TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT
KHOA LỊCH SỬ
NHÓM 10
ĐỀ TÀI: NGHỀ ĐAN CHIẾU CỦA NGƯỜI LẠCH TẠI
THỊ TRẤN LẠC DƯƠNG, HUYỆN LẠC DƯƠNG,
TỈNH LÂM ĐỒNG.
TIỂU LUẬN MÔN: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
ĐIỀN DÃ DÂN TỘC HỌC, XÃ HỘI HỌC, KHẢO CỔ
HỌC.
Đà Lạt, tháng 11 năm 2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT
KHOA LỊCH SỬ
TIỂU LUẬN MÔN: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
ĐIỀN DÃ DÂN TỘC HỌC, XÃ HỘI HỌC, KHẢO CỔ
HỌC.
GVHD: Ths. MAI MINH NHẬT
SVTH: TỐNG PHƯƠNG THẢO
1313074
NGÔ THỊ HỒNG
1311
SOH AO MẬN
1311920
LÊ HỒNG THẢO VY
Đà Lạt, tháng 11 năm 2015
1311906
5
MỞ ĐẦU
6
1. Lý do chọn đề tài
Nghề thủ công cổ truyền của dân tộc Việt Nam đã tồn tại rất lâu đời, với nhiều
nghề đa dạng như nghề làm gốm, nghề dệt, nghề đan lát, nghề đúc đồng…Suốt tiến trình
lịch sử, nghề thủ công không chỉ để lại cho đời sau những sản phẩm vật chất và tinh thần
vô giá mà còn góp phần phát triển và nâng cao giá trị cho các loại hình nghệ thuật dân
gian khác.
Thế nhưng, trong số những nghề cổ truyền ấy chỉ có một số ít loại trở nên nổi
tiếng và được nhiều người quan tâm, còn lại thì dần dần bị mai một do sự phát triển của
kinh tế, hội nhập của đất nước, đã làm cho người dân quay lưng lại với các sản phẩm thủ
công cổ truyền của dân tộc ta. Thay vào đó là những sản phẩm mang tính đa dạng, hiện
đại, được mọi người ưa chuộng vì tính tiện lợi, đa dạng về mẫu mã…
Trong các loại sản phẩm ấy, chiếu là một trong số ít những mặt hàng thủ công
được mọi người sử dụng hằng ngày, vừa bình dị, vừa cao sang, mộc mạc, vừa nghệ thuật,
mà không một ai xưa nay chưa biết và chưa dùng đến. Chiếu gắn bó với chúng ta suốt
cuộc đời, từ khi ta cất tiếng khóc chào đời đến lúc ta nhắm mắt xuôi tay “về với đất”.
Chiếu đi sâu vào đời sống nhân dân ta, sâu rộng và lâu bền, và trở thành một nghề thủ
công vô cùng quan trọng của người dân Việt Nam.
Thị trấn Lạc Dương (tỉnh Lâm Đồng), có nghề đan chiếu của người Lạch (thuộc
bộ tộc K’ho). Có thể nói đây là nét văn hóa truyền thống khá đặc trưng của người Lạch.
Không giống như chiếu cói phương Bắc, chiếu lác phương Nam. Chiếu của người Lạch
có những nét riêng, nét độc đáo về nguyên liệu cũng như về kỹ thuật đan chiếu. Không
khuôn mẫu, không cần dụng cụ kèm theo, chỉ có đôi tay chắp nối sợi ngang sợi dọc là có
thể tạo ra những sản phẩm theo ý muốn.
Mặc dù có truyền thống lâu đời và gắn bó mật thiết với đời sống kinh tế, văn hóa,
dân sinh của người Lạch nói riêng và của người dân thị trấn Lạc Dương nói chung.
7
Nhưng cho đến nay nghề đan chiếu của người Lạch vẫn chưa thực sự được quan tâm
nghiên cứu.
Để hiểu rõ thêm những nét độc đáo trong nghề đan chiếu của người Lạch, ở thị
trấn Lạc Dương, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng. Nhóm tác giả quyết định chọn đề tài
Nghề đan chiếu của người Lạch ở thị trấn Lạc Dương, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng
làm đề tài nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong cuốn Tổng tập nghề và làng nghề truyền thống Việt Nam. Có nói đến nghề
đan lát; nghề thêu, dệt; nghề làm giấy, đồ mã; nghề làm tranh dân gian của dân tộc Việt
Nam, nhưng không thấy đề cập đến nghề đan chiếu của Lạch ở thị trấn Lạc Dương,
huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng.
Trong cuốn Nghề mây tre đan, nghề dệt chiếu, dệt thảm, làm quạt giấy cổ truyền
Việt Nam. Nói đến nghề mây tre đan, nghề dệt chiếu, nghề dệt thảm, nghề làm quạt giấy,
và các làng nghề truyền thống. Tuy nhiên, không thấy nói đến nghề đan chiếu của người
Lạch ở thị trấn Lạc Dương, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Nghề đan chiếu của người Lạch ở thị trấn Lạc Dương,
huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian là ở thị trấn Lạc Dương, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng.
- Về thời gian là nghề đan chiếu của người Lạch trong truyền thống và hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong bài tiểu luận này, chúng tôi lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng. Với đề tài này, phương pháp của chúng tôi là phương pháp
lịch sử và phương pháp logic, phương pháp luận sử học, và phương pháp dân tộc học hay
8
còn gọi là phương nhân học và tộc người; phương pháp điền dã; phương pháp quan sát,
miêu tả hay phỏng vấn qua thông tín viên người Lạch tại địa phương; phương pháp điều
tra xã hội học, phương pháp liên ngành, phương pháp phân tích và tổng hợp,…
5. Nguồn tài liệu
Các nguồn tư liệu phục vụ nghiên cứu đề tài là kết quả điền dã, khảo sát, điều tra
của nhóm tác giả. Ngoài ra, còn có các nguồn tài liệu là sách, các bài báo. Để phục vụ
cho đề tài này.
6. Đóng góp của đề tài
Tiểu luận cung cấp những tư liệu khảo sát điền dã của nhóm tác giả về nghề đan
chiếu của người Lạch ở thị trấn Lạc Dương, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng. Từ đó,
cho mọi người biết những nét khác biệt về nghề đan chiếu của người Lạch ở thị trấn Lạc
Dương, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng. Nội dung của tiểu luận này còn góp phần làm
cho mọi người hiểu biết thêm một phần văn hóa của người Lạch nơi đây.
