Tải bản đầy đủ (.docx) (67 trang)

Những khó khăn và sai lầm của học sinh khi học phần “Dao động cơ” thuộc chương trình vật lý 12 ở trường THPT.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (548.68 KB, 67 trang )

LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc đến quý thầy giáo, cô giáo khoa Vật
lý, trường Đại học Quy Nhơn. Các thầy, cô đã tận tình giảng dạy, cung cấp cho em
những kiến thức hay và vơ cùng q giá trong suốt q trình em theo học tập tại
khoa Vật lý trường Đại học Quy Nhơn.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới thầy giáo Phạm Duy Luân
đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn và giúp đỡ em hồn thành khóa luận này.
Xin cảm ơn bạn bè đã khích lệ, động viên và có những ý kiến đóng góp chân
thành để bài khóa luận được hồn thiện hơn.
Bình Định, tháng 05 năm 2016
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Nga

i


MỤC LỤC

i


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT, KÝ HIỆU

Thứ tự

Chữ viết tắt

Nội dung

1



THPT

trung học phổ thông

2

BCH

Ban chấp hành

3

SGK

sách giáo khoa

4

NXB

nhà xuất bản

5

VTCB

vị trí cân bằng

i



PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Theo nghị quyết Hội nghị lần II BCH Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam
khóa VIII xác định “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” và đồng thời đã giao cho
ngành giáo dục những nhiệm vụ ngày càng nặng nề và khó khăn hơn.
Để hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước đã giao, trong những năm gần
đây ngành giáo dục đã chủ trương đổi mới phương pháp dạy học với định hướng
“Tích cực hóa hoạt động học tập, phát huy tính chủ động, sáng tạo và năng lực tự
học, tự nghiên cứu của học sinh”.
Nhờ những đặc điểm của vật lý học và mối liên hệ chặt chẽ giữa vật lý với
những tiến bộ trong khoa học kỹ thuật mà việc giảng dạy vật lý nói chung và việc
học vật lý của học sinh nói riêng đã tạo ra rất nhiều khả năng để tích cực hóa tư duy
cũng như khả năng tự lực của học sinh trong quá trình học.
Thực tiễn hiện nay việc học vật lý của học sinh còn nhiều hạn chế, các em còn
phạm nhiều sai lầm về mặt kiến thức cũng như phương pháp giải bài tập. Bởi vậy
trong q trình giảng dạy ngồi việc cung cấp kiến thức, củng cố kiến thức, rèn
luyện kĩ năng cho học sinh để nâng cao chất lượng của việc học, người giáo viên
phải thường xuyên quan tâm, giúp đỡ các em để có thể phát hiện những khó khăn
và sai lầm mà các em dễ mắc phải, từ đó tìm ra ngun nhân của những khó khăn
và sai lầm đó để có thể đưa ra các biện pháp khắc phục hiệu quả nhất.
Trong chương trình vật lý 12 THPT, phần “ Dao động cơ” là một phần cơ bản
và quan trọng, kiến thức phần này mới khiến nhiều em học sinh gặp khó khăn và
thường mắc những sai lầm khi tiếp thu và vận dụng để giải bài tập. Việc giúp đỡ các
em khắc phục những khó khăn và sai lầm đó là nhiệm vụ hàng đầu và cấp thiết của
mỗi giáo viên.
Là một người giáo viên trong tương lai thì việc quan tâm, nghiên cứu về vấn
đề này là việc rất cần thiết và vô cùng hữu ích đối với sinh viên ngành sư phạm Vật
lý nói chung và đối với cá nhân tơi nói riêng. Chính vì những lý do đó nên tơi chọn


4


đề tài: Những khó khăn và sai lầm của học sinh khi học phần “Dao động cơ”
thuộc chương trình vật lý 12 ở trường THPT.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Thông qua quá trình tìm hiểu việc dạy và học phần “Dao động cơ” thuộc
chương trình vật lý 12 THPT để tìm ra những khó khăn và sai lầm khi học sinh học
phần này, từ đó đề ra những biện pháp khắc phục nhằm giúp cho q trình dạy và
học có hiệu quả góp phần nâng cao chất lượng của q trình dạy và học ở
trường THPT.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những khó khăn và sai lầm phổ biến của học sinh khi học phần
“Dao động cơ” thuộc chương trình Vật lý 12 ở trường THPT.
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về phương pháp dạy học, cơ sở tâm lý học học sinh.
- Phân tích nguyên nhân dẫn đến khó khăn và sai lầm của học sinh.
- Đề xuất các biện pháp thích hợp để khắc phục những khó khăn và sai lầm
của học sinh khi học phần “Dao động cơ”.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Khách thể nghiên cứu
Việc dạy và học phần “Dao động cơ” thuộc chương trình vật lý 12 THPT của
giáo viên và học sinh.
b. Đối tượng nghiên cứu
Những khó khăn và sai lầm của học sinh khi học phần “Dao động cơ” thuộc
chương trình Vật lý 12 THPT.
c. Phạm vi nghiên cứu
Hoạt động dạy và học môn vật lý của giáo viên và học sinh phần “Dao động
cơ” ở một sốTrường THPT trên địa bàn Thành phố Quy Nhơn và Huyện Ninh Hòa
-- Tỉnh Khánh Hòa.

5. Giả thuyết khoa học
Nếu giáo viên nắm bắt được những khó khăn và sai lầm phổ biến của học sinh,
biết cách phân tích để tìm ra những ngun nhân cơ bản đó, đồng thời sử dụng các

5


biện pháp dạy học thích hợp để khắc phục, sửa chữa những khó khăn và sai lầm này
thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy và học vật lý ở trường THPT.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: đọc, nghiên cứu tài liệu lý luận dạy học,
các tài liệu liên quan đến nội dung phần “Dao động cơ”, sách giáo khoa và sách
giáo viên Vật lý lớp 12 THPT.
- Phương pháp trò chuyện, phỏng vấn: trao đổi với các thầy, cô giáo về
phương pháp dạy học các kiến thức vật lý, các khó khăn và sai lầm mà học sinh dễ
mắc phải. Trò chuyện, trao đổi trực tiếp với học sinh để từ đó phát hiện những khó
khăn và sai lầm mà học sinh dễ mắc phải khi học phần “Dao động cơ” thuộc
chương trình vật lý 12 THPT.
- Phương pháp xử lý thông tin: xử lý các thông tin, kết quả thu thập được
trong quá trình nghiên cứu nhằm loại bỏ các biện pháp khơng thích hợp, đi sâu vào
các biện pháp có tác dụng tích cực. Có được những hiểu biết sâu hơn về vấn đề
đang nghiên cứu.
- Phương pháp tổng kết: qua việc tìm ra nguyên nhân của vấn đề nghiên cứu từ
đó đưa ra một số phương pháp cải tiến để tìm ra giải pháp tốt nhất làm cơ sở
nghiên cứu.
7. Đóng góp của đề tài
- Góp phần hồn thiện lí luận dạy học vật lý bằng cách tăng cường tính tích
cực, tính tự lực hoạt động nhận thức của học sinh trong giờ học để nâng cao chất
lượng của hoạt động dạy và học mơn Vật lý.
- Có thể dùng làm tài liệu tham khảo vật lý lớp 12 ở trường THPT.

