tƣợng của ý
chí sắt đá và thông minh mƣu trí của quân dân thành phố trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nƣớc. Lẫy lừng không kém là rừng ngập mặn Cần Giờ
với những trận chiến phá tàu giặc trên cửa sông Sài Gòn, nay là một điểm du
lịch sinh thái tuyệt vời với những cánh rừng đƣớc xanh vô tận. 1.4. . Là
trung tâm của vùng đất phƣơng Nam trù phú, sản vật dồi dào, nên món ăn
Sài Gòn rất đa dạng. Lại thêm là nơi hội tụ của cƣ dân từ mọi miền đất
nƣớc và cửa ngỏ tiếp xúc với thế giới bên ngoài, nên thành phố đã tiếp nhận

thêm các dòng ẩm
7. 7. thực của cả nƣớc và thế giới, chọn lọc tinh hoa thành một nền ẩm thực
phong phú và hấp dẫn. Ngày nay, ngƣời ta dễ dàng tìm thấy ở Sài Gòn vô số
đặc sản Bắc, Trung, Nam hay quốc tế, theo đúng nguyên bản cũng có,
nhƣng phổ biến hơn vẫn là những món đã đƣợc "Sài Gòn hóa" để hƣơng vị
thêm phong phú, đậm đà. Chất Sài Gòn thƣờng thể hiện ở vị ngọt, nhiều rau
xanh và nhiều thủy hải sản tƣơi sống. Chẳng hạn nhƣ món canh chua Sài
Gòn đã kết hợp cả cái chua- mặn của miền Bắc, cái cay nồng ớt tƣơi của
miền Trung và cái ngọt xởi lởi của miền Nam. Món bún bò Huế đƣợc "cải
biên" để bớt cay, thêm ngọt, thêm béo và thêm rau. Món bò bít tết của
phƣơng Tây thì mỏng hơn, chín hơn, nhiều gia vị hơn và kèm rau sống, đồ
chua nhiều hơn… Khuynh hƣớng gần đây tìm về những món dân dã chốn
đồng quê, món ăn của thời khẩn hoang mở cõi. Kể cả thực đơn của các nhà
hàng sang trọng nay có cả món chuột đồng rô ti, châu chấu chiên giòn, lƣơn


hấp trái bầu, ếch xào lăn, cá rô kho tộ, cá bống dừa kho tiêu… Món lẫu sành
điệu phải đủ hai mƣơi mấy thứ rau đồng nội nhƣ cù nèo, tai tƣợng, càng
cua, bông so đũa, bông điên điển… Món nƣớng thì nào là nƣớng than hồng,
nƣớng trui, nƣớng mọi, nƣớng lu, nƣớng đất sét… Và ngƣời Sài Gòn vẫn
không ngừng sƣu tầm để bổ sung vào thực đơn của mình những món ăn đã
một thời bị quên lãng cũng nhƣ những món mới từ khắp bốn phƣơng trời.
Từ bình dân đến cao cấp, mỗi nhà hàng tạo một ấn tƣợng riêng. Tuy nhiên,
khuynh hƣớng chung vẫn là tìm về với phong cách dân tộc và địa phƣơng.
Nhà hàng máy lạnh nhƣng trang trí mây tre lá và gốm sứ Việt Nam, ngƣời
phục vụ trong áo dài khăn đóng. Lại có nhà hàng thiết kế cột gỗ mái ngói,
hoành phi câu đối, dàn nhạc dân tộc cùng cung cách phục vụ của cung đình.
Bên cạnh đó là những nhà hàng hải sản trang trí lƣới cá dăng dăng và dãy
dãy bể rộng đủ loại tôm, cua, cá. Nhƣng có lẽ đƣợc yêu thích nhất vì phù
hợp với khí hậu miền nhiệt đới, với tâm tình của con ngƣời Nam bộ, là

những làng nƣớng mái lá đơn sơ bốn bề rộng mở, với gốc chuối, ao sen,
khăn rằn, áo bà ba và những món ăn có nguồn gốc dân dã nhƣng đã đƣợc
nâng cấp từ hình thức đến hƣơng vị thành những đặc sản tuyệt vời. Đi đầu
trong phong cách này phải nói đến Làng Du lịch Bình Quới với chƣơng
trình Buffet Ẩm thực Khẩn hoang. Không kể món Hoa gốc Chợ Lớn vốn
đƣợc xem nhƣ một bộ phận của ẩm thực Sài Gòn, bạn sẽ có dịp thƣởng
thức ẩm thực thế giới trong các khách sạn sang trọng hay tại các nhà hàng
Hồng Kông, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia, Ấn Độ,
Pháp, Ý, Đức, Tiệp, Mỹ… do chính những đầu bếp bản quốc nấu nƣớng.
Bên cạnh đó, bạn có thể thƣởng thức những bữa tiệc chay với các món ăn
trang trí đẹp mắt và hƣơng vị đậm đà, thật sự làm ngạc nhiên thực khách. Sở
thích của người Sài Gòn là ngồi nơi thoáng đãng, ăn uống lai rai, tán gẫu với
bạn bè, vừa ngắm cảnh người qua lại tấp nập trên đường phố. Vì thế mà
hàng quán bán thức ăn nhẹ, thức ăn chơi hiện diện khắp mọi nơi. Có đến
hàng trăm thức ăn nhẹ, như bánh mì, phở, hủ tiếu, mì, cháo, bún, xôi, cơm
tấm, bánh cuốn, bánh bao… Mỗi thức lại có vài chục món, như riêng xôi,


bạn có thể chọn xôi vò, xôi bắp, xôi gấc, xôi vị, xôi mặn, xôi gà, xôi lạp
xưởng, xôi đậu đen, xôi đậu xanh, xôi đậu phụng... Mỗi món, tùy theo quán,
lại có khẩu vị riêng, của miền Nam, Trung, Bắc, kể cả những khẩu vị đặc
trưng của người Hoa.
8. 8. Lại có những quán ăn chơi bên vỉa hè mà khách hàng chính là các bạn trẻ,
nhưng cũng không hiếm những người lớn tuổi thích tìm một chút "bụi bụi"
hay những gia đình đưa con nhỏ đi dạo chơi và ghé vào. Quán đơn lẻ cũng
nhiều, nhưng nổi tiếng vẫn là những khu phố bán đủ các món ăn chơi hoặc
nguyên một khúc đường chỉ bán một món duy nhất. Chẳng hạn như bột
chiên đường Võ Văn Tần, gỏi bò khô Đinh Tiên Hoàng, thạch chè Nguyễn
Đình Chiểu, chè 3 màu – xôi mặn Bùi Thị Xuân, hột vịt lộn – nghêu sò
Pasteur, bò bía Bà Huyện Thanh Quan, cocktail sữa Nguyễn Tri Phương,

