Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Một số vấn đề về công tác chấp hành ngân sách nhà nước trên địa bàn cả nước sau năm năm thực hiện luật ngân sách nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.5 KB, 89 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế xã hội NSNN
đã trở thành công cụ điều chỉnh vĩ mô cực kỳ quan trọng. Muốn
sử dụng tốt công cụ này phải đổi mới nội dung của nó. Đổi mới
NSNN không chỉ liên quan tới việc hoạt động thu chi Nhà nước
mà còn gắn liền với việc đổi mới cơ chế cung cấp ngân sách các
cơ cấu cân đối ngân sách và đổi mới quy trình ngân sách. Những
vấn đề trên có liên quan chặt chẽ với nhau, đòi hỏi phải đổi mới
đồng bộ và nhất quán. Với Luật NSNN Bộ Luật đầu tiên về ngân
sách ngân sách của nước ta được Quốc Hội nước cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 20/3/1996 nền tài chính Nhà
nước đã có một bước tiến mới. Điểm nổi bật trong Luật NSNN là
xác định một cơ chế mới trong công tác chấp hành ngân sách trên
cơ sở kế thừa những ưu điểm của cơ chế cũ và đổi mới những
điểm bất cập cho phù hợp với tình hình mới. Sau năm năm thực
hiện Luật NSNN trên địa bàn cả nước những cơ chế mới đó có
phát huy được tính tích cực hay không những điểm nào vẫn chưa
phù hợp với thực tế, những nguyên nhân và hướng khắc phục - đó
là những vấn đề mà em muốn đề cập tới trong Luận Văn tốt
nghiệp này với đề tài :


"Một số vấn đề về công tác chấp hành ngân sách Nhà
nước trên địa bàn cả nước sau năm năm thực hiện Luật
NSNN ".
Để hoàn thành bản Luận Văn này em đã nhận được sự giúp
đỡ nhiệt tình của Thầy giáo Phạm Văn Khoan cùng các cô chú
trong Phòng Quản lý ngân sách -Vụ ngân sách - Bộ Tài chính.
Tuy nhiên do điều kiện có hạn nên bản Luận Văn này không thể
tránh khỏi những khiếm khuyết rất mong được sự tham gia góp ý
của các thầy, cô và những người quan tâm đến vấn đề này


Sinh viên thực hiện
Hoàng Trần Phương
CHƯƠNG1 : NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ VAI TRÒ CỦA NGÂN
SÁCH NHÀ NƯỚC:
1.1.1Khái niệm ngân sách nhà nước:
Ngân sách nhà nước (NSNN) là khái niệm luôn đi liền với
nhà nước.Cũng giống như từng cá nhân các hộ gia đình,các
công ty đều có ngân sách riêng của nó-dĩ nhiên, NSNN phức
tạp hơn nhiều so với ngân sách cá nhân hay ngân sách của các
công ty.Tuy nhiên chúng có những điểm tương đồng : có các
nguồn thu khoản chi ,có sự thặng dư hay thâm hụt và ngân sách


bao giờ cũng là mối quan tâm của nhân dân.Chúng ta đều biết
rằng, bất kì nhà nước nào cũng đều đảm nhận các chức năngnhiệm vụ đối với các vấn đề kinh tế xã hội của đất nước.Để
thực hiện các chức năng nhiệm vụ đó,Nhà nước phải sử dụng
nhiều công cụ khác nhau trong đó có NSNN là một công cụ hết
sức quan trọng.Nhận thức được tầm quan trọng của NSNN cho
nên NSNN đã và đang là đối tượng nghiên cứu của nhiều
người.Mỗi khi nghiên cứu về NSNN lại đứng trên nhiều góc độ
khác nhau,do vậy hiện nay có nhiều cách lý giải về NSNN:
+Theo các nhà kinh tế học hiện đại Nga :NSNN là bảng dự
toán thu - chi bằng tiền của nhà nước trong một khoảng thời
gian nhất định.
+Có khái niệm cho rằng : NSNN là một bộ phận kế hoạch
Tài chính và là kế hoạch Tài chính cơ bản nhất hay : NSNN là
qũi tiền tệ tập trung của nhà nước.
+Theo David Begg - nhà kinh tế học người Đức : NSNN là

bảng tường trình mô tả những hàng hoá dịch vụ mà chính phủ
sẽ mua trong năm tới , những thanh toán chuyển nhượng mà
chính phủ sẽ thực hiện và cách thức chính phủ tài trợ cho
những khoản đó .Từ những cách lý giải như vậy ta có thể rút ra
một số đIểm đặc trưng của NSNN như sau:


+Thứ nhất : NSNN là một bảng liệt kê trong đó dự kiến và
cho phép thực hiện các khoản thu , chi bằng tiền của nhà nước.
+Thứ hai : NSNN là tồn tại trong khoảng thời gian nhất định
thường là một năm.
Ở nước ta luật ngân sách được quốc hội thông qua ngày
20/3/1996 trong đó điều một qui định : “NSNN là toàn bộ các
khoản thu chi của nhà nước trong dự toán đã được cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong
một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng nhiệm vụ của nhà
nước”.
Các quan niệm trên đây đều đã nêu ra được mặt vật chất của
NSNN, đã tách ra được những thuộc tính làm cho người ta
không nhầm lẫn giữa khái niệm NSNN với khái niệm khác .Đó
là nếu chỉ nhìn bề ngoài thì các biểu hiện của NSNN rất đa
dạng phong phú, nó là bảng tổng hợp mọi khoản thu, chi Tài
chính nhà nước; là sự động viên các nguồn tài chính nhà nước
vào trong tay Nhà nước dưới hình thức thuế ,phí ,lệ phí.Nó là
khoản chi tiêu của Nhà nước cho nhu cầu an ninh, quốc
phòng ,giáo dục , y tế
Trong qúa trình nhận thức về NSNN, ngoài việc xem xét
các khái niệm, chúng ta cần nghiên cứu thêm một số vấn đề



khác có liên quan đến NSNN.Những vấn đề đó đã được trình
bày trong luật NSNN năm 1996 như sau:
-NSNN được tổ chức thành một hệ thống trong đó bao gồm
ngân sách trung ương và ngân sách các cấp chính quyền địa
phương( gọi chung là ngân sách địa phương)
-NSNN được thực hiện theo từng năm và được gọi là năm
ngân sách.Năm ngân sách được bắt đầu từ ngày 01 tháng 01 và
kết thúc vào ngày 31 tháng 12 năm dương lịch.
- Chu trình ngân sách là toàn bộ các quá trình hoạt động kể từ
lúc hình thành ngân sách cho đến lúc tổng kết chuyển sang
năm ngân sách mới.Chu trình ngân sách bao gồm các gian
đoạn : hình thành ngân sách, thực hiện ngân sách và quyết
toán ngân sách.Như vậy chu trình ngân sách có phạm vi thời
gian rộng hơn năm ngân sách.
Để có thể hiểu kĩ hơn về ngân sách Nhà nước, ta đi vào tìm
hiểu bản chất của NSNN.
1.1.2.Bản chất của NSNN :
Đối với NSNN các hiện tượng biểu hiện của nó rất đa dạng
và phong phú như đã chỉ ra ở trên .Song chúng ta không thể
phủ nhận một thực tế là các hoạt động của NSNN không hề
mang tính chất tự phát nằm ngoài sự kiểm soát của nhà
nước . Ngược lại, khi phân tích các hiện tượng thấy rằng


chúng luôn luôn bị ràng buộc bởi những nội dung bên trong
hết sức chặt chẽ .Cụ thể là :
-Thứ nhất : các khoản thu NSNN đều mang tính bắt buộc
còn các khoản chi lại mang tính chất cấp phát (hoản trả
không trực tiếp ).Nội dung này xuất phát từ quyền lực của
nhà nước và nhu cầu về tài chính để thực hiện các chức

năng quản lý , điều hành nền kinh tế xã hội của nhà nước.
-Thứ hai :Mọi hoạt động của NSNN đều là hoạt động phân
phối các nguồn tài chính , vì vậy nó thể hiện các mối quan
hệ trong phân phối .Đó là quan hệ giữa một bên là nhà nước
và một bên là các chủ thể khác trong xã hội ( bao gồm các tổ
chức kinh tế trong xã hội ,các tầng lớp nhân dân )
Từ những phân tích trên có thể đi tới kết luận :
-NSNN hoạt động trong các lĩnh vực phân phối các nguồn
tài chính và vì vậy nó thể hiện các mối quan hệ về lợi ích
kinh tế giữa nhà nước và xã hội.
-Quyền lực về NSNN thuộc về nhà nước.Mọi khoản thu và
chi tài chính của nhà nước đều do Nhà nước quyết định và
nhằm mục đích phục vụ yêu cầu thực hiện các chức năng
của Nhà nước.


