Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

Hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ trong kiểm toán báo cáo tài chính, công ty kiểm toán và tư vấn tài chính kế toán sài gòn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (565.04 KB, 114 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Ban Giám đốc
Báo cáo tài chính
Công ty Kiểm toán và Tư vấn Tài chính Kế toán Sài

BGĐ
BCTC
AFC Sài Gòn

Gòn
Hệ thống kiểm soát nội bộ
Kiểm soát nội bộ
Kiểm toán viên
Môi trường kiểm soát
National Commission on Financial Reporting
Tài sản cố định
Thành phố

HTKSNB
KSNB
KTV
MTKS
COSO
TSCĐ
TP.


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Tran


g

Biểu số 01: Các mục tiêu kiểm soát nội bộ trong nghiệp vụ bán

16

hàng
Biểu số 02: Khái quát việc nghiên cứu hệ thống kiểm soát nội

21

bộ của khách hàng và quá trình đánh giá rủi ro kiểm soát trong
kiểm toán báo cáo tài chính
Biểu số 03: Mô hình tổ chức bộ máy quản lý AFC Sài Gòn.
Biểu số 04: Thông tin về hoạt động của khách hàng A
Biểu số 05: Thông tin về hoạt động của khách hàng B
Biểu số 06: Thông tin về hoạt động của khách hàng
Biểu số 07: Danh mục kiểm tra hoạt động kinh doanh của

37
46
50
51
51

khách hàng
Biểu số 08: Câu hỏi về Ban Giám đốc
Biểu số 09: Tìm hiểu hệ thống kế toán
Biểu số 10: Chu trình bán hàng và thu tiền (giai đoạn đặt hàng


55
59
61

– báo giá)
Biểu số 11: Chu trình bán hàng và thu tiền (giai đoạn ký hợp

62

đồng)
Biểu số 12: Chu trình bán hàng và thu tiền (giai đoạn giao

63

hàng)
Biểu số 13: Câu hỏi về chu trình bán hàng – thu tiền
Biểu số 14: Một số chỉ tiêu trên Báo cáo tài chính
Biểu số 15: Bảng câu hỏi về Ban Giám đốc
Biểu số 16: Bảng câu hỏi về nhân viên kế toán
Biểu số 17: Mô hình kiểm soát doanh số

65
67
75
75
78


LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, hoạt động kiểm

toán Việt Nam đã có nhiều bước tiến quan trọng. Ngày 29/1/1994,
Thủ tướng Chính phủ đã ký Nghị định số 07/CP ban hành “Quy chế
về kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân”. Ngày 19/3/1994,
Bộ Tài chính có Thông tư số 22/TC /CĐKT hướng dẫn thực hiện
“Quy chế kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân” ban hành
kèm theo Nghị định số 07/CP ngày 29/01/1994 của Chính phủ. Đồng
thời, ngày 19/3/1994, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ký Quyết định số
237 TC/QĐ/CĐKT ban hành “Quy chế thi tuyển và cấp chứng chỉ
kiểm toán viên”... Với những văn bản chỉ đạo này, nhiều công ty kiểm
toán độc lập trong nước ra đời.
Nhu cầu dịch vụ kiểm toán ngày càng cao, trước hết là tuân thủ
pháp luật, sau đó vì lợi ích của doanh nghiệp. Kiểm toán cung cấp
thông tin cho những người quan tâm, kiểm toán góp phần điều tiết vĩ
mô nền kinh tế, là công cụ kiểm soát nhà nước để kiểm soát nền tài
chính quốc gia, kiểm toán cung cấp thông tin chính xác cho các nhà
đầu tư để có hướng đầu tư đúng đắn. Không những thế kiểm toán còn
hỗ trợ cho các nhà quản trị trong việc nâng cao hiệu quả, hiệu năng
hoạt động của doanh nghiệp.
Xuất phát từ những điều kiện trên Công ty Kiểm toán và Tư vấn
Tài chính Kế toán Sài Gòn ra đời và sớm khẳng định được vị trí của
mình để trở thành một trong những “đứa con đầu lòng” trong lĩnh vực
kiểm toán Việt Nam.


Để đảm bảo tính hiệu quả, tính kinh tế, và tính hiệu lực của từng
cuộc kiểm toán cũng như để thu thập bằng chứng kiểm toán đầy đủ và
có giá trị làm căn cứ cho kết luận kiểm toán về tính trung thực và hợp
lý của số liệu trên Báo cáo tài chính, cuộc kiểm toán thường được tiến
hành theo quy trình gồm ba giai đoạn: Lập kế hoạch kiểm toán, thực
hiện kiểm toán và kết thúc kiểm toán. Trong giai đoạn lập kế hoạch

kiểm toán, công ty kiểm toán cần phải thực hiện đánh giá HTKSNB.
Thực tiễn cho thấy chất lượng kiểm toán sẽ nâng cao nếu việc đánh
giá HTKSNB được thực hiện đầy đủ.
Trong một thời gian ngắn thực tập tại Công ty Kiểm toán và Tư
vấn Tài chính Kế toán Sài Gòn được sự hướng dẫn của GS.TS.
NGUYỄN QUANG QUYNH và các anh chị kiểm toán viên em lựa
chọn đề tài: “Hoàn thiện đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ trong
kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty Kiểm toán và Tư vấn Tài
chính Kế toán Sài Gòn thực hiện”.
Chuyên đề được chia thành ba chương:
Chương I: Lý luận chung về đánh giá hệ thống kiểm soát nội
bộ trong kiểm toán báo cáo tài chính
Chương II: Thực trạng đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ
trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty Kiểm toán và Tư
vấn Tài chính Kế toán Sài Gòn thực hiện
Chương III: Bài học kinh nghiệm và một số kiến nghị nhằm
hoàn thiện đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ do Công ty Kiểm
toán và Tư vấn Tài chính Kế toán Sài Gòn thực hiện
Do hạn chế về nhận thức và phương pháp nghiên cứu nên
chuyên đề mới chỉ đề cập đến những vấn đề cơ bản nhất, do đó không


tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Em mong nhận được sự đóng
góp ý kiến của thầy giáo và các anh, chị kiểm toán viên để bài viết của
em được hoàn thiện hơn.

