Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tìm hiểu bài Hịch tướng sĩ dịch nghĩa chữ Hán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (313.71 KB, 16 trang )

NHÓM 1: 1. Đồng Thị Huyền Trân
2. Lê Thị Ngọc Trân
3. Trương Mỷ Huyền
4. Thái Kim Ngân
5. Dương Ngọc Đại
Dụ chư tỳ tướng hịch văn (Hịch tướng sĩ)
諭諸裨將檄文
1.

TÁC GIẢ

-

Trần Hưng Đạo (chữ Hán: 陳興道; 1228 - 20 tháng 8, 1300), tên thật
là Trần Quốc Tuấn, còn được gọi là Hưng Đạo Vương( 興 道 王 )
hay Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương (仁武興道大王) là một nhà chính
trị, Tư lệnh tối cao của Việt Nam thời nhà Trần.

-

Ông là một trong những người chỉ huy chính trong việc đẩy lùi ba lần
cuộc xâm lược của quân Mông Cổ và về sau là quân Mông-Nguyên ở
thế kỷ 13, và chiến thắng của ông trước sự hùng mạnh của quân Mông
Cổ dưới thời Hốt Tất Liệt được xem như là một trong những chiến công
vĩ đại nhất lịch sử thế giới. Do đó ông được liệt vào hàng đại danh nhân
và là một trong những nhà quân sự kiệt xuất nhất trong lịch sử, ông cũng
là nhà văn nổi tiếng thời bấy giờ.

-

Ông tên thật là Trần Quốc Tuấn ( 陳 國 峻 ), con trai thứ 3 của Khâm


Minh đại vương Vương Trần Liễu, gọi Trần Thái Tông bằng chú ruột,
mẹ
ông

Thiện
Đạo
quốc
mẫu
(善道國母), một người trong tôn thất họ Trần. Ông có người mẹ nuôi
đồng thời là cô ruột, Thụy Bà công chúa (瑞婆公主). Ông sinh ra ở kinh
đô Thăng Long, quê quán ở thôn Tức Mặc, phường Lộc Vượng, TP


Nam nh ngy nay. Nm 1237, khi lờn 5 tui ụng lm con nuụi cụ rut
l Thy B Cụng Chỳa,vỡ cha l Trn Liu chng li triu ỡnh (Trn
Th ).
-

i Vit s ký ton th mụ t ụng l ngi cú dung mo khụi ngụ, thụng
minh hn ngi, nh c nhng ngi ti gii n ging dy m ụng
sm tr thnh ngi c thụng hiu rng, cú ti vn vừ.
TC PHM
a/ Hon cnh sỏng tỏc
Na cui th k XIII, ch trong ba mi nm (1257 -1287), gic Mụng
-Nguyờn ó ba ln kộo quõn sang xõm lc nc ta. Lỳc by gi th
gic rt mnh, mun ỏnh bi chỳng phi cú s ng tỡnh, ng h ca
ton quõn, ton dõn.Trn Quc Tun ó vit bi hch ny kờu gi
tng s ht lũng ỏnh gic. kờu gi lũng dõn, ngi vit cú th dựng
nhiu cỏch khỏc nhau. Cú khi ch cn nờu lờn thc trng, khi gi truyn
thng yờu nc, cm thự gic... Trong bi hch ny, Trn Quc Tun ó

s dng mt ging iu, cỏch vit rt phong phỳ. Khi thỡ ụng ly tm
gng ca ngi i xa, khi thỡ dựng cỏch "khớch tng", cú khi li an
i, v v i vi i tng... ú chớnh l cỏi hay, cỏi c ỏo ca tỏc
phm ny.
b/ Thể loại: hịch
- Hịch là thể văn nghị luận thời xa, có tính chất cổ động, thuyết phục,
thờng dùng để kêu gọi chống thù trong, giặc ngoài. Cũng có khi hịch
đợc dùng để hiểu dụ, răn dạy thần dân và ngời dới quyền
- Mục đích của hịch là khích lệ tinh thần, tình cảm. Một bài hịch thờng có kết cấu chặt chẽ, lý lẽ sắc bén, dẫn chứng thuyết phục, giọng
văn hùng hồn, đanh thép.
- Thông thờng bài hịch kêu gọi đánh giặc gồm có 4 phần chính:
+ Phần mở đầu nêu vấn đề;
+ Phần thứ hai nêu truyền thống vẻ vang trong sách sử để gây
tin tởng;
+ Phần thứ 3 nhận định tình hình để gây lòng căm thù giặc, phân
tích phải trái để làm rõ đúng sai;
+ Phần kết thúc đề ra chủ trơng cụ thể và kêu gọi đấu tranh.
* Đặc điểm tác phẩm:
- Hịch tớng sĩ về cơ bản giống kết cấu chung của thể hịch nhng có sự
thay đổi linh hoạt. Tác giả không nêu phần đặt vấn đề riêng vì toàn bộ
bài hịch là nêu vấn đề và giải quyết vấn đề.
2.