Những nội dung trên là những mặt những mối liên hệ
quyết định đến sự phát sinh, phát triển của NSNN. Do đó có
thể đi đến kết luận về bản chất của NSNN như sau:
NSNN là hệ thống các mối quan hệ kinh tế giữa nhà nước và
xã hội phát sinh trong quá trình nhà nước huy động và sử dụng
các nguồn tài chính nhằm đảm bảo yêu cầu thực hiện các chức
năng quản lý và điều hành nền kinh tế - xã hội của mình.
1.1.3Chức năng của NSNN
-Huy động nguồn tài chính và đảm bảo các nhu cầu chi tiêu
theo dự toán của nhà nước.
Khi nhà nước ra đời cần phải có các nguồn tài chính để chi tiêu
cho mục đích bảo vệ sự tồn tại ngày càng vững chắc của mình,
đó là các khoản chi cho bộ máy quản lý của nhà nước, cho cảnh
sát và quân đội.Tiếp đến là các nhu cầu chi khác nhằm thực hiện

các chức năng của nhà nước như chi cho các nhu câù văn hoá ,
giáo dục , y tế, phúc lợi xã hội, trợ cấp xã hội , chi cho đầu tư
xây dựng cơ bản, hệ thống kết cấu hạ tầng, chi phát triển sản
xuất...Tất cả các nhu cầu chi tiêu tài chính của nhà nước đều
được đảm bảo thực hiện thông qua nguồn thu của ngân sách nhà
nước.


-Thực hiện cân đối giữa các khoản thu và các khoản chi bằng
tiền của Nhà nước.Bắt buộc mỗi khoản chi phải theo dự toán,
mỗi khoản thu phải tuân theo luật định.
1.1.4.Vai trò của NSNN
Vai trò của NSNN được xác định trên cơ sở các chức năng
nhiệm vụ của NSNN trong từng giai đoạn cụ thể . Trong cơ chế
thị trường hiện nay, NSNN có một số vai trò sau:
-Trước hết , NSNN đảm bảo cho việc cung cấp những phương
tiện vật chất cần thiết để duy trì và tồn tại hoạt động bình thường
của bộ máy nhà nước-đây là vai trò nguyên thuỷ của NSNN kể
từ khi nó ra đời mà trong cơ chế nào và thời đại nào NSNN cũng
phải thực hiện .Bởi vì cũng giống như các cá nhân,các tổ chức,
Nhà nước muốn tồn tại và hoạt động được có những khoản chi
phí nhất định, những khoản chi đó được lấy từ NSNN.Nếu không
có quỹ NSNN hoặc khi NSNN bị thâm hụt thì đó là một khó
khăn rất lớn đối với Nhà nước trong việc duy trì sự tồn tại và
thực hiện chức năng của mình.
-Trong giai đoạn hiện nay, mô hình kinh tế hỗn hợp phát triển
theo cơ chế thị trường đang được áp dụng phổ biến rộng rãi ở
nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt nam, mô hình này có
nhiều ưu điểm, thúc đẩy nền kinh tế phát triển với tốc độ cao ,tuy
nhiên nó có nhiều khuyết tật như : độc quyền , đầu cơ , lũng



đoạn , phân hoá giàu nghèo. . . chính vì vậy vai trò của nhà nước
trong quản lý kinh tế xã hội ngày càng trở nên quan trọng .Song
nhà nước chỉ có thể điều chỉnh thành công khi có các nguồn tài
chính bảo đảm, tức là sử dụng triệt để và có hiệu quả công cụ
NSNN.Có thể khái quát vai trò của NSNN trong lĩnh vực kinh
tế ,xã hội , thị trường như sau :
-Về mặt kinh tế
NSNN cung cấp nguồn kinh phí để nhà nước đầu tư xây dựng
cơ sở kết cấu hạ tầng , hình thành các doanh nghiệp thuộc các
ngành then chốt, tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển
của các thành phần kinh tế khác.
NSNN được sử dụng để hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh
nghiệp trong những trường hợp cần thiết, đảm bảo cho sự ổn
định về cơ cấu hoặc chuyển sang cơ chế mới hợp lý hơn.
Bên cạnh đó , việc sử dụng NSNN thông qua các nguồn hình
thành của nó cũng có ý nghĩa rất lớn.Các khoản thuế và chính
sách thuế sẽ đảm bảo vai trò định hướng đầu tư , kích thích hoặc
hạn chế sản xuất kinh doanh.
+ Về mặt xã hội :
Việc sử dụng NSNN cũng quyết định tới sự thành công trong
việc thực hiện các chính sách xã hội của nhà nước.Để giải quyết
các vấn đề xã hội ,Nhà nước cũng sử dụng công cụ thuế, chẳng


hạn thuế thu nhập và thuế lợi tức có vai trò quan trọng nhằm điều
tiết thu nhập cao, phân phối lại cho các đối tượng có thu nhập
thấp.Các loại thuế gián thu ngoài mục đích trên còn có tác dụng
hướng dẫn người tiêu dùng hợp lý.Tuy nhiên trong nhiều trường