Sinh viên thực hiện
PHẠM THỊ MINH HẠNH



CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÁNH GIÁ HỆ THỐNG
KIỂM SOÁT NỘI BỘ TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI
CHÍNH

1.1.Hệ thống kiểm soát nội bộ với kiểm toán tài chính
1.1.1. Bản chất hệ thống kiểm soát nội bộ trong quản lý
Có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý và về chức năng, về
quy trình quản lý song trong quan hệ với sự tồn tại tất yếu của kiểm
tra, kiểm soát trong quản lý thì vấn đề quản lý được nhìn nhận như
sau:
Quản lý là một quá trình định hướng và tổ chức thực hiện các
hướng đã định trên cơ sở những nguồn lực xác định nhằm đạt hiệu quả
cao nhất. Quá trình này bao gồm nhiều chức năng và có thể chia thành
nhiều pha (giai đoạn): Ở giai đoạn định hướng cần có những dự báo
về nguồn lực và mục tiêu cần và có thể đạt tới, kiểm tra lại các thông
tin về nguồn lực và mục tiêu, xây dựng các chương trình, kế hoạch...
Sau khi các chương trình, kế hoạch đã được kiểm tra có thể đưa ra các
quyết định cụ thể để tổ chức thực hiện. Ở giai đoạn tổ chức thực hiện,
cần kết hợp các nguồn lực theo phương án tối ưu, đồng thời thường
xuyên kiểm tra diễn biến và kết quả của các quá trình để điều hoà các
mối quan hệ, điều chỉnh các định mức và mục tiêu trên quan điểm tối
ưu hoá kết quả hoạt động…
Rõ ràng, kiểm tra không phải là một giai đoạn hay một pha của
quản lý mà nó được thực hiện ở tất cả các giai đoạn của quá trình này.
Bởi vậy cần quan niệm kiểm tra là một chức năng của quản lý. Tuy
nhiên, chức năng này được thể hiện rất khác nhau tuỳ thuộc vào cơ


chế kinh tế và cấp quản lý, vào loại hình hoạt động cụ thể, vào truyền
thống văn hoá và những điều kiện kinh tế – xã hội khác của mỗi nơi

trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể.
Về phân cấp quản lý, có rất nhiều mô hình khác nhau song
chung nhất thường là phân thành quản lý vĩ mô và quản lý vi mô. Dĩ
nhiên trong nhiều trường hợp, giữa hai cấp quản lý cơ bản nói trên còn
có cấp quản lý trung gian vừa chịu sự quản lý vĩ mô của cấp trên, vừa
thực hiện chức năng quản lý đối với đơn vị cấp dưới. Trong mọi
trường hợp để đảm bảo hiệu quả hoạt động, tất yếu mỗi đơn vị cơ sở
đều tự kiểm tra mọi hoạt động của mình trong tất cả các khâu: rà soát
các tiềm năng, xem xét lại các dự báo, các mục tiêu và định hướng,
đối chiếu và truy tìm các thông số về sự kết hợp, soát xét lại các thông
tin thực hiện để điều chỉnh kịp thời trên quan điểm bảo đảm hiệu năng
của mọi nguồn lực và hiệu quả kinh tế cuối cùng của các hoạt động.
Công việc rà soát này có tên gọi là kiểm soát. Một cách chung nhất,
kiểm soát được hiểu là tổng hợp những phương sách để nắm lấy và
điều hành đối tượng hoặc khách thể quản lý. Với ý nghĩa đó, kiểm
soát có thể hiểu theo nhiều chiều: cấp trên kiểm soát cấp dưới thông
qua chính sách hoặc biện pháp cụ thể; đơn vị này kiểm soát đơn vị
khác thông qua việc chi phối đáng kể về quyền sở hữu và lợi ích
tương ứng; nội bộ đơn vị kiểm soát lẫn nhau thông qua quy chế và thủ
tục quản lý… Tuy nhiên, thông dụng nhất vẫn là kiểm soát nội bộ đơn
vị.
Trong khi đó, với cương vị quản lý vĩ mô, Nhà nước cũng thực
hiện chức năng kiểm tra của mình hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp. Ở
mức trực tiếp (thông thường với tư cách chủ sở hữu), Nhà nước trực


tiếp kiểm tra mục tiêu chương trình – kế hoạch, kiểm tra các nguồn
lực, kiểm tra quá trình và kết quả thực hiện các mục tiêu của các đơn
vị, kiểm tra tính trung thực của các thông tin và tính pháp lý của việc
thực hiện các nghiệp vụ… Với các đối tượng trên, việc kiểm tra có thể