-


- Bài hịch đợc viết bằng văn biền ngẫu, ngôn ngữ không nặng về khoa
trơng mà gần gũi, thân tình có sức thuyết phục sâu sắc.
2.1. Nguyờn tỏc:
1.











2.




2.2. Phiờn õm Hỏn - Vit:
1. D thng vn chi:
K Tớn d thõn i t nhi thoỏt Cao ;
Do Vu d bi th qua nhi t Chiờu Vng.
D Nhng thn thỏn nhi phc ch thự;
Thõn Khoỏi on tớ nhi phú quc nn.
Kớnh c nht tiu sinh dó, thõn dc Thỏi Tụng nhi c min Th Sung
chi vi;
Co Khanh nht vin thn dó, khu m Lc Sn nhi bt tũng nghch tc
chi k.
T c trung thn ngha s, d thõn t quc h i vụ chi?
Thit s s t khu khu vi nhi n t chi thỏi,
t d h, ụ nng danh thu trỳc bch,
D thiờn a tng vi bt h tai!



2. Nhữ đẳng
Thế vi tướng chủng, bất hiểu văn nghĩa,
Kỳ văn kỳ thuyết, nghi tín tương bán.
Cổ tiên chi sự cô trí vật luận.
Kim dư dĩ Tống, Thát chi sự ngôn chi:
2.3. DỊCH NGHĨA:
BẢN DỊCH TRẦN TRỌNG KIM
Ta thường nghe chuyện: Kỷ Tín 紀 信 liều thân chịu chết thay cho vua
Cao-đế; Do Vu 由 于 lấy mình đỡ ngọn giáo cho vua Chiêu-vượng; Dư
Nhượng 豫 讓 nuốt than để báo thù cho chủ; Thân Khoái 申 蒯 chặt tay
để cứu nạn cho nước; Kính Đức 敬 德 là một chức quan còn nhỏ, mà
liều thân cứu vua Thái-tông được thoát vòng vây; Kiểu Khanh 杲 卿 là
một bề tôi ở xa, mà kể tội mắng thằng Lộc Sơn 祿 山 là quân nghịch-tặc.
Các bậc trung-thần nghĩa-sĩ ngày xưa, bỏ mình vì nước, đời nào không
có? Giả-sử mấy người ấy cũng cứ bo bo theo lối thường tình, chết già ở
xó nhà thì sao cho lưu danh sử-sách đến nghìn muôn đời như thế được?
Nay các ngươi vốn dòng vũ-tướng, không hiểu văn-nghĩa, nghe những
chuyện cổ-tích ấy, nửa tin nửa ngờ, ta không nói làm gì nữa; ta hãy đem
chuyện đời Tống, Nguyên mới rồi mà nói: Vương công Kiên 王 公 堅 là
người thế nào? Tỳ-tướng của Vương công Kiên là Nguyễn văn Lập 阮
文 立 lại là người thế nào, mà giữ một thành Điếu-ngư [1] nhỏ mọn,
chống với quân Mông-kha[2] kể hàng trăm vạn, khiến cho dân sự nhà
Tống, đến nay còn đội ơn sâu. Đường ngột Ngại là người như thế nào?
Tỳ-tướng của Đường ngột Ngại là Xích tu Tư lại là người thế nào, mà
xông vào chỗ lam-chướng xa xôi, đánh được quân Nam-chiếu trong vài
ba tuần, khiến cho quân-trướng đời Nguyên đến nay còn lưu tiếng tốt.
Huống chi ta cùng các ngươi sinh ở đời nhiễu-nhương, gặp phải buổi
gian-nan này, trông thấy những ngụy-sứ đi lại rầm-rập ngoài đường, uốn
lưỡi cú diều mà xỉ-mắng triều-đình, đem thân dê chó mà bắt-nạt tổ-phụ,