hợp các giải pháp trên lại có tác dụng ngược lại , tức là làm cho
vấn đề xã hội thêm căng thẳng và gay gắt,chẳng hạn kinh phí của
NSNN được cấp phát cho trợ giá điện ,xăng dầu , truyền hình thi
những đối tượng được hưởng không phải là người nghèo mà là
những người có thu nhập trung bình hoặc thu nhập cao.Cho nên
khi sử dụng các công cụ ngân sách vào giải quyết các vấn đề xã
hội đòi hỏi phải được nghiên cứu đầy đủ,phải có sự thống nhất
giữa chính sách và biện pháp.
+Về mặt thị trường
NSNN có vai trò quan trọng đối với việc thực hiện các chính
sách về bình ổn giá cả,thị trường và chống lạm phát.Bằng công
cụ thuế và chính sách chi ngân sách, Nhà nước có thể chủ động
điều chỉnh giá cả, thị trường.Trong cơ chế thị trường,giá cả phụ
thuộc vào quan hệ cung cầu và các yếu tố khác.Sẽ có lúc giá cả
lên quá cao và có lúc giá cả xuống quá thấp,để bảo đảm cho
quyền lợi người tiêu dùng và kích thích sản suất ,nhà nước phải
có nguồn tài chính, hàng hoá dự trữ để điều chỉnh, nguồn dự trữ
này được hình thành từ kinh phí của NSNN.Do đó sự thành công


của NSNN trong đIều chỉnh giá cả,thị trường được thực hiện
thông qua chi của NSNN cho các nguồn dự trữ.
Ngoài ra chống lạm phát cũng là một nội dung quan trọng
trong qúa trình điều chỉnh thị trường.Lạm phát có nhiều nguyên
nhân trong đó có lĩnh vực thu chi tài chính nhà nước.Chính vì
vậy NSNN phải góp phần khống chế và đẩy lùi lạm phát, điều
này được thể hiện ở chỗ thu chi NSNN phải nhằm mục đích kích
thích sản xuất phát triển, chống bao cấp lãng phí.Khi đồng tiền
được sử dụng chặt chẽ và có hiệu quả thì tác dụng của nó rất lớn
và ngược lại sẽ gây ra mất ổn định trên thị trường.

1.2Thu ngân sách nhà nước:
1.2.1Khái niệm thu ngân sách nhà nước :
Thu NSNN là quá trình Nhà nước dùng quyền lực chính trị,
kinh tế, ngoại giao để phân phối một bộ phận của cải xã hội dưới
hình thức tiền tệ về tay mình, hình thành nên quĩ tiền tệ tập
trung của Nhà nước (quĩ NSNN)
Như vậy , thu của NSNN là toàn bộ các khoản thu được tập trung
vào trong tay Nhà nước , bao gồm các khoản thu từ thuế , phí lệ
phí:các khoản thu từ các hoạt động kinh tế của Nhà nước; các
đóng góp của các tổ chức ; các khoản viện trợ ; các khoản thu
khác theo qui định của pháp luật.


Xét về mặt nội dung, thu NSNN chứa đựng các quan hệ phân
phối nảy sinh trong quá trình Nhà nước dùng quyền lực để tập
trung một phần nguồn tài chính quốc gia vào tay mình .Đó chính
là các quan hệ về lợi ích kinh tế giữa Nhà nước với các chủ thể
kinh tế khác trong xã hội.
Quá trình thu NSNN bao gồm nhiều hành vi , hành động khác
nhau như đề ra chủ trương , phương hướng thu ngân sách, ban
hành chế độ luật lệ cụ thể về thu ngân sách,tổ chức và cơ chế tiến
hành thu ngân sách.
1.2.2 Đặc điểm thu ngân sách nhà nước:
Thu NSNN có một số đặc điểm chủ yếu như sau:
Thu của NSNN được lấy từ nhiều nguồn khác nhau,cả trong
nước và ngoài nước; cả sản xuất lưu thông , phân phối ,tiêu dùng
nhưng chủ yếu vẫn là từ thu nhập quốc dân.Tăng thu nhập quốc
dân là cơ sở để tăng thu ngân sách và tăng thu ngân sách cũng
phảI có những tác động để tăng thu nhập quốc dân.Thu NSNN
được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng trong đó

thuế là hình thức thu phổ biến nhất và quan trọng nhất.
- Xét về mặt định lượng, thu NSNN luôn gắn với thực trạng
kinh tế , khi nền kinh tế phát triển, nguồn thu trong xã hội
dồi dào thì thu NSNN sẽ thực hiện dễ dàng và tăng
lên.Ngược lại , thu NSNN sẽ gặp khó khăn nếu như nền


