Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Hiện trạng tuyến điểm du lịch và định hướng phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 61 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp mang nội dung văn hoá sâu sắc,có tính
liên ngành,liên vùng và xã hội hoá cao, là ngành xuất khẩu tại chỗ lớn trong các
ngành kinh tế quốc dân. Đây là ngành thứ năm trong những ngành có giá trị
xuất khẩu cao nhất .Thu nhập xã hội đạt 56.000 tỷ đồng, hoạt động du lịch tạo
ra 80 vạn việc làm trực tiếp và gián tiếp cho các tầng lớp dân cư. điều quan
trọng hơn là la du lịch đã góp phần phát triển yếu tố con người trong cuộc sống
đổi mới,nâng cao dân trí, đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, mở rộng
giao lưu các vùng,miền trong nước và nước ngoài
Chính những lợi ích nói trên mà du lịch đã trở thành ngành kinh tế mũi
nhọn và được coi là: “con gà đẻ trứng vàng”.So với các nước khách trên thế
giới thì “kinh doanh du lịch” là môt khái niêm mới mẻ. Không thể phủ nhận
Việt Nam có nguồn tài nguyên du lich phong phú bao gồm các di sản thế giới,
truyền thống lịch sử, các làng nghề và lễ hội truyền thống,cảnh đẹp thiên nhiên
phong phú, chúng ta được thiên nhiên ban tặng tài sản vô giá, chính vì lẽ đó mà
việc khai thác, bảo vệ, giữ gìn,phát triển du lich lại quan trọng và khó hơn bao
giờ hết. Chúng ta đã có đủ yếu tố tự nhiên vá chỉ còn thiếu yếu tố con người, đó
là đầu óc sáng tạo để tạo ra nhưng sản phẩm du lịch có chất lượng. Chúng ta
phát triển được du lịch có nghia là chúng ta phát triển được các ngành liên quan
đến du lịch như giao thông, xây dựng,bưu chính viễn thông,ngân hàng…Do đó
ngành công nghiệp du lịch có tác động ảnh hưởng số nhân và hiệu ứng lan toả
tràn đầy.Nhằm đáp ứng những yêu cầu cấp thiết và thiết thực của thực tế ngành
du lịch mà việc đào tạo nguồn nhân lực chuyên nghiệp phục vụ cho ngành du
lịch đang trở thành một vấn đề được đề cập rất nhiều và chúng ta còn thiếu rất
nhiêu lao đông phục vụ trong ngành du lịch có chuyên môn và có ngoại
ngữ.Thật may mắn chúng em là những sinh viên khoa du lich bên cạnh niềm tự
hào thì đây còn là trách nhiệm năng nề đòi hỏi phải có sự nỗ lực và phấn đấu và
học hỏi rất nhiều.Khác với những bạn khoa văn hoá du lịch bên cạnh việc có
kiến thức du lịch nói chung thì cần phải có kiến thức về kinh doanh lữ hành đây
là kỹ năng không thể thiếu được. Nhằm trang bị cho sinh viên những kiến thức
cơ bản về mặt lý luận và do đặc thu riêng của ngành thì những chuyến đi thực tế


sẽ giúp sinh viên có điều kiện áp dụng lý thuyết vào thực tiến, có điều kiên cọ
sát bên ngoài nhiều hơn tạo bước đệm vững chắc và định hướng nghề nghiệp
cho mình khi ra trường.
Chuyến đi thực tế lần này là chuyến đi thực tế lần thứ hai bên cạch những
điều chưa đạt được thì nó cũng có những thành công nhất định, chuyến đi đã để
lại trong chúng em nhiều cảm xúc đan xen khác nhau cảm xúc háo hức mong
đợi,nièm vui và cả những lo lắng. Qua chuyến đi này chúng em học hỏi được
nhiều điều trong hoc tập,và trong đời sống xã hội thiết lập nhiều mối quan hệ
bạn bè và tình thầy trò tốt đẹp,và trên hết chúng em đã có cái nhìn tổng quan
hơn vê ngành du lịch và công việc của mình từ đó trang bị cho mình những kiến
thức, thông tin cần thiết cho quá trinh tác nghiệp trong tương lai.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
* Nghiên cứu tiềm năng du lich của điểm du lịch
* Nghiên cứu thực trạng khai thác và khả năng phục vụ du lịch
* Nghiên cứu cách thức tổ chức của công ty lữ hành
Phương pháp nghiên cứu
- Phương phán thực địa
- Phương pháp phỏng vấn
- Phương pháp thu thập và xử lí tài liệu
4. Bố cục khóa luận
Chương 1: Chương trình và giá tour
Chương 2: Hiện trạng tuyến điểm du lịch
Chương 3: Định hướng và phương pháp
Phụ đề 1 : ………………………..
Phụ đề 2: ……………………….
Tài liệu tham khảo
Du lịch là một ngành còn non trẻ ở Việt Nam, việc phát triển ngành du là
một vấn đề phức tạp. Chính vì vậy nội dung bài viết và kỹ năng trình bày chắc
chắn sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết. Em rất mong được sự chỉ bảo,

góp ý của các thầy cô giáo để em hoàn thiện kiến thức phục vụ cho quá trình
công tác sau này.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Vũ Đình Thuỵ cùng các thầy cô
trong trường đã hướng dẫn và giúp đỡ em trong trong quá trình hoàn thiện báo
cáo này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 1 tháng 4 năm 2009
Vũ Thị Kim Thoa
Chương I
Chương trình và giá tour
Hà Nội – QuảngBình - Quảng Trị -Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam - Nghệ An - Hà
Nội
(thời gian 11 ngày 10 đêm )
Ngày thứ 1: Hà Nội -Quảng Bình
Sáng: 5h30 Hướng Dẫn viên và xe đón khách đi Vinh. Quý khách
nghỉ ăn sáng tại phủ Lý(Quý khách tự túc trả tiền)
12h30 Quý khách ăn trưa tại Thành phố Vinh.
Chiều: 13h30 Xe tiếp tục đưa khách đến Đồng Hới.
17h30 tới đồng hới Quý khách nhận phòng nghỉ ngơi.
19h00 Quý khách ăn tối tại khách sạn.
Sau khi ăn tối quý khách tự do tham quan tượng đài Mẹ
Suốt,chiến luỹ Đào Duy Từ, Bãi biển Nhật Lệ.
Ngày thứ 2: Phong Nha _ Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn - Quảng Trị
Sáng: Quý khách tự do ăn sáng, làm thủ tục trả phòng
7h00 Xe đưa khách đến động Phong Nha
12h00 Quý khách ăn trưa tại Phong Nha
Chiều: 13h00 Xe tiếp tục đưa khách đi Đông Hà theo đường Hồ Chí
Minh.Trên đường đi xe đưa quý khách vào thăm nghĩa trang
Trường Sơn đoàn làm lễ dâng hương tưởng niệm các anh hùng
liệt sỹ.