Kết quả của đề tài nghiên cứu còn là tài liệu nghiên cứu cho những ai quan tâm
đến vấn đề này.
7. Bố cục:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục thì tiểu luận gồm có ba
chương.
Chương 1. Khái quát về người Lạch tại thị trấn Lạc Dương, huyện Lạc Dương,
tỉnh Lâm Đồng. Nội dung chương này chủ yếu đề cập đến khái quát về địa bàn cư trú,
khái quát về người Lạch ở thị trấn Lạc Dương, huyện Lạc Dương, tỉnh Lạc Dương.
Chương 2. Nghề đan chiếu trong truyền thống và hiện nay của người Lạch tại thị
trấn Lạc Dương, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng. Nội dung chương này chủ yếu đề
cập đến nghề đan chiếu trong truyền thống của người Lạch, nguồn nguyên liệu và cách
9
chọn nguyên liệu, kỹ thuật xử lý nguyên liệu, kỹ thuật đan chiếu, phân loại chiếu, nghề
đan chiếu hiện nay của người Lạch.
Chương 3. Vai trò, thực trạng và một số ý kiến đề xuất bảo tồn nghề đan chiếu của
người Lạch ở thị trấn Lạc Dương, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng. Nội dung của
chương này chủ yếu đề cập đến vai trò về vật chất, vai trò về tinh thần, thực trạng và một
số ý kiến của nhóm để bảo tồn nghề đan chiếu của ngươi Lạch tại thị trấn Lạc Dương,
huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng.
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI LẠCH TẠI THỊ TRẤN LẠC DƯƠNG,
HUYỆN LẠC DƯƠNG, TỈNH LÂM ĐỒNG
1.1 Khái quát về địa bàn cư trú
1.1.1. Vị trí địa lý
Lạc Dương là huyện nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Lâm Đồng, Việt Nam. Diện
tích tự nhiên: 130.963,04 ha. Phía đông giáp 2 tỉnh Ninh Thuận và Khánh Hòa. Phía tây
giáp 2 huyện Lâm Hà và Đam Rông. Phía nam giáp thành phố Đà Lạt. Phía bắc giáp
tỉnh Đắk Lắk. Dân cư 20.905 người với tổng cộng 3.300 hộ.
Thị trấn Lạc Dương là trung tâm của huyện Lạc Dương cách thành phố Đà Lạt gần
10km về phía Đông Nam, ranh giới hành chính của thị trấn được xác định như sau:
- Phía Bắc giáp xã Đưng K’ Nớ và xã Đa Nhim.
- Phía Tây giáp xã Lát, Đa Tông và Đạ Long của huyện Đam Rông, và xã Phi Tô
-
huyện Lâm Hà.
Phía Đông giáp xã Đạ Sar
Phía Nam giáp thành phố Đà Lạt và huyện Lâm Hà.
Thị trấn Lạc Dương có diện tích 70,61 km², dân số năm 2013 là 7.942 người, mật
độ dân số đạt 113 người/km².
Thị trấn Lạc Dương là trung tâm kinh tế, chính trị- xã hội của huyện Lạc Dương,
với những cảnh quan kỳ vĩ và thơ mộng, lại nằm ở cửa ngõ phía bắc của thành phố Đà
10
Lạt nên có lợi thế rất lớn về phát triển du lịch. Việc phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn
thị trấn không chỉ có vai trò quan trọng với phát triển kinh tế - xã hội của huyện Lạc
Dương mà còn có vai trò quan trọng đến phát triển kinh tế - xã hội đặc biệt là du lịch –
dịch vụ của thành phố Đà Lạt.
1.1.2. Địa hình
Có 2 dạng địa hình: núi cao và đồi thấp
- Địa hình núi cao: độ cao khoảng 1600 – 2100m so với mặt nước biển, độ dốc lớn,
-
diện tích 22.179,31 ha, chiếm 93,83% tổng diện tích tự nhiên.
Địa hình đồi thấp: độ cao trung bình từ 1500 – 1600m, diện tích 1088ha, chiếm
4,6% tổng diện tích tự nhiên toàn thị trấn.
1.1.3. Khí hậu
Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa cân xích đạo nhưng bị chi phối bởi quy luật độ
cao va ảnh hưởng của địa hình nên khí hậu thị trấn nói riêng và khu vực Đà Lạt nói
chung có những đặc điểm đặc biệt so với vùng xung quanh, mát lạnh quanh năm, mưa
nhiều, mùa khô ngắn, lượng bốc hơi thấp, không có bão, tạo cho Đà Lạt có những lợi thế
hơn những vùng khác.
1.1.4. Đất đai
Toàn thị trấn có 5 nhóm đất chính:
- Nhóm đất đỏ vàng: gồm có đất đỏ vàng trên đá mắc ma axit và đát đỏ vàng trên đá
-
sét.
Nhóm đất Feralit: gồm đất Ferralit mùn trên đá mắc ma axit, đất Feralit mùn trên
đá axit và đất Feralit mùn trên đá sét.
- Nhóm đất mùn axit trên núi cao.
- Nhóm đất dốc tụ.
- Nhóm đất phù sa ngòi suối.
1.2. Khái quát về người Lạch ở thị trấn Lạc Dương, huyện Lạc Dương, tỉnh
Lạc Dương
11
Người Lạch (hay còn viết Làc, Lat, M'Lates) là tên gọi của một nhóm cư dân nhỏ
người Kơ ho, sống lâu đời trên cao nguyên Lang Biang. "Lạch", theo tiếng địa phương,
có nghĩa là "rừng thưa" dùng để chỉ vùng rừng thông, đồi trọc từ dãy Lang Biang trải dài
xuống Tây Nam, bao gồm cả thành phố Đà Lạt ngày nay.
Tiếng Lạch là một phương ngữ Kơho, rất gần gũi với các ngôn ngữ Mnông,
Stiêng, Mạ... thuộc nhóm ngôn ngữ Nam Ba Na dòng Mon Khmer, ngữ hệ Nam Á
(Austroasiatique). Tiếng Lạch cũng như các ngôn ngữ cùng nhóm còn lưu giữ những nét
xưa của một ngôn ngữ Đông Nam Á cổ, trước thời kỳ tiếp xúc giữa dòng Mon Khmer và
Tày Thái.