kinh tế lâm vào khủng hoảng.Tăng thu nhập quốc dân là cơ
sở để tăng thu ngân sách và tăng thu ngân sách cũng phải có
đủ những tác động để kích thích tăng thu nhập quốc dân.
Xét về mặt định tính, thu NSNN luôn gắn liền với quyền lực chính
trị của nhà nước,nó thể hiện tính cưỡng chế bằng luật lệ do nhà
nước qui định.Trong thực tế các khoản thu từ thuế phí lệ phí là
những khoản thu chủ yếu cho NSNN đều được Nhà nước qui
định thành luật và buộc mọi người phải chấp hành. Nói cách khác,
thu của NSNN là sự biểu hiện kết quả của việc xử lý mối quan hệ
lợi ích giữa một bên là Nhà nước và một bên là các chủ thể kinh tế
khác trong xã hội. Trong thực tiễn việc giải quyết mối quan hệ này
hết sức phức tạp, không chỉ đòi hỏi kỹ thuật mà đòi hỏi cả nghệ
thuật của Nhà nước. Nếu xử lý không đúng đắn mối quan hệ này
thì không chỉ ảnh hưởng tới thu của NSNN hiện tại mà còn ảnh
hưởng không nhỏ đến thu của NSNN trong tương lai.
1.2.3 Phân loại các khoản thu NSNN:
Có nhiều căn cứ khác nhau để phân loại khoản thu của NSNN.
- Theo nguồn hình thành: các khoản thu NSNN được chia làm
hai loại là thu trong nước và thu ngoài nước.
+ Thu trong nước bao gồm:


Những khoản thu được hình thành và thực hiện trong khâu sản

xuất
Những khoản thu được hình thành ở khâu lưu thông.
Những khoản thu được huy động từ các hoạt động dịch vụ.
+ Thu ngoài nước bao gồm:
Các khoản Nhà nước đi vay (bao gồm vay ưu đãi và vay
thương mại)
Các khoản viện trợ không hoàn lại.
- Căn cứ vào tính chất phát sinh các khoản thu: thu NSNN có 2
loại là
+ Thu thường xuyên: thuế, phí, lệ phí.
+ Thu không thường xuyên: vay nợ, viện trợ, tiền bán tài sản
của Nhà nước.
- Căn cứ vào ngành kinh tế thì thu NSNN có thể chia ra thu từ
công nghiệp, nông nghiệp, du lịch, giao thông vận tải.
- Căn cứ theo thành phần kinh tế có:
+ Thu từ khu vực kinh tế Nhà nước.
+ Thu từ khu vực kinh tế tư nhân.
- Căn cứ vào nội dung kinh tế có:
+ Các khoản thu mới.
+ Các khoản thu hồi.
- Căn cứ theo hình thức biểu hiện có:


+ Nguồn thu trực tiếp tồn tại dưới hình thức tiền tệ.
+ Nguồn thu tiềm năng: chưa biểu hiện dưới dạng tiền tệ nhưng
có khả năng chuyển hoá thành tiền như tài nguyên, khoáng sản.
- Căn cứ vào yêu cầu quản lý điều hành ngân sách thì các khoản
thu NSNN được chia làm 2 loại:
+ Thu trong cân đối ngân sách: khoản thu này tương đối ổn
định và mang tính chất thường xuyên, có cơ sở ổn định vững

chắc để đảm bảo cho NSNN, bao gồm: thu về thuế, phí, lệ phí,
thu từ tài sản của Nhà nước và thu khác.
+ Thu ngoài cân đối ngân sách: để bù đắp sự thiếu hụt của
NSNN bao gồm vay trong nước và vay ngoài nước.
Sau khi xem xét việc phân loại thu của NSNN, ta cần lưu ý
một điểm sau đây: Tổng số thu của NSNN (còn gọi là số tiền mà
Nhà nước huy động được vào NSNN) mà không bị ràng buộc bởi
trách nhiệm hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp gọi là thu nhập
của NSNN. Với quan niệm như vậy thì thu nhập của NSNN không
bao gồm các khoản vay nợ của Nhà nước.
Thu nhập của NSNN có ý nghĩa rất quan trọng, nó phản ánh
đúng số thực thu của Nhà nước; thể hiện chính xác số bội chi và tỷ
lệ bội chi, tránh sự nhầm lẫn giữa thực tế thu của NSNN và số
Nhà nước phải đi vay để chi.


