Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Giải pháp tăng cường huy động vốn tại ngân hàng ngoại thương việt nam vietcombank

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.45 KB, 43 trang )

Huy động vốn từ phát hành giấy tờ có giá.....................25

Lời mở đầu
Nước ta đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong xu hướng hội nhập kinh tế
khu vực và toàn cầu. Một trong những vấn đề có vị thế quan trọng hàng đầu
trong sự nghiệp mà chúng ta đang theo đuổi đó là vấn đề về nguồn lực, vấn đề
vốn - vấn đề thuộc cơ sở “ hạ tầng mềm” cho đầu tư phát triển. Đây là vấn đề
mang tính cấp thiết, đầy biến động đòi hỏi phải xây dựng, phát triển và thường
xuyên được xử lý, điều chỉnh nhằm đáp ứng được nhu cầu vốn của nền kinh tế,
giải quyết được những thiếu hụt trong chi tiêu của Chính phủ. Vậy thì giải pháp
nào cho huy động vốn; chúng ta phải có những phương án, quyết sách cụ thể
mang tính chiến lược trong dài hạn nhằm thỏa mãn nhu cầu về vốn cũng như
nâng cao khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế. Ngân hàng thương mại với
chức năng của mình cần phải có biện pháp thích hợp tập trung mọi nguồn vốn
còn tạm thời nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức kinh tế, nhất là các hình thức
huy động trung và dài hạn để cho vay và đầu tư vào các dự án xây dựng cơ sở
hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, đổi mới công nghệ. Hệ thống ngân hàng đang
phấn đấu nhằm thực hiện có hiệu quả chiến lược huy động vốn trong nước và
1


tranh thủ các nguồn vốn từ bên ngoài để đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế,
đẩy mạnh cho vay, khắc phục tình trạng ứ đọng vốn trong hệ thống ngân hàng,
đồng thời tập trung giảm tỷ lệ nợ quá hạn và kiểm soát chất lượng tín dụng.
Nằm trong hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam, ngân
hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) đã và đang hoàn thiện, phát huy
hơn nữa vai trò và thế mạnh của mình trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Với bề dày lịch sử của mình, ngân hàng Vietcombank trong
thời kì đổi mới đã có bước chuyển mình quan trọng từ cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần


vào công cuộc cải cách nền kinh tế đất nước.
Tính bức xúc trong hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương
mại nói riêng và nền kinh tế nói chung cũng như nhu cầu về vốn cho sự nghiệp
công nghiệp hóa hiện đại hóa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang theo
đuổi chính là động lực cho em chọn nghiên cứu về đề tài: “Giải pháp tăng
cường huy động vốn tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Vietcombank”
cho chuyên đề thực tập của mình.
Chuyên đề chia làm 3 chương bao gồm:
Chương I: Các vấn đề cơ bản về vốn của ngân hàng thương mại.
ChươngII: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại ngân hàng Ngoại thương
Viêt Nam.
Chương III: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại ngân hàng Ngoại thương
Viêt Nam.

2


CHƯƠNG 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG VỐN
TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Những vấn đề cơ bản về vốn trong NHTM
1.1.1. Khái niệm về vốn của NHTM
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do Ngân hàng tạo lập hoặc huy
động được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh
khác.
Thực chất, vốn của Ngân hàng là một bộ phận của thu nhập quốc dân
tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng, ngời chủ sở
hữu của chúng gửi vào Ngân hàng với mục đích thanh toán, tiết kiệm hay đầu
tư. Nói cách khác, họ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn cho Ngân hàng, để
Ngân hàng trả lại cho họ một khoản thu nhập.
Như vậy, Ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung vốn và phân phối lại

vốn dưới hình thức tiền tệ, làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, kích
thích mọi hoạt động kinh tế phát triển. Đồng thời, chính các hoạt động đó lại
quyết định sự tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.

3


1.1.2. Vai trò của vốn đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng
1.1.2.1. Vốn giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành NHTM
Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, muốn hoạt động sản xuất kinh doanh
được thì phải có :Công nghệ - Lao động – Tiền vốn trong đó vốn là nhân tố
quan trọng, nó phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng kinh doanh.
Riêng đối với NHTM, vốn lại càng là nhân tố không thể thiếu trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng. Vốn là cơ sở để NHTM tổ chức hoạt độnh kinh
doanh, ngân hàng không thể thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh nếu không có
vốn. Như đã biết, đặc trưng của hoạt động ngân hàng: Vốn không chỉ là
phương tiện kinh doanh chính mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của
NHTM. Ngân hàng là tổ chức kinh doanh loại hàng hoá đặc biệt trên thị trường
tiền tệ (thị trường vốn ngắn hạn) và thị trường chứng khoán (thị trường vốn dài
hạn). Ngân hàng có nhiều vốn sẽ có nhiều lợi thế trong kinh doanh. Hơn nữa,
vốn lớn là lợi thế đầu tiên trong việc chấp hành pháp luật trước hết là luật
NHTW, luật các TCTD, tạo thế mạnh và thuận lợi trong kinh doanh tiền tệ.
Vốn có vai trò quyết định tới họat động kinh doanh của Ngân hàng. Do đó,
ngoài vốn ban đầu cần thiết, tức là đủ vốn điều lệ theo luật định thì Ngân hàng
phải chăm lo tới việc tăng trưởng vốn trong suốt quá trình hoạt động của mình.
Từ đặc trưng kinh doanh của Ngân hàng, vốn vừa là phương tiện kinh
doanh, vừa là đối tượng kinh doanh. Các NHTM thực hiện kinh doanh loại
“hàng hoá đặc biệt” – tiền tệ trên thị trường tiền tệ (thị trường vốn ngắn hạn) và
thị trường chứng khoán (thị trường vốn dài hạn). Vì vậy, ngoài vốn ban đầu khi
thành lập theo qui định của pháp luật, các Ngân hàng phải thường xuyên tìm

mọi biện pháp để tăng trưởng vốn trong quá trình hoạt động kinh doanh.
1.1.2.2. Vốn quyết định khả năng thanh toán và nâng cao vị thế của NHTM

