LỜI NÓI ĐẦU
Nước ta đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong xu hướng hội nhập kinh tế khu vực và
toàn cầu. Một trong những vấn đề có vị thế quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp mà
chúng ta đang theo đuổi đó là vấn đề về nguồn lực, vấn đề vốn - vấn đề thuộc cơ sở
“ hạ tầng mềm” cho đầu tư phát triển. Đây là vấn đề mang tính cấp thiết, đầy biến
động đòi hỏi phải xây dựng, phát triển và thường xuyên được xử lý, điều chỉnh
nhằm đáp ứng được nhu cầu vốn của nền kinh tế, giải quyết được những thiếu hụt
trong chi tiêu của Chính phủ. Vậy thì giải pháp nào cho huy động vốn; chúng ta phải
có những phương án, quyết sách cụ thể mang tính chiến lược trong dài hạn nhằm
thõa mãn nhu cầu về vốn cũng như nâng cao khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế.
Chúng ta không chỉ đơn thuần xem nguồn lực, nguồn vốn là tiền mặt, mà phải
xem xét nguồn vốn bao gồm cả dưới dạng vật chất và phi vật chất được biểu hiện
bằng tiền. Hoạt động huy động vốn không chỉ đơn thuần là thu hút mọi nguồn lực
mà còn đi đôi với việc chọn lọc và sử dụng vốn sao cho có hiệu quả nhất. Việc xây
dựng một thị trường tài chính tầm cỡ cũng như tạo một hành lang pháp lý thông
thoáng, an toàn chính là điều kiện cần để chúng ta có thể thu hút các nguồn nội
ngoại lực phục vụ cho đầu tư phát triển. Vấn đề hình thành và phát triển thị trường
tài chính trong đó nòng cốt là ngân hàng thương mại, tổ chức chiếm vị trí quan
trọng trong các chính sách về huy động vốn của Đảng và Nhà nước ta trong thời kì
kiện nay. Ngân hàng thương mại gánh trên vai trọng trách to lớn tiếp tục hoàn thiện
và phát triển thị trường tài chính, làm tốt chức năng là kênh dẫn vốn cho nền kinh tế
thông qua việc khơi thông các dòng vốn, di chuyển vốn từ nơi có hiệu quả đầu tư
thấp sang nơi có hiệu quả đầu tư cao hơn; mặt khác ngân hàng thương mại với chức
năng của mình cần phải có biện pháp thích hợp tập trung mọi nguồn vốn còn tạm
thời nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức kinh tế, nhất là các hình thức huy động
trung và dài hạn để cho vay và đầu tư vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, mua
sắm trang thiết bị, đổi mới công nghệ.
Đánh giá chung về hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời
kì đổi mới, Bộ Chính trị đã có kết luận “... Từ khi chuyển sang kinh doanh, các
Trang 1
ngân hàng thương mại đã thực hiện huy động một khối lượng đáng kể vốn trong
nước và nước ngoài, thúc đẩy đầu tư cho sản xuất của các thành phần kinh tế,
coi trọng đầu tư tín dụng ưu đãi để phục vụ xóa đói giảm nghèo và thực hiện một
số chính sách xã hội”. Với nhiệm vụ của mình, toàn hệ thống ngân hàng đang phấn
đấu nhằm thực hiện có hiệu quả chiến lược huy động vốn trong nước và tranh thủ
các nguồn vốn từ bên ngoài để đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế, đẩy mạnh cho
vay, khắc phục tình trạng ứ đọng vốn trong hệ thống ngân hàng, đồng thời tập trung
giảm tỷ lệ nợ quá hạn và kiểm soát chất lượng tín dụng.
Nằm trong hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam, ngân hàng
công thương chi nhánh Ba Đình đã và đang hoàn thiện, phát huy hơn nữa vai trò và
thế mạnh của mình trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với bề
dày lịch sử của mình, ngân hàng công thương Ba Đình trong thời kì đổi mới đã có
bước chuyển mình quan trọng từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị
trường, kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần vào công cuộc cải cách nền kinh
tế đất nước.
Tính bức xúc trong hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương mại nói
riêng và nền kinh tế nói chung cũng như nhu cầu về vốn cho sự nghiệp công nghiệp
hóa hiện đại hóa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang theo đuổi chính là động
lực cho em chọn nghiên cứu về đề tài: “Giải pháp tăng cường huy động vốn tại
ngân hàng công thương Ba Đình” cho chuyên đề thực tập của mình trong thời gian
thực tập tại ngân hàng công thương Ba Đình.
Chuyên đề chia làm 3 chương bao gồm:
Chương I: Cơ sở lý luận về công tác huy động vốn của ngân hàng thương mại.
ChươngII: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại ngân hàng công thương Ba Đình.
Chương III: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại ngân hàng công thương Ba
Đình.
Do khả năng lý luận và nhận thức về một vấn đề còn hạn chế, đây lại là một đề
tài khó, chính vì vậy bài viết này của em không tránh khỏi những thiếu sót nhất
Trang 2
định. Mong thầy cô phê bình, góp ý để bài viết sau của em được hoàn thiện hơn. Em
xin chân thành cảm ơn.
Trang 3
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM
I. VAI TRÒ CỦA NGUỒN VỐN ĐỐI VỚI NHTM.
1. Các hoạt động chủ yếu của NHTM.
1.1. Khái niệm NHTM.
Sự hình thành hệ thống NHTM là hệ quả tất yếu của việc xây dựng nền kinh
tế thị trường, đó là sản phẩm của cơ chế thị trường hay là yếu tố cấu thành thị
trường tài chính; NHTM nói riêng và thị trường tài chính nói chung có tác động qua
lại tương hỗ lẫn nhau; hệ thống NHTM ổn định, phát triển toàn diện là động lực
thúc đẩy thị trường tài chính phát triển và ngược lại.
Việt Nam đang trong tiến trình xây dựng và phát triển một mô hình thị
trường tài chính với nòng cốt là hệ thống ngân hàng thương mại hoạt động dưới sự
điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã được đổi mới một
cách đáng kể trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp
sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý, của nhà nước. Từ mô hình hệ thống ngân
hàng của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung chuyển sang mô hình ngân hàng của
nền kinh tế thị trường, mô hình tổ chức có sự thay đổi căn bản đó là tách biệt chức
năng quản lý hoạt động tiền tệ, tín dụng với chức năng kinh doanh tiền tệ, đa dạng
hóa các loại hình ngân hàng, từng bước xóa bỏ độc quyền, chuyển sang cạnh tranh
có sự quản lý của nhà nước. Tại Việt Nam kể từ năm 1988 bắt đầu hình thành mô
hình hệ thống ngân hàng 2 cấp và 2 pháp lệnh ngân hàng( pháp lệnh Ngân hàng Nhà
nước, Pháp lệnh Ngân hàng HTX tín dụng và công ty Tài chính) đã chính thức hợp
pháp hóa sự thay đổi này, Mô hình hệ thống ngân hàng ở thời điểm này bao gồm:
- Ngân hàng Nhà nước: cơ quan quản lý cấp nhà nước trong lĩnh vực tiền
tệ, tín dụng và ngân hàng.
- Các NHTM: đóng vai trò là các doanh nghiệp thực hiện kinh doanh tiền
tệ.
Trang 4
Theo luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực từ tháng 10 năm 1998, NHTM
được định nghĩa như sau: “NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ
yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khác hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử
dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện
thanh toán”.
Định nghĩa trên đã khẳng định NHTM là một doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực tiền tệ, trong đó có hai mặt cơ bản:
- Nhận ký thác của các doanh nghiệp, cá nhân và các tổ chức, cơ quan nhà
nước.