bánh canh cua Ngã Sáu… Cũng thật là những nơi thú vị cho du khách sau
một vòng dạo phố ban đêm, ngồi lai rai ngắm cảnh. Cho nên thật không có
gì quá đáng khi nói rằng ẩm thực Sài Gòn thuộc loại hàng đầu trong cả
nƣớc. Xin đừng quên thƣởng thức những món ngon Sài Gòn khi đến với
thành phố này. . Thành phố Hồ Chí Minh hiện có 641 khách sạn với 17.646
phòng. Hệ thống khách sạn bao gồm từ những khách sạn cao cấp do các tập
đoàn quốc tế hàng đầu nhƣ Accor, Furama, Mariot hay Shareton quản lý,
các khách sạn đã có quá trình hoạt động cả trăm năm mà dịch vụ đƣợc ngay
cả các vị nguyên thủ quốc gia, các doanh nhân tầm cỡ khen ngợi, đƣợc các
tổ chức quốc tế về du lịch trao tặng nhiều giải thƣởng và danh hiệu về chất
lƣợng cao cho đến các khách sạn bình dân đáp ứng nhiều nhu cầu linh động
và đa dạng của khách. Phần lớn các khách sạn đều chiếm những vị trí đẹp
nhất trong trung tâm thành phố, gần các khu thƣơng mại, cận kề sân bay,
nhà ga, bến xe… Và đặc điểm chính là các khách sạn đều có tính chuyên
nghiệp cao, từ cơ sở vật chất và trang thiết bị cho đến các dịch vụ và phong
cách phục vụ. Mỗi khách sạn thƣờng lựa chọn một ấn tƣợng riêng:
Caravelle là khách sạn thƣơng nhân tuyệt hảo, Rex là "Ngôi nhà Việt Nam",
Majestic với vẻ thanh lịch cổ điển phƣơng Tây, Bông Sen gây ấn tƣợng


bằng ẩm thực "buffet gánh", Đệ Nhất nổi tiếng với dịch vụ tiệc cƣới… Ngay
những khách sạn nhỏ cũng tạo phong cách nhƣ sự phục vụ tận tâm, thân tình
nhƣ trong gia đình, hay những dịch vụ đáp ứng mọi yêu cầu nho nhỏ của
khách. Ngành khách sạn của thành phố Hồ Chí Minh có thể tự hào khi so
sánh với các nƣớc trong khu vực. : . Long An là một trong những địa bàn
của Nam Bộ từ lâu đã có cƣ dân sinh sống. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy ở
An Sơn, đông bắc tỉnh này các di chỉ hậukỳ đồ đámới cách đây 3.000 năm
và Rạch Núi đông nam tỉnh di chỉ đồ sắtcách đây 2.700 năm. Đáng chú ý là
trên địa bàn Long An có tới 100 di tích văn hoá Óc Eovới 12.000 hiện vật,
đặc biệt là quần thể di tích Bình Tả, gồm ba cụm di tích: Gò Xoài, Gò Đồn

và Gò Năm Tƣớc. Đây là quần thể di tích văn hoá Óc Eo - văn hoá Phù
Namcó niên đại từ thế kỷ thứ 1đến thế kỷ thứ 7. Quần thể di tích Bình Tả
cho thấy vào thời cổ đại, vùng đất Long An ngày nay đã từng là trung tâm
chính trị, văn hoá và tôn giáo của Nhà nƣớc Phù Nam- Chân Lạp. Ngoài các
khu di tích lịch sử văn hoá kể trên, Long An còn có 40 di tích lịch sử cách
mạng và nhiều công trình kiến trúc cổ khác. Tính chung, Long An có 186 di
tích lịch sử văn hoá, trong đó đã có 7 di tích đƣợc xếp hạng cấp quốc gia.
9. 9. Đến đời vua Minh Mạng, nhà Nguyễnđổi các trấn thành sáu tỉnh là: Định
Tƣờng, Biên Hòa, Gia Định, Vĩnh Long, An Giangvà Hà Tiên. Sau
khiPhápchiếm trọn miền Nam, đã chia 6 tỉnh này thành 21 tỉnh, tỉnh Định
Tƣờng tách ra để thành lập 3 tỉnh mới là Tân An, Mỹ Thovà Gò Công. Đất
đai của Long An ngày nay khi đó thuộc tỉnh Tân An , Hậu Nghĩa và Chợ
Lớn. Trong thời kỳ Pháp thuộc, nhân dân Long An đã tham gia các cuộc
kháng chiến dƣới sự lãnh đạo của Võ Duy Dƣơng, Trƣơng Định, Nguyễn
Hữu Huân,Nguyễn Trung Trựcđánh các đồn bốt của ngƣời Pháp. Nguyễn
Đình Chiểuđã làm bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc để biểu dƣơng tinh thần
của các nghĩa sĩ Cần Giuộc. . Mảnh đất Long An, cửa ngõ của đồng bằng
sông Cửu Long, có diện tích 4.338 km2, với 1.300.100 ngƣời dân sinh sống
ở thị xã Tân An và các huyện: Mộc hóa, Tháp Mƣời, Lai Vu, Châu Thành.
Long An hấp dẫn khách du lịch chủ yếu do giá trị nhân văn của nền văn hóa


ốc Eo, một nền văn hóa đã hình thành và phát triển ở châu thổ sông Cửu
Long từ thế kỷ thứ nhất đến thứ 6 sau Công nguyên do tiếp nhận tinh hoa
văn hóa ấn Ðộ. Ở LONG AN CÓ gần 20 di tích tiền sử và gần 100 di tích
văn hóa ốc Eo đƣợc phát hiện, thu thập 12 nghìn hiện vật. Long An còn có
trên 40 di tích lịch sử cách mạng, kiến trúc và danh lam thắng cảnh quan
trọng nhƣ: Cụm di tích Bình Tả (Ðức Hòa), di tích lăng mộ và đền thờ
Nguyễn Huỳnh Ðức (thị xã Tân An), di tích lịch sử Văn Nhựt Tảo, di tích
đồn Rạch Cát, ngôi nhà trăm cột (ấp Trung, xã Long Hiệu Ðông, huyện Cần

