Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Lòng yêu nước trong văn học việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.67 KB, 14 trang )

Lòng yêu nước trong văn học việt nam
SỰ VẬN ĐỘNG CỦA NỘI DUNG YÊU NƯỚC TRONG VĂN HỌC YÊU
NƯỚC NỬA SAU THẾ KỶ XIX Ở VIỆT NAM
2.1. Tiếng súng bắn vào cửa biển Đà Nẵng ngày 31 – 8 – 1858, không những mở
màn cho cuộc xâm lược của thực dân Pháp mà còn báo hiệu một sự biến chuyển
lớn lao trong lịch sử dân tộc ta. Từ đó đến cuối thế kỷ, theo quan điểm của bọn thực
dân, là thời kỳ “chinh phục và bình định”. Đứng về phía ta là thời kỳ nhân dân ta
đứng lên với tư cách người dân một nước độc lập, đương diện đấu tranh gìn giữ tổ
quốc chống bọn xâm lược nhưng rồi thất bại. Nhân dân ta anh dũng thật, nhưng thế
nước không sao cứu vãn được. Thực dân dần dần quàng ách thống trị lên cả nước.
Một hình thái xã hội mới – Xã hội thực dân nửa phong kiến ra đời, rõ nét dần vào
những năm cuối thế kỷ XIX đầu XX (người ta thường mệnh danh là xã hội giao
thời). Xã hội giao thời ấy là xã hội nảy sinh trên cơ sở của những tư tưởng cướp
nước, đầu hàng và tư tưởng xu danh trục lợi. Ghê tởm nhất là những cảnh bất nhân
phi nghĩa. Cuộc chiến đấu chống ngoại xâm của nhân dân với ảnh hưởng sâu rộng
trong cả ý thức lẫn tổ chức xã hội đã để lại dấu ấn của nó trên lập trường chính trị
cũng như ý thức nghệ thuật của nhiều tác giả văn học yêu nước.
Vào nửa cuối thế kỷ XIX, văn học Việt Nam phát triển trong một hoàn cảnh đặc
biệt: Sự tác động mạnh mẽ và sâu xa của cuộc xâm lăng và cuộc chống xâm lăng
trên cơ sở một xã hội có nhiều phân hóa và trên một quá trình biến chuyển nước
nhà đi từ chỗ có chủ quyền đến chỗ nô lệ, cùng với nó là sự khủng hoảng trầm
trọng về ý thức hệ của nhà văn, nhà thơ, sự thay đổi lớn lao của hiện thực và sau đó
là sự có mặt mang theo sự đe dọa phủ định của những yếu tố văn học mới. Sự du
nhập của văn hóa phương Tây, tác động của chúng vào văn hóa phương Đông diễn
ra trên một phạm vi rộng lớn – Trên hầu khắp lục địa châu Á. Văn học Việt Nam
nửa cuối thế kỷ XIX dậm dựt bứt ra khỏi những chủ đề truyền thống của Nho gia,
nhận lãnh trách nhiệm thổi lên tiếng kèn tập hợp lực lượng để chống xâm lược. Văn
học của triều đình bế tắc trước yêu cầu lịch sử, văn thơ của các nhà nho như
Nguyễn Khuyến, Trần Bích San, Nguyễn Thông… đã chịu ảnh hưởng của hiện
thực xã hội. Một số khác, như Trần Tế Xương, Kép Trà, quay sang chủ đề tố cáo
hiện thực. Những nhà Nho miền Nam trong vùng bị xâm lược hay bị đe dọa trực


tiếp đã trở nên những nghệ sĩ tụng ca lòng yêu nước, chiến công và gương hy sinh
dũng liệt của các nhà Nho và nghĩa binh. Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Bùi
Hữu Nghĩa, Nguyễn Hữu Huân… nằm trong số đó. Một số khác, sau khi theo chiếu
Cần vương ứng nghĩa tiếp tục nội dung tâm, chí, đạo trong một hoàn cảnh cực kỳ
khắc nghiệt và tiền đồ đen tối (rõ rệt nhất là Nguyễn Quang Bích).


Hơn thế, cuộc sống của con người trong xã hội lúc này tràn ra khỏi khuôn khổ của
luân thường đạo lý cổ truyền tiến triển theo chiều hướng mới. Kinh tế tư bản chủ
nghĩa đã nảy nở và đang dần phát triển, tạo nên không khí tấp nập ở các đô thị. Nho
phong tàn tạ, sĩ khí tiêu tán, bút lông hết thời. Xã hội thực dân tư sản dần thay thế
xã hội phong kiến cũ, thể hiện qua cuộc khai thác thuộc địa và các chính sách cai trị
của thực dân Pháp, cùng với sự giao lưu văn hóa Việt – Pháp. Quả thực, những biến
đổi xã hội ở các mặt kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật vào những năm cuối thế
kỷ XIX trên đất nước ta đưa đến những biến đổi về thế giới quan, nhân sinh quan.
Văn hóa dân tộc tiếp biến cùng chung với văn hóa khu vực, hội nhập khu vực. Văn
minh phương Tây, văn học Pháp tác động mạnh đến văn học Việt Nam nhất là vào
những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Văn học chịu ảnh hưởng ý thức hệ
hiện đại: Tư sản và vô sản. Bên cạnh những thể loại truyền thống, có những thể loại
mới đối lập với thể loại cũ. Lý luận phê bình văn học thực sự có dấu hiệu hiện đại.
Tăng cường tư duy phân tích lý luận, sử dụng một số khái niệm mang tính công cụ
để tiếp cận đối tượng. Văn học được coi như một đối tượng khoa học cần được nhìn
nhận đánh giá từ nhiều góc độ.
Đặc biệt trong đời sống văn hóa tư tưởng của giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX, sự kiện
đáng chú ý hơn cả có lẽ là những tư tưởng cải cách xã hội của một số sĩ phu cấp
tiến có dịp ra nước ngoài, tiếp xúc trực tiếp với văn hóa phương Tây hoặc đọc sách
của phương Tây như: Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch. Từ những năm đầu
thế kỷ XIX, khuynh hướng này đã xuất hiện với những người như Trần Đình Túc,
Nguyễn Huy Tế, nhưng đến khoảng giữa thế kỷ mới biểu hiện rõ với một loạt đề
nghị của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch. Đề nghị cải cách của Nguyễn

