Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

TIỂU LUẬN về VIỆN KIỂM sát HP LTCBMNN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.92 KB, 11 trang )

Ngành Kiểm sát nhân dân được thành lập ngày 26/7/1960, qua 55
năm thành lập và phát triển, tuy lịch sử có nhiều biến cố nhưng ngành
Kiểm sát nhân dân đã vượt qua mọi khó khăn, thách thức hoàn thành tốt
mọi nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Do đó,
ngành Kiểm sát nhân dân đã đạt được những thành tích mà được Đảng,
Nhà nước và nhân dân ghi nhận
Viện công tố tiền thân của Viện kiểm sát:
Ngày 29/4/1958, tại kỳ họp thứ VIII, Quốc Hội khóa I, Quốc hội đã
thảo luận đề án của Chính phủ: Thành lập Tòa án tối cao và hệ thống
Tòa án, Viện công tố trung ương và hệ thống Viện công tố. Cả hai cơ
quan tách khỏi Bộ Tư pháp. Tòa án tối cao và Viện công tố trung ương
có nhiệm vụ, quyền hạn ngang Bộ và trực thuộc Chính phủ. Đồng chí
Bùi Lắm, Vụ trưởng vụ hành chính tư pháp của Bộ Tư pháp cử sang
làm Viện trưởng Viện công tố trung ương. Đồng chí Nguyễn Văn Ngọc,
Chánh Văn phòng Bộ Công an được cử sang làm Phó Viện trưởng viện
công tố trung ương.
Ngày 01/7/1959, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số
256-TTg quy định về nhiệm vụ và tổ chức Viện công tố và hệ thống Viện
công tố. Theo quy định của Nghị định số 256-TTg hệ thống Viện công tố
gồm có: Viện công tố trung ương, Viện công tố địa phương các cấp và
Viện công tố quân sự các cấp. Viện công tố có Viện trưởng, Viện phó và
một số Công tố ủy viên. Viện trưởng, Viện phó và Công tố ủy viên lập
thành Ủy ban công tố có trách nhiệm xử lý những vấn đề quan trọng
thuộc công tác Công tố dưới sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện công tố.
Viện kiểm sát nhân dân được thành lập và phát triển qua các thời
kỳ
Lần đầu tiên Hiến pháp quy định chế định về Viện kiểm sát nhân
dân:Ngày 31/12/1959, kỳ họp thứ 11, Quốc hội nước Việt nam dân chủ
cộng hòa khóa thứ nhất đã thông qua Hiến pháp mới (Hiến pháp năm
1959). Điều 105 Hiến pháp năm 1959 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân
tối cao nước Việt nam dân chủ cộng hòa kiểm sát việc tuân theo pháp


luật của các cơ quan thuộc Hội đồng chính phủ, cơ quan nhà nước địa
phương, các nhân viên cơ quan nhà nước và công dân. Các Viện kiểm
sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự có quyền kiểm sát
trong phạm vi do luật định” Lần đầu tiên chế địnhViện kiểm sát nhân dân
được ghi nhận tại Hiến pháp, đạo luật cơ bản trong hệ thống pháp luật
nước ta.
Quốc Hội thông qua Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, đồng
chí Hoàng Quốc Việt được Quốc Hội bầu làm Viện trưởng - Viện kiểm
sát nhân dân Tối cao:


Luật chức Viện kiểm sát nhân dân lần đầu tiên đã được Quốc Hội
khóa II, kỳ họp thứ nhất thông qua ngày 15/7/1960 và được Chủ tịch Hồ
Chí Minh ký Lệnh công bố số 20/LCT ngày 26/7/1960. Cũng tại kỳ họp
thứ nhất, Quốc Hội khóa II, Quốc Hội đã bầu đồng chí Hoàng Quốc Việt
giữ chức vụ Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Đồng chí
Hoàng Quốc Việt là Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân đầu tiên của
ngành Kiểm sát nhân dân.
Ngày 26/7/1960 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh công bố
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, đánh dấu sự ra đời của Viện kiểm
sát nhân dân, một hệ thống cơ quan mới trong bộ máy Nhà nước ta. Và
ngày 26/7 hàng năm trở thành ngành truyền thống ngành Kiểm sát nhân
dân
Trước khi thông qua Luật Tổ chức Viện kiểm sát Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã căn dặn, cán bộ Kiểm sát phải: “Công minh, chính trực, khách
quan, thận trong, khiêm tốn”.
Tháng 3 năm 1967 ngành Kiểm sát nhân dân tổ chức Hội nghị
tổng kết công tác kiểm sát năm 1966, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất
Ban chấp hành trung ương Đảng đến dự và phát biểu. Đồng chí Lê
Duẩn nói: “Ngành Kiểm sát là một trong những công cụ của nhà nước