Quý khách tiếp tục hành trình trên đường đi quý khách tìm
hiểu về đường 9lịch sử, căn cứ Khe Sanh, căn cứ làng Vây,
sân bay Tà Cớn
Tới Đông Hà quý khách nhận phòng tại khách sạn Thành Quả
Quý khách ăn tối tại khách sạn
20h00 Quý khách tự do đi tham quan và mua sắm tai thị xã
Đông Hà.
Ngày thứ 3: Quảng Trị - Huế
Sáng: 6h30 Quý khách tự do ăn sáng và làm thủ tục trả phòng.
7h00 Quý khách lên xe, xe dua quý khách đi Thành Cổ Quảng
Trị( nằm trên dòng sông Thạch Hãn). Quý khách đi thăm quan
bảo tàng, tìm hiẻu 81 ngày đêm máu lửa tại thành Cổ Quảng
Trị, chụp ảnh lưu niệm.
10h Xe đưa quý khách về Huế.
11h30 tới Huế quý khách ăn tại nhà hàng
12h00 nhận phòng, nghỉ ngơi khách sạn Đồng Lợi
Chiều: 14h30 xe đưa quý khách đi thăm bãi biển Thuận An
17h00 Quý khách lên xe về khách sạn
Quý khách tự do tham quan thành phố Huế
Ngày thứ 4: Thăm quan Huế mộng mơ
Sáng: 6h30 quý khách tự do ăn sáng
7h00 xe đưa quý khách đi tham quan cầu Tràng Tiền, chùa
Thiên Mụ, Đại nội với lầu Ngũ Phụng, điện Thái Hoà, Tử
Cấm Thành, Thế Miếu, Cửu Đỉnh
11h30 quý khách ăn trưa tai khách sạn
Chiều: 14h00 xe đua khách đi thăm lăng Tự Đức, lăng Khải định, dàn
Nam Giao
18h30 đoàn an tối và nghỉ ngơi
20h10 Quý khách đi du thuyền nghe ca Huế
Quý khách tự do tham quan Huế về đêm

Ngày thứ 5: Huế
Sáng: 6h30 quý khách tự do ăn sáng
7h00 quý khách lên xe đi thăm lăng Mịh Mạng, chùa Từ Đàm
11h30 Quý khách ăn trưa tại khách sạn
Chiều: 14h00 Quý khách tự do di chợ mua sắm tại chợ Đông Ba
18h00 ăn tối tại khách sạn
Ngày thứ 6: Huế - Đà Nẵng - Hội An.
Sáng: 6h30 Xe đua khách đến Đà Nẵng, dừng chân nghỉ ở bãi biển
Lăng Cô
Xe tiếp tục đưa khách đi chui qua đèo Hải Vân trên đường đi
quý khách ngắm cảnh Thành phố Đà Nẵng
11h30 quý khách ăn trưa nhận phòng nghỉ ngơi tại khách sạn
Hội An
Chiều: 14h00 Quý khách tham quan phố cổ Hội An( Chùa cầu Nhật
Bản, Hội Quán Phúc Kiến)
Ngày thứ 7: Hội An - Mỹ Sơn - Đà Nẵng
Sáng: 6h30 Quý khách tự do ăn sáng, làm thủ trả phòng
7h00 Xe đưa khách đi thăm thánh địa Mỹ Sơn
11h00 xe đưa khách về Đà Nẵng, quý khách nhận phòng nghỉ
ngơi.
12h30 quý khách ăn trưa
Chiều: 14h30 Xe đưa khách đi thăm khu du lịch Non Nước, núi Ngũ
Hành Sơn, Làng cham khắc đá
17h45 Xe đưa khách về khách sạn
18h00 quý khách an tối tại khách sạn hoặc nhà hàng
19h30 Quý khách đi xem bắn phái hoa quốc tế tự do thăm
quan sông Hàn
Ngày thứ 8: Thăm quan tại Đà Nẵng
sáng: 7h00 Quý khách tự do ăn sáng, xe đưa khách đi tham quan bảo
tàng Chàm

11h30 Quý khách ăn trưa tại khách sạn hoặc nhà hàng
Chiều: 14h00 quý tự do đi chợ và tham quan thành phố Đà nẵng
18h30 Quý khách ăn tối tại khách sạn, tự do thăm quan sông
Hàn
Ngày thứ 9: Đà Nẵng - Đồng Hới
Sáng: 7h00 quý khách tự do ăn sáng và làm thủ tục trả phòng xe đua
quý khách về Đồng Hới
Trên đường đi xe đưa quý khách ghé qua chợ Đông Hà
11h30 Quý khách ăn ytưa tại nhà hàng hặc khách sạn
Chiều: 12h30 Xe đưa khách về Quảng Bình trên đường đi quý khách
tìm hiểu Cồn Tiêu - Dốc Miếu, khu DMZ
Quý khách nghe giới thiệu Cầu Hiền Lương, Sông Bến Hải, Vĩ
tuyến 17
Xe đưa quý khách đi tham quan địa đạo Vĩnh Mốc tìm hiểu
cuộc sống của người dân trong khu địa đạo
16h30 tới đồng Hới quý khách nhân phòng và nghỉ ngơi tại
khách sạn Đồng Hới
Quý khách ăn tối tại khách sạn, tự do thăm quan thành phố
Đồng Hới.
Ngày thứ 10: Đồng Hới - Cửa Lò
Sáng: 6h30 Quý khách tự do ăn sáng.
7h00 quý khách lam thủ tục trả phòng
7h30 Xe đưa quý khách về Cửa Lò quý khách ghé qua Ngã Ba
Đồng Lộc, chụp ảnh lưu niệm. Sau đó xe đưa quý khách về
Ngệ An
12h30 Quý khách ăn trưa tại thành phố Vinh
Chiều: 13h30 xe đưa quý khách về Cửa Lò
14h30 Xe tiếp tục đưa quý khách về Cửa Lò tới Cửa Lò quý
khách nhận phòng tại khách sạn. Quý khách tự do thăm quan
tại bãi biển Cửa Lò