Ðƣớc), di tích lịch sử khu vực Ngã tƣ Ðức Hòa. Diện tích: 4.338 km2 (1694
sq miles). Dân số(01/04/1999): 1,306,202 ngƣời. Tỉnh ly: Thị xã Tân An.
Các huyện: Bến Lức, Cần Đƣớc, Cần Giuộc, Châu Thành, Đức Hòa, Đức
Huệ, Mộc Hóa, Tân Thạnh, Tân Trụ, Thạnh Hóa, Thủ Thừa, Vĩnh Hƣng,
Tân Hƣng. Dân tộc: Việt (Kinh), Khmer. Cách Sài Gòn 47 km (30 miles),
Long An là cửa ngõ của đồng bằng sông Cửu Long, phía Bắc giáp Tây Ninh
và các nƣớc Cam-Pu-Chia, phía Đông giáp Sài Gòn, phía Nam giáp Tiền
Giang và phía Tây giáp Đồng Tháp. Là một tỉnh nông nghiệp, đất Long An
màu mỡ trải ra trên hai triền sông của hai con sông lớn sông Vàm Cỏ Đông
và Vàm Cỏ Tây. Ở phía Bắc tỉnh có một số gò, đồi thấp, còn lại thì bằng
phẳng. Phần đất phía Tây thuộc vùng trũng của Đồng Tháp Mƣời. Long An
có một mạng lƣới sông ngòi, kênh rạch chằng chịt nối liền nhau, chia cắt địa
bàn tỉnh thành nhiều vùng. Thực ra Long An chƣa phải là đồng bằng sông
Cửu Long, mà chỉ là đồng bằng sông Vàm Cỏ giữa hệ thống sông Đồng Nai
và hệ thống sông Cửu Long. Khí hậu: nhiệt đới gió mùa, hai mùa mƣa và
khô rõ rệt nhiệt độ trung bình 27,4 ° C, mùa mƣa từ tháng 5 đến tháng 10,
lƣợng mƣa trung bình 1.620 mm/năm (64 in/năm). Long An đông dân chủ
yếu là ngƣời Việt (Kinh) và đồng bào gốc Khmer ở phía Tây tỉnh. Long An
có 4 tôn giáo đƣợc đông ngƣời theo là Phật, Kitô, đạo Cao Đài và đạo Tin
Lành. . Cụm di tích Bình Tả: Cụm di tích kiến trúc nghệ thuật và khảo cổ
Bình Tả (gồm Gò Xoài, Gò Đồn và Gò Năm Tƣớc) cách thị xã Tân An 40
km (25 miles) về phía Đông


10.10. Bắc, tại ấp Bình Tả, xã Đức Hòa Hạ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.
Nằm trong một quần thể di tích thời tiền sử đƣợc phân bố theo các trục lộ cổ
và sông Vàm Cỏ Đông, cụm di tích này thuộc nền văn hóa Óc Eo - Phù Nam
có niên đại từ thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ thứ 7 sau công nguyên. Có ba di tích
trong cụm đã đƣợc khai quật: di tích Gò Năm Tƣớc, Gò Xoài và Gò Đồn
đƣợc phân bố trên một địa bàn tƣơng đối gần nhau. Ngôi đền Gò Xoài nằm

ở độ sâu 1,70 - 1,90 m (5,4 - 5,7 ft) có thể coi là địa điểm hành lễ của dân
Phù Nam. Đặc biệt trong bộ sƣu tập 26 hiện vật bằng vàng phát hiện ở Gò
Xoài có một bản bằng 646 chữ Phạn cổ khắc trên một lá vàng mỏng ghi câu
kinh Phật giáo. Nhiều hiện vật đƣợc khai quật tại đây có giá trị nhƣ các
tƣợng thần Siva, thần giữ đền, tƣợng Vinu, các linh vật Linga, Yoni. Nhiều
mảnh gốm mịn Óc Eo, mảnh kim loại, đá quí, sa thạch và hàng loại di chỉ
khác về con ngƣời từ thời tiền sử xung quanh ngôi đền, trong khoảng bán
kính 10 km (6 miles) đã đƣợc phát hiện. Các kiến trúc đƣợc phát hiện tại
cụm di tích Bình Tả là các đền thờ thần Siva, thuộc tôn giáo Bà La Môn,
xuất hiện ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ nhất trƣớc công nguyên đƣợc truyền bá
mạnh mẽ vào miền Nam Đông Dƣơng từ đầu công nguyên. Nằm trong tổng
thể di chỉ khảo cổ ở Đồng Tháp Mƣời và vùng phù sa cổ Đức Hòa (Long
An), di tích Óc Eo đƣợc xây dựng nhằm mục đích tôn giáo đồng thời cũng
đóng vai trò là một trung tâm chính trị, văn hóa của nƣớc Phù Nam - Chân
Lạp thời cổ đại. Chùa Linh Sơn (chùa Núi): Chùa nằm trên khu di chỉ khảo
cổ Rạch Núi. Chùa do Hòa thƣợng Minh Nghĩa khai sáng vào giữa thếkỷ
19. Chùa đƣợc trùng tu sửa chữa vào các năm 1926, 1970 và 1988. Kiến
trúc ngôi chính điện hiện nay do Hòa thƣợng Thiên Lợi sửa chữa năm 1970.
Trong chùa còn lƣu giữ trên 100 bức tƣợng, trong đó có nhiều pho tƣợng cổ
bằng gỗ quí nhƣ tƣợng cổ Tiêu Diện, cao 0,40 m (1,2 ft). Ngoài ra trong
khuôn viên chùa có tháp Hòa thƣợng Quảng Trí và Hòa thƣợng Thiện Lợi.
Nhà bảo tàng Long An: Ở ngay trung tâm thị xã Tân An, thuộc phƣờng 4.
Bảo tàng Long An trƣng bày nhiều cổ vật quí hiếm có ý nghĩa văn hóa nghệ
thuật, trong đó có nhiều hiện vật đƣợc khai quật từ các di chỉ văn hóa tại địa


phƣơng, rất thú vị cho khách đến tham quan nghiên cứu. Ngôi nhà 120 cột:
Thuộc xã Long Hựu Đông, huyện Cần Đƣớc, cách thị xã Tân An khoảng 50
km (31 miles). Ngôi nhà làm bằng gỗ quí (cẩm lai, gõ đỏ), đƣợc xây dựng
trên 100 năm với vẻ rêu phong cổ kính, với kiến trúc độc đáo, chạm khắc

tinh vi trong trang trí nội thất từ những bàn tay khéo léo, điêu luyện của 15
ngƣời thợ tài hoa ở miền bắc vào. Hoa văn ở đầu kèo, đầu cột làm cho bạn
có cảm giác nhƣ mình đang đứng giữa một khu rừng có hoa lá, cỏ cây, chim
muông... Bạn sẽ hết sức thú vị với những đƣờng nét pha trộn sự tinh tế của
điêu khắc mang đặc điểm của ba miền. Ngôi nhà đã thu hút nhiều nghệ nhân
các vùng lân cận đến nghiên cứu về kỹ thuật xây dựng, cũng nhƣ nhiều
khách du lịch đến đây để tham quan. Khu du lịch sinh thái Đồng Tháp
Mƣời: Ngƣợc dòng sông Vàm Cỏ Tây, thuyền du lịch sẽ đƣa du khách đến
trung tâm Đồng Tháp Mƣời, vùng du lịch sinh thái đặc trƣng của vùng đất
trũng Nam Bộ, cách Tân An khoảng 50 km (31 miles) thuộc các huyện Mộc
Hóa, Vĩnh Hƣng, Thạnh Hóa và Tân Thạnh. Đến đây du khách tận mắt nhìn
thấy những cánh rừng tràm bạt ngàn, thoang
11.11. thoảng hƣơng thơm với từng đàn ong mật lƣợn quanh, những cánh đồng
sen rộng lớn với muôn vàn đóa hoa sen khoe sắc dƣới ánh nắng. Có nhiều
loại động vật quí hiếm đang đƣợc bảo vệ tại vùng Đồng Tháp Mƣời nhƣ:
Cò, Sếu đỏ, Rùa, Rắn... làm tăng vẻ đẹp vùng sinh thái. Đặc biệt khách có
thể thƣởng thức các món ăn Nam Bộ nhƣ canh chua bông điên điển, gỏi ngó
sen, cá lóc nƣớng trui chấm muối ớt với vài ly rƣợu đế đặc trƣng của đồng
bằng Nam Bộ. Cụm vƣờn Thanh Long (Châu Thành): Khoảng 5km (3
miles) xuôi về phía Nam thị xã Tân An là huyện Châu Thành, huyện nổi
tiếng về trái thanh long và dƣa hấu. Thanh long là loại trái cây đặc sản đƣợc
trồng phổ biến ở vùng này, có giá trị dinh dƣỡng và kinh tế cao. Cành Thanh
long đƣợc thả leo trên cây dông uốn mình nhƣ những con rồng xanh ngậm
quả chín mọng đỏ rất hấp dẫn khách tham quan và thƣởng thức nét đẹp của
vƣờn cây, vị ngọt mát của loại trái cây này. Vƣờn hoa kiểng Thanh Tâm:
Vƣờn hoa nằm tại trung tâm thị xã Tân An, là vƣờn hoa cây kiểng bon sai