được thực hiện thường xuyên, định kỳ hoặc đột xuất với một hoặc
nhiều đối tượng. Trong kiểm tra trực tiếp, thường có ngay các kết luận
làm rõ vụ việc được kiểm tra thậm chí có thể có ngay quyết định điều
chỉnh, xử lý gắn với kết luận kiểm tra. Công việc kiểm tra này được
gọi là thanh tra.
Ở mức gián tiếp, Nhà nước có thể sử dụng kết quả kiểm tra của
các chuyên gia hoặc các tổ chức kiểm tra độc lập để thực hiện điều tiết
vĩ mô qua các chính sách của mình (đặc biệt là chính sách thuế, bảo
hiểm, công trái…) hoặc tham gia đầu tư hay với cương vị là khách
hàng của các đơn vị… Dĩ nhiên, trong lịch sử không bao giờ vai trò
kiểm tra của Nhà nước, của các chuyên gia, các tổ chức kiểm toán
cũng như nhau. Tuy nhiên, từ góc độ đơn vị cơ sở, kiểm tra của tất cả
các tổ chức, chuyên gia bên ngoài đều được gọi là ngoại kiểm.
Về loại hình hoạt đông, cũng có nhiều loại cụ thể khác nhau.
Theo mục tiêu của các hoạt động có thể quy về hai loại hoạt động cơ
bản: hoạt động kinh doanh và hoạt động sự nghiệp. Với hoạt động
kinh doanh, lợi nhuận được coi là mục tiêu và là thước đo chất lượng
hoạt động. Do đó, kiểm tra cần hướng tới hiệu quả của vốn, của lao
động, của tài nguyên. Trong khi đó hoạt động sự nghiệp có mục tiêu
chủ yếu là thực hiện tốt nhiệm vụ cụ thể về xã hội, về quản lý trên cơ
sở tiết kiệm kinh phí cho việc thực hiện nhiệm vụ đó. Trong trường


hợp này, kiểm tra thường xem xét hiệu năng của quản lý thay cho hiệu
quả trong kinh doanh.
Ngay trong bản thân hoạt động kinh doanh cũng rất đa dạng: sản
xuất công nghiệp, sản xuất nông nghiệp, xây lắp, vận tải, du lịch…
Những hoạt động này tuy đều hướng tới mục tiêu lợi nhuận song lại
khác nhau về lĩnh vực tạo ra lợi nhuận, về cơ cấu các nguồn sử dụng,
về quy trình tạo ra sản phẩm, dịch vụ và từ đó khác nhau về cơ cấu chi

phí, thu nhập… Do vậy, nội dung và phương pháp cụ thể của kiểm tra,
đặc biệt là kiểm tra nghiệp vụ kinh doanh cũng có sự khác biệt đáng
kể.
Trong quan hệ sở hữu cũng cần chỉ rõ hai hình thức sở hữu cơ
bản: sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân. Tuy nhiên, các đơn vị thuộc
cả hai hình thức này thông thường đều chịu sự điều tiết vĩ mô của Nhà
nước nên đều cần được kiểm tra kết quả hoạt động theo những chuẩn
mực chung. Tuy nhiên, với các đơn vị thuộc sở hữu nhà nước, Nhà
nước vừa là chủ sở hữu, vừa là người điều tiết hoạt động nên công
việc kiểm tra thường do một bộ máy chuyên môn của Nhà nước tiến
hành. Trong khi đó các đơn vị thuộc sở hữu tư nhân theo quy định của
pháp luật cụ thể có quyền lựa chọn đơn vị (cá nhân) làm nhiệm vụ
kiểm tra kết quả hoạt động trên báo cáo tài chính.
Trong quan hệ truyền thống văn hoá và các điều kiện kinh tế –
xã hội khác nhau có ảnh hưởng đến kiểm tra cần đặc biệt chú trọng
trình độ kinh tế và dân trí, trình độ quản lý, tính kỷ cương và truyền
thống luật pháp. Những yếu tố này có ảnh hưởng tới quản lý đồng thời
tác động đến sự khác biệt trong cách thức và tổ chức kiểm tra.


Trong mọi hoạt động của các doanh nghiệp, bộ phận thực hiện
chức năng kiểm tra, kiểm soát trong quá trình quản lý là hệ thống
kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp đó.
Trong mọi hoạt động của doanh nghiệp, chức năng kiểm tra
kiểm soát luôn giữ vai trò quan trọng trong quá trình quản lý và được
thực hiện chủ yếu bởi hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp.
Quá trình nhận thức và nghiên cứu về hệ thống kiểm soát nội bộ
đã dẫn đến các định nghĩa khác nhau từ giản đơn đến phức tạp.
Theo COSO – một Ủy ban thuộc Hội đồng quốc gia Hoa Kỳ
chống gian lận về báo cáo tài chính “Kiểm soát nội bộ là một quá trình

do người quản lý, hội đồng quản trị và các nhân viên của đơn vị chi
phối, nó được thiết lập để cung cấp một sự đảm bảo hợp lý nhằm thực
hiện ba mục tiêu dưới đây:
- Báo cáo tài chính đáng tin cậy.
- Các luật lệ và quy định được tuân thủ.
- Hoạt động hữu hiệu và hiệu quả.”
Trong định nghĩa nêu trên, bốn nội dung cơ bản là quá trình, con
người, sự đảm bảo hợp lý và các mục tiêu. Chúng được hiểu như sau:
Kiểm soát nội bộ là một quá trình: Kiểm soát nội bộ bao gồm
một chuỗi hoạt động kiểm soát hiện diện ở mọi bộ phận trong đơn vị
và được kết hợp với nhau thành một thể thống nhất. Quá trình kiểm
soát là phương tiện giúp đơn vị đạt được các mục tiêu của mình.
Con người thiết kế và vận hành kiểm soát nội bộ: Kiểm soát nội
bộ bao gồm chính sách, thủ tục, biểu mẫu… do con người trong tổ
chức như Hội đồng quản trị, Ban giám đốc, các nhân viên khác. Chính