Người Lạch do tiếp xúc với nhiều cư dân khác trong vùng nên nói khá thành thạo
các ngôn ngữ Mạ, Mnông, Chu ru, Chăm, một hiện tượng song ngữ khá thú vị cho những
nhà nghiên cứu. Mọi sự ghi chép văn hóa dân tộc đều được thông qua con đường truyền
miệng nên tiếng nói của người Lạch cũng là ngôn ngữ thơ ca uyển chuyển, vần điệu, đầy
nhạc tính và hình tượng.
Người Lạch hôm nay vẫn sống trên mảnh đất cũ của tổ tiên mình ngày nay đang bị
thu hẹp dần vì những áp lực của sự phát triển xã hội. Dân số tăng lên ít nhiều, từ 800
người (1940) lên 2.700 người hiện nay, tập trung chính là ở thị trấn (Lạc Dương) 2.411
người (387 hộ). Số còn lại ở rải rác nhiều nơi, nhưng tập trung nhất vẫn là Đà Lạt, Lâm
Hà, Đức Trọng và Đơn Dương (khoảng 300 người).
Trong suốt thời kỳ lịch sử, do tiếp xúc với nền văn hóa phát triển hơn, đặc biệt là
văn minh phương Tây trước đây và người Kinh sau này, người Lạch đã bỏ nhiều hủ tục
lỗi thời, cởi mở hơn trong sự tiếp thu các nền văn hóa mới. Điều đáng tiếc là một nền văn
hóa cổ truyền phong phú và hấp dẫn, nhiều truyền thống nhân văn quí báu cũng chính vì
thế mà bị lãng quên dần và thậm chí bị coi là "quá khứ lạc hậu". Ngôn ngữ và văn hóa
người Lạch nói riêng và của các cư dân Thượng nói chung đã và đang là đề tài hấp dẫn
của giới nghiên cứu khoa học xã hội trong và ngoài nước. Hơn thế nữa, nó là vốn văn hóa
12
vô cùng quí báu của dân tộc ta và nhân loại, đáng được nghiên cứu, bảo tồn, khai thác và
phát huy. Một điều cấp bách được đặt ra là đã đến lúc chúng ta phải nhanh chóng có kế
hoạch đầu tư nghiên cứu và khai thác di sản văn hóa đó, và nếu cần kêu gọi sự hỗ trợ của
các tổ chức văn hóa quốc tế.
Đời sống kinh tế của người Lạch tuy đã khác xưa, nhưng vẫn còn quá thấp nếu so
với mức sống chung hiện tại. Hằng ngày họ vẫn sống lầm lũi bên mảnh ruộng ngày một ít
hơn trên mỗi đầu người, với kỹ thuật canh tác thô sơ, các ngành kinh tế phụ có một thời
quan trọng như buôn bán, nuôi ngựa, đan cói... bị suy thoái. Thiết nghĩ, phải có nghiên
cứu khoa học để giúp cho người Lạch nói riêng và các cư dân Thượng xung quanh Đà
Lạt nói chung tổ chức lại đời sống kinh tế cho phù hợp với địa bàn một trung tâm du lịch
nghỉ dưỡng phát triển trong tương lai.
Chương 2. NGHỀ ĐAN CHIẾU TRONG TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN NAY CỦA
NGƯỜI LẠCH Ở THỊ TRẤN LẠC DƯƠNG, HUYỆN LẠC DƯƠNG, TỈNH LÂM
ĐỒNG
2.1. Nghề đan chiếu trong truyền thống
2.1.1. Nguồn nguyên liệu và cách chọn nguyên liệu
Người Lạch ở thị trấn Lạc Dương dùng cây Tơ Đung làm nguyên liệu đan chiếu.
Tơ Đung là một loại cây mọc hoang ở vùng đất trũng đầm lầy, mùa mưa cây sinh trưởng
rất nhanh, cọng cây Tơ Đung dài từ 2 đến hơn 3 mét. Là loại cây chịu sống nơi đầm lầy
vì thế suối nước có ảnh hưởng nhất định đến quá trình sinh trưởng của loại cây này cũng
vì lẽ đó mà loại cây này không trồng ở nhà được. Những thời gian nhàn rỗi trong năm
người Lạch rủ nhau đi nhổ cây đem về để đan chiếu.
Điều đặc biệt ở nghề đan chiếu của người Lạch tại thị trấn Lạc Dương này là
không thấy nhắc nhở đến ông Tổ nghề chiếu, cũng như giừ gìn các tập tục kiêng cữ
chung quang nghề đan chiếu này. Đa phần người ở đây theo Công giáo không có thói
quen thờ cúng như các làng chiếu ở các địa phương khác nên có những kiêng cữ trong
việc lấy nguyên liệu, cũng như trong quy trình làm chiếu.
13
Muốn có được một chiếc chiếu đẹp, bền, trước tiên phải biết chọn ra được những
cây Tơ Đung đều, cọng khỏe, bóng tròn và không bị sâu hay nấm mốc,độ dài của cây
phải vừa đủ, các sợi đều nhau. Nếu chọn cây non quá hoặc già hay trổ bông đều không
đan được chiếu vì nó xốp và dễ gãy. Ở những vùng khác người ta dùng liềm, dùng dao
thể thu hoạch còn người Lạch dùng tay để nhổ cây Tơ Đung. Họ dùng tay nắm 4 đến 5
cọng cây Tơ Đung và dùng sức kéo lên. Khi nhổ cây Tơ Đung phải thật khéo léo nếu nhổ
quá mạnh tay cây con sẽ bị nhổ theo cây mẹ. Thường thì cây 30 ngày tuổi là có thể thu
hoạch nhưng vào mùa mưa cây sinh trưởng rất nhanh, cao có khi lên đến 4 mét và
khoảng hơn 3 tuần tuổi là có thể thu hoạch được. Sau mỗi lần thu hoạch như thế số lượng
cây giảm dần để đảm bảo nguồn nguyên liệu để đan chiếu người Lạch đã trồng cây Tơ
Đung ở vùng đầm lầy trống, bụi cây Tơ Đung thưa. Cây Tơ Đung sinh trưởng tốt hay
không là hoàn tòan phụ thuộc vào tự nhiên. Nhổ xong cây Tơ Đung người ta bó lại thành
từng bó và dùng dây để cột lại, bó cây Tơ Đung thường bằng độ rộng của chiếc gùi vì
ngày xưa chưa có phương tiện hiện đại, người Lạch dùng gùi vận chuyển nguyên liệu về
nhà. Họ bó cây Tơ Đung ngang với mặt gùi hoặc theo chiều thẳng đứng, để theo chiều
thẳng đứng sẽ dễ dàng hơn trong việc vận chuyển, còn nếu để theo chiều ngang thì sẽ
vướng vào những bụi cây hai bên đường làm cho việc vận chuyển khó khăn và mất thời
gian hơn.
