Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Ôn thi văn học Việt Nam Tú XƯơng Nguyễn Khuyến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.9 KB, 12 trang )

Mục lục
2.

CHẤT LIỆU DÂN GIAN TRONG THƠ NGUYỄN KHUYẾN
BỨC TRANH TỨ BÌNH TRONG THƠ NGUYỄN KHUYẾN

3.

NGƯỜI PHỤ NỮ-TÚ XƯƠNG

1.

CHẤT LIỆU DÂN GIAN TRONG THƠ NGUYỄN
KHUYẾN
1. Hình ảnh làng quê đậm chất dân gian
 Hình ảnh quen thuộc nơi làng quê như lá vàng, ao nước, ngõ trúc, ngõ tối,
trâu, đom đóm, tiếng chó sủa... để miêu tả
 Thiên nhiên nông thôn trong thơ Nguyễn Khuyến đặc trưng cho vùng đồng bằng
Bắc Bộ  chùm ba bài thơ thu: Thu điếu, Thu vịnh, Thu ẩm. Một cảnh thu mà
theo như Xuân Diệu nhận xét: "Đây là ba bức tranh thu đẹp và điển hình nhất
cho mùa thu miền Bắc cũng như của nước ta". Trước đây, khi miêu tả mùa thu,
các thi sĩ thường sử dụng hình ảnh lá ngô đồng, rừng phong. Riêng Nguyễn
Khuyến, ông dùng những hình ảnh thiên nhiên nơi vùng quê để vẽ nên bức tranh
thu chân thực mà nên thơ. Đó là cảnh một đêm thu với bóng tối sâu thẳm với
những chấm sáng của những con đom đóm lập lòe:
Năm gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe.
(Thu ẩm)
Hay hình ảnh màu khói nhạt nơi lưng giậu, bóng trăng lóng lánh trên mặt
ao:
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt


Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
(Thu ẩm)
Mùa thu làng quê yên ả với chiếc thuyền câu trôi nhẹ:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
(Thu điếu)


Tính ước lệ đã phai nhạt hẳn, mà thay vào đó là tính cụ thể, sinh động, gần gũi
của cảnh vật đời thường.
2. Hình ảnh con người
 Cùng với cảnh vật thiên nhiên của vùng quê Bắc Bộ đơn sơ mộc mạc, thì con
người hiện lên hết sức sinh động:

Hình ảnh người nông dân. Chân dung Người nông dân dưới ngòi bút của
Nguyễn Khuyến được miêu tả chân thực như đang sống ở ngoài đời vậy, mộc mạc,
giản dị. Cuộc đời họ quanh năm "chân lấm tay bùn", vất vả lo toan cho cuộc sống,
cho gia đình như hình ảnh bà vợ Nguyễn Khuyến "xắn váy quai cồng", "thắt lưng
bó que", "tất tả chân đăm đá chân chiêu". Công việc đồng áng khiến người phụ nữ
nông thôn không có lúc nào được ngơi tay.
 Hình ảnh người dân quê gồng gánh đi chợ về hỏi han nhau:
- Năm nay chợ họp có đông không.
- Hàng quán người về nghe xao xác
Nợ nần năm hết hỏi lung tung.
(Chợ đồng)
 Hình ảnh các cụ già nông thôn chân chất, hiền hòa:
Một lũ tóc râu ai tuổi tác
Nửa phần làng xóm đã thay đời.

(Đến chơi nhà bác Đặng)
 Hình ảnh cụ già trầm tĩnh ngồi trên chiếc thuyền câu cá:
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
(Thu điếu)
Nguyễn Khuyến là một bậc thầy về việc sử dụng chất liệu dân gian trong việc xây
dựng hình ảnh thiên nhiên và con người trong thơ. Chính những hình ảnh giản dị
của cảnh vật, của con người nơi mảnh đất mà nhà thơ sinh sống đã tạo nên nguồn
cảm hứng vô tận để nhà thơ viết nên những vần thơ trong sáng, giản dị, gần gũi với
cuộc sống đời thường như thế.
Nguyễn Khuyến đã vẽ lên bức tranh đời sống dân dã, chân thực, tinh tế và gần gũi.
Đồng thời, qua đó người đọc như cảm nhận được tâm hồn của người dân quê tuy
nghèo khổ nhưng giàu đức hy sinh, chịu thương chịu khó, chất phác, trong sáng và
tràn đầy lạc quan tin tưởng.
3. Phong tục, tập quán truyền thống của dân tộc trong thơ