con người định ra mục tiêu, thiết lập cơ chế kiểm soát ở mọi nơi và
vận hành chúng.
Kiểm soát nội bộ cung cấp một sự đảm bảo hợp lý là các mục
tiêu sẽ được thực hiện, chứ không phải đảm bảo tuyệt đối. Bởi vì khi
vận hành hệ thống kiểm soát, những yếu kém có thể xảy ra do các sai
lầm của con người nên dẫn đến không thực hiện được các mục tiêu.
Kiểm soát nội bộ có thể ngăn chặnvà phát hiện những sai phạm nhưng
không thể đảm bảo là chúng không bao giờ xảy ra. Hơn nữa, một
nguyên tắc cơ bản trong việc đưa ra quyết định quản lý là chi phí cho
quá trình kiểm soát không thể vượt quá lợi ích mong đợi từ quá trình
kiểm soát đó. Do đó, tuy người quản lý có thể nhận thức đầy đủ về các
rủi ro, nhưng nếu chi phí cho quá trình kiểm soát quá cao thì họ vẫn
không áp dụng các thủ tục kiểm soát rủi ro.

Các mục tiêu của kiểm soát nội bộ:
- Đối với báo cáo tài chính, kiểm soát nội bộ phải bảo đảm về
tính trung thực và đáng tin cậy, bởi vì chính người quản lý
đơn vị phải có trách nhiệm lập báo cáo tài chính phù hợp với
chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành.
- Đối với tính tuân thủ, kiểm soát nội bộ trước hết phải đảm
bảo hợp lý việc chấp hành luật pháp và các quy định. Điều
này xuất phát từ trách nhiệm của người quản lý đối với những
hành vi không tuân thủ trong đơn vị. Bên cạnh đó, kiểm soát
nội bộ còn phải hướng mọi thành viên trong đơn vị vào việc
tuân thủ các chính sách, quy định nội bộ của đơn vị, qua đó
bảo đảm đạt được những mục tiêu của đơn vị.


- Đối với mục tiêu sự hữu hiệu và hiệu quả của các hoạt động,
kiểm soát nội bộ giúp đơn vị bảo vệ và sử dụng hiệu quả các
nguồn lực , bảo mật thông tin, nâng cao uy tín, mở rộng thị
phần, thực hiện các chiến lược kinh doanh của đơn vị…
Như vậy, các mục tiêu của hệ thống kiểm soát nội bộ rất rộng,
chúng bao trùm lên mọi hoạt động và có ý nghĩa quan trọng đối với sự
tồn tại và phát triển của đơn vị.
Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 - Đánh giá rủi ro
và kiểm soát nội bộ: “Hệ thống kiểm soát nội bộ là các quy định và
các thủ tục kiểm soát do đơn vị được kiểm toán xây dựng và áp dụng
nhằm đảm bảo cho đơn vị tuân thủ pháp luật và các quy định, để kiểm
tra, kiểm soát, ngăn ngừa và phát hiện gian lận, sai sót; để lập báo cáo
tài chính trung thực và hợp lý; nhằm bảo vệ, quản lý và sử dụng có
hiệu quả tài sản của đơn vị.”
Theo Liên đoàn Kế toán Quốc tế (IFAC), hệ thống kiểm soát nội
bộ là một hệ thống chính sách và thủ tục nhằm bốn mục tiêu sau: bảo

vệ tài sản của đơn vị; bảo đảm độ tin cậy của các thông tin; bảo đảm
việc thực hiện các chế độ pháp lý; và bảo đảm hiệu quả của hoạt động.
Theo đó, kiểm soát nội bộ là một chức năng thường xuyên của
của các đơn vị, tổ chức và trên cơ sở xác định rủi ro có thể xảy ra
trong từng khâu công việc để tìm ra biện pháp ngăn chặn nhằm thực
hiện có hiệu quả tất cả các mục tiêu đặt ra của đơn vị:
1/ Bảo vệ tài sản của đơn vị:
Tài sản của đơn vị bao gồm cả tài sản hữu hình và tài sản vô
hình. Những tài sản này có thể bị đánh cắp, lạm dụng vào những mục


đích khác nhau hoặc bị hư hại nếu không được bảo vệ bởi các hệ
thống kiểm soát thích hợp.
2/ Bảo đảm độ tin cậy của các thông tin:
Thông tin kinh tế, tài chính do bộ máy kế toán xử lý và tổng hợp
là căn cứ quan trọng cho việc hình thành các quyết định của các nhà
quản lý. Như vậy các thông tin cung cấp phải đảm bảo tính kịp thời,
và độ tin cậy về thực trạng hoạt động và phản ánh đầy đủ và khách
quan các nội dung chủ yếu của mọi hoạt động kinh tế, tài chính.
3/ Bảo đảm thực hiện các chế độ pháp lý:
* Hệ thống kiểm soát nội bộ được thiết kế trong doanh nghiệp
phải đảm bảo các quyết định và chế độ pháp lý liên quan đến hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải được tuân thủ đúng
mức. Cụ thể hệ thống kiểm soát nội bộ cần:
* Duy trì và kiểm tra việc tuân thủ các chính sách có liên quan
đến các hoạt động của doanh nghiệp;
* Ngăn chặn và phát hiện kịp thời cũng như xử lý các sai phạm
trong mọi hoạt động của doanh nghiệp.
* Đảm bảo việc ghi chép kế toán đầy đủ, chính xác cũng như
việc lập Báo cáo tài chính trung thực và khách quan.