8. Bố cục của bài nghiên cứu
* PHẦN I: MỞ ĐẦU
* PHẦN II: NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lí luận của việc phát hiện ra những khó khăn và sai lầm của
học sinh khi học Vật lý ở trường THPT
Chương 2: Những khó khăn và sai lầm của học sinh khi học phần “ Dao động
cơ” Vật lý 12 ở trường THPT- Nguyên nhân và biện pháp khắc phục.
* PHẦN III: KẾT LUẬN

6


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC PHÁT HIỆN RA NHỮNG KHÓ
KHĂN VÀ SAI LẦM CỦA HỌC SINH KHI HỌC VẬT LÝ Ở TRƯỜNG THPT.
1.1 Khái quát chung về dạy học vật lý ở trường THPT
1.1.1 Mục tiêu của dạy học
Mục tiêu của hoạt động dạy học là làm cho học sinh nắm vững kiến thức và
hình thành kỹ năng hoạt động. Từ đó mà phát triển trí tuệ và nhân cách, nghĩa là
làm cho học sinh trở thành những người lao động thông minh, người cơng dân có
ích cho xã hội.
1.1.2 Nhiệm vụ chung của dạy học
Căn cứ vào mục tiêu của dạy học thì quá trình dạy học gồm ba nhiệm vụ:
- Nhiệm vụ 1: Điều khiển và tổ chức cho học sinh nắm vững hệ thống kiến
thức khoa học toàn diện về tự nhiên, xã hội, tư duy, về kỹ năng và nghệ thuật… phù
hợp với thực tiễn đất nước, cùng với nó là hệ thống kỹ năng thực hành và phương
pháp tư duy sáng tạo.
- Nhiệm vụ 2: Điều khiển và tổ chức cho học sinh hình thành, phát triển năng
lực và phẩm chất trí tuệ đặc biệt là năng lực tư duy độc lập, sáng tạo.
- Nhiệm vụ 3: Tổ chức và điều khiển cho học sinh hình thành cơ sở thế giới

quan khoa học, giáo dục trí tuệ, giáo dục ý thức cơng dân, giáo dục văn hóa - thẩm
mĩ, tạo nên những phẩm chất nhân cách tốt đẹp của người lao động trong thế giới
hiện đại.
1.1.3 Đặc điểm của môn vật lý ở trường THPT
- Vật lý học nghiên cứu các hình thức vận động cơ bản nhất của vật chất, nên
kiến thức vật lý là cơ sở của nhiều ngành khoa học tự nhiên khác.
- Vật lý học là cơ sở lí thuyết của việc chế tạo ra các máy móc, thiết bị dùng
trong đời sống và sản xuất.
- Vật lý là khoa học chính xác, địi hỏi có kỹ năng rèn luyện, tính tốn khéo léo
khi giải bài tập và có tư duy logic chặt chẽ.
- Vật lý ở trường THPT sử dụng nhiều phương pháp để tính tốn.

7


1.1.4 Nhiệm vụ của dạy học vật lý ở trường THPT
Từ những đặc điểm của môn vật lý trên nên nhiệm vụ cụ thể của dạy học vật lý
ở trường THPT là:
- Trang bị cho học sinh hệ thống kiến thức cơ bản, hiện đại và các kỹ năng bao gồm:
+ Các khái niệm vật lý.
+ Các định luật vật lý cơ bản.
+ Nội dung chính của lý thuyết vật lý.
+ Các ứng dụng quan trọng của vật lý trong đời sống.
+ Các phương pháp nhận thức phổ biến dùng trong vật lý.
- Rèn luyện các kỹ năng, phương pháp cơ bản nhằm chiếm lĩnh kiến thức vật lý,
vận dụng sáng tạo để giải quyết vấn đề trong học tập và đời sống sau này.
+ Kỹ năng thu lượm thông tin về vật lý: quan sát thí nghiệm, điều tra, sưu tầm
tài liệu, truy cập internet…
+ Kỹ năng xử lí thông tin: vẽ đồ thị, rút ra kết luận…
+ Kỹ năng quan sát, đo lường sử dụng các công cụ và thực hiện thí nghiệm

đơn giản.
+ Kỹ năng truyền đạt thông tin về vật lý: thảo luận khoa học, viết báo cáo
thực hành…
+ Kỹ năng vận dụng kiến thức vật lý để giải thích hiện tượng đơn giản.
+ Kỹ năng sử dụng các thao tác tư duy logic như phân tích, tổng hợp, so sánh,
khái qt hóa, cụ thể hóa…
- Bồi dưỡng cho học sinh thế giới quan duy vật biện chứng, giáo dục lòng yêu
nước, thái độ với người lao động. Giáo dục kỹ thuật tổng hợp và hướng nghiệp cho
học sinh giúp học sinh nhanh chóng thích ứng được với các hoạt động lao động sản
xuất trong thời đại cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1.2 Quan niệm sai lầm của học sinh trong việc học vật lý ở trường THPT
1.2.1 Quan niệm
Quan niệm là sự hiểu biết của con người về các sự vật, hiện tượng, khái niệm
và các q trình tự nhiên thơng qua đời sống, sinh hoạt và lao động sản xuất hàng
ngày mà có. Những hiểu biết này tiềm ẩn trong bộ não và được tái hiện khi có

8


những kích thích và có nhu cầu bộc lộ.
Quan niệm thể hiện sự hiểu biết của mỗi cá nhân và vì mỗi cá nhân có một
tầm hiểu biết khác nhau và có cách nhìn nhận sự vật hiện tượng dưới những góc độ
riêng, nên nó có tính cá biệt rất cao. Thơng thường, quan niệm của cá nhân được
hình thành tự phát và mang yếu tố chủ quan của mỗi người, nên một đặc điểm dễ
thấy là các quan niệm đó thường thiếu khách quan và thiếu tính khoa học.
1.2.2 Quan niệm sai lầm của học sinh
Quan niệm của học sinh là những hiểu biết, những nhận thức, ý kiến riêng của
học sinh về những vấn đề, sự vật, hiện tượng, q trình… của tự nhiên nói chung và
của vật lý nói riêng mà các em đã có được thơng qua quá trình các em tìm hiểu, học
hỏi được khi sinh hoạt trong đời sống và thực tiễn xã hội trước khi các em được