Trường Tộ bao gồm nhiều mặt về nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp, tài
chính, quân sự, nội trị, ngoại giao, giáo dục, văn hóa, xã hội. Tinh thần chung trong
những đề nghị cải cách của ông là phản đối thái độ phục cổ, chú trọng thực tiễn và
khoa học kỹ thuật. Riêng những chủ trương về văn hóa, giáo dục của ông có ý
nghĩa tiến bộ đặc biệt. Nguyễn Trường Tộ đả kích kịch liệt lối học từ chương, hư
văn đương thời. Ông nhấn mạnh “học thực dụng thì kết quả sẽ được thực dụng, học
hư hèn thì kết quả sẽ phải hư hèn”. Và chủ trương “học tức là cái chưa biết để mà
biết, biết để mà làm”, nhà trường phải học khoa học kỹ thuật, học thiên văn, địa lý,
học luật học, học sinh ngữ. Giống như Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch chủ
trương mở rộng giao thiệp với nước ngoài, trọng việc học kỹ nghệ: “Việc học kỹ
nghệ không phải khó như việc cắp nách núi Thái Sơn để vượt qua biển Bắc như lời
thầy Mạnh. Vả lại theo tình hình khẩn cấp, lúc khát mới lo đào giếng thì đã chậm,
nhưng chậm còn hơn là không biết mãi. Dù mất mới lo làm chuồng cũng chưa phải
là muộn”. Nhưng rồi cũng như Nguyễn Trường Tộ, những đề nghị của Nguyễn Lộ


Trạch đều bị triều đình quên lãng, hoặc thực hiện nhỏ giọt, không có tác dụng gì
đối với xã hội. Đây chính là những thách thức mang tính thời đại mà các nhân vật
cứu nước giai đoạn này đặt ra, cũng như những khả năng thỏa mãn những yêu cầu
lịch sử đó của các lực lượng yêu nước trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.
Về phương diện này có thể kết luận: Triều đình nhà Nguyễn không những nối giáo
cho giặc xâm chiếm nước ta mà còn ngăn cản việc phát triển văn hóa của nhân dân
ta. Tính chất phản động của vương triều Nguyễn chủ yếu nằm ở chỗ hướng xã hội
quay về lý tưởng của xã hội Nho giáo truyền thống. Mất nước không phải do “rối
loạn kỷ cương”, mà là do cứ khư khư ôm giữ lấy hình mẫu kỷ cương cũ, ảo tưởng
và lạc điệu mà Nho giáo đã xác lập nên chưa bao giờ hiện thực hóa nổi trong suốt
mấy nghìn năm tồn tại của nó. Chính thực tiễn của nền chính trị triều Nguyễn là
bằng chứng điển hình cho trạng thái bất tương dung giữa lý thuyết, mô hình với sự
vận động phức tạp của lịch sử. Văn hóa giẫm chân tại chỗ, khoa học kỹ thuật không
có điều kiện phát triển, tư tưởng con người trở về với nếp suy nghĩ cổ hủ ngày xưa,

không dám táo bạo, không dám bay bổng và điều đó đã hạn chế rất lớn sự phát triển
của văn học đương thời.
2.2. Sự biến động nội tại của nội dung yêu nước trong văn học Việt Nam giai
đoạn nửa sau thế kỷ XIX
Từ giữa thế kỷ XIX, Việt Nam bị cuốn vào một cuộc chiến tranh xâm lược kéo dài
gần 40 năm. Trong gần 40 năm ấy, nếu những hoạt động vũ trang nổi lên trên
những bề mặt của đời sống xã hội thì trong chiều sâu của nó đã diễn ra một cuộc
khủng hoảng tư tưởng mà dư luận cho đến nay vẫn chưa chấm dứt. Sự khủng hoảng
tư tưởng ở đây chính là sự khủng hoảng của hệ tư tưởng Nho giáo trước sự xâm lược của luồng tư tưởng phương Tây. Tư tưởng “trung quân, ái quốc” xuyên suốt
bao thế hệ nhà Nho Việt Nam từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm đến Nguyễn
Đình Chiểu. Nhưng khi thực dân Pháp vào xâm lược Việt Nam mang theo nền văn
minh khoa học kỹ thuật của mối tư duy lô gích và tư tưởng cá nhân chủ nghĩa du
nhập vào đã làm biến đổi sâu sắc xã hội Việt Nam đồng thời là sự khủng hoảng của
tư tưởng “trung quân, ái quốc”, triều đình hỗn loạn, vua không ra vua, tôi chẳng ra
tôi, nhà Nguyễn đã đầu hàng giặc, cam tâm làm bù nhìn, làm con rối để Pháp giật
dây.
Công tâm và khách quan mà nói rằng: Chỉ trừ Khải Định, hầu như các vua Nguyễn
đều có sự “vùng vẫy”, hy vọng độc lập, cao hơn, có khát vọng chống Pháp. Tuy
nhiên trong hoàn cảnh nước ta vào những năm cuối thế kỷ XIX này, Nguyễn Tri
Phương bị thương trong chiến đấu, từ chối mọi việc chăm sóc để tìm lấy cái chết,
Hoàng Diệu thất trận, tự kết liễu đời mình. Tất cả những sự kiện ấy trong chiều sâu


của chúng đều nói lên sự cùng đường bế tắc của những người trong cuộc. Còn lại
hai ngọn đuốc trong đêm tuy không sáng tỏ nhưng cũng để sưởi lòng hy vọng của
nhân dân đó là khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo và khởi nghĩa Hương Sơn do Phan Đình Phùng lãnh đạo. Nhưng cho đến những năm cuối cùng của
thế kỷ thì ngọn đuốc cũng lụi dần. Sức Yên Thế còn dài mà cô độc, không có nhiều
sự hưởng ứng của nhân dân các nơi còn Hương Sơn thì sắp tắt. Sự thật, ngọn lửa có
tắt nhưng than vẫn còn hồng. Lòng dân vẫn sẵn sàng chống xâm lược nhưng ý thức
hệ Nho giáo mất uy tín quá lớn, uy tín của nhà Nguyễn càng suy sụp thê thảm. Các