4


Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô
hoạt động đòi hỏi các ngân hàng phải có uy tín lớn trên thị trờng là điều trọng
yếu. Uy tín đó phải đợc thể hiện trớc hết ở khả năng sẵn sàng thanh toán, chi trả
cho khách hàng của ngân hàng. Chúng ta đã biết, đại bộ phận vốn của ngân
hàng là vốn tiền gửi và đi vay, do vậy ngân hàng phải trả cho khách hàng khi
họ có yêu cầu rút tiền. Với một ngân hàng có quy mô vốn nhỏ, khi nhu cầu vay
vốn trên thị trờng là rất lớn, một mặt ngân hàng không đáp ứng đủ nhu cầu vay,
mặt khác với quy mô nhỏ, ngân hàng nếu cho vay tối đa nguồn vốn huy động
đuợc, dự trữ ít sẽ dẫn đến mất khả năng thanh toán. Trong khi đó, với một
ngânh hàng trờng vốn, họ thực hiện dự trữ đủ khả năng thanh toán đồng thời
vẫn thỏa mãn được nhu cầu vay vốn của nền kinh tế, do đó sẽ tạo được uy tín
ngày càng cao.
Khả năng thanh toán của ngân hàng càng cao thì vốn khả dụng của ngân
hàng càng lớn. Vì vậy nếu loại trừ các nhân tố khác, khả năng thanh toán của
ngân hàng tỷ lệ thuận với vốn của ngân hàng nói chung và với vốn khả dụng
của ngân hàng nói riêng. Với tiềm năng vốn lớn, ngân hàng có thể hoạt động
kinh doanh với quy mô ngày càng mở rộng, tiến hành các hoạt động cạnh tranh
có hiệu quả nhằm giữ chữ tín, vừa nâng cao vị thế của ngân hàng.

1.1.2.3.Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động kinh doanh
khác của Ngân hàng
Vốn của Ngân hàng quyết định việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín
dụng. Thông thường, các Ngân hàng nhỏ phạm vi hoạt động kinh doanh, khoản
mục đầu tư, khối lượng cho vay ít và kém đa dạng hơn. Do đó, ảnh hưởng đến

khả năng thu hút vốn của các tổ chức kinh tế và tầng lớp dân cư, thậm chí

5


không đáp ứng được nhu cầu vốn vay của doanh nhiệp. Họ sẽ mất khách hàng
và không tận dụng được cơ hội kinh doanh. Nếu là Ngân hàng lớn, nguồn vốn
dồi dào chắc chắn họ sẽ đáp ứng được nhu cầu về vốn, có điều kiện để mở rộng
quan hệ tín dụng với nhiều doanh nghiệp và thị trường tín dụng.
Nguồn vốn lớn còn giúp Ngân hàng hoạt động kinh doanh với nhiều loại
hình khác nhau như: Liên doanh liên kết, dịch vụ thuê mua tài chính, kinh
doanh chứng khoán… các hình thức kinh doanh này nhằm phân tán rủi ro và
tạo thêm vốn cho Ngân hàng. đồng thời, nâng cao uy tín và tăng sức cạnh tranh
trên thị trường. Vì vậy, vốn có vai trò quyết định trong hoạt động kinh doanh
của Ngân hàng.

1.1.2.4. Nguồn vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng
Thực tế đã chứng minh: quy mô, trình độ nghiệp vụ, phương tiện kỹ
thuật của ngân hàng là tiền đề cho việc thu hút nguồn vốn. Đồng thời, khả năng
vốn lớn là điều kiện thuận lợi đối với ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín
dụng với các thành phần kinh tế xét cả về quy mô, khối lượng tín dụng, chủ
động về thời gian, thời hạn cho vay, thậm chí quyết định mức lãi suất vừa phải
cho khách hàng. Điều đó sẽ thu hút ngày càng nhiều khách hàng, doanh số hoạt
động của ngân hàng sẽ tăng lên nhanh chóng và ngân hàng sẽ có nhiều thuận
lợi hơn trong kinh doanh. Đây cũng là điều kiện để bổ xung thêm vốn tự có của
ngân hàng, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật và quy mô hoạt động của ngân
hàng trên mọi lĩnh vực.
Đồng thời vốn của ngân hàng lớn sẽ tạo ra thuận lợi cho việc sử dụng
tổng hòa các nguồn vốn khác. Trên cơ sở đó sẽ giúp ngân hàng có đủ khả năng
tài chính để kinh doanh đa năng trên thị trường, không chỉ đơn thuần là cho vay

mà còn mở rộng các hình thức liên doanh liên kết, kinh doanh dịch vụ thuê mua
(leasing), mua bán nợ (factoring), kinh doanh trên thị trường chứng khoán.
6


Chính các hình thức kinh doanh đa năng này sẽ góp phần phân tán rủi ro trong
hoạt động kinh doanh và tạo thêm vốn cho ngân hàng đồng thời tăng sức cạnh
tranh của ngân hàng trên thị trường.
Ngoài ra vốn của ngân hàng dồi dào sẽ tạo điều kiện cho NHNN đảm
bảo khả năng thực thi chính sách tiền tệ, góp phần ổn định lưu thông tiền tệ,
đảm bảo cân đối tiền – hàng trong nền kinh tế.
Xuất phát từ vai trò của nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh của ngân
hàng và của nền kinh tế nên nguồn vốn nói chung và vốn huy động nói riêng
phải thường xuyên được bảo toàn và không ngừng mở rộng quy mô, nâng cao
hiệu quả của vốn là tiền đề quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của
hoạt động kinh doanh ngân hàng, đáp ứng vốn cho nền kinh tế. Vì vậy, nâng
cao hiệu quả huy động vốn là sự cần thiết trong quá trình hoạt động của NHTM
ở tất cả các quốc gia.

1.2. Các hình thức huy động vốn trong NHTM
Do NHTM huy động theo phương thức “đi vay để cho vay” mà vốn tự
có của ngân hàng chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng nguồn vốn hoạt
động. Do vậy, để có thể tồn tại và phát triển, NHTM phải quan tâm tới các hình
thức tạo vốn để không ngừng mở rộng, phát triển vốn để cạnh tranh trên thị
trường. Quá trình tạo vốn được thực hiện thông qua các hình thức sau:

1.2.1. Tiền gửi không kì hạn (tiền gửi thanh toán)
Tiền gửi thanh toán của doanh nghiệp hoặc cá nhân: đây là khoản tiền
mà khách hàng gửi vào ngân hàng nhờ ngân hàng giữ hộ và thanh toán hộ.
Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá

nhân đều được ngân hàng thực hiện. Các khoản thu của ngân hàng, cá nhân đều
có thể được nhập vào thiền gửi thanh toán theo yêu cầu. Nhìn chung đây là một
7


khoản huy động có lãi suất thấp, có khi bằng không, thay vào đó chủ tài khoản
được hưởng các dịch vụ ngân hàng với mức phí thấp.
Mặc dù, đối với tiền gửi thanh toán, người gửi có thể gửi vào hoặc rút ra
bất cứ lúc nào, song giữa việc gửi vào và rút ra có sự chênh lệch nhất định về
thời gian và số lượng, nên các loại tài khoản này luôn có số dư. Ngân hàng có
thể huy động số dư đó làm nguồn vốn tín dụng để cho vay. Một số ngân hàng
kết hợp tài khoản tiền gửi thanh toán với tài khoản cho vay như cho vay thấu
chi – chi trội trên số dư có của tài khoản tiền gửi thanh toán. Một số ngân hàng
sử dụng nhiều hình thức “biến tướng” của tài khoản thanh toán để nâng lãi suất
của loại tiền gửi này lên nhằm cạnh tranh với các tài chính tín dụng khác.
Do tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam còn quá thấp, để
khuyến khích việc thực hiện thanh toán qua ngân hàng, các NHTM thực hiện
trả lãi cho loại tiết kiệm tiền gửi này (hiện nay khoảng 3-3,6%/năm – nguồn
Vneconnomy.vn). Ở các nước phát triển loại tiền gửi này chiếm khoảng 30% tiền
gửi của các ngân hàng. Vì lẽ đó, tạo nguồn tiền gửi trên tài khoản thanh toán này
được ngân hàng đặc biệt coi trọng.
Bên cạnh đó các ngân hàng có thể huy động vốn thông qua tài khoản tiền
gửi thanh toán của các ngân hàng khác, nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và
một số mục đích khác, NHTM có thể gửi tiền tại ngân hàng khác. Tuy nhiên,
quy mô của nguồn này thường không lớn.

1.2.2. Tiền gửi có kì hạn
Nhiều khoản thu của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả
sau một khoảng thời gian nhất định. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện trọng
hoạt động thanh toán song lãi suất lại thấp, để đáp ứng nhu cầu tăng thu của

người gửi tiền ngân hàng đã đưa ra hình thức tiền gửi có kỳ hạn. Tiền gửi có kỳ
hạn là loại tiền gửi được ủy thác vào ngân hàng trên cơ sở có sự thỏa thuận về
thời gian rút tiền giữa khách hàng và ngân hàng. Như vậy, theo nguyên tắc
8


khách hàng ký thác chỉ được rút tiền ra khi đến hạn đã thỏa thuận. Tuy nhiên
trên thực tế do phải cạnh tranh để thu hút tiền gửi, các ngân hàng thường cho
phép khách hàng được rút trước hạn. Trong trường hợp này có thể có hai cách
giải quyết: hoặc khách hàng vay tiền của ngân hàng, sau đó khi đến hạn rút tiền
thì dùng số tiền và lãi thu được để trả nợ (cả gốc và lãi vay của ngân hàng);
hoặc là thỏa thuận với khách hàng rút tiền ra trước hạn và nhận lãi suất thấp
hơn.
Tiền gửi có kỳ hạn là một nguồn vốn tín dụng mang tính chất ổn định, vì
mục đích của người gửi tiền là kiếm lợi chứ không phải là để thanh toán. Do
đó, khác với loại tiền gửi không kỳ hạn yếu tố lãi suất có tác động rất lớn đến
loại nguồn vốn này.
Để tăng cường huy động nguồn vốn này, trước hết các ngân hàng thường
đưa ra nhiều loại thời hạn khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của các loại khách
hàng khác nhau. Thông thường có các loại kỳ hạn sau: 1 tháng, 3 tháng, 6
tháng, 9 tháng, 12 tháng, 2 năm, 5 năm. Với mỗi loại thời hạn, ngân hàng áp
dụng một mức lãi suất tương ứng, với nguyên tắc thời hạn càng dài thì lãi suất
càng cao.

1.2.3. Đi vay của Ngân hàng khác
Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ giữa các ngân hàng có quan hệ trên thị
trường liên ngân hàng tạo thuận tiện cho khách hàng và một số mục đích khác,
ngân hàng thương mại này có thể gửi tiền tại ngân hàng khác. Tuy nhiên quy
mô nguồn này thường không lớn do hình thức này chỉ được áp dụng trong
trường hợp ngân hàng có nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi chưa đầu tư, cho vay

hoặc hiệu quả việc đầu tư, cho vay không hiệu quả bằng gửi tiền ở ngân hàng
khác.

1.2.4. Phát hành các giấy tờ có giá
9


Giống như các doanh nghiệp khác ngân hàng cũng huy động vốn bằng
cách phát hành các giấy tờ có giá (hay còn gọi là các công cụ nợ) như kỳ phiếu,
trái phiếu, tín phiếu ngân hàng…để huy động vốn trên thị trường vốn.
Các công cụ nợ của ngân hàng là các giấy nhận nợ mà ngân hàng bán
cho công chúng. Đây là cách thức vay vốn của NHTM, bởi vì những người sở
hữu các công cụ này được hoàn trả vốn vào thời gian đáo hạn cộng thêm khoản
tiền lãi nhất định. Những công cụ nợ của ngân hàng là:
- Tín phiếu ngân hàng: Đây là công cụ nợ ngân hàng dùng để huy động
những khoản vốn ngắn hạn.
- Kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng: Là những công cụ nợ để ngân hàng huy
động những khoản vốn trung - dài hạn.
Nếu đối với các tài khoản tiền gửi phụ thuộc nhiều vào sở thích của
khách hàng thì việc sử dụng các công cụ nợ là một hình thức huy động vốn
mang tính chủ động của ngân hàng. Tuy nhiên việc khách hàng có chấp nhận
mua các công cụ nợ đó hay không mới là điều quan trọng. Nguồn vốn huy động
có được bằng việc phát hành các công cụ nợ sử dụng cho những khoản tín dụng
trong kế hoạch của ngân hàng. Với lãi suất tín dụng trong kỳ kế hoạch, ngân
hàng xác định mức lãi suất nhất định cho các công cụ nợ, hay đưa vào thời hạn
các khoản tín dụng trong kế hoạch mà ngân hàng xác định sử dụng loại công cụ
ngắn hạn hay trung - dài hạn.