tham gia nghiên cứu, tìm hiểu trong các giờ học vật lý ở Trường THPT.
Đối với học sinh, trước những sự vật, hiện tượng, các em cũng có những quan
niệm riêng thơng qua những hiểu biết nhất định nên ta gọi "quan niệm của học
sinh" để phân biệt với "quan niệm khoa học", "quan niệm vật lý học". Trong những
quan niệm của học sinh, có những quan niệm không phản ánh đúng với bản chất vật
lý, bản chất khoa học vốn có của sự vật, hiện tượng, ta gọi đó là những "quan niệm
sai lầm của học sinh".
1.2.3 Nguồn gốc quan niệm sai lầm của học sinh
Quan niệm của học sinh được hình thành do nhiều nguyên nhân khác nhau,
trong đó có hai nguyên nhân chủ yếu: Qua thực tế trong đời sống hàng ngày và xuất
phát từ sự phong phú của ngơn ngữ. Ngồi ra, những kiến thức có được từ những
mơn học khác, hoặc từ những giờ học trước đó cũng có thể đưa đến cho học sinh
những hiểu biết không đầy đủ về một khái niệm mới nào đó. Đây cũng là một trong
những nguyên nhân hình thành quan niệm của học sinh.
 Thực tế đời sống hàng ngày - nguồn gốc chủ yếu hình thành quan niệm của

học sinh
Ngay từ bé, trẻ em đã được tiếp xúc với môi trường tự nhiên, xã hội và giao
tiếp với người lớn xung quanh, nhờ đó sự hiểu biết và tư duy của trẻ khơng ngừng
được mở mang. Tuy nhiên, những kiến thức ban đầu của trẻ được tích lũy qua cuộc

9


sống mới chỉ là những kiến thức kinh nghiệm. Khi đến trường, qua học tập, sự hiểu
biết và trí tuệ của học sinh mới thực sự phát triển, kiến thức của các em mới dần đầy
đủ và có tính chính xác.
Có thể nói, sự học của con người khơng chỉ diễn ra trong nhà trường, mà còn
diễn ra cả trong đời sống nữa. Điểm đáng chú ý là việc học trong đời sống hàng
ngày chỉ đem lại cho con người những kiến thức khoa học, đó chính là vốn sống,

vốn hiểu biết riêng của mỗi cá nhân và trên cơ sở đó quan niệm của học sinh về các
sự vật, hiện tượng dần được hình thành trong tư duy của các em.
 Sự phong phú về ngôn ngữ - một ngun nhân hình thành quan niệm của học

sinh
Trước hết, có thể khẳng định rằng ngôn ngữ tiếng Việt là hết sức phong phú.
Với cùng một từ nhưng người ta có thể diễn đạt nhiều vấn đề khác nhau và ngược
lại với cùng một vấn đề cũng có thể dùng nhiều từ ngữ khác nhau để diễn đạt.
Trong vật lý học, có khơng ít các thuật ngữ diễn đạt các khái niệm và hiện
tượng vật lý trùng với những thuật ngữ thường dùng để diễn đạt những vấn đề trong
đời sống. Những thuật ngữ như vậy thường mang hai ý nghĩa: ý nghĩa trong sinh
hoạt, trong dân gian và ý nghĩa khoa học. Trong nhiều trường hợp, do quá quen
thuộc với cách dùng và cách hiểu các thuật ngữ trong đời sống, nên khi gặp lại các
thuật ngữ ấy với tư cách là tên gọi của một khái niệm hay hiện tượng vật lý, thì học
sinh khó có thể tránh được những quan niệm sai lệch về bản chất khoa học của chúng.
Có thể nói chính sự phong phú và đa dạng của ngơn ngữ đã góp phần hình
thành ở các em những quan niệm theo cách hiểu của riêng mình, nhiều lúc gây ra sự
lẫn lộn, dẫn đến những hiểu biết sai lệch của học sinh về các khái niệm, hiện tượng
vật lý.
1.2.4 Đặc điểm quan niệm sai lầm của học sinh trong việc học môn vật lý ở
Trường THPT.
Quan niệm sai lầm của học sinh được hình thành một cách tự phát, thiếu cơ sở
khoa học nên đa số các quan niệm của học sinh là sai lệch với bản chất vật lý. Các
quan niệm của học sinh được hình thành tự phát trong bối cảnh có tính chất thực
tiễn sinh động, do đó gây được dấu ấn mạnh mẽ, sâu đậm trong tiềm thức của học

10


sinh. Mặc khác, sự hiểu biết đơn giản thiếu cơ sở khoa học ấy đơi lúc lại có ích cho

việc giải thích các sự kiện đời thường, dù là khơng đúng với tri thức khoa học song
đời thường lại dễ chấp nhận một cách không cần lý lẽ. Bởi vậy các mối quan niệm
ấy có sức bền kì lạ theo thời gian. Thậm chí sau khi đã học tập, trưởng thành, ở
nhiều người lớn tuổi thì những quan niệm này vẫn thường xuất hiện khi cần giải
thích các hiện tượng trong thực tiễn.
Hoạt động dạy học xảy ra song song với hoạt động đời thường của học sinh.
Thông qua các môn học, học sinh được tiếp xúc với tri thức khoa học sau khi họ đã
có những quan niệm đời thường. Lúc tiếp xúc với vật lý học, học sinh đã từng va
chạm với rất nhiều sự kiện trong thế giới tự nhiên. Do đó, q trình học vật lý luôn
là sự giao thoa giữa hai nguồn tri thức: tri thức khoa học và tri thức đời thường.
1.2.5 Ảnh hưởng quan niệm sai lầm của học sinh trong dạy học vật lý ở
trường THPT.
Ở những học sinh khác nhau thì có các quan niệm khác nhau. Phần nhiều
trong số những quan niệm này không phù hợp với những quan niệm khoa học được
đề cập trong giờ học. Những quan niệm loại này gây khó khăn cho các em trong q
trình nhận thức, chúng chính là những vật cản trên con đường nhận thức sự vật,
hiện tượng, nhận thức chân lý của người học. Tuy nhiên, trong số các quan niệm
của học sinh cũng có những quan niệm khơng sai nhưng chưa hồn chỉnh hoặc chưa
thật chính xác. Đối với những quan niệm như thế sẽ có tác dụng nhất định trong dạy
học. Trong những trường hợp như vậy thì thầy giáo cần tổ chức, thảo luận với học
sinh nhằm bổ sung những phần chưa đầy đủ, điều chỉnh những điểm chưa chính xác
để chỉ ra cho học sinh những kiến thức khoa học cần lĩnh hội. Những quan niệm sai
lầm của học sinh về khái niệm, hiện tượng được nghiên cứu trong giờ học thường
gây khó khăn cho các em trong q trình nhận thức. Đó là những trở lực trong dạy
học vật lý ở trường phổ thông. Bởi vậy, nếu khơng có biện pháp khắc phục chúng
thì những kiến thức mà các em thu nhận được trong giờ học sẽ trở nên méo mó, sai
lệch với bản chất vật lý. Kết quả là trong cấu trúc tư duy của học sinh sẽ dần dần
hình thành và tồn tại những hiểu biết sai lệch và bằng những quan niệm này, các em