- Sử dụng các khoản ký thác đó để cho vay và chiết khấu.
Các loại hình của NHTM:
+ NHTM quốc doanh: là NHTM được thành lập bằng 100% vốn của nhà
nước.
+ NHTM cổ phần: là NHTM được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần.
+ Chi nhánh NHTM nước ngoài: là ngân hàng được thành lập theo luật pháp
nước ngoài nhưng hoạt động theo luật pháp nước sở tại.
+ Ngân hàng liên doanh: là ngân hàng được thành lập bằng vốn góp của bên
ngân hàng Việt Nam và bên ngân hàng nước ngoài có trụ sở tại Việt Nam và hoạt
động theo luật pháp Việt Nam.
Quá trình phát triển của NHTM gắn liền với quá trình phát triển của thị
trường tài chính thông qua các giai đoạn từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
Khi mới ra đời, tổ chức và nghiệp vụ hoạt động rất đơn giản nhưng càng về sau,
theo đà phát triển của kinh tế hàng hóa, tổ chức cũng như các nghiệp vụ của các
ngân hàng càng phát triển và hoàn thiện hơn. Ngày nay các NHTM có xu hướng
phát triển ngày càng toàn diện với quy mô rộng cùng nhiều loại hình dịch vụ huy
động tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội để đầu tư cho vay. Sự phát triển của
các ngân hàng không còn nằm trong phạm vi quốc gia mà mang tính chất toàn cầu.
Ví dụ: Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu á (ADB)… việc áp
Trang 5
dụng công nghệ thông tin và hệ thống trang thiết bị hiện đại càng làm cho hoạt động
ngân hàng trở nên hoàn thiện
Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng thương mại Việt
Nam cũng trải qua những bước thăng trầm của lịch sử, chứng kiến bước chuyển
mình vượt qua những chặng đường khó khăn dưới chế độ bao cấp bước sang nền
kinh tế thị trường . Trải qua hơn 10 năm đổi mới, sau khi Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) ban hành nghị định 53 HĐBT (26/3/1988) với
nội dụng “Cải tổ ngân hàng từ hệ thống ngân hàng một cấp duy nhất trong
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung thành định chế ngân hàng hai cấp theo
hướng kinh tế thị trường”. Ngày 23/5/1990 nhà nước đã ban hành hai pháp lệnh
về ngân hàng. Ngày 26/12/1997, hai pháp lệnh trên được thay thế bằng hai luật:
Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng, tạo được một hành lang
pháp lý khá đầy đủ cho hoạt động ngân hàng. Bộ mặt ngành ngân hàng đã thay đổi,
hoạt động của ngân hàng trở nên chuyên nghiệp và năng động hơn, đánh dấu sự
thay đổi to lớn trong cách nghĩ cũng như cách làm.
Hệ thống NHTM Việt Nam từ khi ra đời cho tới nay đã dần khẳng định được
vai trò quan trọng trong nền kinh tế nói chung và trong việc thực thi chính sách tài
chính – tiền tệ nói riêng. Vẫn với chức năng nhận tiền gửi để cho vay đối với nền
kinh tế, với vai trò trung gian tài chính trong hoạt động của mình, NHTM vẫn phải
tuân theo sự quản lý của Nhà nước mà trực tiếp là sự quản lý của Ngân hàng Trung
ương. Chính dưới sự quản lý này, hệ thống NHTM đã thực hiện được chức năng của
mình đối với nền kinh tế. Để hiểu rõ hơn vê NHTM, đặc biệt là tầm quan trọng của
NHTM đối với quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, ta sẽ tìm hiểu các
hoạt động chủ yếu của NHTM.
Trang 6
1.2. Các hoạt động chủ yếu của NHTM.
Cũng giống như một doanh nghiệp, mục tiêu chủ yếu trong hoạt động kinh doanh
của ngân hàng là tối đa hóa lợi nhuận hay nói đúng hơn là tối đa hóa giá trị tài sản
của ngân hàng và thông qua đó thực hiện tốt vai trò là trung gian tài chính trong nền
kinh tế. Ngân hàng tạo ra lợi nhuận bằng cách bán những tài sản nợ có một số đặc
tính (một kết hợp riêng về tính lỏng, rủi ro và lợi tức) và dùng tiền thu được để mua
những tài sản có một số đặc tính khác. Như thế các ngân hàng cung cấp một dịch vụ
chuyển một loại tài sản thành một loại tài sản khác cho công chúng. Nghiệp vụ này
đã tạo ra lợi nhuận thặng dư cho ngân hàng đồng thời tạo tiện ích cho khách hàng để
đôi bên cùng có lợi.
Nghiệp vụ tài sản nợ (Nguồn vốn):
Đây là nghiệp vụ tạo điều kiện và tiền đề cho hoạt động của NHTM. Các
NHTM thực hiện huy động mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế dưới
mọi hình thức để thực hiện nhiệm vụ đầu tư, cho vay đối với các thành phần kinh tế,
giúp họ đổi mới trang thiết bị sản xuất, nâng cấp nhà xưởng phục vụ kinh doanh…
Nghiệp vụ tài sản có (Sử dụng vốn):
- Nghiệp vụ dữ trữ tiền mặt:
Ngân hàng dự trữ tiền mặt nhằm duy trì khả năng thanh khoản của ngân
hàng, đáp ứng nhu cầu rút tiền và thanh toán thường xuyên, liên tục của khách hàng
vào bất cứ lúc nào. Dự trữ tiền mặt cao hay thấp phụ thuộc vào quy mô hoạt động,
cơ cấu và tính chất nguồn vốn của NHTM. Các khoản dự trữ của NHTM không sinh
lời.
- Nghiệp vụ đầu tư: Ngân hàng tham gia góp vốn liên doanh, liên kết, thành
lập công ty con...
- Nghiệp vụ cho vay: Cho vay là nghiệp vụ đem lại lợi nhuận chủ yếu cho
các NHTM. Các NHTM sử dụng phần lớn số tiền huy động được để cho vay đối với
nền kinh tế. Lợi nhuận thu được từ hoạt động cho vay là nguồn thu nhập chính để
bù đắp các loại chi phí trong hoạt động của Ngân hàng và thu lợi của NHTM.
Trang 7
Các dịch vụ Ngân hàng:
Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của mình, các NHTM đã tiến hành cung
ứng các dịch vụ phục vụ khách hàng như: dịch vụ thanh toán, đại lý, tư vấn tài
chính,... trên cơ sở đó Ngân hàng thu phí dịch vụ. Ngày nay do nhu cầu phát triển
của nền kinh tế đòi hỏi hoạt động dịch vụ Ngân hàng ngày càng mở rộng về số
lượng và chất lượng. Các Ngân hàng đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất, áp dụng
các công nghệ tiên tiến vào hoạt động Ngân hàng, thực hiện tốt khâu thanh toán
không dùng tiền mặt như uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thanh toán séc, thanh toán bù
trừ, thực hiện chuyển tiền nhanh qua mạng máy tính, thực hiện thanh toán bằng thẻ
tín dụng…
Thực hiện tốt khâu cung ứng dịch vụ góp phần làm tăng thu nhập cho Ngân
hàng vì xu hướng phát triển trong hoạt động của NHTM hiện đại là mở rộng các
hoạt động dịch vụ, đồng thời vẫn duy trì các nghiệp vụ Ngân hàng truyền thống,
thông qua việc đa dạng hoá các hoạt động, các NHTM có thể vừa tăng thu nhập vừa
có thể cạnh tranh với các định chế tài chính phi Ngân hàng trong lĩnh vực cung ứng
các sản phẩm tài chính.