nhiều loại, có loại trên 100 tuổi. Nhiều loại cây đạt huy chƣơng vàng hội
chợ hoa xuân các tỉnh phía Nam. Với tài nghệ của các nghệ nhân, các kỳ

quan thế giới đƣợc thu nhỏ trong vƣờn: núi Phú Sĩ, đền Angco, Kim Tự
Tháp, thành nội Huế... DI TÍCH LỊCH SỬ ''VÀM NHỰT TẢO'' Là nơi giao
hội giửa sông Vàm Cỏ Đông và sông Nhựt Tảo, Vàm Nhựt Tảo là một vùng
sông nƣớc phẳng lặng hiền hòa thuộc xã An Nhựt Tân, huyện Tân Trụ, tỉnh
Long An. Nhƣng vào ngày 10/12/1861, vàm Nhựt Tảo đã dậy sóng căm hờn
nhấn chìm tàu L' Espérance của quân xâm lƣợc Pháp. Ngƣời đã làm nên sự
kiện mà nhà thơ Huỳnh Mẫn Đạt ca ngợi là ''oanh thiên địa'' ấy chính là
ngƣời anh hùng dân chài Nguyễn Trung Trực. Ông sinh năm 1839 tại xóm
Nghề, làng Bình Nhựt, tổng Cửu Cƣ Hạ, huyện Cửu An, phủ Tân An (nay
thuộc xã Thạnh Đức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An). Ngay từ khi thực dân
Pháp nổ súng tấn công thành Gia Định, ông đã tham gia vào đội nghĩa binh
kháng chiến dƣới quyền chỉ huy của Trƣơng Định và đƣợc cử về hoạt động
chống Pháp trên địa bàn phủ Tân An. Đƣợc sự giúp đở của hƣơng chức làng
Nhựt Tảo ông đã bố trí một kế hoạch táo bạo, thông minh để đánh tàu L'
Espérance, một tiểu hạm chủa Pháp đang hoành hành trên vùng sông nƣớc
huyện Cửu An.Sáng ngày 10/12/1861, sau khi bố trí lực lƣợng phục kích
trên bờ và dụ cho một bộ phận địch rời khỏi tàu, Nguyễn Trung Trực đã
cùng 59 nghĩa quân lên 5 chiếc ghe giả làm ghe buôn lúa tiến sát tàu địch.
Trong lúc trình giấy thông hành, ông đã bất ngờ giết tên lính Pháp rồi cùng
nghĩa quân tấn công lính Pháp trên tàu L' Espérance. Không kịp trở tay, toàn
bộ địch trên tàu bị tiêu diệt ( chỉ có 5 tên chạy thoát). Nghĩa quân dùng dầu
và đồ dẩn hỏa đốt cháy tàu L' Espérance. Ngọn lửa bốc cao từ từ nhấn chìm
tàu xuống đáy sông sâu. Tin chiến thắng Nhựt Tảo bay đi làm nức lòng quân
dân cả nƣớc. Triều đình Huế đã thăng Nguyễn Trung Trực lên chức Quản
Cơ, hậu thƣởng cho nghĩa quân, cấp tử tuất và hổ trợ tiền cho làng Nhựt Tảo
(bị quân Pháp triệt hạ). Thực dân Pháp cũng hết sức bàng hoàng vì chúng
không thể ngờ rằng nghĩa quân có thể gây cho chúng tổn thất lớn nhƣ thế.
Để ghi dấu kỷ niệm ''đau thƣơng'' này, Thực dân Pháp đã cho xây dựng một



bia tƣởng niệm bên bờ sông Nhựt Tảo .Thời gian lặng lẽ trôi, vàm Nhựt Tảo
vẫn còn đó nhƣ gợi lại trong lòng khách vãng lai một
12.12. niềm hoài cổ. Tàu L' Espérance sau gần 120 năm nằm yên dƣới đáy
sông sâu đã đƣợc khai quật. Tổng số hiện vật thu đƣợc là 89, trong đó có 78
hiện vật gỗ, 8 hiện vật sắt, 2 h iện vật đồng và 1 hiện vật thủy tinh. Qua
nghiên cứu các hiện vật gỗ ta còn thấy đầy đủ các bộ phận để hợp thành bộ
khung của tàu nhƣ cong đà, be, lƣờn, cột buồm. Tuy đã bị đục để lấy đi phế
liệu nhƣng tàu L' Espérance vẩn còn một số mảnh gỗ bọc đồng hiện rõ vết
cháy loang lỗ. Tất cả những hiện vật nêu trên đã đƣợc bảo quản và trƣng
bày tại Bảo Tàng Long An nhằm giới thiệu khách tham quan trong và ngoài
nƣớc những bằng chứng cụ thể về chiến công oanh liệt của ngƣời anh hùng
dân chài Nguyễn Trung Trực cách nay hơn một thế kỷ. Ngày nay, nếu xuôi
dòng Vàm Cỏ Đông đến địa phận xã An Nhựt Tân, du khách sẽ đƣợc ngắm
nhìn vùng sông nƣớc hữu tình vàm Nhựt Tảo. Sông nơi đây khá rộng, dòng
nƣớc trong xanh, hai bên bờ là những mái nhà xinh xắn nép mình dƣới rặng
dừa nƣớc và một số loài cây hoang dại nhƣ vẹt, bần, đƣớc, mắm. Cách vàm
200m là chiếc cầu treo bắc qua sông Nhựt Tảo nối liền 2 xã An Nhựt Tân và
Bình Trinh Đông. Những buổi bình minh đứng trên cầu treo nhìn ra vàm
sông ta mới cảm nhận hết vẻ đẹp nhƣ tranh nơi đây. Sƣơng tan là đà trên
mặt sông dài nhƣ đƣợc nhuốm hồng bởi ánh bình minh, đó đây văng vẳng
tiếng hò khoan dìu đặt của ngƣời dân chài lƣới. Gần vàm là ngôi chợ khá
lâu đời, hiện vẩn còn 2 dãy phố lợp ngói khá cổ kính. Đối diện chợ là trụ sở
ủy ban nhân dân xã An Nhựt Tân. Khuôn viên ủy ban có bia kỷ niệm chiến
thắng Nhựt Tảo đƣợc xây dựng năm 1980. Nói chung dƣới sự tác động của
thiên nhiên và con ngƣời hơn một thế kỷ qua, di tích vàm Nhựt Tảo đã có sự
thay đổi nhất định so với thời điểm xảy ra trận đánh ngày 10/12/1861. Tuy
nhiên những gì còn hiện hữu ở vàm Nhựt Tảo cũng đã minh chứng tài năng
quân sự của Nguyễn Trung Trực- ngƣời đầu tiên duy nhất đánh chìm đƣợc
một tiểu hạm trong cuộc kháng chiến chống Pháp nửa cuối thế kỷ XIX.
Chiến thắng Nhựt Tảo cũng cho thấy rằng ta có thể đánh bại quân xâm lƣợc