1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới huy động vốn của NHTM
1.3.1. Các nhân tố khách quan

1.3.3.1. Tình hình kinh tế xã hội
Đây là yếu tố khách quan đối với ngân hàng, yếu tố này ảnh hưởng
chung đến việc huy động và khơi thông nguồn vốn của cả nền kinh tế trong đó
10


có nguồn vốn của NHTM. Cụ thể trong một nền kinh tế phát triển nguồn tiền
gửi, tiền tiết kiệm gửi vào các NHTM ngày càng nhiều… Ngoài ra với một nền
kinh tế phát triển thì công nghệ ngân hàng được hiện đại hoá, người dân có thói
quen sử dụng những lợi ích do các NHTM cung ứng, các nghiệp vụ thanh toán
chủ yếu qua ngân hàng, ngân hàng thu được càng nhiều khoản vốn, chiếm dụng
được vốn trong thanh toán. Lạm phát là một yếu tố kinh tế ảnh hưởng rất lớn
đến công tác huy động vốn của ngân hàng. Người dân gửi tiền vào ngân hàng
hy vọng rằng họ sẽ thu được khoản tiền lãi nhất định, lạm phát cao hoặc biến
động có thể làm trượt giá đồng tiền và họ sẽ chuyển các tài khoản của họ sang
hình thái khác có tính ổn định hơn về giá trị.
Bên cạnh đó, các yếu tố như thu nhập của dân cư, thời vụ chi tiêu cũng
là các nhân tố ảnh hưởng tới công tác huy động vốn của các ngân hàng. Tại các
thành phố lớn, nơi tập trung các tầng lớp dân cư có thu nhập cao sẽ hình thành
một nguồn tiền gửi lớn. Thu nhập gia tăng là điều kiện để gia tăng quy mô và
thay đổi kỳ hạn của nguồn tiền, thời vụ chi tiêu ảnh hưởng tới quy mô và tính
ổn định của nguồn tiền. Ví dụ: vào dịp cuối năm, nguồn tiền gửi tiết kiệm cũng
như tiền gửi của các doanh nghiệp có xu hướng giảm sút đặc biệt trong điều
kiện thanh toán bằng tiền mặt còn đang phổ biến như nước ta hiện nay.

1.3.1.2. Môi trường pháp lý và chính sách vĩ mô kinh tế
Những yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến chủ trương, phương hướng
trong hoạt động huy động vốn cũng như các hoạt động khác của ngân hàng
thương mại. NHTM xây dựng các chiến lược kinh doanh cho riêng mình phải
dựa trên cơ sở tuân thủ pháp luật và chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước như

chính sách tiết kiệm, chính sách lãi suất,.. Ngân hàng nhà nước điều hành chính
sách tiền tệ theo hướng nâng cao năng lực, vai trò hiệu quả và theo sát thị
trường, phối hợp chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác thì mới tạo

11


điều kiện và thúc đẩy phát triển các thị trường tiền tệ cũng như hoạt động của
hệ thông ngân hàng. Mặt khác, việc xây dựng một môi trường pháp lý lành
mạnh, thông thoáng cũng là một nhân tố quan trọng góp phần tăng cường hiệu
quả hoạt động huy động và sử dụng vốn của các NHTM.

1.3.2. Các nhân tố chủ quan
1.3.2.1. Lãi suất
Với tư cách là giá vốn, lãi suất có tác động điều tiết trực tiếp đến hoạt động
tín dụng, cho vay và huy động vốn của ngân hàng, tác động đến lợi nhuận khi
xem xét kết quả kinh doanh, tính toán lãi suất chênh lệch đầu ra đầu vào. Khi
lãi suất thay đổi theo diễn biến quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường tiền tệ,
phản ánh đúng tín hiệu của thị trường, điều đó khiến ngân hàng phải tìm kiếm,
hoạch định mức lãi suất phù hợp cho mình. Trong trường hợp lãi suất biến
động do tác động của các yếu tố phi vật chất (yếu tố tâm lí, yếu tố cạnh tranh
không lành mạnh...) sẽ có tác động bất lợi đối với hoạt động tín dụng của ngân
hàng. Đây là khó khăn đối với các ngân hàng thương mại có quy mô hoạt động
nhỏ, vốn tự có và khả năng tài chính thấp. Trong trường hợp đó là viêc tăng lãi
suất huy động, tác động hiệu ứng đối với toàn bộ hệ thống, buộc các ngân hàng
khác cũng phải tăng lãi suất để giữ khách hàng gửi tiền trong khi đó có thể
không thực sự có khó khăn về nguồn vốn. Trong nền kinh tế thị trường, các
hiện tượng kinh tế thường có diễn biến, thay đổi nhanh. Lãi suất cũng là yếu tố
nhạy cảm và thường xuyên thay đổi, gắn liền với sự thay đổi của quan hệ cung
cầu về vốn. Vì vậy, NHTM trong quá trình hoạt động cần có sự theo dõi sát sao

sự biến động đó để có những giải pháp ứng phó kịp thời nhằm ổn định tình
hình kinh doanh của mình.

1.3.2.2. Công nghệ Ngân hàng

12


Hoạt động huy động vốn của ngân hàng ngày càng có có sự cạnh tranh
mạnh mẽ không chỉ giữa các NHTM trong nước, mà trong tiến trình hội nhập
với nền kinh tế thế giới, hệ thống các NHTM Việt Nam còn phải chịu sự cạnh
tranh gay gắt với các ngân hàng có nhiều kinh nghiệm và tiềm lực trên toàn thế
giới. Công nghệ ngân hàng cũng là một nhân tố không kém phần quan trọng
quyết định thành công hay thất bại trong hoạt động huy động vốn của NHTM.
Công nghệ ngân hàng liên quan trực tiếp đến các mặt hoạt động như thanh
toán, giao dịch, kế toán…Một ngân hàng sở hữu công nghệ lạc hậu so với các
ngân hàng khác: hoạt động giao dịch, thanh toán và các dịch vụ còn thực hiện
thủ công dẫn đến chậm trễ trong giao dịch với khách hàng và không đa dạng
hoá được các loại hình dịch vụ cung cấp cho khách hàng, điều này sẽ làm hạn
chế khả năng thu hút vốn của ngân hàng. Chính vì vậy ngân hàng không cạnh
tranh được với các ngân hàng khác được đầu tư công nghệ hiện đại hơn. Để có
thể cạnh tranh trên thị trường huy động vốn, các ngân hàng phải không ngừng
đổi mới công nghệ, áp dụng những công nghệ ngân hàng tiên tiến vào các hoạt
động giao dịch thanh toán nhanh với khách hàng, Đối với một ngân hàng có
công nghệ tiên tiến thì chất lượng phục vụ thoả mãn nhu cầu của khách hàng sẽ
tốt hơn, sẽ huy động được nhiều vốn hơn. Các NHTM ở Việt Nam hiện nay
đang đầu tư mạnh mẽ cho công nghệ ngân hàng và coi đây như sức mạnh để
cạnh tranh trên thị trường dịch vụ tài chính. Việc ứng dụng công nghệ thông
tin trong: ứng dụng lập mạng thanh toán liên ngân hàng nội bộ tập trung, hệ
thống quản lý vốn ngoại tệ tập trung, ứng dụng dịch vụ ngân hàng điện tử, triển

khai ứng dụng thanh toán SWIFT, dịch vụ thẻ ATM đã mở ra nhiều cơ hội hơn
cho ngân hàng. Các sản phẩm dịch vụ dựa trên nền tảng công nghệ thông tin
ngày càng đa dạng và phong phú hướng đến việc tối đa hoá tiện ích và lợi ích
của khách hàng.