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ đem lại cho Ngân hàng những khoản thu nhập
từ chênh lệch tỷ giá và các dịch vụ thanh toán quốc tế, đó chính là doanh lợi hối
đoái.
Như vậy, thành phần chính trong cơ cấu tổng thu nhập của NHTM là lãi cho
vay, lợi tức từ các khoản đầu tư, dịch vụ phí và doanh lợi hối đoái.
2. Nguồn vốn của NHTM.
Hoạt động của NHTM luôn gắn liền với công tác huy động vốn. Vậy ta hiểu
như thế nào là vốn?
Trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, việc tạo nguồn vốn và đầu tư
vốn là công việc của Nhà nước, nghĩa là Nhà nước đóng vai trò vừa là người cấp
phát vốn đầu tư cho các thành phần kinh tế, vừa là người tiêu thụ các sản phẩm mà
các thành phần kinh tế đó sản xuất. Vốn của các doanh nghiệp chủ yếu do ngân sách
của Nhà nước cấp hoặc vay tín dụng ngân hàng với lãi suất thấp. Thực tế cho thấy,
Trang 8
nhu cầu vốn của các doanh nghiệp là rất lớn trong khi nguồn vốn ngân sách Nhà
nước cấp lại có hạn và nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư không thu hút được,vì chính
sách huy động vốn chưa hợp lý, thủ tục gửi tiền và rút tiền còn rườm rà… Như vậy
cơ chế bao cấp đã làm cho đồng tiền không được lưu thông và sử dụng có hiệu quả,
không có nơi giao dịch mua bán trên thị trường. Mặt khác cơ chế huy động vốn và
sử dụng vốn trong thời kỳ này chưa được quan tâm đúng mức.
Khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, với chính sách phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần, Nhà nước đã khuyến khích các thành phần kinh tế tự bỏ
vốn đầu tư. Điều đó làm cho vốn trở thành yếu tố quan trọng hàng đầu và là điều
kiện tiên quyết của mọi quá trình đầu tư sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp Nhà
nước không thể bỗng dưng mà có được vốn vì không được cấp vốn như trước nữa,
cho nên buộc họ phải tìm cách mua vốn trên thị trường tài chính. Như thế người
mua vốn phải trả lãi cho người có vốn trên thị trường một khoản phí để có được
quyền sử dụng vốn trong thời gian xác định. Thông qua thị trường, vốn được lưu
chuyển rộng rãi, từ đó nó mới có thể thể hiện đủ bản chất và vai trò của mình.
C.Mác đã khái quát hoá phạm trù vốn là: “Tư bản” qua định nghĩa hết sức cô đọng:
“tư bản là giá trị mang lại thặng dư”.
Như vậy, vốn phải được biểu hiện dưới hình thái giá trị của tài sản tức là
vốn phải được đại diện cho một lượng giá trị thực của tài sản nhất định. Mặt khác
vốn không chỉ biểu hiện thành tiền (tiền giấy, vàng, bạc, đá quý…) và phản ánh giá
trị những tài sản hữu hình (máy móc thiết bị, đất đai, nhà cửa…) mà còn được biểu
hiện bằng giá trị của những tài sản vô hình (uy tín, trình độ, phát minh, sáng chế,
thông tin, công nghệ…) chính vì sự biểu hiện dưới các hình thức phong phú và đa
dạng đó mà vốn cần phải được khai thác, sử dụng có hiệu quả mới đem lại lợi nhuận
cao. Và cũng qua đó giúp ta phân biệt với tiền lương dễ dàng hơn: nếu có một lượng
tiền được in không được phát hành trên cơ sở giá trị thực của hàng hoá để đưa vào
đầu tư thì đó chỉ là vốn giả tạo chứ không phải là vốn đầu tư, thực chất chỉ những
đồng tiền phát hành trên cơ sở đảm bảo bằng giá trị thực của hàng hoá mới được gọi
là vốn.
Trang 9
Như ta đã biết trong quá trình vận động, khác với các loại hàng hoá, điểm
xuất phát và điểm kết thúc của vốn đều là tiền. Sau một chu kỳ vận động vốn được
lớn lên và đem lại hiệu quả cao, thể hiện:
Trong doanh nghiệp sản xuất:
T-H..SX..H-T’ T’= T+t >T
Trong NHTM:
T=H-T’
Còn trong các tổ chức tài chính trung gian:
T=T-T’
Tóm lại từ những nét đặc thù trên ta có thể đưa ra khái niệm như sau: Vốn là
các tài sản trong xã hội được đưa vào đầu tư nhằm mang lại hiệu quả trong tương
lai. Vì thế trong nền kinh tế thị trường dù hoạt động trong lĩnh vực nào thì vốn cũng
là một yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả của nó. Hoạt động ngân hàng cũng
vậy, muốn hoạt động kinh doanh có hiệu quả mang lại hiệu quả cao thì công tác huy
động cần phải được quan tâm đúng mức.
Nước ta cũng như bất kỳ nước nào khác trên thế giới, muốn thực hiện công
nghiệp hóa - hiện đại hóa cũng cần phải có vốn. Vốn là chìa khóa, là điều kiện hàng
đầu để thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Vốn trong nền kinh tế có thể ví
như máu trong cơ thể, thiếu vốn nền kinh tế sẽ chậm phát triển. Song vốn được tạo
lập từ đâu, bằng cách nào phụ thuộc rất lớn vào cơ chế, chính sách tạo vốn.
Nguồn vốn của NHTM đóng vai trò quan trọng không chỉ trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng mà còn đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển
kinh tế – xã hội. Vậy, nguồn vốn của NHTM là gì?
Nguồn vốn của NHTM là toàn bộ các nguồn tiền mà ngân hàng tạo lập và
huy động được để đầu tư cho vay và đáp ứng các nhu cầu khác trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng.
Nguồn vốn mà ngân hàng tạo lập và huy động được không những giúp cho
ngân hàng tổ chức được mọi hoạt động kinh doanh mà còn góp phần quan trọng
Trang 10
trong việc đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp nói riêng
cũng như sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói chung. Tuy nhiên,
nguồn vốn của NHTM được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau như: vốn chủ sở
hữu, vốn huy động, vốn đi vay và các loại vốn khác.
2.1. Vốn chủ sở hữu.
Vốn chủ sở hữu có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của
NHTM, nó thực hiện một số chức năng không thể thay thế đó là: cung cấp nguồn
lực ban đầu cho ngân hàng có thể duy trì hoạt động khi ngân hàng mới thành lập, là
cơ sở tạo niềm tin cho khách hàng đến giao dịch với ngân hàng, phòng ngừa rủi ro
kinh doanh cho ngân hàng. Vốn chủ sở hữu bao gồm:
2.1.1. Nguồn vốn hình thành ban đầu.
Đây được coi như vốn điều lệ của ngân hàng trong quy định về điều kiện thành
lập ngân hàng của pháp luật. Nguồn vồn này là lượng vốn tối thiểu mà ngân hàng
cần phải có để đáp ứng điều kiện thành lập cũng như hoạt động kinh doanh. Các loại
hình ngân hàng khác nhau thì có nguồn gốc hình thành vốn ban đầu khác nhau: Đối
với ngân hàng quốc doanh thì nguồn vốn hình thành ban đầu là do ngân sách nhà
nước cấp, nếu là ngân hàng liên doanh thì là do các bên liên doanh đóng góp, nếu là
ngân hàng cổ phần thì các cổ đông góp vốn thông qua việc mua cổ phần hoặc cổ
phiếu của ngân hàng; nếu là ngân hàng tư nhân thì đó là vốn thuộc sở hữu tư nhân.