lại cậy thế Hốt tất Liệt 忽 必 烈 mà đòi ngọc-lụa, ỷ thế Vân-nam-


vương[3] để vét bạc vàng; của kho có hạn, lòng tham không cùng, khác
nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, giữ sao cho khỏi tai-vạ về sau!
Ta đây, ngày thì quên ăn, đêm thì quên ngủ, ruột đau như cắt, nước mắt
đầm đìa, chỉ căm-tức rằng chưa được sả thịt lột da của quân giặc, dẫu
thân này phơi ngoài nội cỏ, xác này gói trong da ngựa, thì cũng đành
lòng. Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh-quyền, cũng đã lâu ngày, không
có áo thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho ăn, quan còn nhỏ thì ta thăng
thưởng, lương có ít thì ta tăng cấp, đi thủy thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta
cho ngựa, lúc hoạn-nạn thì cùng nhau sống chết, lúc nhàn-hạ thì cùng
nhau vui cười, những cách cư-xử so với Vương công Kiên, Đường ngột
Ngại ngày xưa cũng chẳng kém gì.
Nay các ngươi trông thấy chủ nhục mà không biết lo, trông thấy quốc-sỉ
mà không biết thẹn, thân làm tướng phải hầu giặc, mà không biết tức, tai
nghe nhạc để hiến ngụy sứ, mà không biết căm; hoặc lấy việc chọi gà
làm vui-đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu-khiển, hoặc vui thú về
vườn ruộng, hoặc quyến-luyến về vợ con, hoặc nghĩ về lợi riêng mà
quên việc nước, hoặc ham về săn-bắn mà quên việc binh, hoặc thích
rượu ngon, hoặc mê tiếng hát. Nếu có giặc đến, thì cựa gà trống sao cho
đâm thủng được áo-giáp; mẹo cờ-bạc sao cho dùng nổi được quân-mưu;
dẫu rằng ruộng lắm vườn nhiều, thân ấy nghìn vàng khôn chuộc; vả lại
vợ bìu con díu, nước này trăm sự nghĩ sao; tiền-của đâu mà mua cho
được đầu giặc; chó săn ấy thì địch sao nổi quân thù; chén rượu ngon
không làm được cho giặc say chết, tiếng hát hay không làm được cho
giặc điếc tai; khi bấy giờ chẳng những là thái-ấp của ta không còn, mà
bổng-lộc của các ngươi cũng hết; chẳng những là gia-quyến của ta bị
đuổi, mà vợ con của các ngươi cũng nguy; chẳng những là ta chịu nhục
bây giờ, mà trăm năm về sau, tiếng xấu hãy còn mãi mãi; mà gia-thanh

của các ngươi cũng chẳng khỏi mang tiếng nhục, đến lúc bấy giờ các
ngươi dẫu muốn vui-vẻ, phỏng có được hay không?
Nay ta bảo thật các ngươi: nên cẩn-thận như nơi củi lửa, nên giữ-gìn như
kẻ húp canh, dạy-bảo quân-sĩ, luyện-tập cung tên, khiến cho người nào
cũng có sức khỏe như Bàng Mông và Hậu Nghệ, thì mới có thể dẹp tan


được quân giặc, mà lập nên được công-danh. Chẳng những là thái-ấp ta
được vững bền, mà các ngươi cũng đều được hưởng bổng-lộc; chẳng
những là gia-quyến của ta được yên-ổn, mà các ngươi cũng đều được vui
với vợ con, chẳng những là tiên-nhân ta được vẻ-vang, mà các ngươi
cũng được phụng-thờ tổ-phụ, trăm năm vinh-hiển; chẳng những là một
mình ta được sung-sướng, mà các ngươi cũng được lưu-truyền sử sách,
nghìn đời thơm-tho; đến bấy giờ các ngươi dầu không vui-vẻ, cũng tự
khắc được vui-vẻ.
Nay ta soạn hết các binh-pháp của các nhà danh-gia hợp lại làm một
quyển gọi là « Binh-thư yếu-lược ». Nếu các ngươi biết chuyên-tập sách
này, theo lời dạy-bảo, thì mới phải đạo thần-tử; nhược bằng khinh bỏ
sách này, trái lời dạy-bảo, thì tức là kẻ nghịch-thù.
Bởi cớ sao? Bởi giặc Nguyên cùng ta, là kẻ thù không đội trời chung,
thế mà các ngươi cứ điềm-nhiên không nghĩ đến việc báo thù, lại không
biết dạy quân-sĩ, khác nào như quay ngọn giáo mà đi theo kẻ thù, giơ tay
không mà chịu thua quân giặc, khiến cho sau trận Bình-lỗ [4] mà ta phải
chịu tiếng xấu muôn đời, thì còn mặt-mũi nào đứng trong trời đất nữa.
Vậy nên ta phải làm ra bài hịch này để cho các ngươi biết bụng ta.
1.