dân chủ nhân dân, có nhiệm vụ thường xuyên kiểm tra việc tuân theo
pháp luật, làm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất, góp phần bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân, tăng cường
chuyên chính đối với bọn phản cách mạng, tăng cường kỷ luật xã hội
trong quần chúng nhân dân”.
Pháp lệnh quy định cụ thể về tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân
Tối cao:
Ngày 16/4/1962, Ủy ban thường vụ Quốc Hội thông qua Pháp lệnh
quy định cụ thể về tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Theo nội
dung của Pháp lệnh: “Viện kiểm sát nhân dân tối cao có Viện trưởng,
các Phó Viện trưởng, các Kiểm sát viên và Kiểm sát viên dự
khuyết”. Ngày 18/4/1962, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Lệnh số 12/LCT công
bố Pháp lệnh.
Nghị quyết đầu tiên của Bộ chính trị về công tác của Viện kiểm sát
nhân dân:
Ngày 01/02/1963, Bộ chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng đã
ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW về công tác kiểm sát. Nghị quyết
khẳng định lại vai trò quan trọng của Viện kiểm sát nhân dân trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, quy định một số vấn đề cụ
thể về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân. Nghị quyết
cũng quy định một số vấn đề cụ thể về quan hệ giữa các ngành Kiểm


sát, Công an, Tòa án, về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
ngành Kiểm sát nhân dân nhằm giúp cho ngành Kiểm sát thực hiện tốt
chức năng, nhiệm vụ của mình.
Viện kiểm sát Quân sự được thành lập:
Thực hiện các quy định của Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 1960, tại phiên họp từ ngày 24 đến ngày
29/4/1961 Thường trực Quân ủy Trung ương đã ra Nghị quyết tổ chức

Viện kiểm sát Quân sự trong quân đội. Thi hành quyết nghị trên của
Thường trực Quân ủy trung ương, ngày 12/5/1961, Tổng cục chính trị
Bộ Quốc phòng đã ra Thông tri số 06/TT.H hướng dẫn tổ chức các Viện
kiểm sát quân sự. Ngày 12/5/1961 được xác định là ngày thành lập Viện
kiểm sát Quân sự. Ngày 07/8/2009 Bộ Quốc phòng đã có Quyết định số
2628/QĐ-BQP công nhận ngày 12/5/1961 là ngày truyền thống của
ngành Kiểm sát quân sự.
Những mốc son quan trọng của Trường Đại học Kiểm sát:
Ngày 21/4/1970, đồng chí Hoàng Quốc Việt, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân Tối cao đã ký Quyết định số 62/QĐ-TC về bộ máy tổ
chức của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, trong đó có Trường Bổ túc và
Đào tạo cán bộ kiểm sát. Quyết định này được Ủy ban Thường vụ Quốc
Hội phê chuẩn tại Nghị quyết số 900/NQ-UBTVQH ngày 25/4/1970.
Ngày 23/10/1981, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban
hành Quyết định số 158/QĐ-V9 về bộ máy làm việc của Viện kiểm sát
nhân dân Tối cao, trong đó có Trường Cao đẳng kiểm sát tại Hà Nội.
Quyết định này được Hội đồng Nhà nước phê chuẩn tại Nghị quyết số
138-NQ/HĐNN7 ngày 17/02/1982. Ngày 24/4/2013, Thủ tướng Chính
phủ đã có Quyết định số 614/QĐ-TTg về việc thành lập Trường Đại học
kiểm sát Hà Nội. Ngày 25/4 hàng năm được coi là Ngày Truyền thống
của Trường Đại học kiểm sát Hà Nội hiện nay.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao qua các thời kỳ từ năm
1960 đến nay:
Từ khi thành lập Viện kiểm sát nhân dân đến nay đã có 8 đồng chí
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Đó là:
- Đồng chí Hoàng Quốc Việt từ năm 1960 đến năm 1976.
- Đồng chí Trần Hữu Dực từ năm 1976 đến năm 1981.
- Đồng chí Trần Lê từ năm 1981 đến năm 1986.
- Đồng chí Trần Quyết từ năm 1987 đến năm 1992.
- Đồng chí Lê Thanh Đạo từ năm 1992 đến năm 1996.