19h00 quý khách ăn tối tại khách sạn
Ngày thứ 11: Cửa Lò - Quê Bác - Hà Nội
Sáng : 6h30 Quýd khách tự do ăn sáng 7h30 Quý khách trả phòng
hướng dẫn viên đưa khách đi thăm quê Bác 1
11h30 Xe đưa khách về thành phố Vinh .
12h00 quý khách ăn trưa tại nhà hàng, khách sạn
Chiều: 13h00 Xe đưa khách về Hà Nội. Kết thúc chuyến đi.
CHẾ ĐỘ PHỤC VỤ
• Mức giá bao gồm :
• Xe ô tô Huyndai Aerospace 45c máy lạnh đưa đón theo chương trình
• Thuyền du lịch Phong Nha
• Thuyền đi sông Hương nghe ca Huế
• Các bữa theo chương trình (mức ăn 60.000 một ngày bao gồm hai bữa
chính
• Phòng nghỉ tiêu chuẩn: điều hoà, tivi, nhà vệ sinh khép kín,có khoá an
toàn
• Vé thắng cảnh 1lần tại cá điểm tham quan theo chương trình
• Tiền dâng hương tại nghĩa trang Trường Sơn
• Lễ dâng hương tại thành Cổ Quảng Trị
• Tiền dâng hương tại Ngã ba Đồng Lộc
• Tiền dâng hương tai quê noi và quê ngoại Bác
======8======
Giá trọn gói cho 1 khách : 2.360.000đồng
( giá trên áp dụng cho đoàn từ 150 khách trở lên)
CHƯƠNG II
TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG TUYẾN ĐIỂM
2.1 Giới thiệu chung về vùng du lịch Bắc Trung Bộ
Vùng du lịch Bắc Trung Bộ nằm ở vị trí trung gian của đất nước, bao
gồm 6 tỉnh thành: Quảng Bình - Quảng Trị - Thừa Thiên Huế - Đà Nẵng -
Quảng Nam - Quảng Ngãi với diện tích 34,743km

2
dân số 5.659.000 người
(1999) Phía Bắc giáp với tỉnh Hà Tĩnh, phía nam giáp với tỉnh Bình Định và
Gia Lai, phía tây giáp với Lào, phía đông giáp với biển Đông .
Huế Và đà Nẵng là trung tâm của vùng và địa bàn động lực quan trọng
phát triển du lịch Quảng Trị- Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam.
2.1.1 Đắc điểm tự nhiên và tài nguyên du lịch tự nhiên
Hình thành và phát triển trên địa bàn phức tạp đã tạo cho thiên nhiên
vùng này một sắc thái độc đáo, đa dạng, khoảng 4/5 diện tích của vùng hẹp, độ
dốc lớn. Phía Tây là dãy Trường Sơn kéo dài suốt từ bắc xuống nam của vùng
với độ cao trung bình 600 - 800m. Dãy núi này chạy song song ra biển và có
nhiều dãy vươn sát ra biển như Hoành Sơn, Bạch Mã tạo nen cảnh đẹp cho đèo
Ngang và đèo Hải Vân. Vùng có chiều ngang hẹp nhất nước, có nơi chỉ có 60
km, phía Tây là dãy Trường sơn nên đồng bằng nhỏ hẹp nằm sát ven biển phía
đông, có nhiều cồn cát và đụn cát lấn sâu vào đất liền, biển nhiều đầm phá. Địa
hình đa dạng nên đã tạo ra những thắng cảnh những khu du lịch có giá trị như
Bạch Mã, Bà Nà, núi Chúa, Sơn Trà, Non nước, cùng nhiều biển như Nhật Lệ,
Thuận An, Cảnh Dương, Nam cô, Nam ô, Non Nước. đắc biệt là hệ thống núi
đá vôi và hệ thống hang động ở Phong Nha - Kẻ Bàng một di sản thế giới.
Khí hậu của vùng này rất phức tạp và khắc nghiệt nhất nước ta. Dãy
Hoàng Liên Sơn, Bạch Mã đã trở thanhf bức tường ranh giới khí hậu thực sự
giữa Nghệ Tĩnh và Quảng Bình, Giữa Huế và Đà Nẵng. Từ Huế trở ra có mùa
đông lạnh, Đà Nẵng thì nắng chói trang ánh nắng và hầu như không có mùa
đông lạnh. Khác với hai miền bắc nam mùa mưa của vùng lại vào thời kỳ mùa
đông. Mùa Hạ có gió Lào khô, nóng. Vùng chịu nhiều ảnh hưởng thiên tai lũ
lụt, bão.
Do ảnh hưởng của điều kiện khí hậu, địa hình nên đã tạo cho sông ngòi
của vùng này ngắn và dốc tạo nên cảnh đẹp của sông Hương, sông Thu Bồn.
Một lớp phủ thực vật phong phú và nhiều loaị gỗ quý như gụ, táu .Dưới độ cao
800m là loại rừng kín thường xanh mùa nhiệt đới. Thảm cỏ dại dưới rừng luôn

ẩm ướt và đầy gai. dưới tán rừng là cả một thế giới động vật còn được bảo tồn
với nhiều loại quý hiếm. Vùng có hai khu rừng quốc Gia có giá trị cabhr quan
và bảo tồn đó là vườn quốc gia Phong Mha - Kẻ Bàng và vườn quốc gia Bạch
Mã.
Nét đặc sắc, đa dạng của điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên đã
tạo cho vùng du lịch Bắc Trung Bộ một tiềm năng du lịch phong phú có giá trị
thu hút khách cao và phát triển đủ các loại hình du lịch từ tham quan, nghỉ
dưỡng, tắm biển, thể thao đến các nghiên cứu khoa học
2.1.2 Đặc điểm lịch sử - văn hoá và tài nguyên du lịch nhân văn
Nằm trên một mảnh đất nhiều biến động trong suốt chiều dài lịch sử, có
lẽ không có vùng đất nào trên đất nước ta có nhiều nét tương phản như vùng
này cả về tự nhiên lẫn kinh tế -xã hội, lịch sử.
Trước kia nơi đây đã tồn tại một nền văn hoá rực rỡ để lại cho ngày nay
những di sản văn hoá đặc sắc: nền văn hoá Chàm với thánh địa Mỹ Sơn, Kinh
đo Trà Kiệu, di tích hoá Sa Huỳnh, Gần đây là nền văn hoá triều Nguyễn ở Huế.
Ngay từ thế kỷ XVIII, hội An đã là một thương cảng sầm uất trong mối quan hệ
thông thương quốc tế.
Sông Gianh là chiến truyến trong suốt thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh
non một thế kỷ, mặc dù là giới tuyến quân sự tạm thời nhưng sông Bến Hải
cũng mất 20 năm là ranh giới phân chia hai miền nam bắc trong cuộc chiến
tranh giải phóng dân tộc. Tiến súng đầu tiên nổ ra ở cửa Hàn( Quảng Nam- Đà
Nẵng) mở màn cho thời kỳ thực dân Pháp xâm lược và đô hộ nước ta. Cuộc đấu
tranh giữa quân giải phóng miền nam Việt Nam và bọn xâm lược Mỹ diễn ra ở
núi Thành đã khẳng dịnh một chân lý, chúng ta có thể đánh được và thắng được
Mỹ. Trong cuộc chiến tranh chống mỹ cứu nước đây là vùng tuyến đầu phải
chịu đựng nhiều mất mát và tàn phá nặng nề với các di tích hùng tráng và đau
thương như: đường mòn Hồ Chí Minh, đường 9 - Khe Sanh, Thành Quảng Trị,
nghĩa trang Trường Sơn, nghĩa trang liệt sỹ đườn 9, sông bến Hải cầu Hiền
Lương...
Ngoài các di tích lịch sử văn hoá - nghệ thuật, tài nguyên kinh tế xã hội