13 CHI NSNN
1.3.1.Khái niệm chi NSNN:
Chi NSNN là quá trình Nhà nước phân phối, sử dụng khối
lượng tiền tệ đã tập trung thông qua thu của NSNN để duy trì sự
tồn tại và hoạt động bình thường của bộ máy Nhà nước và để thực
hiện các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội của Nhà nước.
Chi của NSNN bao gồm: các khoản chi phat triển kinh tế xã
hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, đảm bảo hoạt động của bộ máy
Nhà nước, chi trả nợ của Nhà nước, chi viện trợ và các khoản theo
quy định của pháp luật - Điều 2 Luật NSNN năm 1996.
Như vậy, chi NSNN phản ánh mục tiêu hoạt động của
NSNN, nó là sự phối hợp giữa hai quá trình phân phối - sử dụng
khối lượng tiền tệ đã có thông qua thu NSNN. Trong đó: Quá
trình phân phối là quá trình cấp phát hạn mức kinh phí từ NSNN

để hình thành nên một số quỹ trung gian trước khi đi vào sử dụng.
Còn quá trình sử dụng là quá trình chi dùng trực tiếp từ NSNN
hoặc quỹ trung gian, không trải qua việc hình thành một quỹ trung
gian nào khác.
1.3.2Đặc điểm chi NSNN.
- Chi NSNN nhằm duy trì sự tồn tại và hoạt động bình thưòng
của bộ máy Nhà nước, nó gắn chặt với những nhiệm vụ kinh tế,
chính trị, xã hội mà Nhà nước đảm nhận. Nhà nước càng thực


hiện nhiều nhiệm vụ thì mức độ và phạm vi chi của NSNN
ngày càng lớn, liên quan đến nhiều đối tượng trong xã hội và
mức độ ảnh hưởng của chúng thường được xem xét trên tầm vĩ
mô.
- Từ đặc điểm trên ta thấy cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà
nước là cơ quan duy nhất quyết định nội dung, cơ cấu, mức độ
chi của NSNN. ở nước ta, cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà
nước là Quốc hội, Quốc hội thông qua các Luật, sửa đổi các
Luật trong lĩnh vực NSNN, quyêt định tới chính sách tài chính
tiền tệ của Nhà nước, giám sát thực hiện NSNN.
- Phần lớn các khoản chi của NSNN mang tính chất không hoàn
trả trực tiếp, có nghĩa là không phải chi ra là để trả lại các
khoản thu trước đây của những địa chỉ cụ thể. Tuy vậy chi
NSNN cũng có những khoản mang tính chất hoàn trả trực tiếp
như chi trả nợ gốc tiền vay.
Chi của NSNN vừa mang tính chất ngang giá vừa mang tính
chất không ngang giá, ví dụ chi để mua hàng hoá dịch vụ, thiết bị
là những khoản chi mang tính chất ngang giá. Còn chi trợ cấp, trợ
giá, bảo hiểm xã hội là những khoản chi có tính chất không ngang
giá.

Chi của NSNN còn gắn liền với sự vận động của các phạm trù
thuộc lĩnh vực tiền tệ như tiền lương, giá cả, lãi suất, tỷ giá.Chính


vì vậy trong Luật NSNN cho phép các cấp điều chỉnh dự toán
ngân sách trong những trường hợp cụ thể theo quy định của pháp
luật.
13.3 Phân loại chi NSNN:
-

Căn cứ vào lĩnh vực chi thì chi NSNN được chia thành:
+ Chi đầu tư phát triển kinh tế
+ Chi y tế
+ Chi giáo dục
+ Chi quản lý Nhà nước
+ Chi an ninh quốc phòng
+ Chi viện trợ, trả nợ, cho vay

- Căn cứ theo đối tượng trực tiếp của các khoản chi:
+ Các khoản chi cho nhân viên (lương, trợ cấp, một số
khoản có tính chất lương)
+ Chi về mua sắm vật liệu dụng cụ cho cơ quan quản lý Nhà
nước
+ Chi cho công tác xây dựng
+ Chi về các loại trợ cấp, các khoản chi mang tính chất tài
trợ và hoàn trả nợ vay của Nhà nước.
- Căn cứ theo yếu tố thời gian có:


+ Chi thường xuyên: được thực hiện một cách đều đặn và

thường xuyên để phục vụ cho tiêu dùng trong hiện tại. Bao
gồm chi cho tiêu dùng cá nhân và chi tiêu dùng cho các đơn
vị dự toán ngân sách trong đó chủ yếu là các khoản chi
lương, trợ cấp, chi mua sắm hàng hoá, dịch vụ, chi chuyển
giao thường xuyên.Các khoản chi thường xuyên chỉ được
phép lấy từ thu trong cân đối ngân sách.
+ Chi đầu tư: là những khoản chi cho tiêu dùng trong tương
lai, mang tính chất tích luỹ. Nó có tác dụng làm tăng cơ sở
vật chất quốc gia và góp phần làm tăng trưởng nền kinh tế.
Chi đầu tư bao gồm chi cho xây dựng các công trình kiến
trúc thuộc cơ sở hạ tầng, chi chuyển giao công nghệ, chi để
góp vốn vào các đơn vị sản xuất kinh doanh, chi để hình
thành quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia và các quỹ hỗ trợ phát triển
đối với các chương trình dự án phát triển kinh tế.
- Căn cứ vào chức năng quản lý thì chi NSNN chia thành:
+ Chi nghiệp vụ: là những khoản chi lương, tiền công, trả
nợ, chi hỗ trợ, chi chuyển giao, hưu trí, thâm niên.
Chi phát triển: chi dịch vụ, kinh tế, chi an ninh quốc phòng
và các khoản chi dịch vụ xã hội, chi quản lý hành chính.