4/ Bảo đảm hiệu quả của hoạt động và nâng cao khả năng quản
lý:
Các quá trình kiểm soát trong một đơn vị được thiết kế nhằm
ngăn ngừa sự lặp lại không cần thiết các tác nghiệp, gây ra sự lãng phí
trong hoạt động và sử dụng kém hiệu quả các nguồn lực trong doanh
nghiệp.


Bên cạnh đó, định kỳ các nhà quản lý thường đánh giá kết quả
hoạt động trong doanh nghiệp được thực hiện với cơ chế giám sát của
hệ thống kiểm soát nội bộ doanh nghiệp nhằm nâng cao khả năng
quản lý, điều hành của bộ máy quản lý doanh nghiệp.
1.1.2. Các yếu tố cơ bản của hệ thống kiểm soát nội bộ
Để quá trình quản lý đạt hiệu quả cao, các đơn vị, tổ chức cần
xây dựng và không ngừng củng cố hệ thống kiểm soát nội bộ với bốn
yếu tố chính: môi trường kiểm soát, hệ thống thông tin (hệ thống kế
toán), các thủ tục kiểm soát và kiểm toán nội bộ.
Mặc dù có sự khác biệt đáng kể về tổ chức hệ thống kiểm soát
nội bộ giữa các đơn vị vì phụ thuộc vào nhiều yếu tố như quy mô, tính
chất hoạt động, mục tiêu … của từng nơi, thế nhưng bất kỳ hệ thống
kiểm soát nội bộ nào cũng phải bao gồm những bộ phận cơ bản: môi
trường kiểm soát, hệ thống thông tin (hệ thống kế toán), các thủ tục
kiểm soát và kiểm toán nội bộ. Môi trường kiểm soát là thành phần
quan trọng nhất trong bốn thành phần của hệ thống kiểm soát nội bộ,
nếu thiếu môi trường kiểm soát hữu hiệu thì chắc chắn hệ thống kiểm
soát nội bộ sẽ không có hiệu quả, kể cả khi ba thành phần khác của hệ
thống kiểm soát nội bộ có chất lượng tốt.
1.1.2.1. Môi trường kiểm soát
Môi trường kiểm soát bao gồm các hành động, chế độ và thể
thức mà nó phản ánh thái độ chung của Ban quản trị cấp cao, các

Giám đốc và các chủ nhân của một tổ chức về quá trình kiểm soát và
về tầm quan trọng của nó đối với tổ chức đó
Trên thực tế, tính hiệu quả của hoạt động kiểm tra, kiểm soát
trong các hoạt động của một tổ chức phụ thuộc chủ yếu vào các nhà


quản lý tại doanh nghiệp đó. Nếu các nhà quản lý cho răng công tác
kiểm tra, kiểm soát là quan trọng và không thể thiếu được đối với mọi
hoạt động trong đơn vị thì mọi thành viên của đơn vị dó sẽ có nhận
thức đúng đắn về hoạt động kiểm tra, kiểm soát và tuân thủ mọi quy
định cũng như chế độ đề ra. Ngược lại, nếu hoạt động kiểm tra, kiểm
soát bị coi nhẹ từ phía các nhà quản lý thì chắc chắn các quy chế về
kiểm soát nội bộ sẽ không được vận hành một cách có hiệu quả bởi
các thành viên của đơn vị.
Môi trường kiểm soát bao gồm những nhân tố sau: Đặc thù về
quản lý, cơ cấu tổ chức, chính sách nhân sự, công tác kế hoạch, Ủy
ban kiểm soát và môi trường bên ngoài.
Đặc thù về quản lý:
Các đặc thù về quản lý đề cập tới các quan điểm khác nhau
trong điều hành hoạt động doanh nghiệp của các nhà quản lý. Các
quan điểm đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chính sách, chế độ, các quy
đinh va cách thức tổ chức kiểm tra, kiểm soát trong doanh nghiệp. Bởi
vì chính các nhà quản lý và đặc biệt là các nhà quản lý cấp cao nhất sẽ
phê chuẩn các quyết định, chính sách và thủ tục kiểm soát sẽ áp dụng
tại doanh nghiệp.
Cơ cấu tổ chức:
Cơ cấu tổ chức được xây dựng hợp lý trong doanh nghiệp sẽ góp
phần tạo ra môi trường kiểm soát tốt. Cơ cấu tổ chức hợp lý đảm bảo
một hệ thống xuyên suốt từ trên xuống dưới trong việc ban hành các
quyết định, triển khai các quyết định đó cũng như kiểm tra, giám sát

việc thực hiện các quyết định đó trong toàn bộ doanh nghiệp. Một cơ


cấu tổ chức hợp lý còn góp phần ngăn ngừa có hiệu quả các hành vi
gian lận và sai sót trong hoạt động tài chính kế toán của doanh nghiệp.
Một cơ cấu tổ chức hợp lý phải thiết lập sự điều hành và kiểm
soát trên toàn bộ hoạt động và các lĩnh vực của doanh nghiệp sao cho
không bị chồng chéo hoặc bỏ trống: thực hiện sự phân chia tách bạch
giữa các chức năng, bảo đảm sự độc lập tương đối giữa các bộ phận,
tạo khả năng kiểm tra, kiểm soát lẫn nhau trong các bước thực hiện
công việc.
Như vậy để thiết lập một cơ cấu tổ chức thích hợp và có hiệu
quả, các nhà quản lý phải tuân theo những nguyên tắc sau:
* Tạo lập mối quan hệ kiểm soát bền vững trong từng phần
hành, từng bộ phận của doanh nghiệp.
* Thực hiện sự phân chia rành mạch ba chức năng bảo đảm các
nguyên tắc kế toán: xử lý nghiệp vụ, ghi chép sổ và bảo quản tài sản.