2.1.2. Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động.
Vốn chủ sở hữu của ngân hàng có thể gia tăng theo nhiều phương thức khác
nhau tùy thuộc vào điều kiện cụ thể trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh
của ngân hàng. Đó bao gồm:
Nguồn từ lợi nhuận: Khi hoạt động kinh doanh tạo ra lợi nhuận thì ngân hàng có thể
chuyển một phần lợi nhuận thành nguồn vốn nhằm tái đầu tư. Lượng vốn tích lũy tư
thu nhập tùy theo chiến lược kinh doanh của ngân hàng trong thời gian tới cũng như
cân nhắc của chủ ngân hàng về tích lũy và tiêu dùng.
Nguồn bổ sung từ việc phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm… để mở rộng
quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị, hoặc để đáp ứng nhu cầu gia tăng
Trang 11
vốn của chủ do Ngân hàng Nhà nước quy định…Đặc điểm của hình thức huy động
này là không thường xuyên, song giúp cho ngân hàng có được lượng vốn chủ sở
hữu lớn vào lúc cần thiết.
2.1.3. Các quỹ.
Ngân hàng có nhiều các quỹ khác nhau, mỗi quỹ được sử dụng vào những mục đích
nhất định tùy thuộc vào tình hình kinh doanh của ngân hàng. Các quỹ của ngân hàng
thuộc sở hữu của chủ ngân hàng. Nguồn hình thành các quỹ này là từ thu nhập của
ngân hàng. Các quỹ của ngân hàng bao gồm:
- Quỹ bổ sung vốn điều lệ: có mục đích tăng cường số vốn tự có ban đầu.
- Quỹ dự phòng bù đắp rủi ro: Dùng để dự phòng bù đắp rủi ro trong hoạt
động kinh doanh ngân hàng nhằm bảo toàn vốn điều lệ. Quỹ này được trích lập hàng
năm và được tích lũy lại nhằm bù đắp những tổn thất xảy ra.
- Ngoài ra còn có các quỹ đặc biệt khác như: quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi,
quỹ khấu hao tài sản cố định, quỹ giám đốc,…
Dự phòng rủi ro: Dự phòng rủi ro tín dụng được các NHTM trích lập từ thu
nhập trước hoặc sau thuế (theo quy định của từng quốc gia) theo một tỷ lệ nhất định
nào đó. Khoản trích lập này là quan trọng và cần thiết cho hoạt động Ngân hàng, vì
trong nền kinh tế thị trường không thể tránh khỏi những rủi ro bất khả kháng có thể
xảy ra, khi đó, ngân hàng có thể trích các quỹ để bù đắp.
2.1.4. Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần.
Các khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng mà có khả năng chuyển đổi thành
vốn cổ phần có thể được coi là một bộ phận vốn sở hữu của ngân hàng (vốn bổ
sung) do nguồn này có một số đặc điểm như sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà
cửa, đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn.
2.2. Nguồn huy động.
Nguồn huy động không phải là nguồn vốn thuộc sở hữu của ngân hàng nhưng
lại là yếu tố quan trọng trong hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận của ngân
hàng,thường thì tiền gửi vào và tiền rút ra không đồng thời hoặc chênh lệch nhau
Trang 12
một lượng nhất định. Ngân hàng sẽ sử dụng lượng vốn tạm thời nhàn rỗi này vào
mục đích cho vay kiếm lời. Nguồn vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu, chiếm tỷ
trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng. Vốn huy động bao gồm:
- Tiền gửi giao dịch:
Là loại tiền gửi do khách hàng gửi vào nhằm mục đích giao dịch thanh toán,
chi trả các hoạt động mua bán hàng hoá, dịch vụ và các khoản chi phí phát sinh
trong kinh doanh một cách an toàn, thuận tiện. Đặc tính cơ bản của tiền gửi giao
dịch là có thể phát séc, lãi suất thấp và có tính không ổn định.
- Tiền gửi phi giao dịch:
Bao gồm tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn, chúng có tính ổn định cao,
người gửi được hưởng lãi suất cao nhưng không được phát hành séc.
Bên cạnh đó, NHTM còn có thể huy động vốn thông qua phát hành các giấy tờ
có giá như: chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu và trái phiếu. Trong đó chứng chỉ tiền gửi
và kỳ phiếu là loại phiếu nợ ngắn hạn; trái phiếu là loại phiếu nợ trung, dài hạn. Các
loại phiếu nợ trên được Ngân hàng phát hành từng đợt với mục đích, số lượng cụ
thể và chỉ phát hành khi được sự cho phép của NHTW. Đặc điểm của các loại giấy
nợ này là chúng có lãi suất cao hơn so với lãi suất tiền gửi và tiền gửi tiết kiệm, có
tính ổn định cao, quyền đòi tiền xếp sau các loại tiền gửi khác.
2.3. Nguồn đi vay.
Là nguồn vốn mà ngân hàng phải vay mượn thêm trong trường hợp khả năng
huy động của ngân hàng bị thiếu hụt khi nhu cầu thanh toán, chi trả cho khách hàng
tăng cao. Nguồn đi vay được hình thành dựa trên mối quan hệ vay mượn của ngân
hàng thương mại với ngân hàng trung ương, với các tổ chức tín dụng khác hoặc giữa
các ngân hàng thương mại với nhau.
Ngân hàng thương mại thường vay ngân hàng trung ương khi khả năng chi trả
của ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu trong thời gian ngắn. Các NHTM vay
vốn của NHTW dưới hình thức chiết khấu, tái chiết khấu để bù đắp thiếu hụt trong
thanh toán, bổ sung vốn dự trữ... Để được vay chiết khấu các NHTM phải nộp cho
NHTW các giấy tờ có giá có thời hạn còn lại là ngắn hạn xin chiết khấu như thương
Trang 13
phiếu, chứng khoán của Chính phủ... chúng thường là các loại giấy tờ mà chủ thể
phát hành ra chúng có uy tín cao. Lãi suất chiết khấu do NHTW quy định tùy thuộc
vào mục tiêu chính sách tiền tệ của Nhà nước trong từng thời kỳ. Ngân hàng Nhà
nước điều hành việc vay mượn này một cách chặt chẽ, ngân hàng thương mại phải
thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định.
Để đảm bảo cho việc thanh khoản của mình, các ngân hàng thiếu hụt dự trữ
có nhu cầu vay mượn tức thời các ngân hàng thường vay mượn của nhau và vay các
tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng đang có số dư
tiền gửi vượt yêu cầu chưa sử dụng sẽ sẵn sàng cho các ngân hàng khác vay để tìm
kiếm lãi suất cao hơn. Quy trình vay mượn giữa các ngân hàng rất đơn giản, ngân
hàng đi vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng cho vay hoặc thông qua ngân
hàng đại lí (và có thẻ là ngân hàng nhà nước). Khoản vay có thể có hoặc không cần
đảm bảo, dựa trên cơ sở uy tín của ngân hàng đi vay hoặc mối quan hệ giữa các
ngân hàng với nhau.
Ngoài các hình thức trên ngân hàng có thể vay mượn bằng cáchphát hành các
công cụ nợ như: Kì phiếu, trái phiếu, tín phiếu trên thị trường vốn. Các khoản vay
này có ý nghĩa rất quan trọng nhằm bổ sung cho các nguồn tiền gửi, đáp ứng nhu
cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn, là giải pháp tình thế cho ngân hàng trong
hoàn cảnh khó khăn.
3. Vai trò của nguồn vốn huy động.
3.1. Đối với nền kinh tế.