bằng mƣu trí và lòng dũng cảm dù chỉ đƣợc trang bị vũ khí thô sơ. Mặt
khác ''trận hỏa hồng Nhựt Tảo'' chính là biểu tƣợng của tinh thần yêu nƣớc,
bất khuất trƣớc ngoại xâm của nhân dân ta. Chính những ngƣời ''dân ấp,
dân lân'' chỉ vì ''mến nghĩa'' mà đứng lên đánh Pháp đã làm nên chiến thắng
vang dội Nhựt Tảo trong khi Triều đình Huế vì yếu hèn đã vội cầu hòa, cắt
đứt một phần giang sơn gấm vóc cho quân xâm lƣợc. 135 năm sau ngày
Nguyễn Trung Trực đánh chìm tàu L' Espérance, vàm Nhựt Tảo đã đƣợc Bộ
Văn hóa Thông tin xếp hạng là di tích Quốc gia năm 1996 bởi những giá trị,
ý nghĩa sâu sắc chứa đựng trong đó. Một dự án tôn tạo di tích quy mô đã
đƣợc Ủy ban nhân dân tỉnh Long An phê duyệt và bƣớc đầu thực hiện.
Trong tƣơng lai, đền thờ, tƣợng đài anh hùng dân chài Nguyễn Trung Trực
và những hạng mục công trình khác sẽ đƣợc xây dựng bên bờ vàm Nhựt
Tảo, sẽ làm cho vùng sông nƣớc nên thơ này không những có ý nghĩa lịch
sử mà còn có giá trị tham quan du lịch. Tour du lịch Tân An - Mộc Hóa
(Đồng Tháp Mƣời): Đây là tuyến du lịch sinh thái là chủ yếu, có thể kết hợp
bằng cả hai phƣơng tiện bộ và thủy. Tuyến du lịch này có thể tham quan một
số điểm nhƣ sau: Lăng mộ Cụ Nguyễn Huỳnh Đức-Bảo Tàng Long AnCảnh quan sông Vàm Cỏ Tây-Khu Núi Đất Mộc Hóa-Cửa khẩu Bình HiệpChùa Nổi-Hệ sinh thái Rừng Tràm-Cảnh quan đầm
13.13. sen-Chiến khu Nhơn Hòa Lập-Di tích khảo cổ Gò Bắc Chiêng, Gò Bảy
Liếp-Trung Tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát triển dƣợc liệu Đồng Tháp
Mƣời.,v..v ... Hiện nay, Công ty Du lịch Long An mở tuyến du lịch đi Trung
tâm Nghiên cứu Bảo tồn và Phát triển dƣợc liệu Đồng Tháp Mƣời. Đây là
tuyến du lịch sinh thái khám phá thiên nhiên Đồng Tháp Mƣời với những
nét đặc trƣng nhƣ sau: + Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn và Phát triển dƣợc
liệu Đồng Tháp Mƣời thuộc xã Bình Phong Thạnh, huyện Mộc Hóa-cách
thành phố Hồ Chí Minh 110 km, cách thị xã Tân An 60 km đƣờng bộ và 45
phút chạy tàu du lịch-có diện tích 1.041 ha, trong đó có 800 ha rừng tràm
nguyên sinh, hồ nƣớc rộng 100 ha (vào mùa khô). Trung tâm nghiên cứu các
dƣợc liệu từ cây cỏ vùng Đồng Tháp Mƣời nhƣ dầu tràm, mật ong, v..v... +



Sản phẩm du lịch chính tại đây là ngắm chim, cò với mật độ dày đặc, nhất là
trong khoảng thời gian từ tháng 9 đến tháng 3 (cao điểm trong tháng 11), đi
tắc ráng trong kênh, rạch tìm hiểu về thực vật (đặc biệt các cây thuốc) và địa
lý Đồng Tháp Mƣời. Đến Trung tâm, quý khách sẽ đƣợc phục vụ những
món ăn dân dã đặc trƣng của vùng Nam bộ từ nguyên liệu có sẵn tại chỗ, du
khách có thể mua sắm các sản vật của Trung tâm nhƣ mật ong, cá khô, dƣợc
phẩm,.v.v... Nếu có nhu cầu quý khách cũng có thể nghỉ lại qua đêm để
thƣởng thức cảnh quan thiên nhiên vùng Đồng Tháp Mƣời về đêm đầy thơ
mộng. Sau khi tham quan Khu Trung tâm, quý khách sẽ đƣợc đến tham
quan Cửa khẩu Bình Hiệp (tiếp giáp nƣớc bạn Campuchia). 2/. Tour du lịch
Tân An - Cần Giuộc - Cần Đƣớc: Đây là tour du lịch mang tính lịch sử nhân
văn, phƣơng tiện đi lại có thể cả đƣờng bộ và đƣờng thủy với cự ly ƣớc
khoảng 50 km. Tour du lịch này sẽ tham quan một số điểm nhƣ sau: Lăng
mộ Cụ Nguyễn Huỳnh Đức-Bảo Tàng Long An-Khu lƣu niệm Cụ Nguyễn
Trung Trực (Nhật Tảo)-Nhà Trăm cột-Chùa Tôn Thạnh-Đồn Rạch Cát-Chùa
Núi-Hệ sinh thái Rừng ngập mặn.v.v... 3/. Tour du lịch Tân An - Đức Hòa Đức Huệ: Các điểm du lịch chủ yếu là: Lăng mộ Cụ Nguyễn Huỳnh ĐứcBảo Tàng Long An- Ngả Tƣ Đức Hòa-Di chỉ khảo cổ Óc-Eo-Khu di tích
lịch sử cách mạng Bình Thành- Cửa khẩu Tho Mo,.v..v.. Sông Vàm Cỏ
Đông Chảy từ biên giới Campuchiatại xã Biên Giới, huyện Châu Thànhrồi
qua các huyện Châu Thành, Bến Cầu, Hòa Thành, Gò Dầu, Trảng Bàng.
Chiều dài hơn 150 km. Tại Tây Ninh, Vàm Cỏ Đông chảy từ phía tây bắc
hƣớng Bến Cầu có cảng Bến Kéo qua Gò Dầu Hạ, rồi xuôi hƣớng đông
nam chảy qua thị trấn Bến Lức của tỉnh Long An. Sông Vàm Cỏ Đông và
Sông Vàm Cỏ Tâyhợp lƣu vào cửa Soài Rạpđổ ra biển. Vì có nhiều nhánh
sông nhỏ của Vàm Cỏ Đôngnên nó rất thuận tiện cho việc lƣu thông bằng
đƣờng thủy để vận chuyển hàng hóa từ các nơi về Tây Ninh hay ngƣợc lại
từ Tây Ninh đến những nơi khác (chủ yếu là các tỉnh ở Đồng bằng sông Cửu
Long), điển hình là tại cảng Bến Kéo (huyện Hòa Thành) rất tấp nập. Sông
này nổi tiếng với bài hát cùng tên là bài "Vàm Cỏ Đông" (Sáng tác:Trƣơng