Chính sách nhân sự:
Sự phát triển của mọi doanh nghiệp luôn gắn liền với đội ngũ
nhân viên và họ luôn là nhân tố quan trọng trong môi trường kiểm soát
cũng như chủ thể trực tiếp thực hiện mọi thủ tục kiểm soát trong hoạt
động của doanh nghiệp, Nếu nhân viên có năng lực và tin cậy, nhiều
quá trình kiểm soát có thể không cần thực hiện mà vẫn đảm bảo được
các mục tiêu đề ra của kiểm soát nội bộ. Bên cạnh đó, mặc dù doanh
nghiệp có thiết kế và vận hành các chính sách và thủ tục kiểm soát
chặt chẽ nhưng với đội ngũ nhân viên kém năng lực trong công việc


và thiếutrung thực về phẩm chất đạo đức thì hệ thống kiểm soát nội bộ

không thể phát huy hiệu quả.
Tóm lại, với những lý do nêu trên, các nhà quản lý doanh nghiệp
cần có những chính sách cụ thể và rõ ràng về tuyển dụng, đào tạo, sắp
xếp, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật nhân viên. Việc đào tạo, bố trí cán
bộ và đề bạt nhân sự phải phù hợp với năng lực chuyên môn và phẩm
chất đạo đức, đồng thời phải mang tính kế tục và liên tiếp.
Công tác kế hoạch:
Hệ thống kế hoạch và dự toán, bao gồm các kế hoạch sản xuất,
tiêu thụ, thu chi quỹ, kế hoạch hay dự toán đầu tư, sửa chữa tài sản cố
định, đặc biệt là kế hoạch tài chính gồm những ước tính cân đối tình
hình tài chính, kết quả hoạt động và sự luân chuyển tiền trong tương
lai là những nhân tố quan trọng trong môi trường kiểm soát. Nếu việc
lập và thực hiện kế hoạch được tiến hành khoa học và nghiêm túc thì
hệ thống kế hoạch và dự toán đó sẽ trở thành công cụ kiểm soát rất
hữu hiệu. Vì vậy trong thực tế các nhà quản lý thường quan tâm xem
xét tiến độ thực hiện kế hoạch, theo dõi những nhân tố ảnh hưởng đến
kế hoạch đã lập nhằm phát hiện những vấn đề bất thường và xử lý,
điều chỉnh kế hoạch kịp thời. Đây cũng là khía cạnh mà kiểm toán
viên thường quan tâm trong kiểm toán báo cáo tài chính doanh nghiệp,
đặc biệt trong việc áp dụng các thủ tục phân tích.
Ủy ban kiểm soát:
Ủy ban kiểm soát bao gồm những người trong bộ máy lãnh đạo
cao nhất của đơn vị như thành viên của Hội đồng quản trị nhưng
không kiêm nhiệm các chức vụ quản lý và những chuyên gia am hiểu


về lĩnh vực kiểm soát. Ủy ban kiểm soát thường có nhiệm vụ và quyền
hạn như sau:
• Giám sát sự chấp hành luật pháp của công ty.
• Kiểm tra và giám sát công việc của kiểm toán viên nội bộ.

• Giám sát tiến trình lập Báo cáo tài chính.
• Dung hòa những bất đồng (nếu có) giữa Ban Giám đốc và
các kiểm toán viên bên ngoài.
Môi trường bên ngoài:
Môi trường kiểm soát chung của một doanh nghiệp còn phụ
thuộc vào các nhân tố bên ngoài. Các nhân tố này tuy không thuộc sự
kiểm soát của các nhà quản lý nhưng có ảnh hưởng rất lớn đến thái độ,
phong cách điều hành của các nhà quản lý cũng như sự thiết kế và vận
hành các quy chế và thủ tục kiểm soát nội bộ. Thuộc nhóm các nhân
tố này bao gồm: sự kiểm soát của các cơ quan chức năng của Nhà
nước, ảnh hưởng của các chủ nợ, môi trường pháp lý, đường lối phát
triển của đất nước...
Như vậy môi trường kiểm soát bao gồm toàn bộ những nhân tố
có ảnh hưởng đến quá trình thiết kế, vận hành và xử lý dữ liệu của hệ
thống kiểm soát nội bộ doanh nghiệp, trong đó nhân tố chủ yếu và
quan trọng là nhận thức về hoạt động kiểm tra, kiểm soát và điều hành
hoạt động của các nhà quản lý doanh nghiệp.
1.1.2.2. Hệ thống kế toán
Hệ thống thông tin chủ yếu là hệ thống kế toán của đơn vị bao
gồm hệ thống chứng từ kế toán, hệ thống tài khoản kế toán và hệ
thống bảng tổng hợp, cân đối kế toán. Trong đó, quá trình lập và luân


chuyển chứng từ đóng vai trò quan trọng trong công tác kiểm soát nội
bộ của doanh nghiệp.
Mục đích của một hệ thống kế toán của một tổ chức là sự nhận
biết, thu thập, phân loại, ghi sổ và báo cáo các nghiệp vụ kinh tế tài
chính của tổ chức đó, thỏa mãn chức năng thông tin và kiểm tra của
hoạt động kế toán. Một hệ thống kế toán hữu hiệu phải đảm bảo các
mục tiêu tổng quát sau đây sẽ được thực hiện