- Đồng chí Hà Mạnh Trí từ năm 1996 đến năm 2007.


- Đồng chí Trần Quốc Vượng từ năm 2007 đến năm 2011.
- Đồng chí Nguyễn Hòa Bình từ năm 2011 đến nay.
Hiến pháp năm 1959 được ban hành đã đánh dấu sự ra đời của một hệ thống cơ quan mới
trong bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa ở nước ta - Viện kiểm sát nhân dân (VKSND). Trải
qua các bản Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992, thiết chế VKSND tiếp tục được
khẳng định và ngày càng hoàn thiện.
Quá trình cải cách tư pháp và sửa đổi Hiến pháp đặt vấn đề nghiên cứu đổi mới thiết chế
VKSND, đã có một số ý kiến cho rằng cần chuyển Viện kiểm sát thành Viện Công tố. Theo
các ý kiến này, Viện Công tố sẽ chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực tố tụng hình sự, chỉ thực
hiện chức năng thực hành quyền công tố, không thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động
tư pháp. Thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban cán sự đảng VKSND tối cao đã nghiêm túc
triển khai việc nghiên cứu đổi mới chế định VKSND, tiến hành tổng kết thực tiễn tổ chức và
hoạt động của VKSND ở nước ta; tham khảo kinh nghiệm tổ chức cơ quan công tố/ cơ quan
kiểm sát các nước trên thế giới; tổ chức thảo luận trong Ủy ban kiểm sát, xin ý kiến các đồng
chí lãnh đạo lão thành và lấy ý kiến của các đơn vị trong toàn Ngành. Từ kết quả tổng kết
thực tiễn và nghiên cứu bám sát các quan điểm, chủ trương, định hướng xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cải cách tư pháp thể hiện trong Cương lĩnh, Văn kiện,
Nghị quyết của Đảng, Ban cán sự đảng VKSND tối cao đã báo cáo và đề nghị các cơ quan có
thẩm quyền: Việc chuyển Viện kiểm sát thành Viện Công tố trong điều kiện cụ thể của Việt
Nam là không phù hợp, cần tiếp tục duy trì mô hình VKSND như hiện tại, nhưng có đổi mới
và tăng cường hơn.
Đặc biệt, trong Cương lĩnh (bổ sung và phát triển năm 2011) và Nghị quyết Đại hội XI đã
khẳng định phải đẩy mạnh các cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực hiện quyền lực
nhà nước, bảo đảm sự kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Nghiên cứu xu hướng cải cách Viện Công tố trên thế giới cho thấy, các
nước ngày càng có xu hướng tăng cường sự độc lập cho Viện Công tố và mở rộng phạm vi
hoạt động ra ngoài lĩnh vực truyền thống là truy cứu trách nhiệm hình sự. Theo dõi quá trình

cải cách Viện kiểm sát ở các nước thời gian qua, nhất là ở Nga và một số nước XHCN cũ ở
Đông Âu thấy rằng, mặc dù các nước này có sự thay đổi về thể chế chính trị, song phần lớn
vẫn giữ mô hình Viện kiểm sát với hai chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật (Nga, Hungari, Bungari, Ucraina…). Thậm chí, có nước còn giao cho
Viện kiểm sát nhiều thẩm quyền hơn để thực hiện hiệu lực, hiệu quả hai chức năng này. Ở
Việt Nam, Viện Công tố không phải là vấn đề mới mẻ. Nhà nước ta đã từng tồn tại cả hai mô
hình Viện Công tố: Mô hình Viện Công tố trực thuộc Tòa án (giai đoạn 1945-1958) và mô