Nước ta đang trong tiến trình xây dựng một nền kinh tế vững mạnh vận động
theo cơ chế thị trường, việc này phải đồng thời với vấn đề phải phát triển một thị
trường tài chính xứng tầm. Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động sản xuất
kinh doanh của các đơn vị, tổ chức kinh tế và cá nhân đều chịu sự tác động của thị
trường, cuả các quy luật kinh tế: quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá
trị…Chính vì vậy các doanh nghiệp để tồn tại được trên thương trường phải không
ngừng đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao chất lượng sản
phẩm,…Vấn đề này thực hiện được khi và chỉ khi doanh nghiệp huy động được đủ
lượng vốn cần thiết và sử dụng có hiệu quả chúng vào đúng mục đích. Nguồn vốn tự
Trang 14
có của doanh nghiệp thường không đáp ứng được nhu cầu vốn của doanh nghiệp, do
đó doanh nghiệp phải đi vay vốn nhằm bù đắp cho nhu cầu đầu tư của mình. Với sự
xuất hiện của thị trường tài chính và hệ thống ngân hàng thương mại thì việc vay
vốn của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, các cá nhân trở nên dễ dàng hơn. Doanh
nghiệp có thể chủ động tìm kiếm vốn từ nhiều nguồn khác nhau với chi phí tiết kiệm
và thủ tục đơn giản hơn rất nhiều.
Chính phủ trong nhiều trường hợp cũng cần phải huy động lượng vốn nhất định
để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của mình. Ngân sách Nhà nước là nguồn cung cấp chủ
yếu cho kế hoạch chi tiêu của chính phủ, song không phải lúc nào nó cũng ở trong
trạng thái lành mạnh, đủ khả năng đáp ứng. Giải pháp đặt ra là có thể in thêm tiền
hoặc tăng thuế, vay nợ nước ngoài nhưng việc này sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực lên
toàn bộ nền kinh tế, qua đó nảy sinh các vấn đề về xã hội. Đây là điều mà các nhà
hoạch định chính sách vĩ mô không muốn nó xảy ra. Vì vậy nhà nước có thể sử
dụng biện pháp tích cực hơn đó là tìm kiếm nguồn vốn huy động trong và ngoài
nước thông qua việc phát hành các công cụ nợ như trái phiếu chính phủ, tín phiếu
kho bạc…
Qua những dẫn chứng trên có thể thấy được tầm quan trọng của nguồn vốn huy
động đối với nền kinh tế, tác động trực tiếp đến mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu
dùng. Chính sách huy động vốn trong nền kinh tế thị trường có ảnh hưởng trực tiếp
đến các hoạt động tài chính, tình hình lạm phát và ổn định tiền tệ. Để khai thông
nguồn vốn đầu tư phát triển cho nền kinh tế chúng ta phải tận dụng tốt lượng vốn
nhàn rỗi từ dân cư, các tổ chức kinh tế thông qua các kênh huy động của ngân hàng
thương mại, các tổ chức tín dụng, và có thể từ ngân sách nhà nước cho đầu tư phát
triển. Trong đó công tác huy động vốn trong ngân hàng thương mại đóng vai trò
quyết định và được chú trọng hơn cả.
Chính sách huy động vốn là một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế quốc
gia, nó liên quan đến chính sách phân phối thu nhập của quốc gia đó, tác động trực
tiếp đến mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng. Chính sách huy động vốn trong nền
kinh tế thị trường có ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động tài chính, tình hình lạm
phát và ổn định tiền tệ. Vì nguồn vốn có vai trò to lớn đối với nền kinh tế như vậy,
Trang 15
nên chúng ta cần phải khơi thông các nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế, thông
qua các kênh: vốn từ ngân sách nhà nước, vốn huy động của các tổ chức tín dụng…
Trong các kênh trên, vốn từ ngân sách nhà nước chỉ đáp ứng nhu cầu của các doanh
nghiệp nhà nước. Nhưng hiện nay số lượng doanh nghiệp nhà nước đã giảm do việc
cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, việc huy động vốn từ kênh này
thường không cao. Bên cạnh đó, việc huy động vốn còn được thực hiện thông qua
kênh tín dụng. Các doanh nghiệp có thể huy động vốn qua kênh trực tiếp hoặc gián
tiếp. Nhưng ở nước ta phần lớn các doanh nghiệp là doanh nghiệp vừa và nhỏ nên
chưa đủ điều kiện để huy động vốn trực tiếp trên thị trường chứng khoán. Do đó,
việc huy động vốn gián tiếp qua kênh ngân hàng vẫn đóng vai trò quan trọng.
Vậy, việc chú trọng đến các nguồn vốn của nền kinh tế là điều kiện cần thiết
của các ngân hàng khi quan tâm đến sự phát triển chung của nền kinh tế mà ngân
hàng là một trong những thành viên chính góp phần tạo nên sự phát triển đó. Việc
đẩy mạnh công tác huy động vốn cho đầu tư phát triển đang giữ một vị trí đặc biệt
quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa của nước ta hiện nay.
3.2. Vai trò của nguồn vốn huy động đối với NHTM.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, vai trò của NHTM ngày càng quan trọng
trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. NHTM cũng là doanh nghiệp nhưng là một
doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng, nên trong quá trình
chuyển mình cùng nền kinh tế, các NHTM đã chuyển dần sang hạch toán kinh
doanh, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của mình chứ không bao cấp như
trước nữa. Do đó, tính năng động sáng tạo được khơi dậy, các NHTM có xu hướng
phát triển đa năng. Vì đóng vai trò là trung gian tín dụng, trung gian thanh toán, là
thủ quỹ của nền kinh tế nên NHTM là tác nhân quan trọng trong việc cung ứng vốn
cho nền kinh tế. Các nguồn vốn huy động được sẽ quyết định quy mô cũng như định
hướng hoạt động của ngân hàng. Nếu nguồn vốn được coi là yếu tố đầu vào trong
quá trình kinh doanh của một NHTM thì nguồn vốn huy động được coi là yếu tố đầu
vào thường xuyên, chủ yếu nhất của ngân hàng. Ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ
tín dụng, đầu tư chủ yếu dựa vào nguồn này.
Trang 16
Nguồn vốn huy động có ảnh hưởng lớn tới kết quả hoạt động kinh doanh của
NHTM. Cụ thể, nếu ngân hàng huy động được nguồn vốn dồi dào với chi phí thấp
nó có thể mở rộng được tín dụng đầu tư và thu được lợi nhuận cao. Ngược lại, với
quy mô hạn chế và chi phí cao thì ngân hàng có thể gặp khó khăn trong hoạt động
kinh doanh của mình. Chi phí huy động vốn của ngân hàng liên quan chặt chẽ với
lãi suất tiền gửi các loại, lãi suất tiền gửi tiết kiệm các loại và lãi suất các công cụ nợ
do ngân hàng phát hành.
Nguồn vốn huy động không những giúp cho ngân hàng bù đắp được thiếu
hụt trong thanh toán, tăng nguồn vốn trong kinh doanh mà thông qua huy động vốn,
ngân hàng nắm bắt được năng lực tài chính của khách hàng có quan hệ tín dụng với
ngân hàng. Qua đó, ngân hàng có căn cứ để xác định mức vốn đầu tư cho vay đối
với những khách hàng đó hoặc có thể phát hiện kịp thời tệ tham ô, trốn thuế, lừa đảo
của các doanh nghiệp làm ăn không chính đáng. Từ đó có biện pháp ngăn chặn và
xử lý kịp thời.
Cơ cấu nguồn vốn cũng ảnh hưởng trực tiếp tới cơ cấu cho vay của NHTM.