ở nước ta, việc phân loại các khoản thu, chi NSNN được quy
định trong hệ thống Mục lục NSNN (ban hành theo quyết định số
1280/TC QĐ/NSNN ngày 15/04/1997 của Bộ Tài Chính).
1.4. Tác động của luật NSNN đối với công tác chấp hành ngân
sách
1.4.1Khái quát Luật NSNN
Sau 5 năm dày công chuẩn bị tiếp thu ý kiến của các Bộ,
ngành, địa phương, các thành viên của Chính phủ, các chuyên gia
trong và ngoài nước, Luật NSNN đã được Quốc hội nước

CHXHCN Việt nam thông qua ngày 20/03/1996. Việc ra đời và
triển khai thực hiện Luật NSNN đánh dấu một bước ngoặt quan
trọng trong công cuộc hoàn thiện nền tài chính quốc gia và xây
dựng một Nhà nước pháp quyền.
Luật NSNN bao gồm 8 chương với 82 điều trong đó quy
định về việc lập, chấp hành, quyết toán, kiểm tra NSNN và về
nhiệm vụ , quyền hạn của cơ quan Nhà nước các cấp trong lĩnh
vực NSNN.
Luật NSNN ra đời để quản lý thống nhất nền tài chính quốc
gia, xây dựng NSNN lành mạnh, củng cố kỹ thuật tài chính, sử
dụng tiết kiệm có hiệu quả tiền của của Nhà nước, tăng tích luỹ để
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng


XHCN, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời
sống nhân dân, đảm bảo quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
1.4.2Công tác chấp hành ngân sách sau khi có Luật NSNN
Một trong những điểm nổi bật của Luật NSNN là đã xác định
được quy trình chấp hành ngân sách mới, phù hợp với yêu cầu đổi
mới công tác quản lý tài chính Nhà nước. Có thể điểm qua một số
nết mới của công tác chấp hành ngân sách được quy định trong
Luật NSNN năm 1996 như sau:
- Về công tác phân bổ dự toán:
Sau khi được Chính phủ, Uỷ ban nhân dân giao kế hoạch ngân
sách, các cơ quan Nhà nước ở Trung ương và địa phương có trách
nhiệm phân bổ dự toán được giao cho các đơn vị sử dụng ngân
sách, đảm bảo đúng với dự toán ngân sách được giao cả về tổng
mức và chi tiết. Đồng thời, kết quả phân bổ dự toán ngân sách cho
các đơn vị sử dụng ngân sách phải gửi cơ quan Tài chính cùng cấp
và Kho bạc nơi giao dịch để theo dõi cấp phát và quản lý.

Ngoài cơ quan giao ngân sách không một tổ chức hoặc cá
nhân nào được thay đổi nhiệm vụ ngân sách đã được phân bổ.
Việc phân bổ và giao dự toán ngân sách cho các đơn vị sử dụng
ngân sách phải kết thúc trước ngày 31/12 năm trước.
- Về công tác thu ngân sách:


Chỉ cơ quan thu mới được tổ chức thu ngân sách, bao gồm các cơ
quan
+ Cơ quan Thuế
+ Cơ quan Hải quan
+ Cơ quan Tài chính và cơ quan khác được Chính phủ và Bộ
Tài chính uỷ quyền.
Việc nộp đầy đủ, đúng hạn các khoản thuế, phí, lệ phí và các
khoản thu khác vào NSNN theo quy định của pháp luật là nghĩa
vụ của các tổ chức, cá nhân kể cả các tổ chức, cá nhân nước ngoài
hoạt động trên lãnh thổ nước CHXHCN Viet nam. Trường hợp
các tổ chức, cá nhân cố tình nộp chậm, nộp thiếu, không nộp đều
bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Toàn bộ các khoản thu của NSNN phải nộp trực tiếp vào
Kho bạc nhà nước. Đối với một số khoản thu ở các hộ kinh doanh
không cố định, thu ngân sách ở địa bàn xã vì lý do khách quan mà
việc nộp trực tiếp vào Kho bạc Nhà nước có khó khăn thì cơ quan
thu có thể thu trực tiếp, song phải nộp vào Kho bạc Nhà nước theo
quy định của Bộ trưởng Bộ Tài Chính.
- Về công tác chi NSNN:
Chi NSNN chỉ được thực hiện khi có đủ các điều kiện sau:
+ Đã có trong dự toán NSNN được duyệt
+ Đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức của Nhà nước