sĩ phu yêu nước phải đi tìm một tiếng nói mới, một con đường đi khác với hướng đi
bế tắc của nhà Nho đương thời…
Văn học dịch ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Văn học Việt Nam cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 là một giai đoạn văn học mang tính
chất giao thời, bắt đầu chịu ảnh hưởng của phương Tây nhưng đồng thời vẫn còn
chịu ảnh hưởng sâu đậm từ nền văn học Trung Hoa. Văn học Nam Bộ cũng không
thoát khỏi tình cảnh ấy, nhưng do hoàn cảnh lịch sử, địa lý, văn học Nam Bộ cũng
có những đặc điểm riêng, như ở mảng văn học dịch chẳng hạn.
Vì là thuộc địa của Pháp, nên văn học phương Tây, đặc biệt là văn học Pháp được
du nhập, được dịch và xuất bản ở Nam Bộ sớm hơn so với miền miền Bắc, riêng
tiểu thuyết Pháp được dịch ra quốc ngữ còn sớm hơn cả tiểu thuyết cổ điển Trung
Hoa.
Gia Định báo từ 1881 đã đăng nhiều truyện ngụ ngôn của La Fontaine do
Trương Minh Ký dịch. Ông có lẽ là người dịch La Fontaine sớm nhất ở nước ta.
Những bài này sau được tập hợp thành sách, ví dụ như cuốn Chuyện Phan-sa diễn
ra quấc ngữ in năm 1884 gồm 16 bài của La Fontaine được dịch ra thơ lục bát; sau
đó là cuốn Riche et Pauvre (Phú bần truyện diễn ca). Năm 1887, Trương Minh Ký
còn dịch cuốn Les aventures de Telemaque của Fénelon (Chuyện Tê Lê Mặc gặp
tình cờ). Bản dịch này bằng văn vần, theo thể thơ lục bát. Gia Định báo cũng là nơi
đăng Truyện Robinson (tức Robinson Crusoe) (số 6, ngày 24-4 –1886). Cuối thế kỷ
XIX còn có Trần Nguyên Hanh dịch Les conseils du Père Vincent(Gia huấn của
lão Vincent).
Đến đầu thế kỷ XX, sự xuất hiện của những tờ báo có uy tín như Nông cổ mín đàm,
Lục tỉnh tân văn, Đông Pháp thời báo, Nam Kỳ địa phận,… đã góp phần rất lớn
trong việc đưa các bản dịch tiểu thuyết phương Tây đến tay công chúng một cách
sâu rộng hơn.


Trên Lục Tỉnh tân văn có Le Comte de Monte Cristo (Tiền căn báo hậu 1907), Les trois mousquetaires (Ba người ngự lâm pháo thủ - 1914) của Alexandre
Dumas, do Trần Chánh Chiếu dịch.

Nông cổ mín đàm đăng các bản dịch của Lê Hoằng Mưu. Lê Hoằng Mưu dịch
cả truyện Mỹ, Nga (qua tiếng Pháp) như Chồng bắt chạ vợ, Vi Lê giết vợ đăng
trên Nông cổ mín đàm…. Chồng bắt chạ vợ, một truyện ngắn của Mỹ có thể là tác
phẩm dịch đầu tiên của ông. Sau giai đoạn dịch, Lê Hoằng Mưu có những tác phẩm
phóng tác từ văn học phương Tây, như từ Racambole Tom V. Les drames de
Paris của Pierre Alexis Ponson du Terrail chẳng hạn (Nông cổ mín đàm số 18 năm
1912).
Từ năm 1916 báo Nam Kỳ địa phận cũng bắt đầu đăng các truyện dịch hoặc phóng
tác. Đến năm 1926 báo tăng thêm số trang và dành hẳn phần phụ trương
(supplément du N.K.Đ.P.) gồm 4 trang chuyên đăng quảng cáo và truyện, tiểu
thuyết.
Đông Pháp thời báo năm 1928 có các bản dịch Quan về vườn của nhà thơ
Pháp H. de Racan, một số tác phẩm của Eroshenko, phần đầu tiểu thuyết Bá tước
Monté Cristo của A. Dumas. Tất cả do Phan Khôi dịch.
Riêng với kịch phương Tây, Nguyễn Háo Vĩnh là một trong những người đầu tiên
giới thiệu. Với việc lược dịch bốn vở kịch của Shakespeare, gồm Chú lái buôn
thành Venise , Thái tử Hamlet, Roméo – Juliet, Vậy thì vậy, Anh hùng hào kiệt của
thành Rôma ngày xưa vào năm 1928, ông có lẽ là người Việt Nam đầu tiên giới
thiệu một tác giả lớn của Anh cho người đọc Việt Nam.
Không trực tiếp dịch thuật, nhưng Hồ Biểu Chánh, nhà tiểu thuyết tiêu biểu
nhất của Nam Bộ, cũng cho biết là đã phóng tác nhiều tác phẩm của tiểu thuyết
phương Tây. Chúa tàu Kim Quy là phỏng theo Le Comte de Monte Cristo của A.
Dumas, Cay đắng mùi đời phỏng theo Sans famille của Hector Malot, Chút phận
linh đinh phỏng theo En famille của Hector Malot. Người thất chí phỏng
theo Crime et châtiment của nhà văn Nga Fédor Mikhailovitch Dostoievski. Theo
Thanh Lãng, ngay cả tiểu thuyết văn xuôi đầu tay Ai làm được của Hồ Biểu Chánh
cũng mô phỏng tác phẩm André Cornélis của Paul Bourget[1].
Nhiều tác giả khác của thời kỳ này cũng có tác phẩm phóng tác. Lê Hoằng
Mưu, một nhà văn khét tiếng thời đó, đã phóng tác quyển tiểu thuyết Pháp Le
Comte de Monte Cristo của A. Dumas với nhan đề Tiền căn báo hậu (9 cuốn, Imp.

de l’Union, Sài Gòn, 1920; sau đó đăng trên Lục tỉnh tân văn từ số 2054 ngày
18.6.1925). Người vợ hiền (1929) của Nguyễn Thời Xuyên được phóng tác từ
cuốn Une honnête femme (1903) của Henry Bordeaux,…