1.3.2.3. Chiến lược Marketing Ngân hàng
13


Chiến lược Marketing ngân hàng cần phải được chú trọng đúng mức trong
chiến lược kinh doanh dài hạn của ngân hàng nói chung và huy động vốn nói
riêng. Xây dựng được một chiến lược Marketing hoàn chỉnh sẽ tăng khả năng
sinh lợi trong kinh doanh cũng như tăng cường huy động vốn của ngân hàng.
Trong cơ chế thị trường các ngân hàng phải cạnh tranh để tồn tại và phát triển,
tạo ra sự khác biệt, vượt trội hơn hẳn so với các đối thủ cạnh tranh. Trong thực
tế, để đạt được điều này không phải là đơn giản vì khi áp dụng marketing vào
ngân hàng thường gặp một số khó khăn như: Với xu hướng phát triển kinh tế,
nhu cầu của khách hàng ngày càng cao. Các ngân hàng cần phải đổi mới nhanh
chóng trang thiết bị, kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ…
Thông qua công tác marketing ngân hàng cần phải đưa ra các hình thức huy
động vốn với thời hạn, giá cả hợp lý, phù hợp với từng giai đoạn phát triển cụ
thể để đáp ứng tốt nhất nhu cầu, mong muốn của khách hàng về chất lượng,
chủng loại các sản phẩm của ngân hàng. Không những thế, công tác marketing
ngân hàng còn phải biết kích thích các nhu cầu của khách hàng nhằm lôi kéo
khách hàng về với mình để không ngừng mở rộng thêm các khách hàng mới,
ngày càng thu hút được nhiều vốn hơn.
Trên cơ sở nghiên cứu thị trường ngân hàng có thể nắm bắt toàn bộ các
thông tin về môi trường kinh doanh, về khách hàng, đồng thời xây dựng chiến
lược marketing. Dựa trên yếu tố này, các ngân hàng sẽ sử dụng một cách linh
hoạt, mềm dẻo các công cụ kỹ thuật của marketing ứng dụng trong hoạt động

của ngân hàng để thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Các công cụ kỹ
thuật marketing được tập trung vào 4 chính sách lớn:
- Chính sách thông tin, ngiên cứu, tìm hiểu điều tra.
Thực thi chính sách này cần huy động toàn bộ phương tiện vật chất cần
thiết để thực hiện việc quan sát, phân tích và tổng hợp các lĩnh vực cơ bản có
liên quan đến thị trường của ngân hàng. Từ các thông tin có được ngân hàng sẽ

14


đưa ra các chính sách kinh doanh nói chung và chính sách huy động vốn nói
riêng phù hợp với nhu cầu của khách hàng và nhu cầu sử dụng vốn của thị
trường.
- Chính sách sản phẩm giá cả.
Các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng bao gồm các dịch vụ cơ bản của
nghề ngân hàng là nghiệp vụ huy động vốn, nguồn vốn sử dụng vốn, nghiệp vụ
thanh toán và các nghiệp vụ ngoại vi mang tính chất hỗ trợ như dịch vụ tư vấn
khách hàng, nghiệp vụ thông tin theo nhu cầu, dịch vụ két… có những nghiệp
vụ ngoại vi không mạng lại lợi nhuận trực tiếp cho ngân hàng, song có tác dụng
kích thích sự chú ý, thu hút khách hàng và làm tăng giá trị cung ứng sự thỏa
mãn của khách hàng đối với các dịch vụ cơ bản. Đặc biệt với sự đa dạng hóa
các sản phẩm của nghiệp vụ huy động vốn sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng mở
rộng khả năng huy động vốn. Hiển nhiên, một ngân hàng có các dịch vụ tốt, đa
dạng sẽ có nhiều lợi thế hơn so với các ngân hàng khác mà các sản phẩm dịch
vụ không tốt. Một ngân hàng mà có dịch vụ thanh toán hoạt động tốt, đa dạng
sẽ thu hút được nhiều tiền gửi thanh toán hơn các ngân hàng khác.
Trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, giá cả được biểu hiện chủ yếu dưới dạng lãi
suất của các khoản tiền gửi, tiền vay, chi phí nghiệp vụ ngân hàng. Yếu tố giá
có vai trò quan trọng đối với kết quả huy động vốn, sử dụng vốn và cung ứng
dịch vụ khác của ngân hàng. Chính sách lãi suất cạnh tranh là một chiến lược

quan trọng của ngân hàng. Việc duy trì lãi suất cạnh tranh huy động, đặc biệt
cần thiết khi lãi suất thị trường đang ở mức tương đối cao. Các ngân hàng cạnh
tranh giành vốn không chỉ với nhau mà còn với các tổ chức tiết kiệm và người
phát hành các công cụ khác nhau trên thị trường vốn. Đặc biệt trong giai đoạn
khan hiếm tiền tệ, dù cho những khác biệt tương đối nhỏ về lãi suất cũng sẽ
thúc đẩy người gửi tiết kiệm và nhà đầu tư chuyển vốn từ một công cụ mà họ

15


đang nắm giữ sang một công cụ khác hoặc chuyển tiền đầu tư, tiết kiệm từ một
tổ chức này sang một tổ chức khác để có lợi nhuận cao hơn.
- Chính sách phân phối.
Chính sách phân phối là tập hợp toàn bộ những phương tiện vật chất đưa
ra sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng đến với khách hàng. Việc đa dạng hóa các
kênh phân phối, mở rộng các quầy giao dịch (số lượng các quầy giao dịch, địa
điểm mở quầy, các sản phẩm, dịch vụ cung ứng tại quầy, trang thiết bị được sắp
xếp tại quầy, trình độ đội ngũ cán bộ nhân viên…) có ảnh hưởng rất lớn đến
công tác huy động vốn của ngân hàng. Một ngân hàng có càng nhiều kênh phân
phối, nhiều quầy giao dịch thì cơ hội tiếp xúc với khác hàng càng nhiều, từ đó
khả năng huy động vốn sẽ tăng lên. Tuy nhiên, việc mở rộng các kênh phân
phối, mở thêm nhiều quầy giao dịch cần phải tính đến yếu tố chi phí để mở
rộng sao cho phù hợp với hiệu quả thu được từ nó.
- Chính sách giao tiếp, quảng bá.
Mục tiêu của chính sách này là làm thế nào để quảng bá thương hiệu của
ngân hàng ra đông đảo quần chúng nhân dân, giúp cho họ hiểu rõ về ngân hàng
và các dịch vụ ngân hàng. Bởi vì sự giao tiếp của nhân viên với khách hàng tạo
ra hình ảnh của ngân hàng, tạo ra sự tin tưởng của khách hàng đối với ngân
hàng. Giao tiếp tốt sẽ bảo vệ lợi ích của ngân hàng. Ngoài ra, hoạt động quảng
cáo bao gồm các biện pháp tuyên truyền các thông tin về sản phẩm cũng như

dịch vụ tiện ích của ngân hàng cũng là công cụ hữu hiệu để nâng cao vị thế của
ngân hàng, thu hút thêm khách hàng cho ngân hàng, tạo lòng tin của khách
hàng đối với ngân hàng.