+ Đã được thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc người được
uỷ quyền chuẩn chi.
Mọi khoản thu chi cua NSNN đều được thực hiện theo nguyên tắc
thanh toán trực tiếp từ Kho bạc nhà nước.
- Về kiểm tra công tác chấp hành NSNN:
Các đơn vị sử dụng NSNN có nhiệm vụ báo cáo định kỳ tình hình
thực hiện chi NSNN gửi cho cơ quan Tài chính theo quy định của
pháp luật. Tất cả các đơn vị sử dụng kinh phí NSNN phải mở tài
khoản tại Kho bạc Nhà nước, chịu sự kiểm tra của cơ quan Tài
chính và Kho bạc trong quá trình cấp phát thanh toán, sử dụng
kinh phí.
Trong quá trình chấp hành NSNN, nếu có sự thay đổi về thu, chỉ
thị Chính phủ sẽ điều chỉnh dự toán ngân sách đã giao cho các cơ
quan Trung ương, Uỷ ban nhân dân các cấp điều chỉnh dự toán
ngân sách đã giao cho các cấp trực thuộc.

CHƯƠNG 2 : CÔNG TÁC CHẤP HÀNH NGÂN SÁCH
TRÊN CẢ NƯỚC SAU NĂM NĂM THỰC HIỆN LUẬT
NGÂN SÁCH
(1997-2001)
2.1.Tổng quan về tình hình kinh tế


Trong năm 2001 bên cạnh những thuận lợi cơ bản, nền kinh tế
Việt nam phải đương đầu với những khó khăn: Kinh tế thế giới
tiếp tục trì trệ, giá cả nhiều mặt hàng xuất khẩu giảm mạnh, thiên
tai ở miền Trung và Nam bộ. Những khó khăn đó đã tác động đến
tình hình thực hiện các chỉ tiêu kinh tế xã hội của đất nước so với
dự kiến đầu năm.

Tình hình thực hiện một số chỉ tiêu kinh tế năm 2001
Chỉ tiêu

Thực

Mục tiêu Thực

hiện

2001

hiện

2000
- Tốc độ tăng trởng kinh tế 6,7%

7,5%

2001
6,8%

GDP
- GTTSL nông nghiệp
4,9%
- GTTSL công nghiệp
15,5%
- Tốc độ tăng giá trị ngành 5,5%

4,5%
14,0%

7%

2,2%
14,2%
6,8%

dịch vụ
- Tốc độ tăng xuất khẩu
21,3%
- Chỉ số giá cả
-0,6%
- Vốn đầu t toàn xã hội so 29,7%

16%
<5%
30%

4,5%
0,8%
30,8%

6%

5%

GDP
- Bội chi NSNN so GDP
5%
(Nguồn số liệu: Vụ ngân sách)



Tuy không đạt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế theo kế hoạch đầu
năm đề ra, nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt nam năm
2001 vẫn ở mức cao và ổn định, cao hơn tốc độ tăng trưởng bình
quân chung của các nước trong khu vực. Theo đánh giá của Ngân
hàng thế giới tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2001 của toàn bộ nền
kinh tế thế giới là 1,3% - thấp hơn mức 3,8% của năm 2000; trong
đó các nước trong khu vực: Thailand 1,2%; Hàn quốc 2,5%;
Trung quốc 7,2%; Indonesia 3,6%; Philippine 1,3%; Singapore
-2,3%; Malaysia 2,5%.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt nam đạt 6,8% là một cố
gắng lớn; cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tích cực
(Năm 2001: khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 0,6%; công
nghiệp và xây dựng 3,7%; dịch vụ 2,5%. Năm 2000: khu vực
nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 1,0%; khu vực công nghiệp và xây
dựng 3,4%; dịch vụ 2,3%).
Sau năm năm thực hiện luật Ngân sách từ 1997 đến năm 2001
ta thấy : Luật ngân sách nhà nước ra đời và có hiệu lực thi hành từ
năm ngân sách 1997.Sau năm năm tổ chức thực hiện Luật , việc
qủan lý và điều hành ngân sách nhà nước đã có nhiều tiến bộ , góp
phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội , tăng cường
khả năng và tiềm lực tài chính của đất nước ; thực hiện quản lý


×