11



sẽ nhìn nhận và giải thích các sự vật, hiện tượng và quá trình tự nhiên theo cách
riêng của mình, đồng thời các sai lầm trong khi giải bài tập vật lý cũng sẽ xuất hiện.
1.2.6 Biểu hiện quan niệm sai lầm của học sinh khi học vật lý ở trường
THPT
Quan niệm thường ngày đươc xác định thông qua việc học, người ta chỉ có thể
"nhìn thấy" cái mới thơng qua những cái đã biết. Hầu hết học sinh khi bắt đầu học
môn vật lý đều mang theo các quan niệm, kinh nghiệm thường ngày của mình qua
đó phát triển chúng để tiếp thu các kiến thức trong lớp.
Tuy nhiên hầu hết các quan niệm này đều khơng chính xác với các khái niệm
khoa học và do đó gây nhiều khó khăn trong q trình học tập. Học sinh hầu như
khơng nắm vững được những gì giáo viên cung cấp được trên lớp hoặc những điều
đọc trong sách giáo khoa.
Như vậy việc điều tra, phát hiện những quan niệm đó cũng phát hiện được
những khó khăn và sai lầm của học sinh khi dạy cho học sinh một kiến thức nào đó
là một địi hỏi có tính khách quan và có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao
chất lượng dạy học vật lý ở trường phổ thông.
1.3 Thực trạng học sinh khi học vật lý hiện nay ở trường THPT
Mơn vật lý là một mơn khó học trong các mơn học tự nhiên vì lượng kiến thức
lý thuyết và các dạng bài tập khá nhiều. Học sinh thường khó tiếp thu được mơn
học này vì:


Các em chưa thuộc hết các cơng thức liên quan



Chưa nắm vững lý thuyết giải các bài tập định tính và định lượng




Nhiều em thuộc công thức nhưng chưa biết vận dụng ở các dạng bài tập



Bài tập vận dụng kiến thức liên mơn tích hợp nhiều kiến thức



Các em chưa chú ý đến các sai số khi làm bài tập, khi thực hành



Một số học sinh chưa có ý thức trong học tập, khơng có định hướng trong
việc học
Trong hệ thống bài tập vật lý ở trường THPT hiện nay, đòi hỏi học sinh phải

nắm vững kiến thức, vận dụng những kiến thức đã học để giải thích, dự đốn một số
hiện tượng trong thực tế hay tính tốn một số đại lượng trong các trường hợp cụ thể.

12


Nhưng những hiện tượng cụ thể đó thì rất nhiều, học sinh không thể nhớ hết được,
điều quan trọng là học sinh phải biết cách lập luận, suy luận một cách chặt chẽ,
chính xác, đúng quy tắc để có thể suy từ những kiến thức khái quát đã thu nhận
được trong bài học lý thuyết để giải quyết các nhiệm vụ đã nêu ra trong bài tập.
Một thực trạng hiện nay là học sinh tiếp thu mơn vật lý có phần thụ động, đặc
biệt là việc tìm lời giải cho các bài tập vật lý. Đa số học sinh khi giải bài tập vật lý

chỉ thích áp dụng những cơng thức, thay số và tính tốn hoặc nêu lại, phát biểu lại
những kiến thức đã được học. Học sinh rất ngại hay nói cách khác là khơng có kĩ
năng phân tích hiện tượng vật lý và lập luận chặt chẽ, chính xác đúng quy luật của
vật lý. Bài tập các em giải mang đậm quan điểm của bản thân... Tất cả những điều
đó khiến việc học vật lý ở Trường THPT của các em học sinh gặp những khó khăn
và sai lầm nhất định, đòi hỏi cần phải giải quyết.

13


CHƯƠNG 2: NHỮNG KHÓ KHĂN VÀ SAI LẦM CỦA HỌC SINH KHI HỌC
PHẦN “ DAO ĐỘNG CƠ”- NGUYÊN NHÂN VÀ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC.
2.1 Tầm quan trọng của chương “ Dao động cơ” chương trình Vật lý 12 THPT
Chương “ Dao động cơ” thuộc chương trình Vật lý 12 ở Trường THPT là một
trong số các chương trọng tâm. Nội dung của chương chiếm một tỉ lệ khá lớn trong
các đề thi đại học trước đây và đề thi THPT Quốc gia trong những năm gần đây. Nó
có nhiều ứng dụng rộng rãi trong các lĩnh vực khoa học kĩ thuật khác nhau. Những
kiến thức, hiện tượng vật lý ở chương này được vận dụng để giải thích nhiều hiện
tượng, nhiều vấn đề trong thực tiễn đời sống của con người như: giải thích những
hiện tượng những chiếc tàu nhấp nhô ở chổ neo, những dao động của sợi dây đàn
hay sự rung động của màn trống, hiểu rõ hơn bản chất sự dao động của con lắc đơn,
con lắc lò xo hay các hiện tượng dao động tắt dần, dao động cưỡng bức, hiện tượng
cộng hưởng... thông qua đi vào phân tích cụ thể qua các bài tập ứng dụng. Đặc biệc
chương “ Dao động cơ” là cơ sở cho sự hình thành kiến thức của một số chương
khác trong chương trình Vật lý 12 như chương “ Sóng cơ và sóng âm”, “ Dao động
và sóng điện từ”, “ Sóng ánh sáng”…
Vậy nên, chương “ Dao động cơ” là chương quan trọng và cần thiết mà bất kì
một học sinh nào cũng cần phải nắm vững. Điều này địi hỏi ở học sinh phải có sự
đầu tư và tiếp thu nghiêm túc để có thể đạt được kết quả học tập tốt hơn.
2.2 Nội dung và phân phối chương trình Vật lý 12 phần “ Dao động cơ” ở

trường THPT
2.2.1
* Định nghĩa dao động điều hòa: Dao động điều hịa là dao động trong đó li độ của
vật là một hàm cosin ( hay sin ) của thời gian.
*
+ Phương trình của dao động điều hịa: x = Acos(ωt + φ) ( x là li độ của dao động)
+ Phương trình của vận tốc: v = x' = - ωAsin(ωt + φ)
+ Phương trình của gia tốc: a = v’= - ω²x = - ω2A cos (ωt + φ)
c. Con lắc lò xo
+ Lực kéo về: F = - kx ( x là li độ của vật )

14


+ Chu kì:

T=2π

1
+ Tần số f = 2π

m
k
k
m

Cơ năng của con lắc:

W=


1 2 1 2
mv + kx
2
2

(mốc thế năng ở vị trí cân bằng)

Nếu bỏ qua mọi ma sát và lực cản thì cơ năng của con lắc được bảo toàn.
d. Con lắc đơn
+ Lực kéo về ( khi biên độ góc nhỏ):

F=-

T=2π

+ Chu kì ( khi biên độ góc nhỏ):

mg
s
l ( s là li độ cong của vật m )

l
g

1 g
+ Chu kì ( khi biên độ góc nhỏ): f = 2π l

+ Cơ năng :

W=


1
mv 2 + mgl (1-cosα)
2

Nếu bỏ qua mọi ma sát và lực cản thì cơ năng của con lắc được bảo toàn.
e. Dao động tắt dần. Dao động cưỡng bức. Cộng hưởng
+ Dao động có biên độ giảm dần theo thời gian gọi là dao động tắt dần.
+ Dao động được duy trì bằng cách giữ cho biên độ không đổi mà không làm thay
đổi chu kì dao động riêng gọi là dao động duy trì.
+ Dao động gây ra bởi một ngoại lực cưỡng bức tuần hoàn gọi là dao động cưỡng bức.
+ Hiện tượng biên độ dao động cưỡng bức tăng đến giá trị cực đại khi tần số f của
lực cưỡng bức bằng tần số riêng fo của hệ dao động gọi là hiện tượng cộng hưởng.
Điều kiện cộng hưởng: f = fo
f. Phương pháp giãn đồ Fre-nen
+ Mỗi dao động điều hòa được biểu diễn bằng một vectơ quay, vẽ tại thời điểm ban đầu.
+ Phép cộng đại số hai li độ của dao động điều hòa cùng phương cùng tần số được
thay thế bằng phép tổng hợp hai vectơ quay.

15


+ Vectơ tổng biểu diễn dao động tổng hợp. Bằng cách tính tốn trên giản đồ Fre-nen,
ta tìm được biên độ và pha ban đầu của dao động tổng hợp theo các công thức:

A = A12 + A 22 + 2A1A 2 cos (ϕ1 -ϕ2 )
tanϕ =

A1sinϕ1 + A 2sinϕ 2
A1cosϕ1 + A 2 cosϕ 2


:

Nội dung kiến thức chương trình nâng cao ngồi việc dẫn dắt để đi đến những
kiến thức đã được liệt kê ở chương trình cơ bản thì ở chương trình này cịn mở rộng
để cung cấp cho học sinh một số kiến thức mới như:
Con lắc vật lý:
+ Cấu trúc: Là một vật rắn ( m, I ) quay được quanh một trục nằm ngang cố định.
+ Lực tác dụng: Trọng lực của vật rắn và lực của trục quay có momen
M= - mgdsinα ( α: li độ góc )
+ Phương trình động lực học của dao động: α’’ + ω2α = 0
+ Tần số góc:

ω=

mgd
I

+ Phương trình dao động: α = α0 cos (ωt + φ) ( với α0 << 1)
Chương
Tổng số tiết
11
Tiết 1-2
Tiết 3
Tiết 4
Tiết 5
Tiết 6
Tiết 7
Tiết 8


Dao động cơ
Thực hành
2

Lý thuyết
Bài tập
6
3
Dao động điều hồ
Bài tập
Con lắc lị xo
Con lắc đơn
Bài tập
Dao động tắt dần. Dao động cưỡng bức
Tổng hợp hai dao động điều hòa cùng phương, cùng tần số. Phương pháp

giản đồ Fre-nen
Tiết 9
Bài tập
Tiết 10-11
Thực hành: Khảo sát thực nghiệm các định luật dao động của con lắc
đơn

16


Chương
Tổng số tiết
13
Tiết 10-11

Tiết 12-13
Tiết 14
Tiết 15-16
Tiết 17
Tiết 18
Tiết 19
Tiết 20
Tiết 21-22

Dao động cơ
Thực hành
2

Lý thuyết
Bài tập
8
3
Dao động điều hoà
Con lắc đơn. Con lắc vật lí
Năng lượng trong dao động điều hồ
Bài tập về dao động điều hịa
Dao động tắt dần và dao động duy trì
Dao động cưỡng bức. Cộng hưởng
Tổng hợp dao động
Bài tập
Thực hành: Xác định chu kì dao động của con lắc đơn hoặc con lắc lo xo

và gia tốc trọng trường
Chính vì những ngun nhân trên đã khiến cho việc học cũng như viêc giải các bài
tập vật lý của các em gặp nhiều khó khăn và chất lượng của việc học không cao.

Việc khắc phục những hạn chế cũng như tìm ra những khó khăn, những sai
lầm do ảnh hưởng của những điều trên và từ đó đề ra những biện pháp khắc phục là
việc làm cấp thiết và quan trọng mà giáo viên nào cũng cần phải quan tâm.
2.3 Những khó khăn và sai lầm của học sinh khi học phần “ Dao động cơ” ở
chương trình Vật lý 12 - Nguyên nhân và biện pháp khắc phục
2.3.1 Khó khăn
Học sinh khi học phần “Dao động cơ” thuộc chương trình Vật lý 12 THPT
thường gặp những khó khăn sau:
* Do lượng kiến thức của chương trình quá nhiều, các em chưa kịp nắm vững vấn
đề nên trong quá trình học và giải bài tập, nếu bài tập đòi hỏi yêu cầu hiểu sâu và
cần tư duy thì điều này làm học sinh lúng túng và vận dụng sai, gây ra những sai lầm.
* Các em học sinh khi học vật lý, khi giải bài tập hay giải quyết các hiện tượng, các
vấn đề thường trả lời theo những quan niệm chủ quan của bản thân mà các em cho
đó là đúng. Điều này làm cho việc học của các em thiếu tính khoa học và thiếu độ
chính xác.
* Những kiến thức mới được đề cập đến trong sách giáo khoa là những kiến thức
chung nhưng lại mang tính tổng quát, nếu người giáo viên có hướng dẫn dắt chưa