Vốn tự có của ngân hàng chỉ phát sinh khi nhu cầu thanh toán tín dụng cấp bách còn
ngân hàng cho vay chủ yếu bằng vốn huy động được. Nếu một ngân hàng huy động
được vốn trung và dài hạn thì có thể mở rộng nghiệp vụ tín dụng đầu tư dài hạn.
Nhưng hiện nay việc huy động vốn trung và dài hạn chưa đáp ứng được nhu cầu đầu
tư phát triển kinh tế nên một ngân hàng có thể dùng vốn hoạt động ngắn hạn để cho
vay trung và dài hạn nhưng không được vượt quá một tỷ lệ nhất định vì điều đó sẽ
dẫn đến nguy cơ mất khả năng thanh toán của ngân hàng.
Bản chất của ngân hàng là đi vay để cho vay hay nguồn vốn ngân hàng huy
động được lại là nguồn để các doanh nghiệp khác đi vay nên công tác huy động vốn
càng có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Do vậy,
công tác huy động vốn là một mảng hoạt động lớn của các NHTM và nó quyết định
rất lớn đến thành công hay thất bại trong kinh doanh của ngân hàng.
II. CÁC HÌNH THỨC HUY ĐỘNG VỐN.
Do NHTM huy động theo phương thức “đi vay để cho vay” mà vốn tự có của
ngân hàng chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng nguồn vốn hoạt động. Do vậy,
Trang 17
để có thể tồn tại và phát triển, NHTM phải quan tâm tới các hình thức tạo vốn để
không ngừng mở rộng, phát triển vốn để cạnh tranh trên thị trường. Quá trình tạo
vốn được thực hiện thông qua các hình thức sau:
1.1. Tạo vốn thông qua tiền gửi thanh toán.
Tiền gửi thanh toán của doanh nghiệp hoặc cá nhân: đây là khoản tiền mà
khách hàng gửi vào ngân hàng nhờ ngân hàng giữ hộ và thanh toán hộ. Trong phạm
vi số dư cho phép, các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân
hàng thực hiện. Các khoản thu của ngân hàng, cá nhân đều có thể được nhập vào
thiền gửi thanh toán theo yêu cầu. Nhìn chung đây là một khoản huy động có lãi
suất thấp, có khi bằng không, thay vào đó chủ tài khoản được hưởng các dịch vụ
ngân hàng với mức phí thấp.
Mặc dù, đối với tiền gửi thanh toán, người gửi có thể gửi vào hoặc rút ra bất
cứ lúc nào, song giữa việc gửi vào và rút ra có sự chênh lệch nhất định về thời gian
và số lượng, nên các loại tài khoản này luôn có số dư. Ngân hàng có thể huy động
số dư đó làm nguồn vốn tín dụng để cho vay. Một số ngân hàng kết hợp tài khoản
tiền gửi thanh toán với tài khoản cho vay như cho vay thấu chi – chi trội trên số dư
có của tài khoản tiền gửi thanh toán. Một số ngân hàng sử dụng nhiều hình thức
“biến tướng” của tài khoản thanh toán để nâng lãi suất của loại tiền gửi này lên
nhằm cạnh tranh với các tài chính tín dụng khác.
Do tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam còn quá thấp, để
khuyến khích việc thực hiện thanh toán qua ngân hàng, các NHTM thực hiện trả lãi
cho loại tiết kiệm tiền gửi này (hiện nay khoảng 0,2%/tháng). Ở các nước phát triển loại
tiền gửi này chiếm khoảng 30% tiền gửi của các ngân hàng. Vì lẽ đó, tạo nguồn tiền gửi
trên tài khoản thanh toán này được ngân hàng đặc biệt coi trọng.
Bên cạnh đó các ngân hàng có thể huy động vốn thông qua tài khoản tiền gửi
thanh toán của các ngân hàng khác, nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số
mục đích khác, NHTM có thể gửi tiền tại ngân hàng khác. Tuy nhiên, quy mô của
nguồn này thường không lớn.
1.2. Tạo vốn thông qua tiền gửi có kỳ hạn.
Trang 18
Nhiều khoản thu của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau
một khoảng thời gian nhất định. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện trọng hoạt
động thanh toán song lãi suất lại thấp, để đáp ứng nhu cầu tăng thu của người gửi
tiền ngân hàng đã đưa ra hình thức tiền gửi có kỳ hạn. Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền
gửi được ủy thác vào ngân hàng trên cơ sở có sự thỏa thuận về thời gian rút tiền
giữa khách hàng và ngân hàng. Như vậy, theo nguyên tắc khách hàng ký thác chỉ
được rút tiền ra khi đến hạn đã thỏa thuận. Tuy nhiên trên thực tế do phải cạnh tranh
để thu hút tiền gửi, các ngân hàng thường cho phép khách hàng được rút trước hạn.
Trong trường hợp này có thể có hai cách giải quyết: hoặc khách hàng vay tiền của
ngân hàng, sau đó khi đến hạn rút tiền thì dùng số tiền và lãi thu được để trả nợ (cả
gốc và lãi vay của ngân hàng); hoặc là thỏa thuận với khách hàng rút tiền ra trước
hạn và nhận lãi suất thấp hơn.
Tiền gửi có kỳ hạn là một nguồn vốn tín dụng mang tính chất ổn định, vì
mục đích của người gửi tiền là kiếm lợi chứ không phải là để thanh toán. Do đó,
khác với loại tiền gửi không kỳ hạn yếu tố lãi suất có tác động rất lớn đến loại
nguồn vốn này.
Để tăng cường huy động nguồn vốn này, trước hết các ngân hàng thường đưa
ra nhiều loại thời hạn khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của các loại khách hàng
khác nhau. Thông thường có các loại kỳ hạn sau: 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng,
12 tháng, 2 năm, 5 năm. Với mỗi loại thời hạn, ngân hàng áp dụng một mức lãi suất
tương ứng, với nguyên tắc thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
1.3. Tạo vốn thông qua tiền gửi tiết kiệm.
Ở các nước phát triển, trong các loại tiền gửi vào ngân hàng thì tiền gửi tiết
kiệm đứng vị trí số hai về mặt số lượng. Tiền gửi tiết kiệm là khoản để dành của cá
nhân nhằm hưởng lãi suất theo định kỳ, loại tiền gửi này thường chiếm tỷ trọng khá
cao (Mỹ: 25%, Việt Nam: 60 – 70%). Tiền gửi tiết kiệm bao gồm các loại:
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: (bao gồm cả nội tệ và ngoại tệ)
Trang 19
Với loại tiết kiệm này người gửi có thể rút một phần hay toàn bộ theo yêu
cầu. Tuy nhiên, khác với tiền gửi thanh toán, người gửi không được sử dụng các
công cụ thanh toán để chi trả cho người khác.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn (bao gồm cả nội tệ và ngoại tệ): loại tiền
gửi này có nội dung cơ bản giống như tiền gửi có kỳ hạn mà chúng ta
nghiên cứu ở trên.
1.4. Tạo vốn thông qua huy động tiền gửi của ngân hàng khác.
Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ giữa các ngân hàng có quan hệ trên thị
trường liên ngân hàng tạo thuận tiện cho khách hàng và một số mục đích khác, ngân
hàng thương mại này có thể gửi tiền tại ngân hàng khác. Tuy nhiên quy mô nguồn
này thường không lớn do hình thức này chỉ được áp dụng trong trường hợp ngân
hàng có nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi chưa đầu tư, cho vay hoặc hiệu quả việc đầu
tư, cho vay không hiệu quả bằng gửi tiền ở ngân hàng khác.