hình Viện Công tố trực thuộc Chính phủ (giai đoạn 1958-1959). Việc tách Viện Công tố khỏi
Tòa án và không còn thuộc sự quản lý của Bộ Tư pháp về hành chính, thành lập hệ thống
Viện Công tố độc lập, trực thuộc Chính phủ vào năm 1958 chính là bước quá độ cho việc tổ
chức một hệ thống cơ quan độc lập trong bộ máy nhà nước để thực hiện tốt chức năng công
tố và giám sát việc tuân theo pháp luật. Vì vậy, việc chuyển Viện kiểm sát thành Viện Công
tố, trực thuộc nhánh hành pháp, chủ yếu thực hiện chức năng truy tố tội phạm như một số ý
kiến nêu trên là đã tự xóa đi trong bộ máy nhà nước ta một hệ thống cơ quan giám sát độc
lập, đã được thử thách và khẳng định đạt được nhiều kết quả quan trọng trong suốt hơn 50
năm qua. Với những lý do trình bày nêu trên, Ban Chấp hành trung ương Đảng, Bộ Chính trị
và Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp trung ương đã kết luận tiếp tục duy trì mô hình Viện kiểm
sát nhân dân.
Thể chế hóa kết luận của Đảng, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tiếp tục đặt chế định
VKSND tại chương VIII cùng chế định Tòa án nhân dân (TAND).
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp dành 3 điều quy định về VKSND: Điều 112, Điều 113 và Điều
114. So với Hiến pháp hiện hành giảm bớt một điều, song các nội dung quan trọng liên quan
đến chức năng nhiệm vụ, hệ thống tổ chức, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của VKSND,
chế độ bầu Viện trưởng VKSND tối cao và các chức danh tư pháp thuộc Viện kiểm sát đều
được thể hiện trong Dự thảo. Cách quy định này là phù hợp, thể chế hóa các yêu cầu mới về
kỹ thuật lập hiến, bảo đảm tính khái quát, cô đọng, xúc tích, đúng tầm là đạo luật cơ bản, đáp
ứng yêu cầu ổn định lâu dài của Hiến pháp.
Một trong những nội dung quan trọng của cải cách tư pháp được đề ra trong các nghị

quyết của Đảng là “…tăng quyền và trách nhiệm cho điều tra viên, kiểm sát viên và thẩm
phán để họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm
trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình”[1]. Thể chế hóa yêu cầu của
Đảng, cùng với việc tiếp tục khẳng định nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong
ngành, Dự thảo bổ sung nguyên tắc “Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp, kiểm sát viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân”. Việc bổ sung này là cần thiết, phù hợp với các yêu cầu mới đặt ra đối với công
tác tư pháp hiện nay. Nguyên tắc này một mặt đáp ứng yêu cầu tăng tính độc lập cho kiểm sát
viên, ngăn ngừa sự can thiệp trái pháp luật của các cá nhân, tổ chức vào hoạt động thực thi
công vụ của kiểm sát viên, đồng thời phù hợp với nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo
trong ngành Kiểm sát, bảo đảm sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát mỗi cấp và sự lãnh
đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao đối với toàn hệ thống.


Quy định Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp tại Điều 112 Dự thảo cơ bản đã phản ánh đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của VKSND. Tuy
vậy, theo tinh thần Nghị quyết Trung ương II, Kết luận Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XI “những vấn đề về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các
cơ quan nhà nước cần quy định rõ trong Hiến pháp” thì cũng còn một số nhiệm vụ chưa
được quy định. Theo Luật tổ chức VKSND năm 2002, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2003, Luật
tương trợ tư pháp và một số đạo luật khác, VKSND được giao thực hiện những nhiệm vụ
như: làm đầu mối tương trợ tư pháp về hình sự; dẫn độ; chuyển giao người đang chấp hành
hình phạt tù; thống kê tội phạm liên ngành v.v… Những nhiệm vụ này không thuộc phạm vi
chức năng thực hành quyền công tố, cũng không thuộc chức năng kiểm sát các hoạt động tư
pháp nhưng do Viện kiểm sát là cơ quan tiến hành tố tụng duy nhất tham gia vào tất cả các
giai đoạn tố tụng (từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án), có điều kiện tốt nhất để
thực hiện các nhiệm vụ này nên Quốc hội quyết định giao cho Viện kiểm sát thực hiện. Nhằm
thể chế hóa đầy đủ yêu cầu của Nghị quyết trung ương II, Kết luận Hội nghị lần thứ năm Ban
chấp hành trung ương Đảng khóa XI và phù hợp với các nhiệm vụ VKSND đang được Quốc
hội giao đảm nhiệm, đề nghị sửa đổi Điều 112 Dự thảo như sau: “Viện kiểm sát nhân dân

thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hiện những nhiệm vụ khác do
luật định”. Việc bổ sung quy định nêu trên chính là nhằm bảo đảm tính hợp hiến của các đạo
luật do Quốc hội ban hành liên quan đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND,
đồng thời, tránh những nhận thức thiếu thống nhất trong quá trình xây dựng các dự án luật
thuộc lĩnh vực tư pháp thời gian tới
Tổng kết hơn 50 năm tổ chức và hoạt động của VKSND, nhất là 10 năm thực hiện
Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã chứng minh VKSND là thiết chế
hữu hiệu trong đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, bảo đảm không bỏ lọt
tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, phát hiện kịp thời những vi phạm
trong hoạt động tư pháp. Qua công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp, VKSND đã góp phần chấn chỉnh công tác bắt, giam, tha, khởi tố vụ án, khởi tố bị can,
khắc phục hiệu quả tình hình oan, sai, bỏ lọt trong xử lý án hình sự. Chất lượng công tố, tranh
tụng của các Kiểm sát viên tại phiên tòa ngày càng được nâng cao, góp phần cùng Tòa án
tuyên các bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời. Thông qua
công tác kiểm sát xét xử, hàng năm, VKSND các cấp đã phát hiện và kiến nghị, kháng nghị
với Tòa án khắc phục những sai sót trong áp dụng pháp luật và vi phạm nghiêm trọng thủ tục
tố tụng. Số lượng và chất lượng kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm được Tòa án chấp
nhận đạt cao qua các năm, các kiến nghị của VKSND được Tòa án chấp nhận, khắc phục kịp
thời những vi phạm trong hoạt động xét xử…


Câu 1. Dựa trên luận điểm của Lê-nin về pháp chế thống nhất, kinh

nghiệm quốc tế và kế thừa tổ chức và hoạt động của cơ quan Công tố
trong những năm đầu của công cuộc kháng chiến, kiến quốc, Hiến pháp
năm 1959, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) năm 1960 đã
chính thức ghi nhận chế định Viện kiểm sát (VKS) của nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà với tư cách là một trong các hệ thống cơ quan nhà
nước độc lập, thực hiện đồng thời chức năng công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật. Điều này cũng tương tự như một số nước giao cho

VKS hai chức năng và nhấn mạnh sự độc lập như một hệ thống của
VKS (1).
Hơn 50 năm qua, tuy có những thay đổi về nhiệm vụ, quyền hạn qua
các lần sửa đổi Hiến pháp, Luật Tổ chức VKSND, nhưng cho đến nay, vị
trí, chức năng của VKS cơ bản không thay đổi, vẫn là một trong bốn hệ
thống cơ quan trong bộ máy Nhà nước, có vị trí Hiến định, thực hiện
đồng thời chức năng công tố và chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Luật Tổ chức
VKSND năm 2002 chỉ bỏ một phần chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật (công tác kiểm sát trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội),
VKS vẫn kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Nếu chỉ xét trên bình diện “chỗ đứng” về mặt tổ chức của các cơ quan
VKS hoặc Công tố ở nhiều nước có thể dễ nhìn thấy dù sự hiện diện ở
“nhánh” quyền lực nào (hành pháp hay tư pháp) thì tính độc lập của
VKS luôn luôn được ghi nhận, bảo đảm bằng nguyên tắc về tính thống
nhất trong tổ chức và hoạt động là những nguyên tắc quan trọng và phổ
biến nhất.
Ở Việt Nam, để bảo đảm tính độc lập của VKS gắn với nhu cầu bảo vệ
pháp chế XHCN, có hai nguyên tắc cơ bản chi phối tổ chức và hoạt
động của VKSND được xác lập và thực hiện ngay từ khi hệ thống VKS
được thành lập từ năm 1960 là: Nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh
đạo trong ngành và độc lập của VKS với các cơ quan nhà nước khác.
1. Nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành và độc lập
của VKS với các cơ quan nhà nước khác, có nghĩa rằng mọi sự
chỉ đạo, lãnh đạo công tác trong ngành Kiểm sát phải tập trung
vào Viện trưởng mỗi cấp kiểm sát và tập trung thống nhất vào
Viện trưởng VKSNDTC, không phụ thuộc vào sự chi phối của các
cơ quan nhà nước khác. Viện trưởng VKSND cấp dưới là những
người được Viện trưởng VKSNDTC giao quyền để lãnh đạo VKS
cấp mình. Viện trưởng VKS cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện

trưởng VKS cấp trên và cao nhất là sự lãnh đạo toàn diện của
Viện trưởng VKSNDTC với tư cách là người bảo đảm cho tổ chức
và hoạt động của toàn ngành Kiểm sát thống nhất từ Trung ương


2.

3.

4.

5.

đến địa phương và giữa các địa phương trong thực hiện các chức
năng của VKS. Chế độ tổ chức như vậy làm cho hoạt động của
toàn ngành Kiểm sát được thực hiện thành một khối thống nhất,
cấp trên lãnh đạo cấp dưới và cấp dưới chịu trách nhiệm trước
cấp trên và trước Viện trưởng VKSNDTC và Viện trưởng
VKSNDTC chịu trách nhiệm về mọi công việc của ngành Kiểm sát
nhân dân trước Quốc hội, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
Nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành và độc lập
của VKS thường tương phản với hai nguyên tắc đặc thù của hai
hệ thống cơ quan nhà nước khác, đó là nguyên tắc “song trùng”
của hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước và nguyên tắc
“Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật” của Tòa án.
Sự phân biệt giữa nguyên tắc “song trùng” và nguyên tắc “tập
trung thống nhất lãnh đạo” đã được Lênin phân tích rõ và cho
rằng công tác hành chính và công tác quản lý nhà nước cần phải
tính tới “sự khác nhau thật sự không tránh khỏi” (2) giữa các địa

phương về điều kiện địa lý, thổ nhưỡng, dân cư... Nếu không tính
đến sự khác nhau này mà chỉ chú trọng tới mối quan tâm của
Trung ương thì công tác quản lý nhà nước sẽ rơi vào chế độ tập
trung, quan liêu. Chính vì vậy mà cơ quan hành chính nhà nước ở
địa phương vừa chịu sự lãnh đạo của cơ quan hành chính cấp
trên, vừa là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước
cùng cấp (Hội đồng nhân dân). Trong khi đó, các VKS ở địa
phương về nguyên tắc chỉ chịu sự lãnh đạo của VKS cấp trên và
VKSNDTC chứ không trực thuộc và không chịu sự lãnh đạo, chỉ
đạo của cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.
Nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật” đặt người Thẩm phán vào vị trí chịu trách
nhiệm cá nhân và duy nhất đối với mỗi phán quyết của họ. Thẩm
phán cấp trên hay Chánh án không phải chịu trách nhiệm về
những phán quyết đó. Nguyên tắc độc lập này, vì vậy, tương phản
với nguyên tắc “tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành” của
VKS. Khác với Thẩm phán, khi thực hiện các công việc thuộc
chức năng của VKS, Kiểm sát viên vừa phải tuân theo pháp luật,
vừa chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng VKS cấp mình và cao nhất
là sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng VKSNDTC. Trách
nhiệm cuối cùng đối với hoạt động công tố và kiểm sát, do vậy,
cũng trực tiếp đặt lên vai của Viện trưởng VKS mỗi cấp và cao
nhất là Viện trưởng VKSNDTC.
Nguyên tắc “tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành và độc lập
của VKS với các cơ quan nhà nước khác” cũng không mâu thuẫn
với nguyên tắc “tập quyền” và nguyên tắc “tập trung dân chủ”


6.


7.