Quang Lục, thơ: Hoài Vũ) Lời bài hát Vàm Cỏ Đông Ở tận sông Hồng em
có biết Quê hƣơng anh cũng có dòng sông. Anh mãi gọi, với
14.14. lòng tha thiết. Vàm Cỏ Ðông, ơi Vàm Cỏ Ðông. Ơi, ơi Vàm Cỏ Đông!
Ơi hỡi dòng sông! Nƣớc xanh biêng biếc chẳng đổi thay dòng, Ðuổi Pháp đi
rồi nay đuổi Mỹ xâm lăng. Giặc đi đời giặc, sông càng xanh trong. Giặc đi
đời giặc, sông càng xanh trong. Ơi, ơi Vàm Cỏ Đông! Ơi hỡi dòng sông! Có
anh du kích dũng cảm kiên cƣờng, Lẫn ánh trăng mờ băng lửa đạn qua sông,
Diệt tan tàu giặc, giữ gìn quê hƣơng. Diệt tan tàu giặc, giữ gìn quê hƣơng.
Vàm Cỏ Ðông đây! Vàm Cỏ Đông đây! Ta quyết giữ từng chiếc xuồng tấm
lƣới cây dầm. Từng con ngƣời làm nên lịch sử và dòng sông trong mát
quanh năm. Vàm Cỏ Ðông đây! Vàm Cỏ Ðông đây! Ta quyết giữ từng mái
nhà nép dƣới rặng dừa. Từng thuở ruộng ngƣời đen màu mỡ tình hò hẹn
sớm trƣa. Ở tận sông Hồng em có biết, Quê hƣơng anh cũng có dòng sông.
Anh mãi gọi với lòng tha thiết. Vàm Cỏ Ðông, ơi Vàm Cỏ Ðông. Vàm Cỏ
Ðông, ơi Vàm Cỏ Ðông. LĂNG MỘ VÀ ĐỀN THỜ NGUYỄN HUỲNH
ĐỨC Cách Thị xã Tân An 3,5km về phía Tây, lăng Nguyễn Huỳnh Đức là
một trong những kiến trúc lăng mộ cổ nhất ở Long An còn tồn tại gần nhƣ
nguyên vẹn cho đến ngày nay. Đây là một quần thể kiến trúc bao gồm các
công trình chính nhƣ cổng, lăng mộ, đền thờ Kiến Xƣơng Quận công
Nguyễn Huỳnh Đức, một công thần khai quốc của Triều Nguyễn. Khuôn
viên lăng Nguyễn Huỳnh Đức có diện tích hơn 3000m2, đƣợc giới hạn bởi
tƣờng rào, có cổng tam quan mở về hƣớng Đông, trên cổng đắp nổi dòng
chữ ''Tiền quân phủ''. Lăng Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức đƣợc xây dựng
năm 1817 (trƣớc khi ông mất) bằng đá ong và vữa tam hợp theo hƣớng bắcnam. Lăng đƣợc xây dựng theo lối cổ, đăng đối nghiêm ngặt, có vòng thành
hình chữ nhật dài 35m, rộng 19m, cao1,2m, dày 0,4m bao quanh. Án ngữ lối
vào mộ ở phía bắc tƣờng thành là bình phong đá ong cao 3m có đắp nổi hoa
văn mai - lộc. Từ bình phong có đƣờng thần đạo dài 17m dẩn đến phần
chính của mộ gồm biểu thành, các trụ biểu, hai bình phong và bia mộ. Trên

hai bình phong có khắc 2 bài văn tế Nguyễn Huỳnh Đức của Trịnh Hoài Đức


và Trấn thủ Định Tƣờng Nguyễn Văn Phong. Toàn bộ ngôi mộ đƣợc trang
trí hoa văn rồng, hoa lá, mặt trời, mây, hoa sen và nhiều câu đối chữ Hán.
Nổi bật trong ngôi mộ là bia đá cao 1,56m, rộng 0,95m đƣợc mang vào từ
Huế. Mặt bia có dòng chử hán: ''Việt Cố Khâm Sai Gia Định Thành Tổng
Trấn, Chƣởng Tiền Quân, Tặng Thôi Trung Dực Vận Công Thần, Phụ Quốc
Thƣợng Tƣớng Quân, Thƣợng Trụ Quốc, Thái Phó Nguyễn Huỳnh Quận
Công Chi Mộ''. Phía sau bia là nơi chôn cất thi hài Nguyễn Huỳnh Đức với
một nấm mộ phẳng dài 3,4m, rộng 2,7m, cao 0,3m. Xung quanh mộ là
những cây sứ cổ thụ tỏa hƣơng ngào ngạt tạo nên vẻ thâm nghiêm cho nơi
an nghĩ của một đại thần khai quốc. Nói chung lăng mộ Nguyễn Huỳnh Đức
đƣợc xây dựng theo lối kiến trúc đầu đời Nguyễn: giản dị mà hùng tráng.
Cách mộ 20m về phía Nam là đền thờ Nguyễn Huỳnh Đức. Từ năm 1819
đến 1959, gia tộc thờ ông trong ngôi nhà xƣa do Vua Gia Long sai ngƣời
dựng cách ngôi mộ khoảng 500m. Vào năm 1959, để tiện cho việc thờ cúng,
gia tộc đã xây dựng ngôi đền thờ mới này theo kiểu tứ trụ, 2 tầng mái, cửa
gỗ trông ra hƣớng Đông. Ngay sau cửa chính đền thờ có đặt hƣơng án chạm
rồng, phụng, hoa lá sơn son thếp vàng, phía trên có bức họa truyền thần Tiền
quân
15.15. Nguyễn Huỳnh Đức đƣợc vẽ năm 1802. Phía sau hƣơng án có bộ ván
độc mộc dài 3,4m - rộng 1,8m- dày 0,14m có niên đại hơn 300 năm vốn là di
vật của ngƣời đã khuất. Trong cùng là bàn thờ chính với khánh thờ đặt trên
hƣơng án và chiếc hộp sơn son đựng 8 bản chiếu, chỉ, chế, sắc của các triều
Gia Long, Minh Mạng, Tự Đức phong tặng cho tiền quân Nguyễn Huỳnh
Đức. Bên trong đền thờ còn bố trí 3 bộ lỗ bộ, tàn lọng và 4 cặp liễn đối ca
ngợi sự nghiệp của Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức do Vua Gia Long ngự
ban. Ngoài ra những hiện vật cổ có niên đại thế kỷ XVIII và XIX còn đƣợc
lƣu giữ trong đền thờ nhƣ: đoản kỷ Vua Xiêm tặng năm 1798, Khánh lệnh