Điếu-ngư là tên núi, thuộc phủ Trùng-khánh tỉnh Tứ xuyên.

2.


▲ Mông-kha (Mungke) là vua Mông-cổ, anh Hốt tất Liệt.

3.

▲ Khi quân Mông-cổ lấy được đất Vân nam rồi, Hốt tất Liệt
phong cho con là Hốt kha Kích là Vân-nam-vương.

4.

▲ Bình-lỗ là tên thành, nhưng sử cũ không chép rõ ở đâu và ai xây
lên. Sách « Khâm-định Việt-sử » chép rằng theo bộ « Địa-dư-chí »
của ông Nguyễn Trãi, thì đời nhà Lý có đào con sông Bình-lỗ để
đi lên Thái-nguyên cho tiện. Vậy thành Bình-lỗ có lẽ ở vào hạt
Thái-nguyên. Xem lời dặn của Trần Hưng-đạo-vương thì thành
Bình-lỗ này xây vào đời Đinh hay đời Tiền-Lê, rồi Lý thường Kiệt
đời Lý đã đánh quân Tống ở đó.


BẢN DỊCH NGÔ TẤT TỐ
Ta thường nghe: Kỷ Tín lấy thân chết thay, cứu thoát được vua Cao-đế;
Do Vu chìa lưng chịu giáo che chở được vua Chiêu-vương; Dự Nhượng
nuốt than để trả thù cho thầy; Thân Khoái chặt tay để gánh nạn cho
nước; Uất Trì Cung một viên tướng nhỏ, còn biết che đỡ Đường-chủ, ra
khỏi vòng vây của Thế Sung; Nhan Cảo-Khanh là bầy tôi xa, còn biết
mắng chửi Lộc Sơn, không nghe lời dụ của nghịch-tặc. Từ xưa, những
bậc trung-thần nghĩa-sĩ, lấy thân theo nước, đời nào là không có đâu?
Nếu mấy người kia, chăm chăm học thói dút-dát của con gái trẻ con,
chẳng qua cũng đến chết dũ ở dưới cửa sổ, đâu được ghi tên vào trong
thẻ tre lụa trắng, danh tiếng cùng trời đất cùng lâu bền?

Các người đời đời là con nhà võ, không biết chữ nghĩa, nghe những
chuyện ấy, thảy đều nửa tin nửa ngờ. Thôi thì những việc cổ xưa, hãy để
đó không nói đến nữa. Nay ta hãy đem chuyện nước Tống, giống Thát(là
chuyện gần đây) kể cho các người cùng nghe: Vương công Kiên là
người gì? Nguyễn văn Lập tỳ-tướng của y lại là người gì, chỉ có vòng
thành Điếu-ngư nhỏ bằng cái đấu hai người ấy chống nổi toán quân trăm
vạn của Mông-kha, khiến cho con dân nước Tống, đến nay hãy còn nhớ
ơn. Đường ngột Ngại là người gì? Xích tu Tư tỳ-tướng của y lại là người
gì? xông pha lam-chướng trên đuờng muôn dặm, hai người ấy đánh
được quân Nam-chiếu trong vài tuần, khiến cho vua chúa giòng Thát
nay còn để tiếng!
Huống chi ta với các ngươi, sinh ở buổi rối ren, lớn lên nhằm khi khó
nhọc, chính mắt ngó thấy sứ ngụy đi lại, đường xá nghẽn-ngang, chúng
múa cái lưỡi cú quạ làm nhục chốn triều-đình, chúng giơ cái thân chó
dê, kiêu ngạo với quan tể-phụ; chúng nhờ mệnh lệnh của chúa MôngCổ, mà đòi nào ngọc nào lụa, sự vòi vĩnh thật vô cùng; chúng mượn
danh hiệu của vua Vân-nam mà hạch nào bạc nào vàng; của kho đụn đã
hồ hết Cung-đốn cho chúng giống như đem thịt mà liệng cho cọp đói,
sao cho khỏi lo về sau?
Ta thường thì tới bữa quên ăn, giữa đêm vỗ gối, nước mắt tràn xuống
đầy mép, tấm lòng đau như bị đâm, vẫn lấy cái sự chưa thể ăn thịt nằm
da, nuốt gan uống máu của chúng làm tức. Dẫu cho một trăm cái thân