Ngày này đã có xe máy nên việc vận chuyển nguyên liệu đỡ vất vả hơn, xe máy có
thể đến gần chỗ có nguyên liệu hay cách đó không xa. Ở gần chỉ cần đặt bó cây Tơ Đung
lên xe, xa hơn thì vác đi một đoạn rồi dùng xe trở về. Khi dùng xe máy làm phương tiện
vận chuyển họ cũng bó lại và có người giữ ở đằng sau. Bó cây Tơ Đung có thể đặt ngang
hoặc dọc tùy người giữ ở đằng sau. Để lấy được những bó cây Tơ Đung phải mất một
ngày nếu đi bộ còn dùng xe chở thời gian được rút ngắn hơn đem được nhiều bó cây Tơ
Đung hơn.
Để góp phần làm cho chiếc chiếu thêm phần sinh động và đẹp mắt người Lạch đã
sử dụng một loại cây rừng làm thuốc nhuộm, họ gọi là cây Đuếch (cây đỏ). Loại cây này
14
hiện nay đã được người Lạch đem về nhà trồng. Người Lạch dùng cây Đuếch làm thuốc
nhuộm nên chiếu của họ sử dụng từ năm này đến năm khác mà không bị phai màu.
2.1. 2. Kỹ thuật xử lý nguyên liệu
Những cây Tơ Đung xanh tươi, đầy sức sống được lấy về, phải trải qua nhiều công
đoạn xử lý tỉ mỉ. Công việc xử lý và nhuộm nguyên liệu đan chiếu được giao cho những
người phụ nữ Lạch vì chỉ có họ mới thông thạo quy trình xử lý những cây Tơ Đung tươi
thành khô, khi Tơ Đung được xử lý đạt đến một mức độ hoàn thiện mới đem đi đan chiếu
được.
Quá trình biến cây Tơ Đung từ tươi thành khô để làm nguyên liệu đan chiếu của
người Lạch ở đây rất công phu, tỉ mỉ. Cây Tơ Đung có đặc điểm là xốp, nhiều nước nên
cần phải có một khoảng thời gian khá lâu để tơ đung khô hoàn toàn. Cây Tơ Đung tươi
được phơi khô trên gác hoặc dàn bếp, nên phơi trong nhà sàn (nhà gỗ) và không được
phơi ngoài trời nắng vì cây Tơ Đung phải được khô từ từ, mất thời gian rất lâu, khoảng 1
tháng đến 1 tháng rưỡi mới khô hoàn toàn, và cây Tơ Đung nếu phơi ngoài trời nắng thì
cây sẽ giòn gãy, không thể dùng để đan thành một chiếc chiếu có chất lượng tốt.
Khi Tơ Đung được phơi khô phải phân loại nhỏ riêng, lớn riêng để khi đan các dây
có kích thước đều nhau. Rồi đem Tơ Đung được phơi khô lần thứ nhất đi ngâm nước
hoặc là đem ngâm xuống mương trong khoảng thời gian từ 20 đến 30 phút cho chắc, dẻo.
Kế đến dùng chân đạp cho các sợi Tơ Đung mềm, rồi dùng dụng cụ có tên gọi là “Sơg
càn”. Cây này lúc đầu mới nhìn sẽ tưởng là tre nhưng không phải là cây tre và người
Lạch cũng không dùng tre để vuốt cây Tơ Đung khô vì cây tre dày hơn, khi vuốt sẽ rất
khó khăn, sẽ làm đau tay. Sợi Tơ Đung khô được vuốt 2 lần cho các sợi đều nhau, thẳng
và đem phơi khô lại. Khi phơi lần thứ hai xong phải bảo quản và giữ độ ẩm nhất định để
sợi dây mềm mại. Cuối cùng trước khi hoàn chỉnh nguyên liệu phải vuốt các sợi tơ đung
thêm lần nữa cho thật đều nhau. Cây Tơ Đung được xử lý mất khoảng 2 tháng mới hoàn
toàn đạt được chất lượng tốt nhất đó là những cây Tơ Đung phải khô hoàn toàn, không bị
ẩm mốc, giữ được màu sắc tự nhiên vốn có của cây, giữ được độ dai, mềm mại, không bị
15
gãy, đứt đoạn, như vậy mới làm ra được những tấm chiếu truyền thống của người Lạch
mang chất lượng tốt.
Bên cạnh những chiếu trơn, có màu sắc tự nhiên trắng ngà ở phần gốc, xanh dần
lên đến ngọn của cây Tơ Đung. Để thêm phần sinh động, đa dạng cho chiếc chiếu, người
Lạch còn tô điểm cho chiếc chiếu truyền thống của mình bằng những hoa văn tinh xảo.
Màu để nhuộm những chiếc chiếu hoa ấy cũng rất độc đáo, riêng biệt chỉ người Lạch biết
đến.
Không nhuộm Tơ Đung bằng những loại phẩm màu, bằng thảo mộc, không dùng
kỹ thuật in hình lên chiếu… như những chiếc chiếu ở các địa phương khác. Hoa văn trên
chiếu của người Lạch được nhuộm bằng lá của cây Đuếch (cây Đỏ), một loại cây dại
mọc trong vùng và được bà con mang về trồng quanh nhà để lấy khi cần. Lá cây Đuếch
được giã nát, phơi khô. Sau đó đem sợi Tơ Đung được phơi khô đang còn màu tự nhiên
cho vào trong nồi nấu cùng với cây Đuếch trong vòng 60 phút, để cho màu ngấm sâu
trong từng sợi Tơ Đung. Nấu xong thì để nguội rồi vớt sợi Tơ Đung đã được nhuộm ra
đem phơi trong nhà sàn cho thật khô. Sau đó mới đem đi đan thành những chiếc chiếu có
màu sắc, hoa văn tinh xảo. Và màu nhuộm trên những chiếc chiếu hoa văn ấy sẽ không bị
phai.