17


phù hợp thì học sinh sẽ khó hình dung và nắm bắt được. Điều này làm cho việc của
học sinh gặp nhiều khó khăn trong việc thu nhận kiến thức.
* Học sinh do không nắm vững hệ thống đơn vị đo lường chuẩn nên khi giải bài tập
gặp nhiều sai lầm trong việc đổi đơn vị.
* Thời gian một tiết học là không nhiều so với lượng kiến thức cần cung cấp cho
học sinh nên việc giáo viên cung cấp, củng cố kiến thức và việc học sinh tiếp nhận
kiến thức còn nhiều hạn chế, điều này gây cho học sinh những khó khăn nhất định.
* Trong phần con lắc đơn, con lắc chỉ dao động điều hòa khi biên độ dao động bé.
Nếu biên độ dao động lớn thì dao động này chỉ là dao động tuần hoàn chứ chưa phải

là dao động điều hịa. Nếu các em khơng để ý đến quá trình thiết lập phương trình
dao động của con lắc đơn thì việc này cũng gây ra cho học sinh những khó khăn và
sai lầm nhất định.
* Ở phần này, các cơng thức có liên quan nhiều đến những kiến thức đã học như:
đạo hàm, hàm số lượng giác, véctơ quay,… Cho nên nếu học sinh không nắm vững
các kiến thức đó thì khi học phần này sẽ cảm thấy khó khăn.
* “Con lắc lị xo” là một ví dụ về dao điều hịa, tuy nhiên nó cũng có một số tính
chất và đặc trưng riêng cần được tìm hiểu kĩ. Ở sách giáo khoa cơ bản chỉ nêu ví dụ
của con lắc lị xo nằm ngang mà khơng xét ví dụ về con lắc thẳng đứng. Điều này sẽ
khiến học sinh nhầm tưởng rằng ở trường hợp lò xo dao động nằm ngang và thẳng
đứng sẽ có đặc điểm và tính chất như nhau. Tuy nhiên thật tế lại khơng phải như
vậy. Lí do này khiến các em học sinh dễ mắc sai lầm.
* Khi vật dao động, nếu khơng xét đến lực ma sát thì vật là dao động điều hòa,
VTCB và biên độ của vật sẽ khơng đổi. Nếu có kể đến tác dụng của lực ma sát thì
dao động của vật khơng cịn là dao động điều hịa và có VTCB và biên độ thay đổi.
Điều này nếu không được nhấn mạnh sẽ làm học sinh suy nghĩ sai lầm, dẫn đến
những khó khăn nhất định.
* Theo cơng thức tính cơ năng của con lắc lị xo:

W=

1
1
kA 2 = mω 2A 2
2
2
thì khi m

thay đổi thì ω cũng sẽ thay đổi nên cơ năng của vật không phụ thuộc vào m. Tuy


18


nhiên, nhiều em học sinh cho rằng cơ năng tỉ lệ thuận với m, điều này dẫn đến các
sai lầm khi giải bài tập.
* Việc tổng hợp các dao động là sự tổng hợp của các véctơ. Ngoài việc phải thuộc
kĩ cơng thức để áp dụng thì học sinh cịn phải cẩn thận khi tìm ra các đại lượng tổng
thơng qua các hàm số lượng giác. Học sinh thường nắm khơng vững các kiến thức
tốn nên việc giải bài tập gặp khó khăn.
* Khi chứng minh dao động của con lắc đơn là dao động điều hòa ta cần phải xét
dao động đó trong điều kiện bỏ qua ma sát và dao động với góc bé. Đối với dao
động của con lắc lị xo thì ngồi điều kiện bỏ qua ma sát vẫn có điều kiện biên độ
nhỏ nằm trong giới hạn đàn hồi của lò xo. Nếu học sinh khơng để ý đến điều này thì
sẽ dẫn đến việc mắc phải những sai lầm nhất định.
* Bài dao động tắt dần, dao động cưỡng bức thì sách giáo khoa đề cập đến các loại
dao động như: dao động tắt dần, dao động duy trì, dao động cưỡng bức và hiện
tượng cộng hưởng. Một tiết học mà phải tìm hiểu hết bốn loại dao động này sẽ gây
khó khăn cho học sinh khi hiểu bản chất và phân biệt được các loại dao động trên
trong khi bài tập phần này trong các đề thi tuyển sinh có phần hỏi khó.
 Nguyên nhân tổng quan.

Hiện nay, vật lý là một bộ mơn khoa học có vai trị quan trọng trong cuộc sống
và các ngành kĩ thuật, nó ứng dụng rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực. Vậy nên, việc
học bộ môn này đối với học sinh là vô cùng bổ ích. Tuy nhiên, khi học và giải bài
tập vật lý nói chung và chương “ Dao động cơ” nói riêng, các em thường gặp nhiều
khó khăn và mắc những sai lầm khơng đáng có. Về ngun nhân dẫn đến những
khó khăn và sai lầm đó, ta có thể chia thành 3 nhóm:
- Nhóm 1: Các nguyên nhân từ học sinh.
- Nhóm 2: Các nguyên nhân từ giáo viên.
- Nhóm 3: Các ngun nhân từ chương trình sách giáo khoa

 Nhóm 1: Các nguyên nhân từ học sinh

Việc học phần “ Dao động cơ” của các em học sinh ở Trường THPT đóng vai
trị quan trọng, địi hỏi các em phải có những trình độ nhất định. Tuy nhiên hiện
nay, các em lại gặp những khó khăn và mắc những sai lầm nhất định mà một phần

19


nguyên nhân là ở chính các em. Nền tảng các kiến thức vật lý của các em không
vững vàng, một số kiến thức các em hiểu sai nên dẫn đến vận dụng sai. Đa số các
bài giải các em thường làm theo cảm tính của bản thân, những câu trả lời hay lời
giải được viết theo suy nghỉ mà các em cho là đúng nên bài giải có độ chính xác
không cao, nhiều khi gây ra những sai lầm không đáng có. Quan trọng hơn cả là
một số em chưa có ý thức trong học tập, khơng có định hướng cho việc học cũng
như cho tương lai. Các em chưa thấy được tầm quan trọng của việc học nên việc
tiếp thu kiến thức của các em còn hời hợt, chưa có ý chí để vươn lên nên khi giải bài
tập các em chưa thể hiện được sự đầu tư vào bài làm.
 Nhóm 2: Các nguyên nhân từ giáo viên.