của ta phải đem đốt ở đồng cỏ, một nghìn cái thân của ta phải đem bọc
vào da ngựa, ta cũng vui lòng. Các ngươi lâu nay ở dưới cửa ta cầm giữ
binh-quyền, thiếu áo thì mặc áo cho, thiếu ăn thì sẻ cơm đỡ, quan nhỏ thì
cho lên chức, bổng ít cho thêm lương, đi thủy cấp thuyền, đi bộ cấp
ngựa, những khi trận mạc, sự sống thác thầy chung với trò, những lúc
mừng khao, tiếng vui cười ai cũng như nấy. So với Công Kiên làm chức
thiên-lý, Ngột Ngại ở ngôi phó nhị, có khác gì đâu.

Thế mà các ngươi thấy chủ bị nhục chẳng lấy làm lo, gặp nước bị dơ
chẳng lấy làm thẹn, làm tướng nhà nước phải hầu mấy đứa chum
mường, mà không có lòng căm hờn, nghe khúc nhạc thờ đem thết một
tên ngụy sứ, mà không có vẻ tức giận; kẻ thì chọi gà cho thích, kẻ thì
đánh bạc mua vui, có người chỉ chăm vườn ruộng, cốt nuôi được nhà; có
người chỉ mến vợ con, lấy mình làm trọng; cũng có kẻ chỉ lo làm giàu
làm có, việc quân quốc chẳng thèm đoái hoài, cũng có người chỉ ham về
săn-bắn mà quên việc binh, hoặc là đam mùi rượu ngọt, hoặc là mê tiếng
hát hay.
Một khi giặc Mông đến nơi, thì cựa con gà nòi không thể đâm thủng áogiáp của giặc; thuật ở bàn bạc không thể đem làm mưu mẹo ở trong
quân; vườn ruộng tuy giàu, tấm thân ấy nghìn vàng khôn chuộc; vợ con
tuy sẳn, trong đám ba quân khó dùng, của cải tuy nhiều, không thể mua
được đầu giặc; chó săn tuy khỏe, không thể đuổi được quân thù, rượu
ngon không đủ để cho giặc phải mê; hát hay không đủ làm cho giặc phải
điếc; lúc đó thầy trò ta sẽ cùng bị trói, đáng đau đớn biết chừng nào!
Nếu thế, chẳng những là thái-ấp của ta không còn, mà bổng-lộc của các
ngươi cũng bị kẻ khác chiếm mất; chẳng những là gia- quyến của ta phải
đuổi, mà vợ con của các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi; chẳng những xã
tắc của tổ tông ta sẽ bị dày xéo, mà đến mồ mả của cha mẹ ngươi cũng
sẽ bị kẻ khác đào lên, chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục, và trăm
kiếp khác tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu vẫn còn, mà gia thanh của các
ngươi cũng chẵng khỏi mang tiếng là nhà bại tướng. Đã đến khi đó các
ngươi muốn chơi bời cho thỏa, được chăng?
Nay ta bảo rõ các ngươi: cái chuyện dấm lửa đống củi phải lo, mà câu sợ
canh thổi rau nên nhớ. Các ngươi hãy nên huấn luyện quân-sĩ, rèn-tập
cung tên, khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là


Hậu Nghệ, bêu đầu Tất-Liệt dưới cửa khuyết, ướp thịt Thoát-Hoan trong
trại rơm. Như thế chẳng những là thái-ấp của ta mãi mãi là của gia

truyền, mà bổng-lộc các ngươi cũng được suốt đời hưởng thụ; chẳng
những gia- quyến của ta được yên giường nệm, mà vợ con các ngươi
cũng được sum họp đến già; chẳng những là tông-miếu ta sẽ được muôn
đời tế lễ, mà tổ tông các ngươi cũng được thờ cúng quanh năm; chẳng
những thân ta kiếp này đắc chí, mà đến các người dưới trăm đời nữa
tiếng thơm vẫn lưu truyền; chẳng những tên tuổi ta không bị mai một,
mà đến tên họ các người cũng để tiêng thơm trong sử xanh. Khi ấy các
ngươi không muốn vui chơi, được chăng?
Nay ta lựa chọn binh pháp các nhà, làm một quyển sách, đặt tên là sách
"Binh-thư yếu-lược". Nếu các ngươi biết chuyên-tập sách ấy, nghe lời
dạy-bảo của ta, ấy là duyên thầy trò kiếp xưa; Nếu các ngươi bỏ bê sách
ấy, trái lời dạy-bảo của ta, ấy là mối cựu thù kiếp xưa, Sao vậy? Bởi vì
như vậy tức là kẻ thù không đội chung trời, thế mà các ngươi không nghĩ
tới, điềm nhiên không lo đến sự rửa thẹn, không tinh; đến việc trừ hung,
không nhớ đến chuyện dạy-tập quân-sĩ. Thế là giở giáo hàng giặc, nắm
tay chống giặc. Rồi đây, sau khi dẹp yên quân giặc, các ngươi sẽ phải
thẹn muôn đời, còn mặt-mũi nào đứng giữa khoảng trời đất che chở? Ta
muốn các ngươi biết rõ bụng ta, nhân viết mấy lời đó làm hịch.
3.