Nhiều phong tục, tập quán tốt đẹp của người dân quê đã đi vào thơ Nguyễn Khuyến
một cách tự nhiên, sinh động như: lễ mừng thọ, đi chợ cuối năm, tục khai bút đầu
xuân... đều được khắc họa vào trong thơ một cách tự nhiên.
 Người đọc bắt gặp một lễ mừng thọ đông đúc người thân, hàng xóm,
bạn bè:
 Đó còn là bức tranh phiên chợ cuối năm khi tiết trời lất phất mưa phùn:
Tháng chạp hai mươi bốn chợ đồng
Năm nay chợ họp có đông không?
Dở trời mưa bụi còn hơi rét
Nếm rượu tường đền được mấy ông
(Chợ đồng)
Trong khung cảnh không gian buồn não nề của một phiên chợ đã vãn, nhưng nét

đẹp của tục "nếm rượu tường đền" của các cụ già trong phiên chợ cuối năm vẫn
được diễn ra. Vào ba phiên chợ Tết, các bô lão coi việc tế tự trong làng thường ra
ngồi tựa lưng vào tường đền nếm rượu, xem thứ rượu nào ngon thì mua về để tế lễ
thánh trong dịp tết. Đây là một phong tục của quê hương Nguyễn Khuyến.
 Tục khai bút đầu Xuân có từ trước thời Nguyễn Khuyến nhưng nó vẫn
tồn tại và giữ nguyên nét đẹp vốn có:
Ình ịch đêm qua trống các làng
Ai ai mà chẳng rước xuân sang
Rượu ngon nhắp giọng đưa vài chén
Bút mới xô tay thử một hàng.
(Khai bút)
4. Vận dụng tục ngữ, ca dao, thành ngữ
3.1.1. Tục ngữ
Nguyễn khuyến đã vận dụng khá nhiều tục ngữ trong thơ của mình. làm cho những
câu thơ, lời thơ của ông thêm phần thi vị, gần gũi và giàu hình ảnh
 Trong bài Thơ khuyên học, Nguyễn Khuyến đã vận dụng khôn khéo, tài
tình, sáng tạo câu tục ngữ "gần mực thì đen, gần đèn thì sáng":
Đen thì gần mực, đỏ gần son
Học lấy cho hay, con hỡi con.
để răn dạy con cháu của mình chăm lo học hành. Với mong muốn con mình sẽ biết
noi theo những điều tốt đẹp mà học tập, tu dưỡng đạo lý làm người nhưng không hề
giáo điều, cứng nhắc.
 Hay từ câu tục ngữ "miếng trầu là đầu câu chuyện", ông đã viết:


Đầu trò tiếp khách trầu không có
Bác đến chơi đây ta với ta.
(Bạn đến chơi nhà)
3.1.2. Ca dao
 Là một bậc đại nho, tài hoa uyên bác nhưng Nguyễn Khuyến cũng là người có

tính cách phóng khoáng, hóm hỉnh. Trong "Đề ảnh tố nữ", ông không ngại thể
hiện sự "đáo để" trong cái cười kín đáo của mình trước một cô gái đẹp:
Người xinh cái bóng tình tinh cũng ...
Một bút một thêm một điểm tình.
Biến chuyển câu Ca dao:
Người xinh cái bóng cũng xinh
Người giòn cái tỉnh tình tinh cũng giòn.
Làm cho câu chữ mềm mại mà hàm ý mỉa mai thật sâu sắc
 Còn trong bài Thầy đồ ve gái góa, Nguyễn Khuyến đả kích sâu cay thói dâm ô,
mất đạo đức tư cách của những thầy đồ biến chất:
Thầy bảo rằng thầy yêu cháu đấy
Thầy yêu mẹ cháu có ai hay
Bắc cầu câu cũ không hờ hững
Cầm kính tình xưa vẫn đắng cay.
Từ "bắc cầu" ở đây đã được Nguyễn Khuyến mượn từ câu:
"Muốn sang thì bắc cầu Kiều
Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy"
Và từ "cầm kính" là rút từ câu ca dao:
"Trách người quân tử bạc tình
Có gương mà để bên mình chẳng soi"
3.1.3. Thành ngữ
 Cùng với việc vận dụng tục ngữ - ca dao, Nguyễn Khuyến còn sử dụng những
câu thành ngữ làm cho lời thơ thêm bóng bẩy, giàu ý nghĩa biểu cảm. Chẳng hạn
như trong bài Anh giả điếc, ông viết:
Trong thiên hạ có anh giả điếc
Khéo ngơ ngơ ngác ngác, ngỡ là ngây!
Chẳng ai ngờ "sáng tai họ, điếc tai cày"
Lối điếc ấy sau này em muốn học ...