Là người giáo viên thì sự nghiệp trồng người là một nhiệm vụ thiên liêng và
cao cả. Vì vậy cá nhân người giáo viên cần phải có ý chí, năng lực và kĩ năng, kĩ
xảo... của mình để truyền đạt lại cho các thế hệ học sinh với niềm hy vọng các em
trở thành những người cơng dân tốt và có ích cho xã hội. Tuy nhiên, không phải
người giáo viên nào cũng đạt được mong muốn đó mà nguyên nhân khơng phải chỉ
xuất phát từ phía học sinh, một phần xuất phát chính từ người giáo viên đó.
Cách diễn đạt kiến thức của người giáo viên xuất phát theo quan điểm và khả
năng diễn đạt của cá nhân, cách diễn đạt không rõ ràng, không lôgic... dẫn đến
truyền đạt kiến thức thiếu khoa học cho học sinh. Một số giáo viên chưa khai thác
triệt để các khía cạnh của kiến thức, chỉ cung cấp những kiến thức có sẵn, máy móc

và rập khn khiến học sinh khó nắm bắt được bản chất của vấn đề, chỉ học vẹt nên
không nhớ kiến thức được lâu, nên việc giải bài tập của các em gặp nhiều khó khăn.
 Nhóm 3: Các nguyên nhân từ chương trình Sách giáo khoa

Sách giáo khoa là loại sách thông dụng và cơ bản nhất mà bất kì một học sinh
nào cũng phải trang bị cho mình để sử dụng cho việc học, chính vậy nên những kiến
thức trong sách giáo khoa thường là những kiến thức cơ bản và chung nhất, bắt
buộc học sinh phải nắm vững. Tuy nhiên, lượng kiến thức trong sách giáo khoa
thường rất nhiều mà thời gian phân phối chương trình lại quá ít để học sinh kịp nắm
bắt được vấn đề cũng như hiểu rõ về kiến thức. Những nội dung trong sách giáo
khoa phần “Dao động cơ” thường được trình bày theo kiểu đưa ra các dữ kiện, hiện

20


tượng… để học sinh tự xây dựng nên kiến thức. Nếu khả năng của học sinh không
thể tự xây dựng nên kiến thức thì người giáo viên phải hướng dẫn và định hướng
hướng đi cho học sinh. Tuy vậy, nếu việc tổng quát, định hướng của giáo viên
không hợp lý sẽ khiến học sinh hiểu sai vấn đề.
Tóm lại, những nguyên nhân vừa nêu một cách gián tiếp đã gây ra cho học
sinh những khó khăn nhất định. Khi giải bài tập, những khó khăn đó nếu khơng
được khắc phục thì sẽ gây ra những sai lầm khơng đáng có.
 Các biện pháp khắc phục những khó khăn mà học sinh mắc phải khi học phần

“ Dao động cơ” ở chương trình Vật lý 12 trường THPT
• Cải thiện khơng khí học của lớp học
Khơng khí dạy học biểu hiện ở mặt tâm lý trong mối quan hệ và sự tác động
qua lại giáo viên và học sinh cũng như giữa học sinh với học sinh.
Lớp học có khơng khí dạy học tốt được biểu hiện ở một số dấu hiệu sau:
- Các thành viên trong lớp quan hệ với nhau một cách cởi mở, chân thành và

ln có sự đồng cảm.
- Trách nhiệm cao của tập thể và sự phối hợp chặt chẽ giữa các thành viên
trong lớp.
- Một khơng khí tràn đầy tự tin và sự tơn trọng lẫn nhau…
Khơng khí dạy học là điều kiện cần thiết và khơng thể thiếu để giờ học diễn ra
có kết quả, là yếu tố ảnh hưởng quan trọng đối với sự phát triển trí tuệ và tình cảm
của học sinh. Vậy nên việc cải thiện khơng khí cho lớp học sẽ tạo điều kiện cho học
sinh tiếp thu kiến thức, hạn chế những khó khăn gặp phải.


Tăng cường động cơ và hứng thú học tập cho học sinh
Học tập là một loại hoạt động chủ đạo của lứa tuổi học sinh. Hoạt động học

tập có chức năng tái tạo những tri thức đã có trong kho tàng tri thức của nhân loại.
Cũng như các loại hoạt động khác, hoạt động học tập của học sinh cũng phải có
động cơ, đó là động cơ học tập. Thiếu động cơ học tập học sinh sẽ không hứng thú
trong học tập, kết quả là các em sẽ học theo kiểu ép buộc, hình thức, dẫn đến chất
lượng học tập sẽ bị hạn chế. Học sinh có động cơ học tập sẽ có nhu cầu và mong
muốn ngày càng hiểu biết rộng hơn và muốn tự mình khám phá nhiều điều mới mẻ

21


đối với bản thân. Có động cơ học tập thì các em sẽ ngày càng u thích mơn học,
say mê hứng thú đối với việc học, đó là điều kiện tốt để hạn chế các sai lầm trong
quá trình học tập, kích thích hoạt động và phát triển năng lực tư duy, năng lực nhận
thức của học sinh.
Các biện pháp khắc phục những khó khăn và sai lầm cho học sinh khi giải bài
tập phải hướng đến hoạt động của học sinh. Trước hết cần tạo ra động cơ học tập để
khắc phục những khó khăn và sai lầm, học sinh thấy việc khắc phục những khó

khăn và sai lầm khi giải bài tập là một nhu cầu phải tham gia một cách tự nguyện,
say mê và hào hứng. Học sinh phải có động cơ để hồn thiện tri thức. Cần lấy hoạt
động học tập của học sinh để làm cơ sở cho quá trình lĩnh hội tri thức. Đặc biệt, các
biện pháp khắc phục phải tập trung vào phát triển hoạt động, rèn luyện kĩ năng của
học sinh (kĩ năng nhận thức, kĩ năng thực hành, kĩ năng tổ chức hoạt động, kĩ năng
tự kiểm tra đánh giá…)


Trang bị kiến thức về phương pháp giải bài tập phần “ Dao động cơ”

Phương pháp giải bài tập vật lý chung gồm 4 bước :
Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài tập.
Bước 2: Xây dựng chương trình giải:
- Xác định các mối quan hệ cần xác lập
- Xây dựng sơ đồ tiến trình giải
Bước 3: Thực hiện chương trình giải.
Bước 4: Kiểm tra và phân tích lời giải.
* Lưu ý:
- Trong khi đọc kĩ đề bài, cần phải cố gắng xác định được bài tập đã cho thuộc
dạng bài tập cơ bản nào. Nếu nhận ra bài tập thuộc dạng cơ bản quen thuộc thì hãy
vận dụng quy tắc đã biết để giải. Nếu bài tập không thuộc dạng cơ bản quen thuộc
thì cần phải diễn đạt lại bài tập theo một cách khác, dẫn bài tập đến một dạng cơ
bản quen thuộc.
- Khi gặp các bài tập phức hợp thì phải chia thành những bài tập nhỏ để giải,
đó là những bài tập cơ bản. Hay nói cách khác, quá trình giải bài tập phức hợp được
đưa về giải các bài tập cơ bản.