CHÚ THÍCH TỪ:

 Nhan đề:
諭 dụ: trên bảo dưới, bảo cho người dưới biết, sau trở thành một thể văn
hành chính trỏ những bài do nhà vua viết ra nhằm ban bố mệnh lệnh hay
chính sách.
諸 chư: loại từ chỉ số nhiều.
裨將 tì tướng: những viên tướng dưới quyền giúp việc cho mình.
檄 文 hịch văn: một thể loại có từ thời Chiến Quốc,viết cho tướng sĩ
đọc.

 Hịch tướng sĩ.


 Đoạn 1
余常聞之 dư thường văn chi: ta thường nghe kể rằng.
紀 信 Kỉ Tín: tên một bề tôi trung thành của Hán Cao Tổ (tức Lưu
Bang).
以 dĩ: dùng, lấy.
身 thân: thân thể, mình.
代 đại: thay thế.
死 tử: chết.
以身代死 dĩ thân đại tử: dùng thân mình thay thế để chết thay.
而 nhi: nên, cho nên.
脫 thoát: cứu thoát, ra khỏi cơn nguy hiểm.
高帝 Cao Đế: Hán Cao Tổ Lưu Bang.
 Ta thường nghe kể rằng: Kỉ Tín dùng thân mình chết thay để
cứu Lưu Bang thoát khỏi nguy hiểm.
由于 Do Vu: tên một viên tướng của Sở Chiêu Vương thời Xuân Thu
Trung Quốc.
以 dĩ: dùng, lấy.
背 bối: lưng.
受 thụ: nhận, chịu.
戈 qua: một loại gươm cổ dài một thước rưỡi, lưỡi nhọn.
以背受戈 dĩ bối thụ qua: đưa lưng ra đỡ lấy ngọn giáo.
而 nhi: nên, cho nên.
蔽 tế: che, che chở.
昭王 Chiêu Vương: Sở Chiêu Vương vua thời Xuân Thu Trung Quốc.
 Do Vu đưa lưng đỡ ngọn giáo che chở cho vua Chiêu Vương.
豫讓 Dự Nhượng: người nước Tần thời Chiến Quốc.
吞 thôn: nuốt.

炭 thán: than.
而 nhi: nên, cho nên.
復 phục: quay lại, trả lại, trả thù.
主 chủ: chủ.
讎 thù: mối thù, thù hận.
 Dư Nhượng nuốt than để báo thù cho chủ.
申蒯 Thân Khoái: một người ở thời Xuân Thu, làm chức quan coi ao cá


cho Tề Trang Công.
断 đoạn: chặt, đứt.
臂 tí: cánh tay.
而 nhi: nên, cho nên.
赴 phó: đi theo, đi vào.
國難 quốc nạn: cơn hoạn nạn của đất nước.
 Thân Khoái chặt đứt cánh tay để cứu nạn cho đất nước.
敬德 Kính Đức: tên tự của Uất Trì Cung một viên tướng giỏi thời Sơ
Đường.
小生 tiểu sinh: người trẻ tuổi.
也 dã: hư từ thường đặt ở cuối câu vị ngữ danh từ hoặc vị ngữ tính từ.
身 thân: thân thể, mình.
翼 dực: phò tá.
太宗 Thái Tông: Đường Thái Tông.
而 nhi: nên, cho nên.
免 miễn: tránh được.
世充 Thế Sung: Vương Thế Sung tức Trịnh Đế, người đời Tùy, sau bị
Đường Thái Tông diệt.
圍 vi: vòng vây.
 Kính Đức là một viên tướng nhỏ nhưng biết liều thân mình cứu
vua Thái Tông thoát khỏi vòng vây của Thế Sung.