- Tính có thực: cơ cấu kiểm soát không cho phép ghi chép
những nghiệp vụ không có thực vào sổ sách của đơn vị.
- Sự phê chuẩn: đảm bảo mọi nghiệp vụ xảy ra phải được phê
chuẩn hợp lý
- Tính đầy đủ: bảo đảm việc phản ảnh trọn vẹn các nghiệp vụ
kinh tế phát sinh.
- Sự đánh giá: bảo đảm các nghiệp vụ được ghi chép đúng theo
sơ đồ tài khoản và ghi nhận đúng đắn ở các loại sổ sách kế
toán.
- Tính đúng kỳ: bảo đảm việc ghi sổ các nghiệp vụ phát sinh
được thực hiện kịp thời theo quy định.
- Quá trình chuyển sổ và tổng hợp chính xác: số liệu kế toán
được ghi vào sổ phải được tổng cộng và chuyển sổ đúng đắn,
tổng hợp chính xác trên các Báo cáo tài chính của doanh
nghiệp.
- Sự phân loại: bảo đảm số liệu được phân loại đúng theo sơ đồ
tài khoản của đơn vị, và ghi nhận đúng đắn ở các loại sổ sách
kế toán có liên quan.


Các mục tiêu tổng quát được vận dụng cụ thể trong từng loại
hoạt động, từng loại nghiệp vụ trọng yếu của đơn vị.
Ví dụ về sự triển khai các mục tiêu tổng quát thành những mục
tiêu cụ thể trong nghiệp vụ bán hàng.


Biểu số 01: Các mục tiêu kiểm soát nội bộ trong nghiệp vụ bán
hàng
Mục tiêu tổng


Mục tiêu kiểm soát cụ thể đối với nghiệp vụ bán

quát của KSNB
Tính có thực

hàng
Doanh thu ghi sổ của hàng hoá gởi cho khách hàng

Sự phê chuẩn

là có thật
Các nghiệp vụ bán hàng đều được phê chuẩn đúng

Tính đầy đủ

đắn
Các nghiệp vụ bán hàng phát sinh đều phải được

Sự đánh giá

ghi sổ
Doanh thu của hàng hoá gởi đi đã tính đúng số tiền,

và ghi sổ chính xác
Tính đúng kỳ
Doanh thu ghi sổ đúng thời gian
Sự phân loại
Các nghiệp vụ bán hàng được phân loại đúng đắn
Chuyển sổ và Các nghiệp vụ bán hàng được ghi đúng đắn vào sổ
tổng hợp chính chi tiết, và tổng hợp chính xác

xác
1.1.2.3. Các thủ tục kiểm soát
Để thực hiện các mục tiêu kiểm soát, các nhà quản lý phải quy
định các thủ tục kiểm soát và chúng được thiết kế tuỳ thuộc vào những
nét đặc thù của cơ cấu tổ chức, của hoạt động kinh doanh. Chuẩn mực
Kiểm toán Việt Nam số 400 Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ quy
định: “Kiểm toán viên phải hiểu biết các thủ tục kiểm soát của đơn vị
để xây dựng kế hoạch và chương trình kiểm toán”.(1,31)
Các thủ tục kiểm soát được thiết lập trong đơn vị dựa trên ba
nguyên tắc cơ bản: nguyên tắc phân công, phân nhiệm rõ ràng; nguyên
tắc bất kiêm nhiệm; và nguyên tắc ủy quyền và phê chuẩn.
Nguyên tắc phân công, phân nhiệm:


Theo nguyên tắc này, trách nhiệm và công việc cần được phân
chia cụ thể cho nhiều bộ phận và cho nhiều người trong bộ phận. Việc
phân công, phân nhiệm rõ ràng tạo sự chuyên môn hóa trong công
việc, sai sót ít xảy ra và khi xảy ra thường dễ phát hiện do có sự kiểm
tra chéo.
Nguyên tắc bất kiêm nhiệm:
Nguyên tắc này quy định sự cách ly thích hợp về trách nhiệm
trong các nghiệp cụ có liên quan nhằm ngăn ngừa các sai phạm và
hành vi lạm dụng quyền hạn. Ví dụ trong tổ chức nhân sự không thể
bố trí kiêm nhiệm các nhiệm vụ phê chuẩn và thực hiện, thực hiện và
kiểm soát, ghi sổ tài sản và bảo quản tài sản…
Ởnước ta, để đảm bảo thực hiện nguyên tắc này, Điều 9 - Điều lệ tổ
chức kế toán nhà nước, đã quy đinh: “Cán bộ kế toán ở các đơn vị
quốc doanh, công ty hợp danh, và các đơn vị có sử dụng kinh phí của
Nhà nước hoặc đoàn thể không được kiêm nhiệm làm thủ kho, thủ
quỹ, tiếp liệu và các công tác vật chất khác. Lãnh đạo đơn vị, kể cả

lãnh đạo công tác tài chính, kế toán của các đơn vị nêu trên không
được bố trí những người thân trong gia đình làm công tác tài chính kế
toán, thủ kho, thủ quỹ tại đơn vị mình”.
Nguyên tắc ủy quyền và phê chuẩn:
Theo sự ủy quyền của các nhà quản lý, các cấp dưới được giao
cho quyết định và giải quyết một số công việc trong một phạm vi nhất
định. Quá trình được tiếp tục mở rộng xuống các cấp thấp hơn tạo nên
một hệ thống phân chia trách nhiệm và quyền hạn mà vẫn không làm
mất tính tập trung của doanh nghiệp.