8.

trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước ta nói chung.
Có thể nói, giữa nguyên tắc “tập quyền” và nguyên tắc “tập trung
thống nhất lãnh đạo trong ngành và độc lập của VKS” có sự kết
hợp với nhau trong tổ chức và hoạt động của VKS. Viện trưởng
VKSNDTC lãnh đạo tập trung thống nhất toàn ngành Kiểm sát,
nhưng phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội về hoạt động của
Ngành mình. Các Viện trưởng VKSND địa phương chỉ chịu sự chỉ
đạo và chịu trách nhiệm trước Viện trưởng VKS cấp trên và cao
nhất là Viện trưởng VKSNDTC. Hội đồng nhân dân các cấp không
có vị thế đối với VKSND cùng cấp giống như vị thế của Quốc hội
đối với VKSNDTC. Như vậy, nguyên tắc đặc thù trong tổ chức và
hoạt động của VKS đã tạo ra những giới hạn nhất định nhưng
không làm mất đi tinh thần chủ đạo của nguyên tắc “tập quyền” và
nguyên tắc “tập trung dân chủ”.
Nguyên tắc “tập trung, dân chủ” là nguyên tắc chung, bao trùm
trong tổ chức và hoạt động của các hệ thống cơ quan nhà nước
với những mức độ khác nhau, không tác động một cách hoàn
toàn giống nhau, có sự điều chỉnh “cân bằng” giữa chế độ tập
trung và chế độ dân chủ một cách phù hợp với bản chất và đặc
tính hoạt động của từng hệ thống cơ quan. Đối với hệ thống VKS,
sự “cân bằng” đó nằm ở chỗ yếu tố tập trung được ưu tiên hơn
thể hiện qua vai trò lãnh đạo tập trung của Viện trưởng Viện kiểm
sát mỗi cấp và thống nhất vào Viện trưởng VKSNDTC. Yếu tố dân
chủ, thể hiện qua sự hiện diện của các Ủy ban kiểm sát, (4) được
chú trọng ở chừng mực nhất định để trợ giúp cho yếu tố “tập
trung” phát huy được tối đa hiệu quả hoạt động thực hiện chức

năng của VKS.
Tính độc lập của VKS được bảo đảm thực hiện bằng nguyên tắc
tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành và độc lập với các cơ
quan nhà nước khác, được xác lập trên những cơ sở lý luận cơ
bản sau:
Một là, cơ sở nền tảng lý luận xây dựng nên vị trí, nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của VKS trong tổ chức bộ máy Nhà nước ta là
nguyên tắc tổ chức quyền lực Nhà nước ta là thống nhất và có sự
phân công, phối hợp, khác với các nước phân quyền giữa lập
pháp, tư pháp và hành pháp (5). Xuất phát từ đặc điểm đó, mô hình
bộ máy Nhà nước ta được tổ chức theo hướng đề cao vị trí, vai
trò của Quốc hội, cơ quan đại diện cao nhất đồng thời là cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất, được trao ba chức năng lớn là lập
pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám
sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy Nhà nước. Do
vậy, việc tồn tại một hệ thống cơ quan chuyên trách thực hiện
giám sát, có bộ máy từ Trung ương đến địa phương như hệ thống


VKS là hết sức cần thiết. Ở các quốc gia mà quyền lực nhà nước
tổ chức theo nguyên tắc phân quyền, các nhánh quyền lực hoạt
động trong thế giới đối trọng nhau, quyền lực kiểm soát quyền lực
thì không cần đến một cơ quan chuyên trách thực hiện chức năng
giám sát như thế.
9. Hai là, xuất phát từ nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
(XHCN), một nguyên tắc đặc thù của nhà nước XHCN. Để thiết
lập một nền pháp chế XHCN thống nhất và ổn định, thì ngoài điều
kiện cần là sự tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách tự giác,
nghiêm chỉnh, thống nhất bằng những hành vi tích cực của các
chủ thể, còn cần phải tính đến trật tự kỷ cương xã hội được bảo