1.3.2.4. Công tác cán bộ tổ chức

16


Chìa khoá thành công của một ngân hàng ngoài các nhân tố khác không
thể không kể đến nhân tố con người. Một ngân hàng xây dựng được một đội
ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao, đoàn kết, thân thiện, năng động, có bộ
máy tổ chức khoa học hợp lý, đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh doanh sẽ có
lợi thế trong huy động vốn . Bởi lẽ, ngân hàng với trang thiết bị cơ sở hạ tầng
hiện đại, các nhân viên nhiệt tình, lịch sự và có chuyên môn nghiệp vụ cao tạo
ấn tượng tốt đối với khách hàng, điều này sẽ thu hút được khách hàng đến giao
dịch.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG
VIETCOMBANK
2.1. Khái quát về Ngân hàng VCB
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển VCB
Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank)
chính thức hoạt động ngày 2 tháng 6 năm 2008 sau khi thực hiện thành công kế
hoạch cổ phần hóa thông qua phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng ngày
26/12/2007.
Trải qua 45 năm phấn đấu và phát triển, Vietcombank đã không ngừng
vươn lên, trở thành ngân hàng hàng đầu Việt Nam trong nhiều lĩnh vực như
quản lý và kinh doanh vốn, thanh toán quốc tế, dịch vụ thẻ, công nghệ ngân
hàng…

Từ một ngân hàng chuyên phục vụ trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại,
Vietcombank ngày nay đã có mạng lưới chi nhánh vươn rộng ra hầu khắp các
tỉnh thành lớn trên cả nước với các sản phẩm ngân hàng đa dạng, đáp ứng nhu
cầu của mọi đối tượng khách hàng. Mạng lưới của Vietcombank bao gồm Hội
sở chính tại 198 Trần Quang Khải, Hoàn Kiếm, Hà Nội, 1 Sở giao dịch, hơn

17


300 chi nhánh và phòng giao dịch trên toàn quốc, 3 công ty con tại Việt Nam, 1
công ty con tại Hong Kong, 4 công ty lien doanh, 3 công ty lien kết, 1 văn
phòng đại diện tại Singapore. Bên cạnh đó VCB còn phát triển hệ thống
Autobank với 11,183 máy ATM và điểm chấp nhận thanh toán thẻ (POS) trên
toàn quốc, hoạt động ngân hàng còn được hỗ trợ bởi mạng lưới 1,300 ngân
hàng đại lý tại 100 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Năm 2008 đánh dấu bước tiến quan trọng trong lịch sử phát triển của
Ngân hàng với việc chính thức chuyển mình trở thành ngân hàng thương mại
cổ phần có vốn điều lệ và tổng tích sản lớn nhất Việt Nam. Trong bối cảnh kinh
tế gặp nhiều khó khăn, đứng trước thách thức quan trọng là vừa phải chuyển
đổi cơ cấu hoạt động, vừa đảm bảo đạt hiệu quả kinh doanh, toàn hệ thống
Vietcombank đã nỗ lực phấn đấu, hoàn thành xuất sắc kế hoạch đề ra.

2.1.2. Sơ lược về tình hình huy động vốn tại VCB
Trong những năm qua, trước diễn biến phức tạp của thị trường vốn và sự
cạnh tranh gay gắt giữa các Ngân hàng thương mại, ngay từ đầu năm Ban Lãnh
đạo Vietcombank đã quán triệt trong toàn hệ thống coi công tác huy động là
một trong những những nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu và xuyên suốt. Ban lãnh
đạo cũng đã chỉ đạo quyết liệt các đơn vị trong hệ thống nhằm tập trung nguồn
lực cho công tác huy động và kinh doanh vốn. Thực hiện phương châm “An
toàn – Chất lượng – Tăng trưởng – Hiệu quả”, trong một vài năm qua VCB đã

hoàn thành tốt các chỉ tiêu do Đại hội cổ đông giao và vượt qua những khó
khăn trong công tác huy động vốn. Cụ thể là:
Trong năm 2008, để đối phó với tình hình lạm phát tăng cao, Ngân hàng
Nhà nước đã áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt, kiểm soát tốc độ tăng tổng
phương tiện thanh toán. Mặt bằng lãi suất tăng cao làm cho hoạt động huy động
vốn của ngân hàng gặp nhiều khó khắn. Mặc dù vậy, tổng huy động vốn của

18


VCB năm 2008 vẫn tăng trưởng ở mức 9,9%, huy động vốn trực tiếp từ nền
kinh tế tăng 10,5%.
Trong năm 2009, trước diễn biến phức tạp của thị trường vốn và sự cạnh
tranh gay gắt giữa các Ngân hàng thương mại, ngay từ đầu năm Ban Lãnh đạo
Vietcombank đã quán triệt trong toàn hệ thống coi công tác huy động là một
trong những những nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu và xuyên suốt trong năm. Ban
lãnh đạo cũng đã chỉ đạo quyết liệt các đơn vị trong hệ thống nhằm tập trung
nguồn lực cho công tác huy động và kinh doanh vốn. Chính vì vậy, VCB vẫn
giữ được mức tổng huy động vốn tăng 17,5% và huy động VNĐ từ khách hàng
tăng 18,8% so với năm trước. Trong bối cảnh bị cạnh tranh gay gắt, huy động
vốn tiền gửi của dân cư vẫn có mức tăng trưởng khá tốt (34,5%) là nhờ vào các
chương trình huy động vốn trải đều trong năm, và sự cố gắng, nỗ lực của hầu
hết các chi nhánh trong hệ thống.
- Với chính sách lãi suất linh hoạt, sự đa dạng về các sản phẩm huy
động vốn, công tác huy động vốn của VCB đã thực hiện tốt nhiệm vụ đảm bảo
đủ nguồn vốn sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu thanh toán và vay của khách
hàng và đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dự trữ bắt buộc tại NHNN.