Sớm tiếp xúc với văn hoá, văn học phương Tây, nhưng ảnh hưởng của văn
hoá và văn học Trung Hoa vẫn còn rất sâu đậm ở miền đất mới này. Nguyễn Văn
Trung lý giải điều này như sau: “Khi tiếp xúc với văn hoá Pháp, một văn hoá được
trình bày trong một chính sách đồng hoá đe doạ mất gốc, tiêu diệt bản sắc dân tộc,
người miền Nam không những không thể bỏ văn hoá truyền thống dựa trên Nho
học, mà còn coi nó như điểm tựa, chỗ dựa chống lại chính sách đồng hoá của
người Pháp”[2].
Người đầu tiên dịch các sách Nho học ra quốc ngữ là Trương Vĩnh Ký,
nhưng người dịch tác phẩm văn học Trung Quốc ra quốc ngữ đầu tiên có lẽ
là Huỳnh Tịnh Của. Tác phẩm Chuyện giải buồn (1885) gồm 112 truyện của ông
phần nhiều là những truyện được dịch từ các tác phẩm Trung Quốc như Cao sĩ
truyện, Trang Tử, Chiến quốc sách, Liêu Trai chí dị. Báo Nông cổ mín đàm, ngay
từ số đầu (1. 8. 1901) đã đăng bản dịch một “truyện Tàu” là Tam quốc chí. Đây là
bản dịch một “truyện Tàu” hoàn chỉnh đầu tiên. Tên người dịch được ghi là
Canavaggio, một chủ đồn điền và là thương gia người Pháp, chủ nhân báo Nông cổ
mín đàm. Nhưng theo Vương Hồng Sển, người dịch chính là Lương Khắc Ninh,
chủ bút của báo. Sau Tam quốc chí, Nông cổ mín đàm còn lần lượt đăng các truyện
dịch Liêu Trai chí dị, Kim cổ kỳ quan, Bao Công kỳ án...
Cũng vào thập niên đầu của thế kỷ XX, ở Nam Bộ đã xuất hiện nhiều dịch giả
“truyện Tàu” như Nguyễn Chánh Sắt, Trần Phong Sắc, Nguyễn An Khương,
Nguyễn An Cư, Đinh Văn Đẩu, Trần Hữu Quang, Huỳnh Trí Phú... Chính họ đã
đua nhau dịch nhiều tiểu thuyết thần kỳ, anh hùng nghĩa hiệp của Trung Quốc, tạo
thành một phong trào dịch “truyện Tàu”. Trong số các dịch giả, có Nguyễn An
Khương, Nguyễn Chánh Sắt, Trần Phong Sắc được báo Phụ nữ tân văn đánh giá là
“những tay dịch thuật trứ danh của Nam Kỳ”, riêng “Trần Phong Sắc là nhà dịch

thuật trứ danh nhứt”. Một mình Trần Phong Sắc đã dịch đến 29 bộ truyện Tàu.
Việc dịch thuật này cũng có thuận lợi do nguồn sách cung cấp phong phú từ
người Hoa ở Sài Gòn – Chợ Lớn. Các truyện này được in báo hoặc in thành tập.
Dưới hình thức tập truyện, chúng dễ dàng phổ cập đến giới bình dân, nhờ vậy mà
chữ quốc ngữ có thêm phương tiện truyền bá. Những Phong thần, Tam Quốc đều là
những chuyện gần gũi với tâm hồn người bình dân, họ đàm luận với nhau về những
nhân vật ấy, những gương trung hiếu tiết nghĩa rất quen thuộc ấy. Các truyện có
từng chương từng hồi, tình tiết rõ ràng, do đó rất được hoan nghênh và chữ quốc
ngữ cũng được ưa thích theo. Cha mẹ nhà nghèo cũng chỉ muốn cho con mình biết
đọc, biết viết để đọc truyện Tàu cho nghe những khi mùa màng rảnh rỗi. Những
nhà văn lão thành như Hồ Hữu Tường hay Vương Hồng Sển trong tác phẩm của
mình đều có ghi lại cái thú đọc truyện Tàu này.


Đã có nhiều nhà nghiên cứu giải thích về sự hấp dẫn đặc biệt này của truyện Tàu
đối với công chúng độc giả Nam Bộ. Bằng Giang cho rằng: “Truyện Tàu tiêu thụ
mạnh trong mấy năm đầu của phong trào một phần cũng vì mảnh đất sáng tác của
ta hãy còn là một bãi đất trống… Truyện Tàu tung hoành được cũng do vào thời đó
những phương tiện giải trí cho người dân còn hiếm hoi”[3]. Vũ Hạnh giải thích như
sau: “Việc người miền Nam thích đọc truyện Tàu phải được cắt nghĩa bằng nhu cầu
của họ tiếp cận với những đức tính cố hữu của họ mà họ tìm thấy trong những nhân
vật tích cực của truyện: đó là trung hiếu, tiết nghĩa, trí dũng, tín lễ, cương trực, anh
hùng. Truyện Tàu cho họ những cặp đối kháng như La Thành - Đơn Hùng Tín, Tần
Cối - Nhạc Phi, Bàng Quyên - Tôn Tẫn, Sài Trịnh Triệu - Lưu Quan Trường…; mà
họ không tìm thấy sách báo nào khác khi đó”[4]. Địa chí văn hoá thành phố Hồ
Chí Minh cũng nhìn việc tiếp nhận truyện Tàu ở một khía cạnh tích cực khác: “Rất
nhiều truyện Tàu là những cái túi khôn, đâu phải là nhảm nhí là chính? Người miền
Nam đọc truyện Tàu, thuộc truyện Tàu, lấy ra từ đó những cách ứng xử ở đời, soi
vào gương tốt, răn mình bằng những gương phản diện”[5]. Vương Hồng Sển cũng
cho rằng: “Truyện Tàu dạy tôi nhiều điều xử thế nên tôi gọi nó là một nghệ thuật,

chứ chẳng phải chơi… Ngoài ra truyện Tàu có nhiều gương tốt, truyện Tàu là một
vùng rừng thật lớn, một biển sâu và rộng, khai thác không bao giờ hết và cạn
cùng”[6].
Những nhận định này cho thấy rằng truyện Tàu đã thực sự trở thành một phần máu
thịt trong đời sống văn hoá tinh thần của người dân Nam Bộ trong thời kỳ đó và nó
đã tác động không nhỏ đến khuynh hướng sáng tác của tiểu thuyết trong giai đoạn
này.
Cũng cần nói thêm là Nam Bộ còn là nơi dung thân của đông đảo người Minh
Hương, tức những người Việt gốc Hoa mang tinh thần “phản Thanh phục Minh”.
Những truyện dịch mang không khí tảo Bắc, chinh Tây có lẽ cũng phần nào thoả
mãn ước mơ phục quốc của họ.
Việt Nam và Trung Quốc vốn được coi là “đồng văn”, việc dịch truyện Tàu là sự
tiếp nối truyền thống giao lưu văn học giữa hai nước, vừa để đáp ứng nhu cầu giải
trí của công chúng. Những truyện dịch kể trên, với lối văn xuôi theo tiếng nói
thường, đã hấp dẫn công chúng Nam Bộ bởi nội dung hấp dẫn của nó, bởi nó phù
hợp với tâm lý và thị hiếu của con người nơi vùng đất mới này. Việc đọc truyện
Tàu một thời gian dài đã thực sự trở thành một thú vui trong quần chúng nhân dân
Nam Bộ. Nhưng việc dịch và xuất bản truyện Tàu tràn lan vì lý do thương mại,
chạy theo thị hiếu của quần chúng cũng tạo nên một phản ứng tích cực sau này, đó
là phong trào sáng tác những truyện văn xuôi quốc ngữ, những “kim thời tiểu
thuyết” có bối cảnh là đất nước Việt Nam, con người Việt Nam, đặc biêt là tiểu