đồng Vua Gia Long tặng năm 1819, bức hoành ''Vạn Lý Danh'' Vua Tự Đức
tặng năm 1854. Phía sau đền thờ là ngôi chánh điện lợp ngói lƣu ly xanh
đƣợc gia tộc xây dựng năm 2000 theo bản vẽ của Kiến trúc sƣ Nguyễn Bá


Lăng (nguyên viện trƣởng Viện khảo cổ Sài Gòn). Trƣớc đây vào năm 1972
gia tộc đã cho xây dựng 2 cổng lớn ở hai đầu con đƣờng vòng cung dẫn vào
lăng với thiết kế giống nhau theo kiểu cổng tam quan truyền thống. Trên
cổng có hàng chữ Hán ''Tiền quân phủ'' và ''Lăng Nguyễn Huỳnh Đức'' bằng
đồng. Nhìn từ xa, cổng lăng toát lên vẻ đƣờng bệ, uy nghi nhƣ chào đón
khách tham quan. Trong dân gian và sử sách, cuộc đời của Tiền quân
Nguyễn Huỳnh Đức đã trở thành huyền thoại. Ông có tên thật là Huỳnh
Tƣờng Đức, sinh năm 1748 tại làng Tƣờng Khánh- huyện Kiến Hƣng (nay
là xã Khánh Hậu - Thị xã Tân An) trong một gia đình võ tƣớng đã 3 đời.
Ông theo phò Nguyễn Ánh từ năm 1780 lập nhiều công trạng lớn, đƣợc ban
họ vua và giữ nhiều chức vụ quan trọng nhƣ: Chƣởng Hậu Quân, Chƣởng
Tiền Quân, Tổng Trấn Gia Định Thành, Tổng Trấn Bắc Thành, tƣớc Quận
Công. Tƣơng truyền ông là ngƣời trung cang, nghĩa khí, võ nghệ cao
cƣờng, mọi ngƣời đều gọi là ''Hổ tƣớng''. Ông mất vào ngày 9/9/1819,
đƣợc dân gian xem nhƣ một vị thần. Hằng năm vào 3 ngày 7-8-9 / 9 âm
lịch, nhân dân trong vùng tề tựu cùng gia tộc làm lễ cúng ông hết sức trọng
thể. Truyền thống này đã đƣợc kế tục từ năm 1819 cho đến nay. Đến tham
quan di tích lăng Nguyễn Huỳnh Đức chúng ta đƣợc chiêm ngƣỡng nghệ
thuật kiến trúc lăng mộ đầu đời Nguyễn và những cổ vật quý giá cuối thế kỷ
XVIII đầu thế kỷ XIX. Ta còn đƣợc biết đến cuộc đời và sự nghiệp của một
''Hổ tƣớng'' lừng danh đất Ba Giồng và cũng là ngƣời có công khai phá
Giồng Cai Én (Khánh Hậu), đƣợc nhân dân tôn thờ nhƣ một vị Tiền Hiền.
Với những ý nghĩa ấy, ngay từ đầu thế kỷ XX, chính quyền thuộc địa đã liệt
hạng lăng Nguyễn Huỳnh Đức là 1 trong 404 cổ tích ở Đông Dƣơng. Bộ
Văn hóa Thông tin nƣớc Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam cũng đã ra

quyết định công nhận lăng Nguyễn Huỳnh Đức là di tích Quốc gia ngày
11/5/1993 (số quyết định 534-QĐ/BT). Gạo Nàng thơm Chợ Đào Chợ Đào
thuộc xã Mỹ Lệ, huyện Cần Đƣớc, tỉnh Long An. Gạo Nàng thơm chợ Đào
hạt thon dài, chà trắng ra, bên trong có hột lựu hồng hồng. Gạo mới gặt, chà
xong nhƣ có một lớp dầu, đƣa tay vào bao gạo, giở tay lên gạo bòn bám


trên tay mình. Gạo có mùi rất thơm, vào bao nylon để 4 đến 5 tháng mang ra
nấu vẫn thơm lừng. Nhƣng để đến 10 tháng thì mùi thơm sẽ nhạt, hạt gạo
cứng dần, độ dẻo và độ xốp không cao nữa. Gạo Nàng thơm chợ Đào một
năm cấy đƣợc một mùa. Lúa gieo tháng 6, 7 đến ngày đông chí thì đồng loạt
trổ bông, đến 20 tháng Chạp thì gặt đƣợc. Lúa cho dù
16.16. có cấy sớm trƣớc 1, 2 tháng thì nó cũng chờ đến ngày tiết đông chí mới
trổ. Do vậy, mỗi năm chỉ trồng đƣợc một vụ. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Năm 1858, thực dân Phápnổ súng xâm lƣợc Việt Nam. Sau khi chiếm đƣợc
thành Gia Địnhvào đầu năm 1859, quân Pháp bắt đầu một quá trình mở rộng
tấn công ra các vùng lân cận nhƣ Tân An, Cần Giuộc, Gò Công v.v. Nhân
dânNam Bộcăm phẫn và sục sôi tinh thần chống Pháp. Đêm ngày 16 tháng
12năm 1861, đúng rằmtháng 11năm Tân Dậu, theo diễn tả trong Văn tế
nghĩa sĩ Cần Giuộc, mặc dù "chỉ là dân ấp, dân lân", "ngoài cật có một manh
áo vải", "trong tay cầm một ngọn tầm vông" nhƣng những nghĩa sĩnông
dânđã quả cảm tập kíchđồn giặc ở Cần Giuộc, tiêu diệt đƣợc một số quan
quân của Pháp và tri huyện"tay sai". Khoảng hai mƣơi nghĩa sĩ hi sinh. Tấm
gƣơng đó đã gây nên niềm xúc động lớn trong nhân dân. Đỗ Quang, tuần
phủ Gia Định, giao cho Nguyễn Đình Chiểu làm bài văn tế để đọc tại buổi
truy điệu các nghĩa sĩ hi sinh trong trận này. Vẻ đẹp bi tráng mà giản dị của
hình tƣợng ngƣời nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc và thái độ cảm phục, xót
thƣơng của tác giả đối với họ. Với nội dung chân thật và tình cảm xót xa,
bài văn tế có một sức truyền cảm mạnh mẽ, đƣợc Bộ Lễ của triều đình Huế
cho sao và truyền đi khắp nƣớc để động viên tinh thần chiến đấu của ngƣời

dân chống thực dân Pháp. Qua do khich le co vu cho cac tang lop dau tranh
gianh doc lap sau nay. Tính chất trữ tình, thủ pháp tƣơng phản,phức tạp hóa
và việc sử dụng ngôn ngữ. Tác phẩm là một bản anh hùng ca vừa thiêng
liêng vừa hùng hồn Hai câu đầu của bài văn tế khái quát khung cảnh bảo táp
của thời đại - phản ánh biến cố chính trị lớn lao chi phối toàn bộ thời cuộc.
Đó là cuộc đụng độ giữa thế lực xâm lăng tàn bạo của thức dân Pháp và ý
chí chiến đấu kiên cƣờng để bảo vệ tổ quốc của nhân dân ta. Hiện lên trên