Vietcombank tiếp tục


khẳng định vị thế là một ngân hàng có truyền thống lâu đời, hàng đầu tại Việt Nam và ảnh hưởng ngày càng tăng trên
trường quốc tế.

2.2. Thực trạng huy động vốn tại VCB
2.2.1. Hình thức huy động vốn của VCB
Huy động vốn là một trong những nhiệm vụ tạo vốn hàng đầu của Ngân
hàng VCB thông qua các nghiệp vụ chủ yếu như: huy động tiền gửi, nghiệp vụ
ngoại bảng của ngân hàng và các nghiệp vụ trung gian khác. Khi chuyển sang
hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ngân hàng bước
đầu còn nhiều bỡ ngỡ, hiệu quả kinh doanh nhiều mặt bị hạn chế, kể cả mảng

19


huy động vốn. Nhưng cùng với sự nỗ lực của bản thân ngân hàng, sự ủng hộ từ
nhiều phía, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi hơn, ngân hàng đã quen dần cơ
chế mới, đạt được những thành quả nhất định trong kinh doanh. Chỉ xét riêng
về mảng huy động vốn của ngân hàng, cả quy mô và chất lượng đều được phát
triển. Các hình thức huy động vốn của ngân hàng ngày càng đa dạng, đáp ứng
được nhu cầu đổi mới trong chiến lược kinh doanh của ngân hàng trong thời
gian tới.
Nắm bắt được tình hình nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển của nền kinh
tế, VCB luôn tìm cho mình những hướng đi, những giải pháp phù hợp với sự
phát triển kinh tế của đất nước, đẩy mạnh công tác huy động vốn và từng bước
đã đạt được những kết quả nhất định, phản ánh qua tình hình tăng trưởng nguồn
vốn huy động và cơ cấu nguồn vốn huy động.
Công tác huy động vốn luôn là tiền đề để thực hiện các nhiệm vụ của
ngân hàng, là bước cơ bản đầu tiên trong suốt quá trình kinh doanh của ngân
hàng. Chính vì vậy mà việc cạnh tranh, thu hút khách hàng gửi tiền là vấn đề
sống còn đối với bản thân mỗi ngân hàng. Hiểu rõ như vậy nên VCB luôn cải

tiến mở rộng các hình thức huy động vốn một cách linh hoạt theo xu hướng
chung của thị trường, tích cực đổi mới phong cách phục vụ để khai thác có hiệu
quả mọi nguồn vốn trên địa bàn cho các nhu cầu kinh tế. Các hình thức huy
động vốn chủ yếu được áp dụng trong thời gian qua tại Ngân hàng VCB gồm:
+ Nhận tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn.
+ Tiền gửi của các tổ chức kinh tế.
+ Vay của các tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng.
+ Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu.

2.2.2. Quy mô và cơ cấu huy động vốn

20


Trong thời gian qua Ngân hàng VCB phát huy được thế mạnh của mình
trong công tác huy động vốn do đã tận dụng được khả năng, vị thế của mình và
đưa ra được những chiến lược khả thi cao trong dài hạn. Mặt khác, chính sách
lãi suất rất nhạy bén, phương thức trả lãi linh hoạt như: trả trước, trả sau, trả lãi
định kì, trả lãi bậc thang. . . nên ngân hàng có thể huy động vốn khi cần thiết rất
đầy đủ và kịp thời. Không những thế, công tác tiếp thị được đẩy mạnh, Ngân
hàng tiếp cận nhiều doanh nghiệp, có chính sách khuyến khích đối với khách
hàng nên không những đã giữ được khách hàng truyền thống; ngoài ra ngân
hàng còn mở rộng tìm kiếm khách hàng có tiềm năng về vốn để nhận tiền vay,
tiền gửi.
Thời kì 2008-2009, mục tiêu phấn đấu của ngân hàng là tiếp tục đẩy
mạnh huy động vốn với mức huy động tăng từ 10,2% - 17,5% so với năm trước
đó. Đây là mức phấn đấu rất khó khăn đối với ngân hàng, bởi trong hoàn cảnh
ngân hàng đang chịu những bất lợi từ tình hình kinh tế trong nước.

Tiếp nối đà suy


thoái của năm 2008, nhiều nền kinh tế lớn trên thế giới đã tiếp tục suy giảm sâu trong nửa đầu năm 2009 nhưng rồi đã
gượng dậy và dần hồi phục trong nửa cuối năm. Nền kinh tế Việt Nam đã khá thành công khi đạt được mức tăng trưởng
tương đối cao so với các nước trong khu vực (5,32%) trong khi vẫn giữ được lạm phát ở mức thấp (6,52%), FDI cam
kết và giải ngân vẫn đạt mức cao, đời sống xã hội ổn định, … Gói kích thích kinh tế của Chính Phủ mà trọng tâm là
chương trình hỗ trợ lãi suất đã mang lại những hiệu ứng tích cực cho hoạt động ngân hàng; nhưng những diễn biến
phức tạp của lãi suất, tỷ giá, thanh khoản,… cũng khiến hoạt động của các ngân hàng gặp không ít khó khăn.

Bảng 1: Tình hình huy động vốn tại NHCT Ba Đình 2005-2009
(Đơn vị : tỷ đồng)
Chỉ tiêu
Tổng huy động Chênh lệch
Tốc độ tăng
vốn

với năm
trước

Trước
khi

cổ

phần hóa
Sau
khi
cổ phần

Năm 2005
Năm 2006

Năm 2007
Năm 2008

108.313
120.695
144.810
159.980

12.382
24.115
15.170

Năm 2009
169.457
9.477
(nguồn: thuyết minh báo cáo tài chính VCB)

11,4%
20%
10,5%
5,9%

Bảng: Lãi suất huy động tiền gửi tiết kiệm dân cư năm 2010
21


VNĐ
TT

Thời kỳ (tháng)


Lãi suất (%/tháng)

1

12

11.2%

2

9

11.2%

3

6

11.2%

4

3

11.2%

5

2


11%

6

1

11%

7

Không kỳ hạn

3

Thời kỳ (tháng)

USD
TT
1

12

Lãi suất (%/tháng)
4.2%

2

9


4.0%

3

6

3.7%

4

3

3.5%

5

2

3.3%

6

1

3.2%

7

Không kỳ hạn


0.2%

Với những nỗ lực lớn khắc phục khó khăn, giai đoạn 2008-2009, nguồn
vốn huy động của chi nhánh liên tục tăng trưởng mạnh, hoàn thành tốt nhu cầu
về điều hoà vốn cũng như cung ứng cho tín dụng. Cụ thể:

22


Tổng nguồn vốn huy động đến 31/12/2008 đạt 159,980 tỷ đồng, tăng
15,170 tỷ đồng tốc độ tăng 10,2% so với đầu năm, đạt hơn 10,5% so với kế
hoạch giao. Trong đó:
+ Vốn huy động VNĐ đạt 95,056 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 58,8%.
+ Vốn huy động ngoại tệ( quy VNĐ): Đạt 80,869 tỷ đồng, chiếm tỷ
trọng 41,2%.