thuyết lịch sử với ý hướng muốn thể hiện lịch sử dân tộc và thoát ra sự kìm hãm lâu
đời của văn hoá Trung Hoa.
Văn học dịch ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX nhìn chung có những điều
đáng chú ý:
Đội ngũ dịch thuật thời kỳ này rất đa dạng. Họ vốn là những người tinh thông
Hán học, đồng thời biết cả tiếng Pháp và chữ quốc ngữ. Họ có thể là chủ bút hay
phụ bút cho các tờ báo như Nông cổ mín đàm, Lục Tỉnh tân văn như Lương Khắc

Ninh, Nguyễn Chánh Sắt, ngoài ra còn có cả Hoa kiều, chủ tiệm kim hoàn, thương
gia, nhà buôn sách và sửa xe đạp, thư ký nhà nước…
Trong sự hình thành và phát triển của văn học dịch Nam Bộ, báo chí đóng
một vai trò hết sức quan trọng, các tờ báo quốc ngữ như Gia Định báo, Nông cổ
mín đàm, Lục tỉnh tân văn, Đông Pháp thời báo, Nam Kỳ địa phận,… đã là nơi
công bố những bản dịch văn học đầu tiên, từ ngụ ngôn của La Fontaine cho đến
tiểu thuyết của A. Dumas, từ Liêu trai chí dị đến Tam quốc chí.
Việc dịch thuật cũng chú ý đến văn xuôi nhiều hơn, đặc biệt là truyện ngắn,
tiểu thuyết, khác với truyền thống xem trọng thơ ca trước kia. Điều này thể hiện
một quan niệm văn học mới – phản ánh hiện thực đời sống xã hội hơn là văn học
mang tính chức năng của truyền thống. Nhu cầu của thị dân cũng là điều khiến các
dịch giả đặc biệt quan tâm. Chú ý đến chức năng giải trí, quan tâm đến công chúng
bình dân nên các dịch giả đã phiên dịch nhiều loại tiểu thuyết anh hùng, phiêu lưu
mạo hiểm, kiếm hiệp. Ngay cả Nam Kỳ địa phận, một tờ báo Công giáo cũng có
phụ trương đăng những tiểu thuyết phiêu lưu, mạo hiểm và cả dạng hình sự nhằm
giúp các “khán quan”, độc giả giải trí, “giải buồn” như tên một mục của tờ báo.
Tiểu thuyết của A. Dumas rất được dịch giả Nam Bộ ưa chuộng. Le Comte de
Monte Cristo của A. Dumas đã được cả Hồ Biểu Chánh và Lê Hoằng Mưu phóng
tác. Về truyện Tàu, loại tiểu thuyết anh hùng như La Thông tảo Bắc, Ngũ hổ bình
Tây, Càng Long hạ Giang Nam, … chiếm số lượng rất lớn ở Nam Bộ do phù hợp
với tâm lý di dân của dân Nam Bộ và cả người Minh Hương xa xứ. Loại thứ hai là
loại tiểu thuyết kiếm hiệp như Phong kiếm xuân thu, Giang hồ nữ hiệp, Hậu Hán
tam hợp bảo kiếm,… được ưa chuộng cả ở hai miền Nam Bắc. Loại tiểu thuyết tình
cảm xã hội, tiểu thuyết diễm tình như Tây sương ký, Tuyết hồng lệ sử, Hồng Lâu
Mộng … rất ít thấy ở Nam Bộ trong khi lại được độc giả miền Bắc rất ưa chuộng.
Nguyễn Văn Ngọc đã nhận xét: “Thực vậy, ở trong Nam thì người ta tranh nhau mà
coi những Ngũ hổ bình Tây, Ngũ hổ bình Nam… còn ở ngoài Bắc thì người ta chỉ
ham coi Song phượng kỳ duyên, Lục mẫu đơn”. Qua thống kê của Nhan Bảo, một
nhà Việt Nam học người Trung Quốc, chúng ta thấy trường hợp các tiểu thuyết
như Gái trả thù cha, Man hoang kiếm hiệp, Tiểu hồng bào hải thụy, Giang hồ nữ



hiệp của Nguyễn Chánh Sắt; Nhi nữ tạo anh hùng của Gabriel Võ Lộ,… thực chất
là được dịch từ những tiểu thuyết bình dân của Trung Quốc.
Như vậy ở Nam Bộ, về xu hướng dịch thuật, các loại tiểu thuyết anh hùng, tiểu
thuyết dã sử, tiểu thuyết nghĩa hiệp được dịch nhiều hơn bởi chúng phù hợp với thị
hiếu và hấp dẫn độc giả bình dân hơn loại tiểu thuyết lãng mạn, tài tử giai nhân,
“ngôn tình, nhu cảm”. Nó phản ánh xu hướng hướng ngoại, thích hành động hơn là
hướng vào nội tâm của con người Nam Bộ.
Trong dịch thuật, nhiều yếu tố mới mẻ do văn hoá văn minh phương Tây đem đến
cũng được thể hiện. Nữ lưu thư quán ở Gò Công đã dịch Gương nữ kiệt để giới
thiệu Roland, một nữ anh hùng của nước Pháp. Trong lời giới thiệu, nhà văn Phan
Thị Bạch Vân, chủ nhân thư quán đã tỏ ra có ý thức khá sâu sắc về nữ quyền.
Vấn đề tính dục cũng sớm được văn học dịch Nam Bộ chú ý, đây có thể là do
Nam Bộ đã phương Tây hoá, đô thị theo kiểu phương Tây sớm hơn, do đó quan
niệm về tính dục cũng phóng khoáng hơn so với miền Bắc. Như trường hợp phóng
tác Hương Thái Căn cải trang gian dâm mệnh phụ của Lê Hoằng Mưu chẳng hạn.
Đây là tác phẩm do Tây Hồ Ngư ẩn Chủ nhân đời Minh viết, từng được đoàn sứ
thần do Lê Quý Đôn làm Phó sứ, mua, đọc và mang về nước trong trong chuyến đi
sứ Trung Hoa từ năm 1760 đến cuối năm 1761[10]. Nhưng mãi đến đầu thế kỷ XX
Lê Hoằng Mưu mới dựa vào tác phẩm này để phóng tác thành tiểu thuyết Người
bán ngọc. Từ cốt truyện đơn giản của một tác phẩm vỏn vẹn có 23 trang, Lê Hoằng
Mưu đã xây dựng thành một tiểu thuyết phức tạp với sự miêu tả, phân tích tâm lý
tinh tế, sâu sắc dày đến gần 200 trang.
Văn học dịch ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX phản ánh một nghịch lý
của văn học Nam Bộ thời kỳ này. Sớm tiếp xúc với phương Tây, văn học Nam Bộ
vừa có những cách tân mới mẻ, táo bạo mang tính tiên phong vừa lại chưa tách
khỏi hẳn những ảnh hưởng sâu đậm của văn học Trung Hoa. Ý thức hướng ngoại,
chú trọng chức năng giải trí và quan tâm đến công chúng, đặc biệt là công chúng
bình dân là cơ sở để văn học Nam Bộ, đặc biệt là văn xuôi sớm có những bứt phá,