1.5. Tạo vốn thông qua phát hành các giấy tờ có giá.
Giống như các doanh nghiệp khác ngân hàng cũng huy động vốn bằng cách
phát hành các giấy tờ có giá (hay còn gọi là các công cụ nợ) như kỳ phiếu, trái
phiếu, tín phiếu ngân hàng…để huy động vốn trên thị trường vốn.
Các công cụ nợ của ngân hàng là các giấy nhận nợ mà ngân hàng bán cho
công chúng. Đây là cách thức vay vốn của NHTM, bởi vì những người sở hữu các
công cụ này được hoàn trả vốn vào thời gian đáo hạn cộng thêm khoản tiền lãi nhất
định. Những công cụ nợ của ngân hàng là:
- Tín phiếu ngân hàng: Đây là công cụ nợ ngân hàng dùng để huy động
những khoản vốn ngắn hạn.
- Kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng: Là những công cụ nợ để ngân hàng huy
động những khoản vốn trung - dài hạn.
Nếu đối với các tài khoản tiền gửi phụ thuộc nhiều vào sở thích của khách
hàng thì việc sử dụng các công cụ nợ là một hình thức huy động vốn mang tính chủ
động của ngân hàng. Tuy nhiên việc khách hàng có chấp nhận mua các công cụ nợ
đó hay không mới là điều quan trọng. Nguồn vốn huy động có được bằng việc phát
Trang 20
hành các công cụ nợ sử dụng cho những khoản tín dụng trong kế hoạch của ngân
hàng. Với lãi suất tín dụng trong kỳ kế hoạch, ngân hàng xác định mức lãi suất nhất
định cho các công cụ nợ, hay đưa vào thời hạn các khoản tín dụng trong kế hoạch
mà ngân hàng xác định sử dụng loại công cụ ngắn hạn hay trung - dài hạn.
Đây là một hình thức tương đối mới mẻ so với các NHTM của các nước đang
phát triển vì nó phụ thuộc vào uy tín và năng lực tài chính của chính ngân hàng đó.
Tại Việt Nam, Thống đốc NHNN đã ban hành quyết định số 89/ QĐ- NH9 và quyết
định số 76/ QĐ- NH vào ngày 18/03/1995 về việc thành lập thị trường mua bán lại
tín phiếu cùng với quy chế tổ chức hoạt động của thị trường này, tuy nhiên sự chấp
nhận của khách hàng, dân cư còn thấp. Thị trường chứng khoán ra đời phần nào đã
thúc đẩy được việc mở rộng hình thức huy động vốn của các NHTM qua việc phát
hành các công cụ nợ.
III. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN.
3.1. Những nhân tố khách quan.
3.1.1.. Tình hình kinh tế- xã hội.
Đây là yếu tố khách quan đối với ngân hàng, yếu tố này ảnh hưởng chung
đến việc huy động và khơi thông nguồn vốn của cả nền kinh tế trong đó có nguồn
vốn của NHTM. Cụ thể trong một nền kinh tế phát triển nguồn tiền gửi, tiền tiết
kiệm gửi vào các NHTM ngày càng nhiều… Ngoài ra với một nền kinh tế phát triển
thì công nghệ ngân hàng được hiện đại hoá, người dân có thói quen sử dụng những
lợi ích do các NHTM cung ứng, các nghiệp vụ thanh toán chủ yếu qua ngân hàng,
ngân hàng thu được càng nhiều khoản vốn, chiếm dụng được vốn trong thanh toán.
Lạm phát là một yếu tố kinh tế ảnh hưởng rất lớn đến công tác huy động vốn của
ngân hàng. Người dân gửi tiền vào ngân hàng hy vọng rằng họ sẽ thu được khoản
tiền lãi nhất định, lạm phát cao hoặc biến động có thể làm trượt giá đồng tiền và họ
sẽ chuyển các tài khoản của họ sang hình thái khác có tính ổn định hơn về giá trị.
Bên cạnh đó, các yếu tố như thu nhập của dân cư, thời vụ chi tiêu cũng là các
nhân tố ảnh hưởng tới công tác huy động vốn của các ngân hàng. Tại các thành phố
lớn, nơi tập trung các tầng lớp dân cư có thu nhập cao sẽ hình thành một nguồn tiền
Trang 21
gửi lớn. Thu nhập gia tăng là điều kiện để gia tăng quy mô và thay đổi kỳ hạn của
nguồn tiền, thời vụ chi tiêu ảnh hưởng tới quy mô và tính ổn định của nguồn tiền. Ví
dụ: vào dịp cuối năm, nguồn tiền gửi tiết kiệm cũng như tiền gửi của các doanh
nghiệp có xu hướng giảm sút đặc biệt trong điều kiện thanh toán bằng tiền mặt còn
đang phổ biến như nước ta hiện nay.
3.1.2. Môi trường pháp lý và các chính sách kinh tế vĩ mô.
Những yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến chủ trương, phương hướng trong
hoạt động huy động vốn cũng như các hoạt động khác của ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại xây dựng các chiến lược kinh doanh cho riêng mình phải
dựa trên cơ sở tuân thủ pháp luật và chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước như
chính sách tiết kiệm, chính sách lãi suất,.. Ngân hàng nhà nước điều hành chính sách
tiền tệ theo hướng nâng cao năng lực, vai trò hiệu quả và theo sát thị trường, phối
hợp chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác thì mới tạo điều kiện và thúc đẩy
phát triển các thị trường tiền tệ cũng như hoạt động của hệ thông ngân hàng. Mặt
khác, việc xây dựng một môi trường pháp lý lành mạnh, thông thoáng cũng là một
nhân tố quan trọng góp phần tăng cường hiệu quả hoạt động huy động và sử dụng
vốn của các ngân hàng thương mại.
3.2. Những nhân tố chủ quan.
3.2.1. Lãi suất
Với tư cách là giá vốn, lãi suất có tác động điều tiết trực tiếp đến hoạt động tín
dụng, cho vay và huy động vốn của ngân hàng, tác động đến lợi nhuận khi xem xét
kết quả kinh doanh, tính toán lãi suất chênh lệch đầu ra đầu vào. Khi lãi suất thay
đổi theo diễn biến quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường tiền tệ, phản ánh đúng tín
hiệu của thị trường, điều đó khiến ngân hàng phải tìm kiếm, hoạch định mức lãi suất
phù hợp cho mình. Trong trường hợp lãi suất biến động do tác động của các yếu tố
phi vật chất (yếu tố tâm lí, yếu tố cạnh tranh không lành mạnh...) sẽ có tác động bất
lợi đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng. Đây là khó khăn đối với các ngân
hàng thương mại có quy mô hoạt động nhỏ, vốn tự có và khả năng tài chính thấp.
Trong trường hợp đó là viêc tăng lãi suất huy động, tác động hiệu ứng đối với toàn
bộ hệ thống, buộc các ngân hàng khác cũng phải tăng lãi suất để giữ khách hàng gửi
Trang 22
tiền trong khi đó có thể không thực sự có khó khăn về nguồn vốn. Trong nền kinh tế
thị trường, các hiện tượng kinh tế thường có diễn biến, thay đổi nhanh. Lãi suất
cũng là yếu tố nhạy cảm và thường xuyên thay đổi, gắn liền với sự thay đổi của
quan hệ cung cầu về vốn. Vì vậy, ngân hàng thương mại trong quá trình hoạt động
cần có sự theo dõi sát sao sự biến động đó để có những giải pháp ứng phó kịp thời
nhằm ổn định tình hình kinh doanh của mình.