 Sử dụng thành ngữ "sáng tai họ, điếc tai cày" nhằm ám chỉ sự giả vờ của "anh
giả điếc". Anh ta chỉ giả vờ ngô nghê, dại khờ chứ thực ra anh rất khôn chứ không
hề ngốc nghếch như người ta tưởng.
 Trong bài Tạ lại người cho hoa trà, Nguyễn Khuyến đã vận dụng thành ngữ "tóc
bạc, da mồi" để chỉ người già, sức yếu:
Da mồi, tóc bạc, ta già nhỉ ?
Áo tía, đai vàng bác đó a!
 Và từ ý của câu thành ngữ "già kén kẹn hom", ông viết:
Tình trong yểu điệu đà nên gái
Đấng bậc coi chừng muốn lấy ông.
(Gửi người con gái xóm Đông)
Từ ý của câu thành ngữ Nguyễn Khuyến ngụ ý đùa cô gái coi chừng kén chọn
nhiều vào rồi "quá lứa lỡ thì", lỡ làng đến nỗi phải lấy ông già ngang tuổi ông nội
mình.
Vận dụng ca dao-tục ngữ-thành ngữ một cách sáng tạo, uyển chuyển Nguyễn
Khuyến đã mang đến cho người đọc những vần thơ dung dị, tự nhiên, giàu hình
ảnh và giàu tính biểu cảm, gần gũi với đời sống con người và đi sâu vào lòng
người.
5. Sử dụng lối chơi chữ
Chơi chữ là một hiện tượng thường thấy trong văn học dân gian và trong đời sống
của con người. Trong dân gian đã tồn tại nhiều hiện tượng chơi chữ trên cơ sở từ
đồng âm khác nghĩa để tạo nên ý nghĩa châm biếm nhẹ nhàng, ngầm ẩn. Chẳng hạn
như:
Bà già đi chợ cầu đông
Xem một quẻ bói lấy chồng lợi chăng?
Thầy bói gieo quẻ nói rằng
Lợi thì có lợi nhưng răng chẳng còn"
 Tiếp thu lối chơi chữ trong thơ ca dân gian, Nguyễn Khuyến đã vận dụng loại
nghệ thuật độc đáo này trong sáng tác thơ. Chẳng hạn như câu đối trong bài Vợ
thợ rèn khóc chồng:

Nhà cửa để lầm than, con thơ dại lấy ai rèn cặp
Cơ đồ đành bỏ bễ, vợ trẻ trung lắm kẻ đe loi.
Trong câu đối, tác giả đã huy động cả một trường từ vựng phong phú gồm những từ
nói về nghề rèn như: than, rèn cặp, bễ, đe loi. Về hình thức nội dung câu đối vẫn
được bảo đảm mà việc sử dụng một loạt từ cùng trường đúng với những thứ có liên
quan trong nghề rèn của người chồng khiến cho câu thơ thêm hấp dẫn, thú vị. Hay