khác cũng có giá trị, đó là phong tục tập quán sinh hoạt của dân cư địa phương
như thêu ren, dệt thảm len, tơ tằm, nghệ thuật chạm khắc ở Ngũ Hành , nghề
thủ công ở Hội An.
Giá trị đặc sắc nhất của vùng là ít coa nơi nào trên một diện tích nhỏ hẹp
lại có tới 4 di sản văn hoá thế giới đó là cố đô Huế, phố cổ Hội An, thánh địa
Mỹ Sơn và Nhã nhạc cung đình Huế.
2.1.3 Cơ sở Hạ tầng
Nằm trên tuyến đường sắt đường bộ huyết mạch bắc nam vùng du lịch
bắc trung bộ có đủ điều kện phát triển mạnh mạng lưới giao thông từ đường bộ,
đường sắt đường hàng không. Cảng quốc tế Đà Nẵng thông thương với nhiều
cảng thuộc châu Ắ Thái Bình Dương và các khác dọc theo biển trong nước. Các
hàng hoá vận chuyển cho nước bạn Lào đều qua cảng này, sân bay Đà Nẵng đã
trở thành sân bay quốc tế là cửa ngõ thứ 3 của cả nước được trực tiếp đưa đón
khách quốc tế. Hệ thống giao thông đường bộ và đường sắt phát triển song song
với quốc lộ 1A và đi qua phần lớn các điểm du lịch chủ yếu trong vùng, tạo
điều kịên thuận lợi cho việc phát triển du lịch kể cả đường sắt và đường bộ.
Tuyến đường Hồ Chí Minh đang được xây dựng sẽ góp phần quan trọng trong
việc phát triển giao thông kinh tế du lịch của vùng.
Hệ thống cung cấp điện nước cho toàn bộ vùng gặp khó khăn toàn vùng
không có nhà máy điện cỡ trung bình nào hịên nay mạng lưới địên quốc gia với
đường day 500kv nhà máy điện Yaly xây đã đáp ứng cơ bản nhu cầu cho vùng
2.1.4 Cơ sở vật chất - kỹ thuật du lịch
So với hai vùng du lịch kể trên, vùng du lịch Bắc Trung Bộ có hệ thống
cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch phát triển muộn và thấp hơn cả. Trước hết là việc
nâng cấp, cải tạo khách sạn như khách sạn Hương Giang, khách sạn Phương
Đông, khách sạn Thái Bình Dương trước kia là cư xá của lính Mỹ, khách sạn
Trường Sơn Đông được cải tạo từ một trung học của Lào. Gần đây nhiều khách
sạn hiện đại, nhà hàng, khu giải trí đã được xây dựng đáp ứng được nhu cầu
ngày càng cao của khách du lịch, tập chung chủ yếu ở các đô thị Huế, Đà Nẵng,
Hội An

2.1.5 Trung tâm và một số điểm du lịch quan trọng
2.1.5.1 Tiểu vùng du lịch phía Bắc
Di sản thiên nhiên thế giới vùng quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng
Vườn Quốc Gia Phong Nha - Kẻ Bàng , Tặng phẩm của 400 triệu năm
tiến hóa địa sinh học
Con số này, do các nhà địa lý học, địa chất học có thẩm quyền đưa ra làm
cho chúng ta phải phóng một cái nhìn chiêm ngưỡng về Vườn Quốc Gia Phong
Nha - Kẻ Bàng (VQG PN-KB).
Nó đáng cho ta ngưỡng mộ bởi vì di sản thiên nhiên thế giới thứ hai này của
Việt Nam - bên cạnh Vinh Hạ Long - là ngôi VQG già tuổi, đẹp đẽ và kì vĩ nhất
trong hệ thống VQG của ta: Ba Bể, Bạch Mã, Bến Én, Bình Châu, Cát Bà, Cát
Tiên, Cúc Phương, Tam Đảo, Ba Vì, Côn Đảo, Tràm Chim ...
Nằm ở phía bắc dãy Trường Sơn thuộc phần đất hai huyện Bố Trạch và
Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình, cách thành phố Đồng Hới khoảng 50 km về phía
Tây Bắc, cách thủ đô Hà Nội khoảng 500 km về phía nam. Vườn quốc gia này
giáp khu bảo tồn thiên nhiên Hin Namno ở tỉnh Khammouan, Lào về phía tây,
cách Biển Đông 42 km về phía đông kể từ biên giới của hai quốc gia.
Phong Nha-Kẻ Bàng nằm ở một khu vực núi đá vôi rộng khoảng 200.000
ha thuộc lãnh thổ Việt Nam, khu vực lãnh thổ Lào tiếp giáp vườn quốc gia này
cũng có diện tích núi đá vôi khoảng 200.000 ha. Diện tích vùng lõi của vườn
quốc gia là 85.754 ha và một vùng đệm rộng 195.400 ha. Vườn quốc gia này
được thiết lập để bảo vệ một trong hai vùng carxtơ lớn nhất thế giới với khoảng
300 hang động và bảo tồn hệ sinh thái bắc Trường Sơn ở khu vực Bắc Trung Bộ
Việt Nam. Đặc trưng của vườn quốc gia này là các kiến tạo đá vôi, 300 hang
động, các sông ngầm và hệ động thực vật quý hiếm nằm trong Sách đỏ Việt
Nam và Sách đỏ thế giới. Các hang động ở đây có tổng chiều dài khoảng hơn
80 km nhưng các nhà thám hiểm hang động Anh và Việt Nam mới chỉ thám
hiểm 20 km, trong đó 17 km ở khu vực Phong Nha và 3 km ở khu vực Kẻ
Bàng.
Động Phong Nha là động giữ nhiều kỷ lục: (1) Hang nước dài nhất; (2) Cửa