3.2.2. Công nghệ ngân hàng.
Ngân hàng loại hình kinh doanh đặc biệt trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng. Ngân
hàng cũng có vai trò rất lớn trong việc thúc đẩy các ngành kinh tế phát triển. Vì vậy
mà công nghệ ngân hàng cần đi trước một bước, công nghệ ngân hàng liên quan
trực tiếp đến các mặt hoạt động như thanh toán, giao dịch, kế toán…Trong cạnh
tranh các ngân hàng không ngừng đổi mới công nghệ bởi lẽ các dịch vụ ngân hàng
sẽ không được đa dạng, đổi mới trừ khi ngân hàng áp dụng những công nghệ ngân
hàng tiên tiến. Đối với một ngân hàng có công nghệ tiên tiến thì chất lượng phục vụ
thoả mãn nhu cầu của khách hàng sẽ tốt hơn, sẽ huy động được nhiều vốn hơn.
3.2.3. Chiến lược Marketing ngân hàng.
Trong cơ chế thị trường các ngân hàng phải cạnh tranh để tồn tại và phát
triển, tạo ra sự khác biệt, vượt trội hơn hẳn so với các đối thủ cạnh tranh. Trong thực
tế, để đạt được điều này không phải là đơn giản vì khi áp dụng marketing vào ngân
hàng thường gặp một số khó khăn như: Với xu hướng phát triển kinh tế, nhu cầu của
khách hàng ngày càng cao. Các ngân hàng cần phải đổi mới nhanh chóng trang thiết
bị, kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ… Thông qua công tác
marketing ngân hàng cần phải đưa ra các hình thức huy động vốn với thời hạn, giá
cả hợp lý, phù hợp với từng giai đoạn phát triển cụ thể để đáp ứng tốt nhất nhu cầu,
mong muốn của khách hàng về chất lượng, chủng loại các sản phẩm của ngân hàng.
Không những thế, công tác marketing ngân hàng còn phải biết kích thích các nhu
cầu của khách hàng nhằm lôi kéo khách hàng về với mình để không ngừng mở rộng
thêm các khách hàng mới, ngày càng thu hút được nhiều vốn hơn.
Trên cơ sở nghiên cứu thị trường ngân hàng có thể nắm bắt toàn bộ các thông
tin về môi trường kinh doanh, về khách hàng, đồng thời xây dựng chiến lược
Trang 23
marketing. Dựa trên yếu tố này, các ngân hàng sẽ sử dụng một cách linh hoạt, mềm
dẻo các công cụ kỹ thuật của marketing ứng dụng trong hoạt động của ngân hàng để
thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Các công cụ kỹ thuật marketing được tập
trung vào 4 chính sách lớn:
- Chính sách thông tin, ngiên cứu, tìm hiểu điều tra.
Thực thi chính sách này cần huy động toàn bộ phương tiện vật chất cần thiết
để thực hiện việc quan sát, phân tích và tổng hợp các lĩnh vực cơ bản có liên quan
đến thị trường của ngân hàng. Từ các thông tin có được ngân hàng sẽ đưa ra các
chính sách kinh doanh nói chung và chính sách huy động vốn nói riêng phù hợp với
nhu cầu của khách hàng và nhu cầu sử dụng vốn của thị trường.
- Chính sách sản phẩm giá cả.
Các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng bao gồm các dịch vụ cơ bản của nghề
ngân hàng là nghiệp vụ huy động vốn, nguồn vốn sử dụng vốn, nghiệp vụ thanh
toán và các nghiệp vụ ngoại vi mang tính chất hỗ trợ như dịch vụ tư vấn khách hàng,
nghiệp vụ thông tin theo nhu cầu, dịch vụ két… có những nghiệp vụ ngoại vi không
mạng lại lợi nhuận trực tiếp cho ngân hàng, song có tác dụng kích thích sự chú ý,
thu hút khách hàng và làm tăng giá trị cung ứng sự thỏa mãn của khách hàng đối với
các dịch vụ cơ bản. Đặc biệt với sự đa dạng hóa các sản phẩm của nghiệp vụ huy
động vốn sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng khả năng huy động vốn. Hiển
nhiên, một ngân hàng có các dịch vụ tốt, đa dạng sẽ có nhiều lợi thế hơn so với các
ngân hàng khác mà các sản phẩm dịch vụ không tốt. Một ngân hàng mà có dịch vụ
thanh toán hoạt động tốt, đa dạng sẽ thu hút được nhiều tiền gửi thanh toán hơn các
ngân hàng khác.
Trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, giá cả được biểu hiện chủ yếu dưới dạng
lãi suất của các khoản tiền gửi, tiền vay, chi phí nghiệp vụ ngân hàng. Yếu tố giá có
vai trò quan trọng đối với kết quả huy động vốn, sử dụng vốn và cung ứng dịch vụ
khác của ngân hàng. Chính sách lãi suất cạnh tranh là một chiến lược quan trọng của
ngân hàng. Việc duy trì lãi suất cạnh tranh huy động, đặc biệt cần thiết khi lãi suất
thị trường đang ở mức tương đối cao. Các ngân hàng cạnh tranh giành vốn không
chỉ với nhau mà còn với các tổ chức tiết kiệm và người phát hành các công cụ khác
Trang 24
nhau trên thị trường vốn. Đặc biệt trong giai đoạn khan hiếm tiền tệ, dù cho những
khác biệt tương đối nhỏ về lãi suất cũng sẽ thúc đẩy người gửi tiết kiệm và nhà đầu
tư chuyển vốn từ một công cụ mà họ đang nắm giữ sang một công cụ khác hoặc
chuyển tiền đầu tư, tiết kiệm từ một tổ chức này sang một tổ chức khác để có lợi
nhuận cao hơn.
- Chính sách phân phối.
Chính sách phân phối là tập hợp toàn bộ những phương tiện vật chất đưa ra
sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng đến với khách hàng. Việc đa dạng hóa các kênh
phân phối, mở rộng các quầy giao dịch (số lượng các quầy giao dịch, địa điểm mở
quầy, các sản phẩm, dịch vụ cung ứng tại quầy, trang thiết bị được sắp xếp tại quầy,
trình độ đội ngũ cán bộ nhân viên…) có ảnh hưởng rất lớn đến công tác huy động
vốn của ngân hàng. Một ngân hàng có càng nhiều kênh phân phối, nhiều quầy giao
dịch thì cơ hội tiếp xúc với khác hàng càng nhiều, từ đó khả năng huy động vốn sẽ
tăng lên. Tuy nhiên, việc mở rộng các kênh phân phối, mở thêm nhiều quầy giao
dịch cần phải tính đến yếu tố chi phí để mở rộng sao cho phù hợp với hiệu quả thu
được từ nó.
- Chính sách giao tiếp, khuyếch trương.
Các ngân hàng thường quan tâm hàng đầu tới các chính sách giao tiếp
khuyếch trương. Bởi vì sự giao tiếp của nhân viên với khách hàng tạo ra hình ảnh
của ngân hàng, tạo ra sự tin tưởng của khách hàng đối với ngân hàng. Giao tiếp tốt
sẽ bảo vệ lợi ích của ngân hàng. Bên cạnh đó, quảng cáo cũng là một phương tiện
rất quan trọng để nâng cao vị thế của ngân hàng, thu hút thêm khách hàng cho ngân
hàng, tạo lòng tin của khách hàng đối với ngân hàng.
3.2.4.Công tác cán bộ tổ chức.
Một ngân hàng có đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao, đoàn kết, thân
thiện, năng động thì đó là nền tảng thành công của ngân hàng. Bởi lẽ khách hàng
muốn giao dịch, kinh doanh với một ngân hàng bề thế tiện lợi, các nhân viên dễ
mến, lịch sự và có chuyên môn.
Trang 25