cách tân trên con đường hiện đại hoá, sớm có những thành công và nhanh chóng
được đông đảo độc giả ủng hộ. Đây là một bước đi đáng ghi nhận trong bước
đường hiện đại hoá của văn học dân tộc. Từ bước dịch thuật – phóng tác này, các
nhà văn đã rèn luyện tay nghề viết văn, nắm bắt kỹ thuật viết truyện ngắn, tiểu
thuyết của nước ngoài, đặc biệt là của phương Tây, để sau này trở thành những nhà
văn tiên phong của nền văn học mới.


PHONG CÁCH NGÔN NGỮ VĂN XUÔI NAM BỘ
NỬA CUỐI THẾ KỈ XIX - NỬA ĐẦU THẾ KỈ XX
1. Lịch sử đất nước ta từ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX là giai đoạn có nhiều rối
ren, biến động. Một xã hội có sự cai trị của người Pháp và triều Nguyễn; có ảnh
hưởng của văn hoá phương Đông và phương Tây; có sự chen nhau để sinh tồn của
chữ Hán, chữ Nôm, chữ Pháp và chữ quốc ngữ. Trong hoàn cảnh xã hội đa màu ấy
thì vai trò của văn hoá, văn học, báo chí… không thể thiếu trong việc phản ánh sự
đa dạng của xã hội đó. Trong bước chuyển mình của văn học Việt Nam từ trung đại
sang hiện đại, văn học Nam Bộ, tính từ thời điểm Pháp chiếm Nam Bộ làm thuộc
địa (1867) đến trước khi Đảng ra đời (1930) có nhiều đổi mới, đặc biệt ở lĩnh vực
văn xuôi. Những cây bút tiên phong của thời kì này như Huỳnh Tịnh Của (1833 1907), Trương Vĩnh Ký (1837 - 1898), Trần Thiên Trung (1867 - 1919), Nguyễn
Chánh Sắt (1869 - 1947), Trương Duy Toản (1885 - 1957), Hồ Biểu Chánh (1885 1958), Lê Hoằng Mưu (1897 - 1942)…bước đầu đã xây dựng những câu văn xuôi
mang tính hiện đại về nội dung và hình thức. Hiện tượng đổi mới này không chỉ là
bước phát triển nhảy vọt mà còn là quá trình chuyển tiếp, quá độ từ nền văn học cũ
sang nền văn học mới. Về phương diện ngôn ngữ, văn xuôi Nam Bộ ngày càng
định hình được phong cách riêng và có nhiều đóng góp vào diễn trình phát triển
văn hoá, văn học nước nhà.
2. Khảo sát một số tác phẩm văn xuôi Nam Bộ thời kì này, ta thấy các nhà văn đều
chịu sự chi phối của cách viết phương Tây nên đều có chung một định hướng, một
phong cách là viết những câu văn xuôi nôm na, mộc mạc bằng chữ quốc ngữ.
2.1. Chữ quốc ngữ là tiếng Việt được phiên âm bằng chữ cái Latin, ghi lại tiếng nói
hàng ngày, tiếng nói đời sống. So với chữ Hán, chữ quốc ngữ rất dễ viết, dễ đọc,

nhờ vậy, công chúng được mở rộng hơn, không còn thu hẹp ở giới nho sĩ như trước.
Trong bối cảnh Nam Bộ bị chiếm làm thuộc địa (1867), chữ quốc ngữ có khuynh
hướng thay thế chữ Hán và chữ Nôm. Văn xuôi ngày càng chiếm lĩnh văn đàn. Thế
hệ cầm bút mới ra đời ngày càng đông, tuy đội ngũ còn non trẻ nhưng đã tiếp thu
được truyền thống sáng tác của cha ông và sáng tác trong môi trường văn hóa Âu
hóa nên tác phẩm của họ dần dần đoạn tuyệt với cách viết có tính chất quy phạm,
công thức, ước lệ của văn chương cổ điển. Nhờ vậy, các thể loại văn học phát triển
hình thành những thể loại mới, nhất là thể loại văn xuôi. Cùng với nền văn học
mới, câu văn xuôi quốc ngữ được hình thành và để lại dấu ấn rất riêng, rất độc đáo
của văn chương vùng đất mới “Đó là lối văn đơn sơ, mộc mạc, dùng hầu toàn chữ
Nôm, cách đặt câu có vẻ tục tằn, vắn tắt, không xét gì đền cân xứng, đối chác. Nói
tóm lại, nó là thứ văn Việt Nam hơn, dân chúng hơn” (03,78)