hang cao và rộng nhất; (3) Bãi cát, đá rộng và đẹp nhất; (4) Hồ ngầm đẹp nhất;
(5) Thạch nhũ tráng lệ và kỳ ảo nhất; (6) Dòng sông ngầm dài nhất Việt Nam;
(7) Hang khô rộng và đẹp nhất thế giới.
Kiến tạo carxtơ của Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng được hình thành từ
400 triệu năm trước, từ thời kỳ Đại Cổ Sinh do đó là carxtơ cổ nhất ở châu Á.
Trải qua nhiều thay đổi lớn về địa tầng và địa mạo, địa hình khu vực này hết
sức phức tạp. Phong Nha-Kẻ Bàng phô diễn các bằng chứng ấn tượng về lịch sử
Trái Đất, giúp nghiên cứu lịch sử hiểu được lịch sử địa chất và địa hình của khu
vực. Khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng có lẽ là một trong những mẫu hình riêng
biệt và đẹp nhất về sự kiến tạo carxtơ phức tạp ở Đông Nam Á. Được UNESCO
công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới theo tiêu chí địa chất, địa mạo năm
2003, Phong Nha-Kẻ Bàng đang hướng tới mục tiêu được UNESCO công nhận
lần 2 là Di sản thiên nhiên thế giới với tiêu chí đa dạng sinh học vào năm 2008.
Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng có tổng diện tích là 85.754 ha, bao gồm:
• Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt: 64.894 ha
• Phân khu phục hồi sinh thái: 17.449 ha
• Phân khu dịch vụ hành chính: 3.411 ha.
Trong khu vực vùng đệm của Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng có dân của
12 xã với tổng diện tích thuộc vùng đệm là 1479,45 km² thuộc huyện Minh Hóa
(Dân Hóa, Hóa Sơn, Trung Hoa, Thượng Hóa); Bố Trạch (Tân Trạch, Thượng
Trạch, Phúc Trạch, Sơn Trạch, Phú Định, Hưng Trạch) và huyện Quảng Ninh
(Trường Sơn). Các khu vực dân cư này chủ yếu sống ven các sông lớn như sông
Chày, sông Son và các các thung lũng có suối phía đông và đông bắc của vườn
quốc gia này. Các khu vực này thuộc khu vực vùng sâu vùng xa của Quảng
Bình, có điều kiện hạ tầng cơ sở như đường giao thông, điện, giáo dục, ý tế kém
phát triển. Dân cư ở đây chủ yếu sống bằng nghề nông, khai thác lâm sản.
Khí hậu
Cũng giống như vùng Bắc Trung Bộ nói chung, và tỉnh Quảng Bình nói
riêng, khí hậu ở vườn quốc gia này mang đặc trưng khí hậu nhiệt đới gió mùa,
nóng và ẩm. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 23-25°C, với nhiệt độ cao nhât là

41°C vào mùa hè và mức thấp nhất có thể xuống 6°C vào mùa đông. Thời kỳ
nóng nhất là vào tháng 6-8 với nhiệt độ trung bình 28°C, còn từ tháng 12 đến
tháng 2 có nhiệt độ trung bình 18°C. Lượng mưa trung bình hàng năm đo được
là 2.000–2.500 mm, với 88% lượng mưa trong khoảng thời gian từ tháng 7-12.
Mỗi năm có hơn 160 ngày mưa. Độ ẩm tương đối là 84%.n Lũ ở trong các khu
vực thung lũng xảy ra từ tháng 9 đến tháng 11 nhưng trong mùa khô từ tháng 2
đến tháng 8 thì hầu như các con suối đều khô cạn.
Hệ thống hang động
Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng là một trong hai khu vực đá vôi lớn
nhất thế giới. So với 41 di sản thế giới khác có carxtơ, Phong Nha-Kẻ Bàng có
các điều kiện địa hình, địa mạo và sinh vật khác biệt. Carxtơ tại đây có niên đại
từ thời kỳ Đại Cổ Sinh, 400 triệu năm trước, do đó Phong Nha-Kẻ Bàng là vùng
carxtơ lớn cổ nhất châu Á. Nếu như khu vực Hin Namno, một khu vực bảo tồn
tự nhiên của tỉnh Khăm Muộn, Lào, giáp Phong Nha-Kẻ Bàng về phía tây được
kết hợp thành một khu bảo tồn liên tục, thì khu vực bảo tồn này sẽ là khu rừng
carxtơ còn tồn tại lớn nhất ở Đông Nam Á với diện tích 317.754 ha.
Tại Phong Nha-Kẻ Bàng có một hệ thống gồm khoảng 300 hang động lớn nhỏ.
hệ thống động Phong Nha đã được Hội nghiên cứu hang động Hoàng gia Anh
(BCRA) đánh giá là hang động có giá trị hàng đầu thế giới với 4 điểm nhất: có
các sông ngầm dài nhất, có cửa hang cao và rộng nhất, những bờ cát rộng và
đẹp nhất, những thạch nhũ đẹp nhất.Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng có tuổi
già hơn, cấu tạo địa chất phức tạp hơn và có hệ thống sông ngầm đa dạng và
phức tạp hơn.
Động Tiên Sơn
Động Tiên Sơn hay động Khô là một động đẹp nổi tiếng ở khu vực
Phong Nha-Kẻ Bàng. Cửa vào động Tiên Sơn nằm cách cửa động Phong Nha
khoảng 1.000 m, ở độ cao so với mực nước biển khoảng 200 m. Động Tiên Sơn
có chiều dài là 980 m. Từ cửa động đi vào khoảng 400 m có một vực sâu chừng
10 m, và sau đó là động đá ngầm tiếp tục dài gần 500 m, khá nguy hiểm nên du
khách chưa được phép đến khu vực này mà chỉ tham quan tới khoảng cách 400

m từ tính từ cửa động. Động này được phát hiện năm 1935, ban đầu, cư dân địa
phương gọi động này là động Tiên, do vẻ đẹp kỳ bí thần tiên của nó. Sau này
động Tiên Sơn được gọi là động Khô, để phân biệt với động Phong Nha là động
nước. Động Tiên Sơn là nơi có cảnh thạch nhũ và măng đá kỳ vĩ huyền ảo như
trong động Phong Nha nhưng lại có nét riêng là các âm thanh phát ra từ các
phiến đá và cột đá khi được gõ vào vang vọng như tiếng cồng chiêng và tiếng
trống. Theo các nhà khoa học thuộc Hội hang động Hoàng gia Anh, động Tiên
Sơn được hình thành cách đây hàng chục triệu năm, khi một dòng nước chảy
qua quả núi đã đục rỗng, bào mòn núi đá vôi Kẻ Bàng. Sau đó, do kiến tạo địa
chất khối núi này hoặc đã được nâng lên, hoặc đã bị hạ xuống khiến các khối đá
đổ sụp ngăn chặn dòng chảy làm nên động Tiên Sơn ở phía trên. Còn phần có
sông ngầm chảy qua tạo ra hang động Phong Nha. Dù động Phong Nha và động
Tiên Sơn nằm liền kề nhau nhưng giữa hang động này lại không thông nhau.
Cư dân địa phương đã nhặt được một số hiện vật có thể là di chỉ di chỉ của
người xưa ở trên bãi đất bằng phẳng trước cửa động
]
.
Động Thiên Đường
Động Thiên Đường được đánh giá là động lớn và dài hơn động Phong
Nha. Đây là một động khô, không có sông ngầm chảy qua như động Phong
Nha. Theo kết quả khảo sát sơ bộ của các nhà khoa học, so với động Phong Nha
thì động Thiên Đường có chiều dài và quy mô lớn hơn nhiều. Trong động Thiên
Đường có nhiều khối thạch nhũ và măng đá kỳ ảo. Phần lớn nền động là đất
dẻo, khá bằng phẳng nên thuận tiện cho việc tham quan và thám hiểm. Trong
khi nhiệt độ mùa Hè ở bên ngoài là 36-37°C thì nhiệt độ trong động Thiên
Đường luôn ở 20-21°C.
Di sản thiên nhiên thế giới
Di sản thế giới lần 1: tiêu chí địa chất, địa mạo
Hồ sơ đề nghị công nhận vườn quốc gia này là di sản thế giới đã được Chính
phủ Việt Nam trình lên UNESCO năm 1998. Lý do đưa ra để đề nghị công