22



Với mục đích phát hiện và khắc phục những khó khăn và sai lầm của học sinh
khi giải bài tập, giáo viên cần trang bị cho học sinh phương pháp nhận biết lời giải
sai. Sau đây xin được nêu một số dấu hiệu cơ bản cho biết lời giải sai:
* Dấu hiệu thứ nhất: Không phù hợp đơn vị đo (vi phạm về thứ nguyên )
Tất cả các đại lượng vật lý đều được đo bằng những đơn vị xác định. Khi viết
các biểu thức, các công thức vật lý thì ta cần chú ý các quy tắc sau:
- Các số hạng của một tổng (đại số) phải có cùng thứ nguyên.
- Hai vế của cùng một công thức, một phương trình vật lý phải có cùng
thứ ngun.
Thí dụ: Chẳng hạn ở chương “ Dao động cơ” , nếu tính sai chu kỳ dao động của con
T = 2π

lắc đơn theo cơng thức

g
l

thì thứ ngun vế đầu là T, cịn thứ nguyên vế

1

1

 LT -2  2
1
 g 2

÷
 ÷
sau là:  l  =  L  = T-1 = T => Chứng tỏ công thức này sai (vi phạm về thứ


nguyên). Hoặc ta kiểm tra bằng cách lấy đơn vị đo vế trái là giây (s), còn đơn vị đo
1
2

 ms 
1
g

÷
T=2π
m 
l là sai.
vế phải là: 
= s-1= s => Chứng tỏ cơng thức
-2

Để có thể nhận biết lời giải sai từ cơng thức thứ ngun thì khi giải bài tập cần
giải dưới dạng tổng quát, sau đó mới tính tốn bằng số.
* Dấu hiệu thứ 2: Kết quả lời giải này khác kết quả lời giải khác, nhiều khi để kiểm
tra lời giải, người ta giải bài tập theo một cách khác. Nếu kết quả của hai cách giải
mâu thuẫn thì ít nhất có một lời giải sai. Khi đó phải tiến hành kiểm tra từng bước
thao tác của mỗi lời giải hoặc dùng các dấu hiệu khác để xem xét lời giải nào sai (có
khi cả hai lời giải đều sai).
* Dấu hiệu thứ ba: Kết quả tìm được quá xa vời hoăc mâu thuẫn với thực tế. Nếu
bài toán đã cho phù hợp với thực tế mà kết quả mâu thuẫn với thực tế thì chứng tỏ
lời giải mắc sai lầm.

23



Thí dụ: Khi giải bài tập chương “ Dao động cơ” ta:
- Tính ra thời gian âm.
- Tính ra tốc độ trung bình của dao động điều hịa v tb lớn hơn tốc độ cực đại
của chính vật dao động đó.
- Tính được biên độ dao động tổng hợp của hai dao động điều hòa cùng
phương cùng tần số lớn hơn tổng các biên độ của hai dao động thành phần.
A > A1 + A2 ( A là biên độ dao động tổng hợp; A 1, A2 là biên độ của dao động
thành phần).
- Khối lượng của vật trong con lắc lò xo treo thẳng đứng quá lớn làm lò xo
giãn vượt quá giới hạn đàn hồi.
- Tính được quãng đường vật dao động điều hòa đi trong nữa chu kỳ lớn hơn
hai lần biên độ ( S > 2A ), với A là biên độ dao động.


Cho học sinh tiếp xúc thường xuyên với những bài tập dễ dẫn đến sai lầm khi
giải.
Đây là biện pháp thường trực, kể cả khi sai lầm nào đó được phân tích và sửa
chữa cho học sinh. Để thực hiện biện pháp này, giáo viên thường xuyên yêu cầu học
sinh giải các bài tập trong những điều kiện khác nhau. Đồng thời giáo viên phải
thường xuyên kiểm tra kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo của học sinh để tìm hiểu tình
hình nắm vững kiến thức của học sinh cũng như khả năng vận dụng kiến thức đó.
Kiểm tra cịn là việc cần thiết nhằm phát hiện và sửa chữa những khó khăn và sai
lầm của học sinh, đồng thời giúp học sinh đào sâu, củng cố, mở rộng, hệ thống hóa
và khái quát hóa kiến thức.


Tổ chức hoạt động học cho học sinh.
Trong lịch sử dạy học vật lý đã xuất hiện nhiều mơ hình vật lý, trong đó có mơ


hình xây dựng là mơ hình được đưa ra dựa trên lý thuyết hoạt động, căn cứ vào quy
luật hoạt động và phát triển biện chứng của sự vật, hiện tượng. Với nó, tính tự giác,
chủ động, tích cực và sáng tạo của người học ln được chú ý khuyến khích. Trong
mơ hình xây dựng, học sinh chủ động tham gia vào hoạt động dạy học nên có khả
năng chiếm lĩnh tri thức một cách vững chắc và năng lực tư duy sẽ được nâng cao.
Đồng thời học sinh dễ bộc lộ những khó khăn và sai lầm trong nhận thức và trong

24


khi giải bài tập, nhờ đó giáo viên có nhiều cơ hội để phát hiện và sửa chữa những
khó khăn và sai lầm của học sinh. Mơ hình này phù hợp với cách tiếp cận dạy học
hướng vào học sinh (lấy học sinh làm trung tâm ). Do những ưu điểm trên nên khi
tổ chức hoạt động cho học sinh phải lựa chọn mơ hình xây dựng vì nó phù hợp với
mục đích dạy học theo hướng khắc phục những khó khăn và sai lầm của học sinh
khi học vật lý.
Để đạt được mục đích của việc học tập, học sinh phải có hành động học tập.
Chính các hành động đó sẽ góp phần giảm bớt những nguyên nhân về tâm lý dẫn
đến những khó khăn và các sai lầm khi giải bài tập. Giáo viên cần giúp học sinh
hình thành các hành động cụ thể trong việc học vật lý và cũng là các hành động học
tập nói chung.
Cụ thể là học sinh khi đứng trước một giờ học vật lý, ngoài việc nắm vững các
kiến thức liên quan thì học sinh thì cần phải phân tích, xem xét những khó khăn để
tránh gặp những sai lầm khi giải bài tập. Nếu khi giải bài tập bị sai lầm, học sinh
cần phân tích các sai lầm để tìm ra nguyên nhân và từ đó điều chỉnh dẫn đến lời giải
chính xác.
Cần xây dựng cho học sinh những thói quen tốt nhằm tránh những khó khăn
và sai lầm khi giải bài tập, chẳng hạn thói quen đọc kỹ đề bài để hiểu rõ giả thuyết,
kết luận, thói quen trình bày bài sáng rõ, mạch lạc, thói quen ơn tập thường xuyên
kiến thức cũ, thói quen kiểm tra lại từng bước giải và toàn bộ lời giải…Những kỹ

năng, kỹ xảo như: kỹ năng vẽ đồ thị, kỹ năng tính tốn, kỹ năng ghi chép…từ đó
nâng dần trình độ của học sinh khi giải bài tập vật lý.
• Củng cố kiến thức về đơn vị đo lường phần “ Dao động cơ” cho học sinh.

Tên đại lượng
Lực


hiệu
lượng
F

đại Tên đơn vị

Kí hiệu đơn vị

Niutơn

N

Gia tốc

a

mét trên giây bình
phương

m/s2

Chu kì


T

Giây

s

Tần số

f

Héc

Hz

25


×