2.2. Dựa vào đặc điểm chung của câu văn xuôi quốc ngữ Nam Bộ, ta thấy các nhà
văn đều mở đầu một cách viết mới bằng lối văn đơn sơ, dễ hiểu, ít điển tích, ít chữ
nho. Xét ở góc độ cảm quan nghệ thuật, có người không xem đó là văn chương
nhưng vào thời điểm đó, viết được những cầu văn xuôi mang phong cách khẩu ngữ,
có thể xem là bước cách tân đáng kể, là đóng góp của người viết đối với nền văn
học quốc ngữ thời kì phôi thai.
Trong bài Tựa truyện Thầy Lazaro Phiền (01/12/1886), Nguyễn Trọng Quản quan
niệm “Lấy tiếng thường của mọi người hằng nói”. Khi tái bản “Chuyện đời xưa”
(1886), Trương Vĩnh Ký có viết thêm bài có dụng ý “Nay ta in lại sách này lại nữa,
vì đã hết đi, cũng vì người ta dùng sách này mà học tiếng thì lấy làm có ích. Vì
trong ấy, cách nói chính là cách nói tiếng An Nam ròng, có nhiều câu nhiều tiếng
thường lắm”. Huỳnh Tịnh Của trong bài tựa tập Ca trù thể cách (1907) có đoạn “Ta
thấy có nhiều bài văn Nôm như: ca trù, văn tế, thơ ngũ ngôn bát cú của các tay văn
chương làm ra, ta lấy làm hay, ta muốn in ra cho ai nấy xem chơi, cho biết tiếng mẹ
đẻ cũng có điệu hay, chẳng đợi đến chữ Nho mới có văn chương”. Trong truyện
“Hoàng Tố Anh hàm oan” (1910), Trần Chánh Chiếu viết “Nay tôi ngụ ý soạn một

bổn nói về việc trong xứ mình dùng tiếng tầm thường cho mọi người hiểu đặng”.
Qua các bài Tựa, các nhà văn Nam Bộ đã làm nổi bật lên ý hướng giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc ở khía cạnh ngôn ngữ trong văn chương.
Trong hoàn cảnh Nam Bộ trở thành thuộc địa của Pháp thì ý thức sử dụng tiếng
Việt càng rõ hơn nhằm bảo vệ tiếng nói dân tộc và chống lại chính sách đồng hoá
của nhà cầm quyền thuộc địa, có ý định dùng chữ Pháp thay thế chữ quốc ngữ,
không coi tiếng Việt là ngôn ngữ văn hoá mà chỉ là công cụ giao tiếp thông thường.
Mở đầu cuốn sách giáo khoa bằng chữ quốc ngữ (nhan đề bằng tiếng Pháp),
Trương Vĩnh Ký hô hào phổ biến chữ quốc ngữ “Chữ quốc ngữ phải trở thành chữ
viết của đất nước. Phải như thế vì sự lợi ích và tiến hóa, vậy người ta nên tìm cách
phổ biến thứ chữ này bằng mọi phương tiện” (Sơ học quy chánh).
2.3. Việc phổ biến chữ quốc ngữ rộng rãi trong công chúng là sự lựa chọn có ý thức
của người cầm bút. Và tác phẩm văn xuôi Nam Bộ đã đáp ứng yêu cầu trình độ của
tác giả. Nhất là tình hình chung ở miền đất mới lúc bấy giờ, nhân dân Nam Bộ,
phần lớn là những người nghèo, ít chữ nghĩa. Trong quá trình khẩn hoang, lập
nghiệp, người dân phải đấu tranh chống ngoại xâm và thiên nhiên khắc nghiệt để
sinh tồn nên việc học hành không được tới nơi, tới chốn. Đó là chưa kể tình hình thi
cử lúc bấy giờ chưa được tổ chức chu đáo. Đến năm 1913, ở Gia Định mới tổ chức
thi Hương. Nhưng thi Hội phải đợi đến năm 1822 mới tổ chức. Và kì đại khoa này,
ở Nam Bộ không có ai đỗ đạt. Mãi đến năm 1826, mới có vị tiến sĩ đầu tiên là Phan
Thanh Giản được giải khuyến khích. Điều này không có nghĩa là nhân dân Nam Bộ


kém cỏi về chữ nghĩa, mà họ chưa quen với học hành thi cử theo lối văn chương cử
nghiệp như ở miền Bắc. Từ thực tế khách quan do hoàn cảnh đặc thù quy định nên
việc viết những câu văn xuôi quốc ngữ nôm na, mộc mạc là rất phù hợp với yêu
cầu của người dân.
3. Trong quá trình giao lưu, hội nhập với các nền văn hoá khác thì sự vay mượn từ
vựng, ngữ pháp, nhất là ảnh hưởng của nền văn hóa Đông, Tây là không tránh khỏi.
Nhưng trên cơ sở tiếp nhận và sáng tạo, văn xuôi Nam Bộ giữa cuối thế kỉ XIX nửa

đầu thế kỉ XX ngày càng hoàn thiện, đạt đến trình độ thống nhất, chuẩn hóa cao về
nhiều mặt và đậm đà tiếng nói Việt Nam mang cái vẻ riêng của tiếng nói miền
Nam. Màu sắc, phong vị của văn xuôi Nam Bộ giai đoạn này là tổng hòa của nhiều
yếu tố khác nhau của ngôn ngữ, đáng chú ý ở các mặt từ vựng, ngữ âm, cú pháp…
3.1. Về từ vựng, có nhiều từ ngữ nôm na, mộc mạc được sử dụng trong văn xuôi.
Vốn từ ngữ này đều nằm trong hệ thống tiếng Việt toàn dân từ cách xưng hô, dùng
biệt ngữ, phương ngữ, thành ngữ, từ láy…Đây là những từ ngữ quen thuộc của
người dân Nam Bộ. Trong đó, có những từ ngữ mang tính địa phương đậm nét từ
việc miêu tả cảnh vật đến con người ở đây. Có thể nói, văn xuôi Nam Bộ đậm đà
màu sắc, phong vị của phương ngữ.
3.1.1. So với phương ngữ Bắc Bộ và tiếng Việt chuẩn, có thể ghi nhận một số
trường hợp sau đây trong một số tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Trọng Quản, Hồ
Biểu Chánh, Lê Hoằng Mưu, Nguyễn Bửu Mọc, Trần Quang Nghiệp, Nguyễn
Chánh Sắt… Các tác giả này đã sử dụng nhiều ngữ có sự đối lập, khác biệt với các
phương ngữ khác như: biểu/bảo; tuốt/luôn; trộng/khá lớn; xá/vái chào;
dòm,ngó/xem; bưng/mang; thiệt/thật; đương/đang; ngộ/đẹp; mắc/bận; mần/làm;
cẳng/chân; lóng/lắng; lụy/lệ; riết/nhanh; dè/ngờ; méc/mách; hối/giục; đen trạy/đen
thui…
Ngoài ra, những biệt ngữ mà người Nam Bộ dùng riêng, phạm vi sử dụng có giới
hạn, cũng xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm như: trơ mắt, vảo tai, tức mình, hỏi
phăng, ló mặt, chồm hổm, ốm o, cà nhót, âm hao, dơ cảy, át chất…
Những từ xưng hô qua, va, bậu, ảnh, chỉ, ổng, tao, mày, mình…là cách xưng hô
quen thuộc với nhân dân. Và cách gọi tên theo thứ bậc trong quan hệ gia đình như:
hai, Ba, Bốn…được dùng phổ biến trong văn xuôi. Cách xưng hô như thế cũng
phản ánh được nét mộc mạc, chân chất và tư duy phóng khoáng của người dân
Nam Bộ, không nặng về thể chế, quy tắc trong cung cách giao tiếp, ứng xử như ở
vùng khác.
3.1.2. Bên cạnh đó, văn xuôi Nam Bộ còn xuất hiện những từ ngữ là từ láy có tư
cách ngữ pháp là động từ hay phó từ, thường quen dùng ở miền Nam như: Bươn
bả, trèo trẹo, tùm lum, chộn rộn, chỏng cẳng, chèo queo, lơn tơn, trân trân, xơn