cái nền tảng ấy là hình ảnh của động quân áo vãi đƣợc khắc họa hoàn toàn
bằng bút pháp hiện thực, không theo ƣớc lệ của văn học trung đại, không bị
chi phối bởi kiểu sáng tác lý tƣởng hóa. Điều đáng chú ý là những chi tiết
chân thực đều đƣợc chọn lọc rất tinh tế, nên đậm đặc chất sống, mang tính
chất khái quát đặc trƣng cao: "Vốn chẳng phải quân cờ quân vệ, theo dòng ở
lính diễn binh; chẳng qua là dân ấp dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu
mộ. ... Ngòai cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi; trong
tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm đao tu, nón gõ. Chính với những
hình ảnh trên mà bức tƣợng đài ánh lên một vẻ đạp mộc mạc, chân chất và
hết sức độc đáo. Cao Văn Lầu Ông Cao Văn Lầu tức Sáu Lầu sinh ngày
22/12/1892 tại xóm Cái Cui, làng Chí Mỹ, sau sát nhập với làng Thuận Lễ
trở thành xã Thuận Mỹ, huyện Vàm Cỏ, tỉnh Long An. Năm 1901, ông Cao
theo gia đình đến lập nghiệp tại Bạc Liêu rồi ở luôn tại đây cho đến hết đời
(ông qua đời ngày 13/8/1976). Thuở nhỏ, ông học chữ nho rồi học chữ quốc
ngữ đến "lớp nhì năm thứ hai" (Cours moyen 2e année) tức lớp 4 ngày nay;
sau đó quy y tại chùa Vĩnh Phƣớc - Bạc Liêu. Sau khi rời cửa Phật, ông học
nhạc lễ và là một trong những môn đệ giỏi về nhạc lễ của nhạc sƣ Lê Tài
Khị (Nhạc Khị). Ông sử dụng rành rẽ đàn tranh, cò, kìm và trống lễ. Nhắc
đến ông, ngƣời ta nhớ ngay đến bản Dạ cổ hoài lang (1919) đƣợc xem là
tiền thân của bản vọng cổ ngày nay. Ông viết bản nhạc trên gồm 20 câu,
nhịp 2 để trút cạn nỗi niềm tâm sự.

17.17. Nỗi niềm ấy đã nhiều lần ông thổ lộ với bạn tri âm: "Tôi đặt bài này bởi
tôi rất thƣơng vợ. Năm viết bản Dạ cổ hoài lang, tôi đã ăn ở với vợ tôi đƣợc
3 năm mà không có con. Tam niên vô tử bất thành thê. Vợ chồng ăn ở với
nhau trong 3 năm, vợ không sinh con, chồng đƣợc quyền bỏ để cƣới ngƣời
khác hầu có con nối dõi tông đƣờng. Thời phong kiến có những quan niệm
chƣa đúng. Ngƣời ta cho rằng vợ chồng không sinh con là do lỗi của ngƣời
đàn bà. Tiếng ra, tiếng vào của gia đình buộc tôi phải thôi vợ, nhƣng tôi
không đành. Tôi âm thầm chống lại nghiêm lệnh của gia đình, không đem
vợ trả về cho cha mẹ mà đem gởi đến một gia đình có tấm lòng nhân hậu,


xót thƣơng cho vợ chồng tôi gặp phải cảnh đau lòng mà cho ở đậu qua ngày,
với hy vọng vợ chồng tôi sẽ có con và chiến thắng cái quan niệm khắc
nghiệt, lạc hậu, chịu ảnh hƣởng nặng đạo lý thời phong kiến”. Trong thời
gian dài, phu thê phải cam chịu cảnh “Đêm đông gối chiếc cô phòng", tâm
tƣ nặng trĩu u buồn nên nhạc sĩ Sáu Lầu đêm đêm mƣợn tiếng đàn nắn nót
đôi câu bớt cơn phiền muộn. Ông thừa hiểu ngƣời bạn đời cũng đau xót nhƣ
ông. Bản Dạ cổ hoài lang ra đời trong bối cảnh nhƣ thế. Trong thời gian tác
phẩm chƣa hoàn chỉnh, nhạc sĩ Sáu Lầu cùng anh em tài tử địa phƣơng đàn
tới đàn lui bản này, lấy ý kiến đóng góp của các đồng nghiệp về phƣơng
diện sáng tác. Chuông, trống "công phu" ngân vang khiến anh em nhạc sĩ đất
Bạc Liêu nhớ lại hồi chín, mƣời tuổi, ông Sáu Lầu quy y làm "Sa di" tại
chùa Vĩnh Phƣớc. Chú tiểu từng đánh trống, dộng chuông công phu hai buổi
sớm chiều. Do đó, anh em đề nghị thêm hai chữ "Dạ cổ" (tiếng trống về
đêm) cho ý nghĩa thêm sâu đậm. Ông Sáu hoan nghênh nên bản nhạc có tên
hoàn chỉnh là "Dạ cổ hoài lang", tức "Đêm nghe tiếng trống nhớ chồng". Dạ
cổ hoài langkhởi điểm từ nhịp 2. Đó là đứa con của nhạc sĩ Cao Văn Lầu.
Nhƣng khi Dạ cổ hòa nhập vào sân khấu cải lƣơng thì hai soạn giả tiền
phong góp công đầu để biến bản nhạc này từ nhịp 2 trở thành nhịp 4 là
Huỳnh Thủ Trung (tức Tƣ Chơi) và Mộng Vân (Trần Tấn Trung). Tiếng

nhạn kêu sươnglà bản Vọng cổ hoài lang nhịp 4 đầu tiên do soạn giả Huỳnh
Thủ Trung (1907-1964) sáng tác vào năm 1925. Trên những chặng đƣờng
phát triển, khi Vọng cổ hoài lang đƣợc nâng lên nhịp 8 (từ khoảng năm
1934 đến 1944) thì nó có tên mới là Vọng cổ, không còn đuôi hoài lang. Từ
khoảng 1944-1954, vọng cổ tăng lên nhịp 16; thời kỳ kế tiếp: 1955 - 1964:
tăng lên nhịp 32 rồi nhịp 64 từ năm 1965 đến nay. Hậu thế đã nhận định nhƣ
sau: Nhạc sĩ Cao Văn Lầu là cha đẻ Dạ cổ hoài lang khởi điểm từ nhịp 2.
Bản Vọng cổ từ nhịp 4 trở đi, trên những chặng đƣờng phát triển, thuộc
công trình chung của tài tử tứ phƣơng. Còn ông tổ cải lƣơng dứt khoát
không phải là Cao Văn Lầu. Bản Dạ cổ hoài lang chào đời năm 1919, trong
khi sân khấu cải lƣơng ra đời khoảng năm 1916. Sài Gòn - Mỹ Tho, con


×