đảm, lối sống văn hoá pháp luật được phổ biến với các giá trị xã
hội được tôn trọng, mọi người cảm thấy an toàn, tự do và bình
đẳng. Trong không gian đó, tôn trọng và thực hiện pháp luật một
cách tự giác, nghiêm chỉnh, thống nhất không chỉ là yêu cầu, đòi
hỏi của bản thân pháp luật mà còn là nghĩa vụ pháp lý, lương tâm
và đạo đức của mọi cá nhân. Với ý nghĩa đó, pháp chế XHCN
được nâng lên thành nguyên tắc hiến pháp và được coi là một
trong những cơ sở quan trọng nhất cho việc tổ chức và hoạt động
của Nhà nước và xã hội nói chung(6). Việc thành lập VKS có mục
đích bảo đảm pháp chế dân chủ nhân dân được tôn trọng, luật
pháp được tôn trọng, quyền lợi chính đáng của nhân dân được
tôn trọng, “Ngành Kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ kiểm sát việc
tuân theo pháp luật, làm cho pháp luật được chấp hành một cách
nghiêm chỉnh và thống nhất, pháp chế XHCN được tôn trọng, do
đó mà góp phần vào việc tăng cường chuyên chính đối với bọn
phản cách mạng, bảo đảm các quyền dân chủ của nhân dân
được tôn trọng, đồng thời cũng góp phần vào việc tăng cường kỷ
luật xã hội trong quần chúng nhân dân (7).
10. Ba là, với vị trí độc lập trong tổ chức và hoạt động, VKS được
xem là thiết chế có sứ mệnh quan trọng bảo đảm cho pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Khi thực hành
quyền công tố trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, VKS có
trách nhiệm bảo đảm mọi hành vi phạm tội được phát hiện đều
phải được điều tra, truy tố, xét xử một cách nghiêm minh, đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội,
không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội. “Không có cơ quan Nhà
nước nào có thể thay thế ngành Kiểm sát để sử dụng quyền công
tố. Bắt giam, điều tra, tha, truy tố, xét xử có đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật hay không, có đúng đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước hay không, điều đó chính là Viện kiểm sát

phải trông nom, bảo đảm làm tốt…”(8).


Khi thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, VKS có
trách nhiệm bảo đảm pháp chế trong lĩnh vực điều tra, giam giữ,
xét xử và giải quyết các tranh chấp của Tòa án, thi hành án, bảo
đảm không để một công dân nào bị bắt bớ, giam cầm, bị xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản một
cách trái pháp luật, “Ngành Kiểm sát phải kiểm tra xem bắt giam
người có đúng không, xét xử người có đúng không và trước hết
phải kiểm tra xem những người có quyền hành có làm đúng pháp
luật hay không… Ngành Kiểm sát phải làm cho người ta biết ngăn
ngừa trước hành động tham ô, chứ không phải chỉ kiểm tra khi tội
đã xảy ra; Viện kiểm sát không những chỉ có nhiệm vụ phát hiện
cái sai, cái vi phạm, mà phải góp phần làm cho các cơ quan và
nhân dân làm đúng pháp luật hơn…”(9).
12. Từ tính chất tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước ta, xuất phát
từ tầm quan trọng của pháp chế XHCN, từ chức năng, nhiệm vụ
của VKS thì hệ thống VKS cần có vị trí độc lập, tổ chức và hoạt
động theo nguyên tắc tập trung thống nhất là yêu cầu khách quan,
cơ bản và là quy tắc chủ yếu, quán xuyến trong tổ chức và hoạt
động của VKS các cấp. Điều này chứng minh tính đúng đắn của
Hiến pháp và các Luật Tổ chức VKSND qua các thời kỳ luôn xác
định VKS là một hệ thống độc lập, tập trung thành một khối thống
nhất, đứng đầu là Viện trưởng VKSNDTC do Quốc hội bầu, chỉ
chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội hoặc Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội khi Quốc hội không họp; Viện trưởng và
Kiểm sát viên các Viện kiểm sát nhân dân địa phương do Viện
trưởng VKSNDTC bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức; VKS nhân
dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của VKSND cấp trên và sự lãnh

đạo thống nhất của Viện trưởng VKSNDTC; VKS nhân dân các
địa phương làm nhiệm vụ một cách độc lập, các cơ quan nhà
nước khác không được can thiệp. Chế định VKS và bảo đảm tính
độc lập của VKS đã thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng về tổ
chức bộ máy Nhà nước ta, xuất phát từ tính chất dân chủ của
Nhà nước ta, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
11.



×