杲卿 Cảo Khanh : họ Nhan người đời vua Đường Huyền Tông
一 nhất : một
遠 臣 viễn thần : Bề tôi xa chỉ những quan chức nhỏ
也 dã
口 khẩu : miệng
罵 mạ : là chửi mắng
禄山 Lộc Sơn : An Lộc Sơn đời vua Đường Huyền Tông làm chức
tiết độ sứ đất Hà Đông
而 nhi
不 bất : không có
從 tòng : theo
逆賊 nghịch tặc : là giặc ngược, những người chống lại chế độ của


vua làm trái lời vua là ngịch tặc
之 chi
計 kế : kế sách
Cảo Khanh một bề tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo
mưu kế nghịch tặc
自 古 tự cổ : từ xưa đến nay
忠 臣 trung thần: bề tôi chung thành với vua
義 士 nghĩa sĩ : người hành động trung thực, hi sinh vì nghĩa lớn
không chịu khuất phục
以 dĩ : dùng, sử dụng
身 thân: Mình người, bộ phận trung tâm của vật thể
死 tử : chết
國 quốc : nước
 死 國 tử quốc : hi sinh vì tổ quốc
何 hà : chổ nào, ở đâu, gì nào
代 đại : triều đại

無 vô: Không có, chớ đừng
之 chi : đã rồi thuộc về đại từ thay thế
 Hà đại vô chi : đời nào mà chẳng có
 Từ xưa đến nay các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước,
đời nào chăng có?
設 Thiết : sắp đặt, bày đặt
使 sử : sức dã đi sứ
=> thiết sử: nếu, nếu như
數 子 sổ tử: Mấy người ấy, mấy ông ấy
區區 khu khu : bo bo, khư khư
為 vi : làm ra chế ra, trị lí, sửa chữa
兒 女 子 nhi nữ tử: đàn bà trẻ con
之 chi
態 thái : vẻ, thái độ hình trạng trạng thái
 Ví thử mấy người đó cứ khư khư theo thói nhi nữ thường tình
徒 死 Đồ tử : chết uổng chết một cách vô nghĩa
牖 dũ: cửa sổ dán vải hoặc giấy
下 hạ : phần dưới chổ thấp


 đồ tử dũ hạ: chết uổng bên cửa sổ
烏 ô :Con quạ
能 năng : người có tài, nhân tài
名 danh: tên tuổi
垂 thùy: rủ xuống, để lại đời sau
竹 trúc: tre
白 bạch: trắng màu trắng
Thì cũng đến chết hoài ở xó cửa, sao có thể lưu danh sử sách
與 Dữ : cho đi lại, thân thiện, bè phái
天地 thiên địa : trời đất

相 tương: gặp
為 vi:
不 bất : không có
朽 hủ: gỗ mục, gỗ nát
Bất hủ: cùng với trời đất không bao giờ mục nát
哉 tai: từ cảm thán đặt cuối câu tương đương với “thay” với “vậy”
 Cùng trời đất muôn đời bất hủ được
 Đoạn 2
汝 Nhữ: đại từ nhân xưng ngôi thứ hai: mày, chúng mày, ngươi, anh,
chị, v.v.
等 đẳng: cùng, đều, ngang, sao (trợ từ), Hạng, loại, đẳng cấp, thứ tự,
bậc
 Nhữ đẳng: các ngươi (đại từ nhân xưng ngôi thứ hai số nhiều)
世 Thế: thế hệ, con cháu thừa kế, đời đời
為 Vi: làm, gây nên, là, khiến, làm cho, vì, bởi, do, cho, để cho
將 tướng: quan võ, quan văn
種 chủng: giống nòi
Tướng chủng : Con nhà tướng
不 bất: không
曉 hiểu: Biết rõ, bảo cho biết, thấu đáo, thấu hiểu
文 văn: Chữ nghĩa, lễ tiết, nghi thức
義 nghĩa: lẽ phải chăng, việc đáng phải làm, việc làm vì người khác,
việc có lợi ích chung


 Các ngươi là con nhà tướng, không hiểu văn nghĩa (lễ nghĩa)(chữ
nghĩa)
其 Kỳ: Tính từ chỉ thị: người đó, cái đó, việc đó, Nó, chúng, họ, thửa
(ngôi thứ ba), đã,
聞 văn: Nghe thấy