xơn, lật đật, lính quýnh, chưng hửng, lẻo lự, ỉ ôi, tưng tiu, bệu bạo, bùm xùm, rần
rần…có những từ láy rất quen thuộc với từ ngữ toàn dân nhưng cũng có những từ
láy giới hạn phạm vi sử dụng. Trong một số trường hợp phải đặt vào văn cảnh mới
giải thích được ý nghĩa của từ. Ví dụ như: Câu mâu, chừ bự, đỉ đảnh, nủng niểng, oi
ỉ, xéo véo, trây trưa, ê hề, ngỏn ngoẻn, cùng quằn, kinh dinh… Những từ này thể
hiện tính chất đặc phương ngữ, bởi vì chúng không có những đơn vị tương ứng về
âm hay nghĩa ở các phương ngữ khác.
3.1.3. Các nhà văn còn đưa vào tác phẩm nhiều thành ngữ, nhiều cách nói mộc mạc
rất riêng của người Nam Bộ như: Đi qua đi lại, đi tới đi lui, mầng mầng sợ sợ, một
nghi mười ngờ, lời ngon tiếng ngọt, lơ lơ láo láo, ác nhân thất đức, cạ vế kề vai,
ngó quanh ngó quất, làm tròng làm trèo, than dài thở vắn, nằm vật nằm dựa, nhạn
ngẩn ngơ sa, làm hùm làm hổ, lơ ngơ láo ngáo, bồ luốt bồ lem, nói xeo nói xóc, xăn
văn xéo véo…Những từ ngữ mộc mạc, giản dị này phù hợp với đời sống và tính
cách của nhân dân Nam Bộ.
Những từ ngữ này đi vào văn chương Nam Bộ tạo một phong cách riêng không lẫn
với bất kì văn chương ở vùng nào.
3.2. Về ngữ âm, khảo sát những từ có dạng biến thể ngữ âm giữa các từ ngữ như:
ngãi/nghĩa; đàng/đường; chơn,chưn/chân; mầng/màng; nhơn/nhân; huê/hoa; a
hườn/a hoàn; huề thượng/ hòa thượng; chúm chiếm/ chúm chím; đầm thấm/ đằm
thắm; băn khoăng/băn khoăn; ray rức/ray rứt; mũi mĩm/ mủm mỉm…Đây là những
từ có sự biến đổi trong các thành phần của âm tiết từ phụ âm đầu đến phần vần và
thanh điệu đưa đến sự khác biệt trong cách viết và cách phát âm. Do quan niệm
“Nói sao viết vậy” nên trong văn bản vẫn tồn tại nhiều cách viết có sự lẫn lộn về
chính tả mà nếu giải thích sẽ có những lí do khác nhau cho từng trường hợp. Và
một số cách phát âm theo tiếng địa phương vẫn còn đến ngày nay. Ví dụ:
“Lê Hảo Học mầng rỡ hết sức, hồi trầu, nước, rồi lấy trẻ trong nhà lo dọn dẹp cơm,
đập vịt gà uống rượu mầng bạn đi xa lâu năm mới về”
(Kiếp phong trần - Trương Vĩnh Ký)

“Bỗng chốc sau nhàn đình có tiếng người nói văng vẳng. Vì nhàn đình sau vườn
huê xa nhà nên không nói rõ việc chi”
(Hoàng Tố Anh hàm oan - Trần Thiên Trung).
Hiện tượng lẫn lộn trong cách phát âm và chữ viết trong văn xuôi Nam Bộ, một
mặt, thể hiện tình hình chưa ổn định về cách phát âm, mặt khác, thể hiện tâm lí
thích giản đơn, thoải mái của nhân dân trong quan hệ giao tiếp. Và cách phát âm
này đã phản ánh được thói quen của nhân dân và dấu ấn một thời của văn chương
vùng đất mới.


3.3. Về cú pháp, câu văn xuôi thoát khỏi biền ngẫu, réo rắt. Nội dung không vay
mượn của ai mà lấy từ cuộc sống thực hiện tại. Nhà văn đã viết được những câu
văn xuôi quốc ngữ sáng rõ, mạch lạc và xây dựng lối kết thúc phi truyền thống,
không theo cấu trúc “tam đoạn có hậu” như các truyện Nôm truyền thống. Vào cuối
thế kỉ XIX, ở Nam Bộ, nền giáo dục còn non yếu, chưa hội đủ những điều kiện để
văn chương phát triển thì truyện ngắn Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản,
in ở Sài Gòn năm 1887 đã vượt ra ngoài truyền thống và đem đến một phong vị
mới lạ, nổi lên như một hiện tượng đột phá bởi tính hiện đại của nó. Trong chừng
mực nhất định, ta thấy câu văn xuôi của Nguyễn Trọng Quản có phần trau chuốt
theo hướng phong cách ngôn ngữ văn chương vì “Truyện Thầy Lazaro Phiền đã
được viết theo nghệ thuật mới” (09,55)
4. Từ dạng phong cách khẩu ngữ, văn xuôi Nam Bộ ngày càng có những cách tân
đáng kể, nâng lên theo phong cách ngôn ngữ văn chương, tiến đến thống nhất với
câu văn xuôi Việt Nam trong xu thế phát triển của văn học nước nhà. Trong bối
cảnh chính trị, lịch sử, văn hoá không ngừng thay đổi và phát triển ở một giai đoạn
giao thời của lịch sử, văn học quốc ngữ Nam Bộ giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX nửa
đầu thế kỉ XX - một bộ phận cấu thành của văn học dân tộc - đã để lại dấu ấn rất
riêng, rất đặc biệt về sự phong phú của văn chương vùng đất mới.




×