2.1.3 . Kỹ thuật đan chiếu
Khác với các loại chiếu dệt ở miền Nam, miền Trung hay miền Bắc như chiếu Hới
(Thái Bình), chiếu Lác (Định Yên), chiếu Nga Sơn (Thanh Hóa), chiếu Tà Niên (Kiên
Giang)… chiếc chiếu của người Lạch ở thị trấn Lạch Dương, huyện Lạc Dương tỉnh Lâm
Đồng là loai chiếu đan duy nhất ở Việt Nam. Không cần khuôn mẫu hay bất cứ dụng cụ
kèm theo nào. Dường như người phụ nữ Lạch ngay từ nhỏ đã có khiếu đan chỉ với đôi tay
khéo léo của mình chắp nối sợi ngang sợi dọc là có thể tạo ra sản phẩm theo ý muốn.
Kỹ thuật đan chiếu. Cũng giống như nhiều kỹ thuật thủ công khác, nghề đan chiếu
cũng cần phải thực hiện đúng theo các bước và khuôn mẫu của nó. Dù là người mới học
16
việc hay là người đã làm lâu năm quen tay thuận việc, cũng không ai có thể vượt ra
ngoài khuôn mẫu ấy.
Sau khi chế biến, xử lý cây Tơ Đung. Người phụ nữ Lạch mới tiến hành phân loại
và đan chiếu.
+ Phân loại:
Công việc đầu tiên trước khi tiếng hành đan chiếu là phân loại sợi Tơ Đung
đã qua xử lý. Tức là việc chọn những sợi Tơ Đung phân thành từng loại bó thành cột để
dễ sử dụng, không bị rối… Để đan mỗi chiếc chiếu khác nhau về kích thước hay loại
chiếu thì việc phân loại các sợi Tơ Đung là vô cùng quan trọng. Những sợi Tơ Đung đều
nhau có thể dệt thành những chiếc chiếu bắt mắt. Sự phân lọai màu sắc của cây Tơ Đung
làm cho việc đan chiếu thuận tiện hơn, không bị rối. Ngoài ra, độ dài ngắn của sợi Tơ
Đung cũng rất được quan tâm khi phân loại. Những sợi Tơ Đung quá ngắn sẽ bị loại ra
hoặc sử dụng với mục đích khác như đan những chiếc Pơlơ dung để đựng cơm…
+ Đan chiếu.
Đan chiếu, cơ bản có hai phương pháp đó là phương pháp đan chiếu thường và
phương pháp đan chiếu vàng. Tuy nhiên cách đan chiếu vàng hiên tại rất hiếm người biết
đến vì để đan chiếc chiếu rất phức tạp yêu cầu kĩ thuật cao
Đan chiếu thường.
Chiếu thường cũng chia làm hai loại. Loại chiếu trơn (loại này không sử dụng sợi
Tơ Đung nhuộm) và loại chiếu có hoa văn tuy nhiên phương pháp đan tương đối giống
nhau.
Phương pháp đan chiếu trơn.
Bước 1:
17
Đan chiếu đầu tiên là chọn hai sợi Tơ Đung đã qua xử lý đều nhau gấp đôi một sợi
rồi cùng với sợi thứ thư hai (không gấp đôi) thắt lại ở nơi gấp sau đó dùng chân đạp lên
đầu nơi gấp nhằm cố định lúc đan.
Bước 2 :
Sau khi cố định xong ta thấy sơi Tơ Đung được chia làm 3 đoạn không đều nhau.
Khi đó ta sắp hai sợi ngắn thành một góc 45 độ. Sợi dài nhất nằm ở giữa hai đoạn đó. Sau
đó đánh số thứ tự cho dễ nhớ.
Bước 3 :
Lấy một sợi Tơ Đung chia làm đôi gấp thành một góc 90 độ. Để một đoạn gấp
nằm xuôi theo đoạn dây thứ nhất còn đoạn gấp còn lại nằm xen kẽ qua các dãy số 1 - 2 –
3. Tức là đoạn đó sẽ nằm ngang qua các đoạn 1- 2- 3 trong đó đoạn số chẵn nằm phía trên
thì số lẽ sẽ nằm phái dưới xen kẽ lẫn nhau.
Từ đó đoạn dây nằm song song với đoạn 1 sẽ thành đoạn 2… và một đoạn thừa là
đoạn thừa đó vuông góc với các đoạn còn lại. Ta sẽ đặt nó là đoạn thứ 1a, ta có thể hiều
như sau, đoạn 1 là chiều rộng của chiếc chiếu thì đoạn 1a sẽ là chiều dài của chiếc chiếu.
Bước 4 :
Tiếp tục tục lấy một sơi Tơ Đung lại gấp đôi một góc 90 độ. Làm tương tự các
bước trên tuy nhiên nếu đoạn 1a nằm ngang xen kẽ. Nằm trên các số chẵn (hay lẽ) thì
đoạn 2a sẽ nằm ngược lại sẽ nằm trên các số lẽ (hay chẵn).
Từ đó các thể hiểu như sau các số 1a, 2a, 3a… nếu các số lẽ như 1a, 3a… nằm
ngang trên các dây số chẵn dưới các số lẽ thì các số chẵn như 2a, 4a… nằm ngang trên
các dãy số lẽ ngang dưới các số chẵn và ngược lại.
Việc đan này tiếp tục cho đến khi đủ chiều dài chiều rộng của chiếc chiếu mà
người phụ nữ Lạch muốn đan. Nếu đan chưa ưng ý về kích thước của chiếc chiếu mà sợi
Tơ Đung không đủ dài thì người phụ nữ Lạch vẫn kết thúc việc đan thay vào đó là đan
18
một chiếc chiếu khác với kích thước, nguyên liệu giống hệt nhau. Sau đó đan hai tấm
chiếu nối lại để có chiếc chiếu ưng ý nhất. Việc nối các chiếc chiếu lại với nhau hoàn
toàn không để lộ vết nối hoàn toàn giống việc nối các chiếc khăn len với nhau. Tuy nhiên
người người phụ nữ Lạch kết lại rất kéo. Hoàn toàn rất khó nhận ra nếu không được chỉ
dẫn một cách tỉ mĩ.
Phương pháp đan chiếu hoa
Việc đan chiếu hoa với đan chiếu trơn hoàn toàn không khác gì nhau việc tạo
thành họa tiết (hình thoi) tương đối đơn giản. Cứ đan bao nhiêu sợi Tơ Đung thường
người ta sẽ xen vào một sợi Tơ Đung màu (ví dụ như cứ 5 sợi Tơ Đung bình thường họ
sẽ thêm 1 sợi Tơ Đung màu) kích thước hoa văn to hay nhỏ tùy thuộc vào lúc người đan
chiếc chiếu to hay nhỏ, khoảng cách giữa các sợi Tơ Đung màu dài hay ngắn.