nhận vườn quốc gia này là di sản thế giới bao gồm: sự đa dạng sinh học cao, sự
độc đáo và vẻ đẹp của hệ thống hang động và phong cảnh núi đá vôi
[25]
.
Chính phủ Việt Nam đã bổ sung thông tin về giá trị địa chất địa mạo khu
vực vườn quốc gia này. Tại kỳ họp toàn thể lần thứ 27 từ 30 tháng 6 đến 5
tháng 7 năm 2003, đại diện 160 quốc gia thuộc Tổ chức Giáo dục, Khoa học và
Văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã công nhận Vườn Quốc gia Phong Nha-
Kẻ Bàng, cùng với 30 địa danh khác trên toàn thế giới, là di sản thiên nhiên thế
giới. Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng được UNESCO công nhận là di sản
thế giới vì đạt tiêu chuẩn viii “là ví dụ nổi bật đại diện cho các giai đoạn của
lịch sử trái đất, bao gồm bằng chứng sự sống, các tiến triển địa chất đang diễn
ra đáng kể đang diễn ra trong quá trình diễn biến của các kiến tạo địa chất hay
các đặc điểm địa chất và địa văn”
Đề nghị công nhận lần 2: tiêu chí đa dạng sinh học
Năm 2007, Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia Việt Nam đã thống nhất đề
nghị Thủ tướng cho phép Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch Việt Nam ký trình
hồ sơ gửi UNESCO công nhận vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng là Di sản
thiên nhiên thế giới lần 2 về tiêu chí đa dạng sinh học. Bộ hồ sơ trình lần này đã
được bổ sung các tư liệu quý về hệ động thực vật tại vườn quốc gia này. Hồ sơ
trình UNESCO lần này cũng đã nêu rõ tính nổi bật toàn cầu về đa dạng sinh
học, và tính toàn vẹn của vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng.
Ngã ba Đồng Lộc
Ngã ba Đồng Lộc nằm trên đường Trường Sơn, thuộc địa phận Đồng
Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh. Ngã ba Đồng Lộc có tổng diện tích 50ha nằm gọn
trong một thung lũng hình tam giác, hai bên đồi núi trọc, giữa là con đường độc
đạo, mặt đường giống như một lòng máng, bom địch thả xuống bên nào đất đá
cũng lǎn xuống đường làm cản trở giao thông.
Tất cả mọi con đường từ Bắc vào Nam đều phải vượt qua ngã ba Đồng
Lộc. Ngã ba Đồng Lộc được coi như cổ họng, vượt qua được sẽ phân tán toả ra

nhiều tuyến đường khác nhau đi vào nam. Ngã ba Đồng Lộc là trọng điểm có
tầm quan trọng chiến lược nên trong chiến tranh phá hoại kẻ địch âm mưu ném
bom huỷ diệt nhằm chặn đứt sự chi viện sức người, sức của, vũ khí, súng đạn,
lương thực... của hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa đối với tiền tuyến
lớn miền Nam. Chỉ tính riêng 240 ngày đêm từ tháng 3 đến tháng 10/1968
không quân địch đã trút xuống đây 48.600 quả bom các loại.
Hồi 17h ngày 24/7/1968 tiểu đội 4 thanh niên xung phong được lệnh trọng điểm
ở khu vực địch vừa thả bom để san lập hố bom sửa chữa đường, kết hợp sửa
chữa hầm trú ẩn khơi sâu rãnh thoát nước ở đoạn đường độc đạo để nhanh
chóng thông đường cho xe qua. Tiểu đội 4 hôm ấy có 10 cô gái trẻ:
Nhận nhiệm vụ xong, các cô đến tại hiện trường gấp rút triển khai công việc với
cả niềm vui được gửi gắm trên từng chiếc xe qua nên các cô không hề sợ hãi.
Họ làm việc không ngơi tay, vừa cười, vừa nói, vừa ý ới gọi nhau. Bỗng một
tốp máy bay phản lực từ hướng Bắc vào Nam vượt qua trọng điểm. Tất cả các
cô nhanh chóng nằm rạp xuống đường. Hết tiếng máy bay các cô lại chồm dậy
làm việc. Bất ngờ tốp máy bay phản lực quay lại bay từ trong ra thả một loạt
bom rơi đúng vào đội hình 10 cô gái. Các tiểu đội thanh niên xung phong đi sau
chồm lên gào thét, nhân dân xóm Bãi Dĩa quanh đấy cũng lao ra gọi tên từng
người. Khi đến nơi quả bom vừa nổ chỉ thấy một hố bom sâu hoắm, một vài
chiếc xẻng, cuốc vǎng ra nhưng không còn thấy một ai, không nghe thấy một
tiếng người. Cả 10 cô gái trẻ ấy đã hy sinh. Để ghi sâu tội ác và ghi lại chiến
tích của 10 cô gái tại trọng điểm lịch sử này Quốc hội và Chính phủ nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa
Quê hương Chủ tịch Hồ Chí Minh
Vị trí: Quê hương Chủ tịch Hồ Chí Minh thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn,
tỉnh Nghệ An.
Đặc điểm: Là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đời và sống những năm tháng niên
thiếu cùng bà con nội ngoại thân thiết.
Làng Sen (quê nội)