Cơ cấu nguồn vốn về khu vực kinh tế:

+Tiền gửi của tổ chức kinh tế : Đạt 99,146 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 62%.
+ Tiền gửi dân cư: đạt 57,242 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 48%.


Cơ cấu nguồn vốn về thời hạn:

+ Tiền gửi không kỳ hạn đạt 52,456 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 33.4%.
+ Tiền gửi có kỳ hạn đạt 101,118 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 66,6%.
Năm 2009:
Tính đến ngày 31/12/2009, tổng nguồn vốn huy động đạt 169,457 tỷ

đồng, tăng 9,477 tỷ đồng tốc độ tăng % so với đầu năm. Trong đó:
+ Vốn huy động VNĐ đạt 100,353 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 60%, tăng
5,297 tỷ đồng tốc độ tăng 5,6% so với đầu năm.
+ Vốn huy động ngoại tệ( quy VNĐ): Đạt 69,937 tỷ đồng, chiếm tỷ
trọng 40%, giảm 11,472 tỷ đồng so với đầu năm.


Cơ cấu nguồn vốn về khu vực kinh tế:

+Tiền gửi TCKT: Đạt 90,216 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 53,2%, giảm 8,933
tỷ đồng, tốc độ giảm 9% so với đầu năm.
+ Tiền gửi dân cư: đạt 76,964 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 47,8%, tăng
19,722 tỷ đồng, tốc độ tăng 34,4% so với đầu năm.
23




Cơ cấu nguồn vốn về thời hạn:

+ Tiền gửi không kỳ hạn đạt 47,256 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 27,9%, giảm
5,2 tỷ đồng giảm 10% so với đầu năm.
+ Tiền gửi có kỳ hạn đạt 117,061 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 72,1% tăng
16,943 tỷ đồng tăng 16,7% so với đầu năm.

Huy động vốn từ tiền gửi và tiền gửi tiết kiệm.
Huy động vốn tiền gửi tiết kiệm là nghiệp vụ truyền thống của các
NHTM Việt Nam, nguồn vốn này thường chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng
nguồn vốn huy động của các ngân hàng. Chính vì tiền gửi tiết kiệm vị trí quan
trọng trong tổng nguồn vốn huy động cho nên thời gian qua, Ngân hàng ngoại

thương Việt Nam đã đưa ra các biện pháp tích cực nhằm huy động tối đa nguồn
vốn này. Tuy nhiên, làm được như vậy không phải là dễ, để có thể huy động
nguồn vốn này đạt hiệu quả cao thì đòi hỏi chi nhánh phải không ngừng hoàn
thiện và mở rộng các nghiệp vụ huy động vốn như: mở thêm địa bàn huy động,
đẩy mạnh công tác tuyên truyền quảng cáo, các cách thức huy động vốn với các
loại thời hạn và các mức lãi suất khác nhau để khách hàng lựa chọn. Bên cạnh
đó, cần nâng cao hơn nữa chất lượng phục vụ khách hàng, tạo tâm lý thoải mái
cho khách hàng mỗi khi đến giao dịch với ngân hàng.
Thực tế cho thấy, trong các năm qua (2008-2009) công tác huy động vốn
tiền gửi tiết kiệm đã đạt được những kết quả khả quan. Tính đến 31/12/2008
nguồn vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm và thanh toán là

153,547

tỷ đồng, năm

2009 là 164,317 tỷ đồng, tăng 7,01% so với năm 2008. Đây là một tỷ lệ chứng
tỏ chi nhánh đã sử dụng các biện pháp nhằm huy động nguồn vốn này một cách
đúng đắn, linh hoạt tạo được mối quan hệ tốt đẹp với khách hàng và nâng cao
uy tín trong hoạt động và phản ánh nỗ lực cố gắng phấn đấu của tập thể lãnh
đạo chi nhánh nói chung và những người làm công tác huy động vốn nói riêng
24


trong việc khắc phục khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Huy động vốn từ phát hành giấy tờ có giá

Huy động vốn thông qua phát hành giấy tờ có giá là hình thức huy động
linh hoạt nhằm giải quyết những nhu cầu tức thời, ngân hàng căn cứ căn cứ vào
từng thời điểm để quyết định đưa ra hình thức huy động này một cách chủ

động, có thể huy động vốn ngắn hạn hoặc trung dài hạn. Trong những năm qua,
công tác huy động vốn thông qua phát hành kỳ phiếu, trái phiếu và chứng chỉ
tiền gửi của Ngân hàng VCB nhằm đáp ứng nhu cầu vốn trung dài hạn đã đạt
được kết quả khả quan. Năm 2008 là một năm quan trọng đối với lịch sử VCB
và cũng là năm đầu tiên Ngân hàng TMCP Ngoại thương VN hoạt động với tư
cách là ngân hàng TMCP. vốn huy động từ kỳ phiếu, trái phiếu là 79 tỷ đồng;
năm 2003 là 189 tỷ đồng, tăng 110 tỷ đồng, tương ứng với tốc độ tăng trưởng
là 139,2% so với năm 2002 và tính đến 31/12/2004 con số này đã đạt 235 tỷ
đồng, tăng 46 tỷ đồng, tỷ lệ tăng tương ứng là 24% so với cùng kỳ năm trước.
Kết quả này phản ánh sự cố gắng trong công tác huy động vốn đối với hình
thức phát hành giấy tờ có giá của cán bộ công nhân viên toàn chi nhánh.

2.2.3. Mạng lưới tổ chức huy động vốn
Nguồn vốn huy động tại chỗ chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn vốn,
có vai trò rất quan trọng trong việc duy trì và nâng cao hiệu quả hoạt động của
ngân hàng. Nguồn này đảm bảo cho ngân hàng chủ động trong hoạt động, góp
phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của toàn xã hội thông qua việc tập trung
các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân vào ngân
hàng để đầu tư vào nền kinh tế, tiết giảm thời gian, chi phí bảo quản và tạo thu
nhập cho người gửi tiền. Trong thời gian qua, VCB đã đẩy mạnh huy động
nguồn tại chỗ thông qua việc mở rộng mạng lưới huy động không những trên
25


×