2.1.4. Phân loại chiếu
Sau một khoảng thời gian dài từ công việc đi lấy nguyên liệu ( cây Tơ Đung) qua
các bước công đoạn khác nhau thì những sản phẩm đã được tạo ra đó là những tấm chiếu
một nét bản sắc riêng của người Lạch những tấm chiếu rất bền và đẹp một cách mộc mạc.
Chiếu được phân làm 2 loại: chiếu thường và chiếu vàng
- Chiếu thường: thường không có màu gì khác ngoài màu tự nhiên của cây tơ đung,
màu sắc này như mang ý nghĩa của sự mộc mạc, đơn sơ, của người dân nơi đây.
Qua các lần đan chiếu với đầu óc sáng tạo thì người phụ nữ nơi đây đã lấy những
sợi Tơ Đung đem nấu chung với cây Đuếch (cây Đuếch đã giã nhỏ) để tạo ra màu
đỏ, khi những sợi Tơ Đung này đã chuyển màu đỏ, thì những sợi màu đỏ này
được đan lắt léo qua bàn tay khéo léo của người phụ nữ đan chiếu, nằm xen kẽ với
những sợi Tơ Đung không được nhuộm màu, có phần tạo nên một màu đỏ ở
những viền chiếu, mục đích sử dụng của loại chiếu có màu này cũng không có gì
khác so với các chiếu thường, có thêm một ít sợi đỏ chỉ làm nổi bật chiếc chiếu và
đẹp hơn.
19
Kích thước của những tấm chiếu không giống nhau, một phần cũng do mục đích
sử dụng của các loại chiếu đó. Kích thước chiếu được đo bằng “ Sơg càn” là dụng cụ
được dùng để vuốt cây Tơ Đung và cũng dùng để đo chiều dài, chiều rộng của một chiếc
chiếu. Chiều dài của “ Sơg càn” khoảng 57cm đến 60cm. Chiếu thường bán trên thị
trường có chiều dài được đo bằng 4 cái “ Sơg càn’’và chiều rộng được đo bằng 2,5 cái “
Sơg càn”.
Loại chiếu này thường dùng để trãi ăn cơm hoặc để tiếp khách. Từ thời xưa ở nơi
đây đã có câu nói rất hay về loại chiếu này “ đời người, đời chiếu” câu nói này mang ý
nghĩa như muốn nói đến sự gắn bó và trân trọng của người lạch đối với chiếc chiếu
truyền thống của họ. Loại chiếu này rất bền và trải qua một thời gian rất dài thì nó mới
hỏng.
- Ngoài loại chiếu thường này thì còn một loại chiếu có tên là chiếu vàng – một loại
chiếu có vai trò rất quan trọng đối với người dân nơi đây.
Chiếu vàng thường được dùng trong những ngày quan trọng của người Lạch (ngày
cưới và đám ma), đặc biệt chiếc chiếu này chỉ được dùng cho những người đàn ông. Khi
người con trai trong nhà lấy vợ thì nhà gái phải trải chiếu vàng cho chú rể ngồi. Trong
ngày lễ trong đại nhất đời người là ngày cưới, dù nhà giàu hay nghèo cũng không thể nào
thiếu được cặp chiếu vàng. Dường như đó là chứng nhân cho sự thủy chung, cho hạnh
phúc lứa đôi. Rồi đến khi nhắm mắt lìa đời, chiếc chiếu lại là kỷ vật theo họ về bên kia
thế giới. Với người Lạch, nếu ai không được bó trong chiếc chiếu vàng khi về với tổ tiên,
họ như thấy kiếp người chưa trọn.
Loại chiếu này thường đan thành cặp, một cái không có màu, một cái có màu và
có hoa văn. Loại chiếu có màu thì họ vẫn lấy sợi Tơ Đung đem nấu chung với cây Đuếch
cho ra màu đỏ rồi đem đan xen kẽ với những sợi Tơ Đung không được nhuộm màu. Một
đặc điểm đáng phải ngạc nhiên là loại cây Đuếch dùng để nhuộm màu này, khi được
nhuộm với cây Tơ Đung thì chiếc chiếu đó được sử dụng từ năm này qua năm khác vẫn
không bị phai màu.
20
Ngoài việc có màu sắc thì trên chiếc chiếu vàng này còn có cả hoa văn đó là
những thửa ruộng và cái cày, nét hoa văn này mang một ý nghĩa như muốn giữ một nét
truyền thống gì đó từ thời xa xưa để lại và đó là nghề trồng lúa, cư dân ở đây có quan
niệm rằng khi họ sống thì công việc hàng ngày của họ luôn gắn với những thửa ruộng và
chiếc cày nên khi họ về thế giới bên kia họ vẫn muốn cuộc đời mình gắn liền với những
thửa ruộng và chiếc cày. Vì vậy mà nét hoa văn trên chiếc chiếu vàng là những thửa
ruộng và chiếc cày. So với chiếu thường thì chiếu vàng về mặt kích thước có khác một
chút, chiều dài của chiếu vàng không phải đo bằng cây “ Sơg càn” nữa mà dựa theo chiều
dài của quan tài, không được ngắn hơn quan tài và nếu dài hơn thì phải gấp lên, còn chiều
rộng thì bằng chiều rộng của quan tài. Khi ông hoặc bà mất thì bỏ chiếu vào trong quan
tài, tuy nhiên không được bỏ tùy tiện mà phải tuân theo trình tự, phải bỏ chiếu không
màu trước rồi mới bỏ chiếu có hoa văn vào sau.
Ngoài đan những chiếc chiếu với những mục đích sử dụng khác nhau thì với
những kích thước ngắn hơn của cây Tơ Đung thì người phụ nữ Lạch còn sáng tạo đan
những chiếc Pơ lơ dùng để đựng cơm và đựng các đồ dùng nhỏ trong cuộc sống.
Với bàn tay khéo léo và cách đan chiếu tỉ mỉ và tốn rất nhiều công sức thì đã tạo ra
những chiếc chiếu rất bền, đẹp và có giá trị. Giá bán của chiếc chiếu thường là 800 đến 1
triệu đồng trên chiếc, còn chiếu vàng thì là 3 triệu đồng một cặp.