Từ thành phố Vinh theo quốc lộ 46 đến
cây số 13 rẽ vào con đường đất đỏ rợp bóng
cây bạch đàn và phi lao, đến làng Sen, tên chữ
là Kim Liên (bông sen vàng). Làng có những
hồ sen hai bên đường làng. Ngôi nhà của Chủ
tịch Hồ Chí Minh sống thuở nhỏ dựng bằng tre và gỗ, 5 gian, lợp tranh. Trong
nhà có những đồ dùng giống như các gia đình nông dân: phản gỗ, chõng tre, cái
võng gai, bàn thờ... Nhà được dựng năm 1901 do công sức và tiền của dân làng
góp lại làm tặng ông Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi
ông Sắc đỗ Phó Bảng - sự kiện mang lại niềm tự hào cho dân làng.
Làng Chùa (quê ngoại)
Cách làng Sen 2km, là một làng quê bình dị như bao làng quê của Việt
Nam, nhưng lại nổi tiếng ở trong và ngoài nước vì đây là quê ngoại của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, là nơi người cất tiếng khóc chào đời và được mẹ nuôi dạy
trong những năm ấu thơ.Sau cánh cổng tre rộng mở, du khách bước giữa hai bờ
mận hảo vào thăm hai ngôi nhà lợp tranh bình dị.
Ngôi nhà thờ
Ngôi nhà thờ nhỏ ba gian ở phía sau nhà ở của cụ Hoàng Đường (ông
ngoại của Bác) được cụ Hoàng Đường lập ra từ năm 1881 để thờ cúng cố nội,
ông nội và thân phụ. Nhà được tu sửa và lợp ngói từ 1930 như ta thấy hiên nay.
Bàn thờ được bài trí giản dị, trang nghiêm. Trên đôi quyết trước nhà thờ có đôi
câu đối về uy danh của dòng họ.
Ngôi nhà cụ Hoàng Đường
Ngôi nhà của cụ Hoàng Đường có 5 gian và hai chái, trong đó ba gian
ngoài thông với nhà thờ rất thoáng mát. Bộ phản kê ở gian thứ nhất là nơi cụ
Đường dạy học; gian thứ hai có bộ tràng kỷ bằng tre, chiếc án thư với những
dụng cụ dạy học như bút lông, nghiên mực... Gian thứ ba kê bộ phản là nơi nghỉ
ngơi của thày và trò. Hai gian còn lại là nơi nghỉ của cụ bà và nơi sinh hoạt
chung của gia đình.
Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn

Nghĩa trang Trường Sơn là nơi quy tập phần mộ các liệt sĩ trên tuyến đường
Trường Sơn trong những năm chiến tranh thống nhất đất nước.
Nghĩa trang được xây dựng tại khu vực Bến Tắt, cạnh đường quốc lộ 15,
thuộc địa phận xã Vĩnh Trường, huyện Gio Linh; cách thị xã Đông Hà, tỉnh lỵ
của tỉnh Quảng Trị khoảng 38km về phía tây bắc, cách quốc lộ 1A (đoạn thị
trấn huyện lỵ Gio Linh) chừng hơn 20km về phía tây bắc. Nghĩa trang có diện
tích 140.000m², nằm trên 3 quả đồi ở cạnh thượng nguồn sông Bến Hải, ranh
giới cắt chia hai miền Bắc - Nam thời kháng chiến chống Mỹ. Đây là nơi Bộ tư
lệnh Binh đoàn Trường Sơn đã chọn. Đây là một trong 72 nghĩa trang liệt sỹ
của tỉnh Quảng Trị.
Mộ bắt đầu được quy tập tại đây từ cuối năm 1974. Nghĩa trang được xây
dựng từ ngày 24/10/1975 và hoàn thành ngày 10/4/1977, đây là nghĩa trang có
quy mô lớn nhất Việt Nam, có kiến trúc, bố cục độc đáo, không giống đa phần
nghĩa trang liệt sĩ khác ở Việt Nam.Khu trung tâm nằm trên một ngọn đồi cao
32,4m có đài tưởng niệm bằng đá trắng cao vút uy nghiêm, rỗng ruột và khuyết
ba mặt, thể hiện nỗi mất mát vô cùng. Bốn khu đặt mộ liệt sĩ được xếp theo
tỉnh, thành phố trải trên năm quả đồi. Xen kẽ các khu mộ là những cánh rừng.
Lối đi được lát đá, gạch hoặc tráng xi măng, hoa nở bốn mùa hai bên. Mỗi khu
đều có nhà tưởng niệm với kiến trúc phảng phất hình ảnh các vùng quê đất
nước.
Tại thời điểm tháng 4 năm 2006 ở đây có 10.263 phần mộ; được chia
thành 10 khu vực theo địa phương: Hà Nội, Bình Trị Thiên, Hà Nam Ninh, Hà
Sơn Bình, Hải Hưng, Thái Bình, Hà Bắc, Nghệ Tĩnh, Thanh Hóa, Quảng Ninh,
Vĩnh Phú, Hải Phòng, Cao Bằng, Hoàng Liên Sơn, Hà Tiên... nơi liệt sĩ sinh ra
và một khu dành cho 68 liệt sĩ khuyết danh. Các phần mộ được xây kiên cố, có
sơ đồ mộ chí, được 21 quản trang trông nom, giữ gìn chu đáo.
Thành cổ Quảng Trị - Di tích chiến tranh kiêu hùng
Dòng sông Thạch Hãn hôm nay hiền hòa, xanh ngát, khác với hình dung
của du khách về một con sông đỏ lượm màu máu của một thời lửa đạn, của 81
ngày đêm Thành cổ rung chuyển giữa mùa hè đỏ lửa năm 1972. Cách bờ sông

Thạch Hãn 500m về phía Nam và chỉ cách Quốc lộ 1A 2 Km về phía Đông, di
tích Thành cổ Quảng Trị được bảo tồn ngay trung tâm thị xã Quảng Trị anh
hùng (khu phố 4, phường 2). Có thể nói, đây là điểm đến tiêu biểu nhất cho
vùng đất du lịch được mệnh danh là “miền hồi tưởng” tỉnh Quảng Trị, với
những địa danh lịch sử: đảo Cồn Cỏ, sông Bến Hải - cầu Hiền Lương, Nghĩa
trang liệt sĩ Trường Sơn, Khe Sanh - Đường 9 Nam Lào...
Hơn hai thế kỷ trước, Thành cổ Quảng Trị là thành lũy quân sự của nhà
Nguyễn. Thành Quảng Trị xây dựng từ đầu đời vua Gia Long (1802), nguyên
gốc được đắp bằng đất theo dạng hình vuông, đến năm Minh Mạng thứ 18
(1837) mới xây bằng gạch. Đây là nơi để vua ngự mỗi khi đi tuần thú, nơi làm
lễ thăng quan cho các đại quan cấp tỉnh và tổ chức các tiết lễ khác trong năm.
Suốt gần 140 năm (1809-1945) dưới thời nhà Nguyễn, Thành cổ Quảng Trị là
trung tâm kinh tế, chính trị, quân sự của tỉnh Quảng Trị và là thành lũy quân sự
để bảo vệ kinh đô Huế ở phía Bắc. Tuy nhiên, đến thời Pháp thuộc, dinh lũy
này được thực dân Pháp xây dựng thành nhà lao. Từ năm 1929-1972, nhà lao
Quảng Trị là nơi giam cầm hàng ngàn sĩ phu yêu nước, chiến sĩ Cộng sản và cả
những
Thời đánh Mỹ năm 1972, vùng đất Quảng Trị được xem là chiến trường khốc
liệt nhất, nơi diễn ra những cuộc đụng đầu nảy lửa giữa ta và địch. Với địa thế
vừa là bàn đạp để thực hiện âm mưu “Bắc tiến” khi có điều kiện, vừa là lá chắn
bảo vệ “biên giới Hoa Kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17”, đây là chiến trường sinh tử
đối với Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Sau hai cuộc tấn công
bất ngờ và quả cảm của quân ta - bắt đầu từ giữa trưa ngày 30/3/1972, thị xã
Quảng Trị được giải phóng vào chiều ngày 01/5/1972. Từ đây, bắt đầu 81 ngày
đêm kiêu hùng của những chiến binh quả cảm của chúng ta với cuộc chiến
không cân sức về khí tài trong lòng Thành cổ.
Để lấy lại tinh thần và gây sức ép với ta tại Hội nghị Paris, địch dốc toàn
bộ lực lượng mở cuộc phản kích tái chiếm Quảng Trị với mục tiêu số một là
chiếm lại tòa Thành cổ. Trong cuộc hành quân lấy tên “Lam Sơn 72” bắt đầu
ngày 28/6/1972, địch đã huy động phản kích bằng máy bay phản lực, bình quân