trong bài Anh hàng gà khóc vợ, tác giả dùng những từ như "lồng", "đáy", "nháo
nhác", "con", "gánh", "lục cục", "trống", tất cả đều liên quan đến gà và nghề mua
bán gà của anh ta.
 Không chỉ nhằm đùa vui, cười cợt mà Nguyễn Khuyến dùng lối chơi chữ nhằm
thể hiện dụng ý nghệ thuật của mình:
Ăn mày chớ có ăn tao nhé.
"Ăn mày" và "ăn tao", "mày" và "tao" có gì khác nhau? Mới nghe cứ nghĩ đây là
một câu đùa vui nhưng thực chất nó lại có hàm ý sâu xa cùng một dòng suy tưởng,
niềm tâm sự với câu ca dao:
Ăn mày là ai? ăn mày là ta
Đói cơm rách áo hóa ra ăn mày.
Trong bài Khóc dương khuê ta bắt gặp các trường hợp chơi chữ đồng âm tạo ra
một sự luyến láy về hình thức, âm điệu, ngữ điệu:
"Bác dương thôi đã thôi rồi"
"Biết thôi thôi thế thì thôi mới là"
"Rượu ngon không có bạn hiền
Không mua không phải không tiền không mua"
(Khóc Dương Khuê)
6. Sử dụng ngôn ngữ hàng ngày
 Nguyễn Khuyến đã vận dụng ngôn ngữ hàng ngày đạt đến mức nhuần nhụy. Dù
là một vị Tam Nguyên Yên Đỗ, Nguyễn Khuyến vẫn sống như một người dân
quê. Cuộc sống dù đạm bạc, nghèo khổ nhưng chứa chan tình nghĩa với anh em,

bè bạn, làng xóm. Có lẽ vì thế mà ta cũng thật dễ hiểu khi thấy thơ Nôm của ông
mộc mạc, giản dị như chính lời ăn tiếng nói của người dân nơi đây:
Sớm trưa dưa muối cho qua bữa
Chợ búa trầu cau chẳng dám mua.
(Chốn quê)
Cách nói "cho qua bữa", "chẳng dám mua" như một lời đối thoại thông thường
của người dân gặp cảnh khó khăn. Bữa ăn chỉ qua quýt cho xong chuyện với "dưa
muối" chứ chẳng mong gì đến cao lương mỹ vị. Ngay đến trầu cau là thứ bình
thường mà đành chịu,"chẳng dám mua".
 Chốn quê ấy với những con người bình dị và đến cách nói chuyện cũng
xuề xòa, không tô vẽ cầu kì:
Tần trên thế mà không khá nhỉ
Nhờ trời rồi cũng mấy gian kho.


(Nhà nông tự than)
 Ngay cả lời thăm hỏi bạn bè của ông Tam Nguyên mà chẳng khác gì lời
hỏi han của mấy bà, mấy cô ở nhà quê:
Ai lên nhắn hỏi bác châu cầu
Lụt lội năm nay bác ở đâu?
Mấy ổ lợn con rày lớn bé?
Vài gian nếp cái ngập nông sâu?
(Lụt hỏi thăm bạn)
Tóm lại, qua việc tìm hiểu nghệ thuật sử dụng chất liệu dân gian trong thơ Nôm
Nguyễn Khuyến với việc sử dụng những hình ảnh thiên nhiên, con người cùng với
việc vận dụng vốn ca dao, tục ngữ, thành ngữ, lối chơi chữ, ngôn ngữ hàng ngày ta
như có cái nhìn sâu sắc hơn, toàn diện hơn về dấu ấn dân gian in đậm trong thơ văn
của ông. Đặc điểm này góp phần tạo nên tiếng cười trào phúng của dân gian trong
thơ Nôm một cách tinh tế, nhuần nhụy, tự nhiên. Và ẩn sau nét bình lặng, trầm tĩnh
của ông là một tâm hồn cao quý, một tấm lòng yêu quê hương, yêu đất nước sâu sắc,

đặc biệt là mảnh đất ruột thịt chứa chan tình cảm.

BỨC TRANH TỨ BÌNH
2.1.1.Cảnh mùa xuân
2.1.2.Cảnh mùa hạ
2.1.3.Cảnh mùa thu
Thu điếu là bài thơ thuộc thể loại thơ trữ tình phong cảnh.Bài thơ là một
bức tranh dẹp về mùa thu ở làng quê Việt Nam. Trong bài thơ xuất hiện hình ảnh
nhân vật trữ tình đầy tâm sự. Không gian: thu, ao, thuyền câu và người đi câu 
bức tranh thu với hình ảnh rất quen thuộc và đặc trưng cho mùa thu ở đồng bằng
Bắc Bộ.
Thu điếu
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.


Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối ôm cần lâu chẳng đặng,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.
Bài thơ thể hiện vẻ đẹp tâm hồn nhà thơ Nguyễn Khuyến.Đó là một
nhà thơ, một con người bình dị, gắn bó và yêu quê hương tha thiết.
Thu ẩm là bài thơ với đề tài mùa thu uống rượu.Nhà thơ uống rượu
khi bóng tối trùm lên tất cả cảnh vật. Nhà thơ mượn chút ánh sáng “lập lòe”
để tăng thêm độ dày của màn đêm. Ngồi uống rượu trong không gian đầy
bóng tối hẳn tâm trạng nhà thơ cũng nặng trĩu buồn. Cảnh đêm trăng mùa thu
được cảm nhận từ phía “làn ao” qua cái nhìn của nhà thơ đã trở nên sinh
động, có hồn.

Thu ẩm là mùa thu uống rượu nhưng đến cuối bài hình ảnh người
uống rượu mới xuất hiện qua đôi mắt “đỏ hoe” sau khi đã kịp cảm nhân được
sắc màu trong xanh vời vợi của trời thu. “Mắt đỏ hoe” không phải vì uống
rượu mà chính là nỗi lòng rưng rưng thương cảnh nước nhà. Thu ẩm thể hiện
rõ nhất tâm sự yêu nước thầm kín của Nguyễn Khuyến.
Thu ẩm
“Năm gian nhà nhỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm khuya đóm lập loè.
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt,
Mắt lão không viền cũng đỏ hoe.
Rượu tiếng rằng hay, hay chẳng mấy


Độ năm ba chén đã say nhè”.
Đề bài Thu vịnh là cảm hứng trước mùa thu mà làm thơ. Ấn tượng
đầu tiên là bầu trời xanh thăm thẳm, trong trẻo, tinh khiết, không gợn một
bóng mây. Không gian thật bao la, cao rộng. Gió mùa thu nhè nhẹ, hiu hắt,
lay động thân trúc uốn cong mềm mại. Cảnh sắc mùa thu thanh nhẹ, trong
sáng tương đồng với vẻ đẹp của một nhà nho có có cốt cách thanh cao. Tâm
hồn nhà thơ hòa điệu với thiên nhiên. Bài thơ cho thấy sự hòa hợp giữa người
và cảnh.Trước cảnh thu đẹp, Nguyễn Khuyến muốn lấy bút làm thơ nhưng lại
khiêm tốn “thẹn với ông Đào”.
Thu vịnh
Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,
Cần trúc lơ thơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông chừng như khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,

Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra sợ thẹn với ông Đào
Ba bài thơ Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh của Nguyễn Khuyến đã trở
thành những bài thơ chữ Nôm tuyệt tác trứ danh, được người đời truyền tụng
cho đến ngày nay.
2.1.4.Cảnh mùa đông
Tuy viết về đề tài mùa đông không nhiều nhưng cũng có bài ông viết
về những cảnh đặc trưng của mùa đông.
“Xương buốt, tai ù, mình tưởng mượn,


Nón che tơi phủ khách thưa lời.”
Bức tranh bốn mùa của thiên nhiên ở chốn làng quê đã được Nguyễn Khuyến
cảm nhận một cách tinh tế và sống động.Đọc thơ ông ta cảm thấy sao thật
gần gũi và thân quen.

NGƯỜI PHỤ NỮ-TX
Đến cuối thế kỉ 18, những biến đổi của xã hội đem đến sự vận động trong văn
học hướng về cuộc sống chân thực của con người, các nhà nho nhân đạo
chủ nghĩa như Nguyễn Du, Đặng Trần Côn đã có những lời bênh vực cho
sắc đẹp và đề cao giá trị của người phụ nữ. Thế nhưng cảm hứng chủ đạo
trong giai đoạn văn học này là “tài mệnh tương đố”, người phụ nữ hầu hết là
những người tài, sắc có mối quan hệ trực tiếp hay gián tiếp với giới thượng
lưu, với khách phong tình trong xã hội. Phải đến Tú Xương thì người phụ nữ
mới hiện lên đầy màu sắc như thế:
+ Đó là hình ảnh bà Tú “lặn lội mom sông” để chắt chiu tiền bạc “nuôi đủ
năm con với một chồng
+ Tú Xương đã từng tỏ ra vô cùng thương cảm với chị em phụ nữ là nghệ sĩ
hát cô đầu:

Chị em ta cùng nhau giữ giá
Đến bây giờ ngã cả chẳng ai nâng
(Tết cô đầu)
+ Thậm chí ông thông cảm được với cảnh ngộ trớ trêu của những “me Tây”,
thực chất là những phụ nữ vì hoàn cảnh đặc biệt mà đành phải lấy Tây,
nhưng rồi biết mình lầm và kiên quyết “giãy ra”:
Rứt cái mề đay ném xuống sông
Thôi thôi tôi cũng mét xì ông!
(Cô Tây đi tu)
+ Tây vào nước ta chẳng bao lâu thế mà lấy chồng Tây đã trở thành “mốt”
thời thượng. Nhà thơ có cái nhìn xếch mé vời những cô gái lấy chồng Tây:
Gớm thay cho những cô con gái
Mà vẫn đua nhau lấy các thầy.
(Mồng hai tết, viếng cô Kí)
hoặc:
Ngày năm bảy mối tối nằm không.
Hẩu lố, khách đà ba bảy chú,


Mét xì, Tây cũng bốn năm ông…
Nhưng trường hợp cô Kí thì sao?
Chúng ta hãy đọc lại toàn bài thơ:
MỒNG HAI TẾT VIẾNG CÔ KÍ
Đối với cô Kí, Tú Xương giận nhiều hơn thương vì những tội sau đây:
Thứ nhất, chỉ vì ham chút “địa vị” rẻ tiền mà hi sinh nhân phẩm của một cô
gái tơ trinh, cam lòng sống với một kẻ tốt mã giẻ cùi. Tú Xương vốn khinh bỉ
những hạng công chức nô lệ như thế (Chẳng kí không thông cũng cậu bồi!).
Thứ hai, vì a tòng với kiểu tính toán vô sỉ của chồng, cô Kí đã cam tâm làm
một việc bẩn thỉu: đem ngay “cái hồng nhan” của mình ra làm “mồi nhử” tên
cẩm Tây chỉ cốt được y che chở để kiếm chút lợi cho gia đình.

 Tú Xương nhìn rõ tính chất lưu manh đồi bại không thể tha thứ trong
hành động xấu xa “đổi danh tiết lấy lợi lộc” của cô Kí. Ông đã nhân
danh nền đạo đức cổ truyền của dân tộc mà lên án những hạng người
“bán linh hồn mua hạnh phúc”. Cô Kí đã không còn có giá gì, vậy thì
làm sao một con người sắc bén và coi nhân phẩm là trên hết như Tú
Xương lại có thể làm thơ thương khóc cô như Nguyễn Du thương
khóc nàng Kiều?
Cái gọi là “công, dung ,ngôn, hạnh” đang có những thay đổi trong hoàn cảnh
mới. làm thay đổi con người đã không còn những cô gái sống trong cảnh “êm
đêm chướng rủ màn che” thay vào đó là những cô gái đi buôn. Nói đến buôn
bán đã là một cái ác cảm với nhà Nho rồi, lại còn là những cô gái đi buôn thì
ấn tượng càng mạnh, Tú Xương nghiêm khắc phê phán sự suy đồi đạo đức
của phụ nữ cũng tức là ông kiên quyết đấu tranh để bảo vệ đạo đức ấy. Trong
thơ ông có hình ảnh những cô nàng làm nghề buôn bán nhưng đã hư thân mất
nết cô gái buôn thật ghê gớm ngang dọc cua chớ hãi hùng sử dụng tới
“ngón tình” để kiếm lợi như một kẻ lưu manh:
Nước buôn như chị mới ăn người
Chị thấy ai mua chị cũng cười
Tiền hàng kẻ thiếu , mi thừa đủ
Giá gạo ai năm, tớ vẫn mười
(Gái buôn)
Một điều rất đặc sắc là Tú Xương khắc hoạ được chân dung của một hạng
đàn bà thuộc “thời đại mới” đã giẫm đạp lên những chuẩn mực đạo đức của


đàn bà Phương Đông. Trong đời, đó là hai nữ nhân vật có thật ở thành Nam
(vợ goá của hai ông quan lớn) mang tính cách tương tự những “bà tư sản”
Phương Tây “Cũng võng cũng dù/Cũng hèo cũng quất/Tháng rét quạt
lông/Mùa hè bít tất/ ngón đĩ thoã bà nào cũng nhất”, rất giống Bà phó
Đoan trong tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng sau này




×