Với những chiếc chiếu có kích thước, nét hoa văn khác nhau cũng như rất có giá
trị tuy nhiên đan chiếu là một nghề phụ, người phụ nữ ở nơi đây thường đan chiếu vào
những thời gian nhàn rỗi vì tốn rất nhiều thời gian và công sức.
2.2. Nghề đan chiếu hiện nay
Về căn bản quy trình nghề đan chiếu của người Lạch ở thị trấn Lạc Dương, Lâm
Đồng về cơ bản không thay đổi về nguồn nguyên liệu, cách lấy nguyên liệu, kỹ thuật xử
lý nguyên liệu, kỹ thuật đan và cách phân loại chiếu. Tuy nhiên, ngày nay có sự can thiệp
của khoa học công nghệ vào nghề đan chiếu, làm cho nghề đan chiếu có một chút khác
biệt so với quy trình đan chiếu trong truyền thống.
21
Thay vì dùng tay để nhổ cây Tơ Đung như trong truyền thống thì ngày nay họ đã
sử dụng bằng dao, rựa để chặt cây Tơ Đung. Như vậy, việc lấy nguyên liệu sẽ diễn ra
nhanh hơn, đỡ tốn thời gian, công sức hơn, nhưng sẽ làm cho cây Tơ Đung nhỏ bị gãy
không thể mọc lên được nữa.
Ngày nay, việc đi lấy Tơ Đung không còn khó khăn, vất vả như trước đây vì
phương tiện để vận chuyển cây Tơ Đung, hầu hết ngày nay người ta thường dùng xe
honda để chở nguyên liệu, như vậy sẽ rút ngắn thời gian, công sức. Quá trình đi lấy Tơ
Đung không sử dụng nhiều lao động nữa.
Chương 3. VAI TRÒ, THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỔ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT BẢO
TỒN NGHỀ ĐAN CHIẾU CỦA NGƯỜI LẠCH Ở THỊ TRẤN LẠC DƯƠNG,
HUYỆN LẠC DƯƠNG, TỈNH LÂM ĐỒNG
3.1 Vai trò
3.1.1 Vai trò về vật chất
Nghề đan chiếu trong truyền thống của người Lạch, từ một nghề phụ được người
Lạch tranh thủ làm sau mùa vụ và lúc nông nhàn. Trước đây, nghề đan chiếu tuy không
có giá trị lớn về kinh tế nhưng qua những công dụng thiết thực và sự phù hợp của chúng
với cuộc sống hằng ngày thì những chiếc chiếu đã tự nó khẳng định vị trí, vai trò trong
cuộc sống của người Lạch tại nơi đây.
Ban đầu, những chiếc chiếu được đan vì mục đích sử dụng trong gia đình, hay
những dịp quan trọng của cộng đồng người Lạch. Nhưng càng về sau thì những chiếc
chiếu được sản xuất để phục vụ mục đích trao đổi buôn bán mang lại giá trị về kinh tế.
Những chiếc chiếu đòi hỏi công sức và kỹ thuật, được bán ra với giá thành khá cao đã
mang lại hiệu quả kinh tế lớn cho những gia đình làm chiếu.
Tận dụng khoảng thời gian nhàn rỗi, khi công việc trên nương rẫy đã xong những
thành viên trong gia đình người Lạch đều bắt tay vào công việc đan chiếu, mỗi người một
công việc, từ việc đi lấy, vận chuyển nguyên liệu dành cho những người đàn ông khỏe
22
mạnh, công việc xử lý nguyên liệu, đan chiếu thì dành cho những người phụ nữ khéo léo
trong gia đình… Vì vậy, nghề đan chiếu đã thu hút, tận dụng và tạo việc làm tại chỗ cho
các thành viên trong gia đình.
3.1.2 Vai trò về tinh thần
Chiếu là vật dụng thiết thực, có ý nghĩa quan trọng và gắn liền với nhịp sống hàng
ngày của người K’ho Lạch, từ lúc mở mắt chào đời cho tới lúc cưới hỏi và đến lúc “nhắm
mắt xuôi tay”, chiếu vẫn luôn đồng hành với cuộc sống của người K’ ho Lạch.
Nghề đan chiếu truyền thống của người Lạch đã tạo sự đoàn kết thân mật khi mọi
thành viên trong gia đình hay cả làng cùng đi lấy nguyên liệu đan chiếu từ những nơi xa
xôi, cùng ngồi đan chiếu với nhau, kể những mẫu chuyện của người xưa truyền lại, làm
tăng thêm sự hiểu biết và làm cho thế hệ sau có ý thức bảo tồn giá trị văn hóa đặc trưng
vốn có của người Lạch.
Tạo điều kiện quảng bá thương hiệu nghề đan chiếu, không những trong khu vực,
trong nước và các nước trên thế giới biết đến. Nền văn hóa của người Lạch sẽ thoát thai
khỏi vỏ bọc buôn làng vươn mình ra bên ngoài, thu hút sự quan tâm của những nhà
nghiên cứu tò mò về nó.
Giúp giao thoa văn hóa giữa các dân tộc, các vùng miền và các nước trong khu
vực. Trong quá trình buôn bán trao đổi hàng hóa người Lạch sẽ tiếp thu được khoa học
công nghệ tiên tiến phục vụ thiết thực vào đời sống hằng ngày.
3.2 Thực trạng và một số ý kiến đề xuất để bảo tồn nghề đan chiếu của
người Lạch tại thị trấn Lạc Dương, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm
Đồng
3.2.1 Thực trạng
Mặc dù, nghề đan chiếu đã có từ lâu đời gắn liền với bản sắc văn hóa của cư dân
Lạch. Tuy nhiên, nghề đan chiếu của người Lạch đang dần dần suy thoái.
23
Người Lạch xưa nổi tiếng với những chiếc chiếu bền và đẹp. Người con gái Lạch
không ai mà không biết đan chiếu, chiếc chiếu có mặt trong hầu hết đời sống sinh hoạt
của người Lạch, từ sinh hoạt hằng ngày cho đến ma chay cưới hỏi, không một sự kiện
trọng đại nào xưa mà không gắn liền với chiếc chiếu. Xưa kia, thay vì dùng tiền người
Lạch dùng chiếc chiếu của mình để đổi những vật phẩm cần thiết cho sinh hoạt như con
heo, con gà…
Ngày nay, giá trị của những chiếc chiếu kia vẫn còn đó, nhưng những người phụ nữ
Lạch biết đan chiếu và còn đan chiếu thật hiếm hoi. Hiện nay, chỉ còn dưới 10 hộ tại thị
trấn Lạc Dương còn duy trì nghề này. Do tâm lí khách quan lẫn chủ quan những người
lao động trong nghề không còn mặn mà với nghề, vì những nguyên nhân sau:
- Do các sản phẩm chiếu của người Lạch được làm hoàn toàn bằng thủ công, nên ít
-
mẫu mã hơn so với các loại chiếu khác trên thị trường.