Bên cạnh đó, để tuân thủ tốt các quá trình kiểm soát, mọi nghiệp
vụ kinh tế phải được phê chuẩn đúng đắn. Sự phê chuẩn được thực
hiện qua hai loại: phê chuẩn chung và phê chuẩn cụ thể.
Sự phê chuẩn chung được thực hiện thông qua việc xây dựng các
chính sách chung về những mặt hoạt động cụ thể cho các cán bộ cấp
dưới tuân thủ. Ví dụ việc xây dựng và phê chuẩn bảng giá bán sản
phẩm cố định, hạn mức tín dụng cho khách hàng…
Sự phê chuẩn cụ thể được thực hiện theo từng nghiệp vụ kinh
riêng.
1.1.2.4. Kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nội bộ là một bộ phận độc lập được thiết lập trong
đơn vị tiến hành công việc kiểm tra và đánh giá các hoạt động phục vụ
yêu cầu quản trị nội bộ đơn vị.
Theo các chuẩn mực thực hành về kiểm toán nội bộ do Viện
Kiểm toán Nội bộ Hoa Kỳ ban hành năm 1978, “Kiểm toán nội bộ là
một chức năng đánh giá độc lập được thiết kế trong một tổ chức để
kiểm tra, đánh giá các hoạt động của tổ chức như là một hoạt động
phục vụ cho tổ chức”. Mục tiêu của kiểm toán nội bộ là giúp đỡ các
thành viên của tổ chức hoàn thành trách nhiệm của họ một cách hiệu

quả.
Theo Liên đoàn kế toán Quốc tế (IFAC), kiểm toán nội bộ là
“một hoạt động đánh giá được lập ra trong một doanh nghiệp như là
một loại dịch vụ cho doanh nghiệp đó, có chức năng kiểm tra, đánh
giá và giám sát thích hợp và hiệu quả của hệ thống kế toán và kiểm
soát nội bộ”.(2,89)


Là một trong những nhân tố cơ bản trong hệ thống kiểm soát nội
bộ của doanh nghiệp, bộ phận kiểm toán nội bộ cung cấp một sự quan
sát, đánh giá thường xuyên về toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp,
bao gồm cả tính hiệu quả của việc thiết kế và vận hành các chính sách
và thủ tục về kiểm soát nội bộ. Bộ phận kiểm toán nội bộ hữu hiệu
giúp cho doanh nghiệp có được những thông tin kịp thời và xác thực
về các hoạt động trong doanh nghiệp, chất lượng của hoạt động kiểm
soát nhằm kịp thời điều chỉnh và bổ sung các quy chế kiểm soát thích
hợp và hiệu quả. Tuy nhiên, bộ phận kiểm toán nội bộ chỉ phát huy tác
dụng nếu:
• Về tổ chức, bộ phận kiểm toán nội bộ phải trực thuộc một cấp
cao đủ để không giới hạn phạm vi hoạt động của nó, đồng thời
phải được giao một quyền hạn tương đối rộng rãi và hoạt động
tương đối độc lập với phòng kế toán và các bộ phận hoạt động
được kiểm tra.
• Về nhân sự, bộ phận kiểm toán nội bộ phải tuyển chọn những
nhân viên có năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp phù
hợp với các quy định hiện hành.
1.1.3. Những hạn chế vốn có của hệ thống kiểm soát nội bộ
Khi tìm hiểu về hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng , kiểm
toán viên cần nhận thức rằng mỗi hệ thống kiểm soát nội bộ dù được
thiết kế hoàn hảo đến đâu cũng không thể ngăn ngừa hay phát hiện

mọi sai phạm có thể xảy ra, đó là những hạn chế vốn cố hữu của hệ
thống kiểm soát nội bộ. Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400
Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ, những hạn chế đó được xác định
như sau:


- Ban Giám đốc thường yêu cầu chi phí cho hệ thống kiểm soát
nội bộ không vượt quá những lợi ích mà hệ thống đó mang
lại.
- Phần lớn công tác kiểm tra nội bộ thường tác động đến những
nghiệp vụ lặp đi lặp lại mà không tác động đến những nghiệp
vụ bất thường.
- Sai sót bởi con người thiếu chú ý, đãng trí, sai sót về xét đoán
hoặc do không hiểu rõ yêu cầu công việc.
- Khả năng vượt tầm kiểm soát của hệ thống kiểm soát nội bộ
do có sự thông đồng của một người trong Ban Giám đốc hay
một nhân viên với những người khác ở trong hay ngoài đơn
vị.
- Khả năng những người chịu trách nhiệm thực hiện kiểm soát
nội bộ lạm dụng đặc quyền của mình.
- Do có sự biến động tình hình, các thủ tục kiểm soát bị lạc hậu
hoặc bị vi phạm.
1.2.Đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ trong kiểm toán báo cáo
tài chính
1.2.1. Mục đích đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ
Trong thực tế hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ có mặt ở
hầu hết các yếu tố quan trọng liên quan đến quá trình kiểm toán. Nếu
kết quả đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động tốt và có độ tin
cậy cao thì có thể thu hẹp phạm vi, nội dung, khối lượng công việc
kiểm toán và tiết kiệm chi phí kiểm toán. Mặt khác, đánh giá không

đúng về tình hình, độ tin cậu của hệ thống kiểm soát nội bộ thì kiểm
toán viên có thể sẽ bỏ sót những nội dung trọng yếu và không tránh


×