說 thuyết: chuyện, câu chuyện, nói, giải thích, giảng giải, đàm luận
疑 nghi: nghi ngờ, ngỡ là, không tin
信 tín: tin tưởng, tin theo, lòng tin, đức tin
相半 tương bán: mỗi thứ chiếm một nửa  nửa tin nửa ngờ
 Nghe thấy những chuyện ấy, nửa tin nửa ngờ
古 Cổ: xưa
先 Tiên: trước
之事 chi sự
Những chuyện trước đây, những chuyện xưa kia
姑置 cô thả: hãy, xin hãy
勿 vật: chớ đừng
論 luận: bàn bạc, Kể tới, để ý
 Cô thả vật luận: khoan hãy bàn tới
 vậy thì nhưng việc xưa kia khoan hãy bàn (nói) tới
今 Kim: nay, bây giờ
余 Dư: Ta (nhân xưng ngôi thứ nhất)
以 Dĩ: Lấy.
宋 Tống: nhà Tống
韃 Thát: tên một bộ tộc vốn là tổ tiên của người Mông Cổ, còn gọi là
Thát Đát, sau dùng để trỏ quân Nguyên. Quân sĩ của trần Hưng Đạo đã
từng thích 2 chữ (Sát thát) vào cánh tay
之 Chi:
事 sự: Việc, công việc, chức vụ
言 ngôn: nói kể trần thuật
之 chi: đại từ thay thế làm bổ ngữ
Sự ngôn chi: nói về điều ấy
Bây giờ ta hãy lấy chuyện nhà Tống, Nguyên ra mà nói (kể)


MINH GII VN BN:

4.1. Ni dung:
* Nêu gơng sử sách
- Nêu gơng trong sử sách Trung Quốc, những tấm gơng cả tớng sĩ nhà
Nguyên khích lệ lòng căm thù, khích lệ lòng hy sinh dũng cảm, ý chí lập
công danh của tớng sĩ.
Đây là những tấm gơng quên mình cứu chủ, những trung thần nghĩa sĩ
bỏ mình vì nớc
- Nêu những tấm gơng của nhà Tống, nhà Nguyên: Trần Quốc Tuấn có
hàm ý so sánh ông đối với tớng lĩnh có kém gì vậy mà một bên quên
mình vì chủ, một bên nhìn chủ nhục... Trần Quốc Tuấn đ gợi cho tớng sĩ
phải suy nghĩ, gơng hy sinh của ngời thì nh vậy, còn ta nh thế nào?
- Cách nêu gơng: vừa có tớng lĩnh cao cấp, những bề tôi, có ngời bình thờng, có gơng đời xa, có gơng rất gần. Cách nêu gơng nh vậy khích lệ đợc
nhiều ngời, ai cũng có thể lập đợc công danh, lu tên trong sử sách.
4.

4.2. Ngh thut:
- Ging vn khi bi thit ngh ngo, lỳc sc sụi hựng hn, khi ma mai
ch giu, khi nghiờm khc nh x mng, li cú lỳc ra lnh dt khoỏt.
- Kt cu cht ch, lp lun sc bộn.
- S dng kiu cõu nguyờn nhõn kt qu.
- Bin phỏp tu t : so sỏnh, ip t ng, ip ý tng tin, phúng i
- S dng nhng hỡnh tng ngh thut gi cm, d hiu.
Vn bn giu hỡnh tng, cm xỳc
+ Xut phỏt t tỡnh cm mónh lit v tm lũng yờu thng tng s ca
tỏc gi, mun h i theo con ng ỳng n To nờn sc hp dn,
lụi cun
+ S dng cỏc bin phỏp tu t:
* n d + t thc Khc ha k thự mt cỏch y n tng, th hin
s khinh b, cm thự; ni nhc nc b xõm phm.
* So sỏnh Nhn mnh bn cht tham lam ca k thự

* Cõu hi tu t + cõu vn bin ngu Din t ni lũng cha y tõm
trng ...
+ Ging vn Biu l tỡnh cm, sc thỏi biu t mnh m:
* Khi ca ngi: Sng khoỏi ho hựng
* Khi tõm tỡnh: Sõu lng, thng thit
* Khi phờ phỏn: Chõn tỡnh, nghiờm khc


* Khi sỉ mắng: Thắng thắn
* Khi khuyên bảo thì ôn tồn
 tạo nên sức truyền cảm mãnh liệt
HỊCH TƯỚNG SĨ
1.Nội

dung
- Khơi gợi lòng yêu nước, tinh thần sẵng sàng xả thân vì nước của tướng

- Khơi gợi lòng căm thù, tự tôn dt
- Tố cáo tội ác của kẻ thù



×