Vì tốn nhiều công sức, thời gian…nên giá thành của chiếc chiếu rất cao, khó bán
-
khó tiêu thụ, cạnh tranh trên thị trường.
Do việc lấy nguyên liệu xa, khó khăn việc làm một chiếc chiếu không hề đơn giản
cần phải có sự kiên trì, yêu nghề…trong khi việc tìm một chiếc chiếu ở chợ hoặc
trong các cửa hàng tạp hóa ngày nay dễ dàng tìm thấy những chiếc chiếu với mẫu
mã, màu sắc, kích thước đa dạng, phong phú, giá cả phải chăng… tốn ít thời gian
-
và công sức hơn.
Xưa kia, nghề đan chiếu truyền thống của người Lạch được truyền lại cho những
người con gái trong nhà. Nhưng hiện nay, do quá trình cộng cư, giao lưu và tiếp
biến văn hóa với các cộng đồng dân cư khác, cũng là một trong những nguyên
nhân làm cho nghề đan chiếu truyền thống của người Lạch bị mai một.
3.2.2 Một số ý kiến đề xuất
Hiện nay nghề đan chiếu của người Lạch ở thị trấn Lạc Dương, huyện Lạc Dương,
tỉnh Lâm Đồng đang dần mai một, để bảo tồn phát huy nghề truyền thống này nhóm
chúng tôi có một số ý kiến đề xuất như sau:
- Thứ nhất: xây dựng vùng nguyên liệu ổn định.
24
- Thứ hai: xây dựng nguồn nhân lực cho nghề đan chiếu.
- Thứ ba: tìm kiếm thị trường tiêu thụ cho các sản phẩm.
- Thứ tư: phát triển nghề đan chiếu truyền thống của người Lạch gắn với việc bảo
-
vệ môi trường sinh thái.
Thứ năm: phát triển nghề đan chiếu truyền thống gắn với du lịch để bảo tồn và
-
phát huy nghề đan chiếu truyền thống một cách bền vững.
Thứ sáu: có chính sách hỗ trợ về vốn, mặt bằng và thông tin để nghề đan chiếu
tiếp tục phát triển.
Bảo tồn và phát triển nghề đan chiếu truyền thống của người Lạch ở thị trấn Lạc
Dương, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng là việc làm có ý nghĩa và rất cần thiết. Chính
vì vậy, chúng ta tin rằng với sự nỗ lực, cố gắng vươn lên của nghề đan chiếu truyền thống
cũng như sự hỗ trợ, giúp đỡ, quan tâm của Nhà nước, chính quyền và các tổ chức xã hội
để thực hiện các giải pháp trên, chắc chắn các làng nghề truyền thống sẽ tìm được cơ hội
mới, nhiều triển vọng để tiếp tục phát triển và khẳng định vai trò của mình trong cuộc
sống hiện tại của đất nước.
KẾT LUẬN
Nghề thủ công truyền thống với các bí quyết nghề nghiệp riêng là sản phẩm độc đáo
của nền văn hoá Việt Nam - Một dân tộc đã có dày lịch sử hàng ngàn năm với nền văn hoá
lấy cộng đồng làng làm đơn vị tổ chức xã hội cơ bản. Các nghề truyền thống đã tạo ra rất
nhiều sản phẩm không chỉ đơn thuần là trao đổi thương mại mà còn có mặt giá trị về văn
hoá và lịch sử.
Cũng như các nghề thủ công khác, nghề đan chiếu của người Lạch ở thị trấn Lạc
Dương, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng, đóng vai trò quan trọng trong đời sống của
25
cộng đồng người Lạch nói riêng và của người dân nơi đây nói chung. Bên cạnh những
ngành nghề như trồng hoa, trồng dâu, cà phê, các loại rau củ quả, người Lạch ở nơi đây
còn có nghề đan chiếu – một nghề truyền thống có từ lâu đời của cộng đồng người Lạch.
Điều đặc biệt ở nghề đan chiếu của người Lạch ở thị trấn Lạc Dương, không thấy
người trong nghề ở đây nhắc nhở đến ông Tổ nghề chiếu, cũng như gìn giữ các tập tục
kiêng cữ chung quanh nghề này. Người phụ nữ trong nhà đều có thể học làm chiếu. Điều
làm nên sự khác biệt giữa chiếu truyền thống của người Lạch với các loại chiếu ở những
địa phương khác đó là không dùng khung dệt, không dụng cụ kèm theo, chỉ với đôi bàn
tay khéo léo người phụ nữ Lạch làm nên chiếc chiếu bền, đẹp, mang giá trị thẩm mỹ cao.
Màu để nhuộm chiếu của người Lạch cũng là một điều đặc biệt chỉ người Lạch mới có,
những chiếc chiếu được nhuộm đỏ thì màu sắc sẽ tồn tại mãi không phai theo thời gian.
Làm từ sản vật của núi rừng, sợi Tơ Đung làm nên chiếu truyền thống của người
Lạch ấm khi giá lạnh, mát khi hè sang, lại chắc và bền, trong sự giao lưu và hội nhập
được người tiêu dùng ưa chuộng, đang mở ra một hướng đi mới để phụ nữ Lạch ổn định
cuộc sống từ nghề thủ công truyền thống của mình. Màu đỏ đằm thắm và màu vàng như
màu đất rừng, cùng với kỹ thuật đan, phối màu tạo những đường diềm, hoa văn tinh xảo,
độc đáo qua bàn tay tài hoa của phụ nữ Lạch, chiếc chiếu truyền thống của người Lạch
mang chất nét riêng không thể trộn hòa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ths. Bùi Văn Vượng (2010), Nghề mây tre đan, nghề dệt chiếu, dệt thảm, làm
quạt giấy cổ truyền Việt Nam, NXB Thanh niên.
2. Ths. Bùi Văn Vượng (1998), Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam, NXB
Văn hóa dân tộc.
3. Viện nghiên cứu văn hóa (2011), Tổng tập nghề và làng nghề truyền thống Việt
Nam, tập 5, NXB Khoa học xã hội