mỗi ngày 150-170 lần (có ngày 220 lần), 70-90 lần B52, 12-16 lần tàu khu trục
hạm và tuần dương hạm thuộc Hạm đội 7 - Thái Bình Dương, hai sư đoàn dự bị
chiến lược là Sư dù và thủy quân lục chiến, 4 trung đoàn thiết giáp - mỗi trung
đoàn có 79 xe tăng và xe bọc thép... Đây là cuộc hành quân đẫm máu, cực kỳ
tàn bạo với đủ loại vũ khí hiện đại: Từ bom phá, bom na-pan, bom lân tinh,
bom bi, bom 7 tấn, bom điều khiển bằng la-de, đến các loại pháo chơm, pháo
khoan, chất độc hóa học và hơi ngạt. Người ta đã ghi nhận được: Đêm 4/7, pháo
đài bay B52 Mỹ đã ném 4.000 tấn bom, ngày 31/7, khoảng 2 vạn quả đại bác cỡ
lớn từ 105-203mm đã rơi xuống vùng phụ cận và khu vực thị xã Quảng Trị.
Báo chí phương Tây thời bấy giờ bình luận và so sánh số bom đạn Mỹ ném
xuống chiến trường Quảng Trị khoảng 328 ngàn tấn, tương đương sức công phá
của 7 quả bom nguyên tử ném xuống Hiroshima (Nhật Bản) năm 1945.
Trong lửa đạn khốc liệt ấy, Thành cổ Quảng Trị với chu vi hơn 2.160m là
“túi bom” của kẻ thù. Chúng huy động tối đa lực lượng, phương tiện để chiếm
bằng được Thành cổ vì đây là địa bàn chiến lược, có thể tạo sức nặng mặc cả
với ta tại Hội nghị Paris. Không thể thống kê hết số bom đạn dội xuống mảnh
đất này.
Thế nhưng, bom đạn không làm sờn lòng những chiến sĩ anh hùng - hầu hết đều
rất trẻ. Các anh, anh dũng bám trụ giữ từng tấc đất Thành cổ. Trong một ngày,
các chiến sĩ đã phải đánh địch phản kích từ 5-7 lần, có khi 13 lần. Cuộc chiến
đấu ở đây đã diễn ra như một huyền thoại và cách đánh cũng vượt ra những qui
ước thông thường với những tấm gương quả cảm: Phan Văn Ba nát một bàn tay
vẫn xin ở lại, Hán Duy Long dùng trung liên kẹp nách truy kích diệt 58 tên
địch, 3 lần bị thương vẫn giữ vững trận địa... Ở đây, lựu đạn phải để xì khói trên
tay mới ném, phải trèo lên tường cao ném xuống hoặc bò sát miệng hầm của
địch mà liệng vào... Cuộc chiến đấu anh hùng 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ
Quảng Trị kết thúc bằng thất bại của một đội quân xâm lược đông trên 5 vạn tên
với thừa thãi sức mạnh bom đạn, một lần nữa làm sáng ngời chân lý: Kẻ xâm
lược có vũ khí tối tân đến đâu cũng phải khuất phục trước những con người có
ý chí thép gang, một lòng chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc.

Máu của chiến sĩ và đồng bào ta đã đổ xuống, tô thắm cho trang sử vẻ vang của
dân tộc, để xanh ngời cỏ non Thành cổ hôm nay. Di tích Thành cổ hôm nay chỉ
là một gian nhà truyền thống, những quả pháo nằm rải rác chung quanh một
nấm mồ khổng lồ mang tính biểu tượng. Trong lòng nó chỉ vỏn vẹn cây súng và
bộ quân phục giản đơn của người lính nhưng chất chứa biết bao suy tưởng. Đến
Thành cổ, thắp một nén hương ở mảnh đất thiêng liêng ấy, chưa bao giờ bạn
cảm nhận giai điệu bi tráng của hành khúc “Hồn tử sĩ” vang lên với nhiều cung
bậc cảm xúc đến vậy!
1.2.2 Tiểu Vùng Du lịch phía Nam:
Thừa Thiên Huế
Thừa Thiên-Huế là một tỉnh ven biển nằm ở vùng BắcTrung Bộ Việt Nam có
tọa độ ở 16-16,8 Bắc và 107,8-108,2 Đông.Diện tích của tỉnh là 5.053,99 km²,
dân số năm 2005 là 1.134.480 người.Thừa Thiên-Huế giáp tỉnh Quảng Trị về
phía bắc, biển Đông về phía đông, thành phố Đà Nẵng, tỉnh Quảng Nam về phía
nam, Trường Sơn và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào về phía tây. Thừa Thiên-
Huế cách Hà Nội 654 km, Nha Trang 627 km và Thành phố Hồ Chí Minh 1.071
km.
Phần lớn núi rừng nằm ở phía tây. Những ngọn núi đáng kể là: Động
Ngai 1.774m, Động Truồi 1.154m, Co A Nong 1.228m, Bol Droui 1.438m, Tro
Linh 1.207m, Hói 1.166m (nằm giữa ranh giới tỉnh Quảng Nam), Cóc Bai
787m, Bạch Mã 1.444m, Mang 1.708m, Động Chúc Mao 514m, Động A Tây
919m.Sông ngòi thường ngắn nhưng lại lớn về phía hạ lưu. Những sông chính
là Ô Lau, Rào Trang, Rào Lau, Rào Mai, Tả Trạch, Hữu Trạch, An Cựu, Nước
Ngọt, Lăng Cô, Bồ, Rau Bình Điền, Đá Bạc, Vân Xá, Truồi....Hai cửa biển
quan trọng là cửa Thuận An và cửa Tư Hiền.

×