Tải bản đầy đủ (.docx) (76 trang)

Phân tích hoạt động xuất khẩu đá tự nhiên (đá xây dựng) của công ty TNHH TrườngHuy”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.7 KB, 76 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, với xu thế toàn cầu hoá và quốc tế hoá nền kinh tế, hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp không chỉ bó hẹp trong phạm vi một vùng, một quốc gia mà ngày
càng được mở rộng thông qua hoạt động xuất nhập khẩu trên thị trường thế giới. Thông
qua hoạt động xuất khẩu, các quốc gia khai thác được lợi thế so sánh của mình trong phân
công lao động quốc tế, tạo nguồn thu ngoại tệ quan trọng cho đất nước, chuyển đổi cơ cấu kinh
tế và đặc biệt là tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Việt Nam là một nước đang phát triển, có xuất phát điểm thấp nên hoạt động
xuất khẩu thực sự có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh
tế. Năm 2007, Việt Nam gia nhập WTO và dự định đến năm 2020 cơ bản trở thành
một nước công nghiệp, điều này mang đến nhiều cơ hội cũng như thách thức cho các
doanh nghiệp của Việt Nam, đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải năng động, sáng
tạo trong hoạt động kinh doanh để khẳng định mình, đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu.
Hoạt động sản xuất và chế biến đá xây dựng đã có từ rất lâu đời trên đất nước Việt
Nam. Hoạt động sản xuất và chế biến đá xây dựng đi liền và phản ánh từng quá trình phát
triển lịch sử của Việt Nam. Hiện nay, sản xuất và chế biến đá xây dựng không chỉ phục
vụ nhu cầu xây dựng trong nước mà còn phục vụ xuất khẩu. Với những thị trường xuất
khẩu rộng lớn, đá xây dựng xuất khẩu đã mang lại nguồn thu đáng kể cho quốc gia và tạo
công ăn việc làm cho một bộ phận không nhỏ người dân lao động. Nhận thức được vai
trò, tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu đá xây dựng, cũng như là những cơ hội và
thách thức khi Việt Nam là thành viên chính thức của WTO đối với hoạt động xuất khẩu
đá xây dựng. Qua quá trình học tập ở trường và thực tập tại Công ty TNHH Trường Huy
mà lĩnh vực chính của công ty là kinh doanh xuất khẩu, em đã mạnh dạn đi sâu nghiên
cứu đề tài: “Phân tích hoạt động xuất khẩu đá tự nhiên (đá xây dựng) của công ty
TNHH TrườngHuy” để làm đề tài tốt nghiệp cho mình.

1


Đề tài gồm có hai chương:


Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp ở nước ta
trong cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương 2: Phân tích thực trạng xuất khẩu sản phẩm đá xây dựng của công ty TNHH Trường
Huy.
Quy Nhơn, Ngày 02 tháng 4 năm 2014

2


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG
XUẤT KHẨU HÀNG HÓA
1.1. Cơ sở lý luậnchung về hoạt động xuất khẩuhàng hóa
1.1.1. Khái niệm xuất khẩu
Xuất khẩu hàng hóa là việc hàng hóa được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc
đưa vào các khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan
riêng theo quy định cưa pháp luật.
1.1.2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu
1.1.2.1. Đối với nền kinh tế thế giới
Xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ nằm trong khâu phân phối và lưu thông hàng hoá,
dịch vụ của quá trình tái sản xuất mở rộng, nhằm mục đích liên kết giữa những người sản
xuất nước này nới người tiêu dùng nước khác. Nền kinh tế xã hội phát triển như thế nào
phụ thuộc rất lớn vào lĩnh vực hoạt động kinh doanh này. Vai trò của xuất khẩu đối với
nền kinh tế thế giới nói chung thể hiện qua các điểm sau:
Thông qua hoạt động xuất khẩu sẽ giúp nền kinh tế của các quốc gia có điều kiện
“ xích lại” gần nhau hơn góp phần vào xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, có thể
khai thác được lợi thế của mình, sử dụng tốt nguồn tài nguyên, nguồn nhân lực từ đó làm
tăng tính đa dạng của sản phẩm, tiết kiệm chi phí lao động xã hội, tăng khối lượng sản
phẩm và tăng chất lượng sản phẩm.
Thông qua lao động xuất khẩu sẽ kích thích sản xuất và tiêu dùng trong nền kinh tế
mỗi quốc gia. Từ đó làm cho khối lượng sản phẩm và nhu cầu tiêu dùng nền kinh tế thế

giới tăng lên.
1.1.2.2. Đối với nền kinh tế mỗi quốc gia
Đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia xuất khẩu có một vai trò to lớn, nó là hoạt
động nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược của mỗi quốc gia trong quá trình thúc đẩy phát
triển kinh tế xã hội. Vai trò của xuất khẩu được thể hiện ở các mặt: xuất khẩu tạo nguồn
vốn chủ yếu cho nhập khẩu , xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành cùng có cơ hội phát
triển. Thông qua hoạt động sản xuất hàng hoá xuất khẩu, sẽ thu hút được hàng triệu lao
3


động, tạo thu nhập ổn định, cải thiện đời sống của nhân dân từ đó góp phần giải quyết
hàng loạt các vấn đề xã hội kéo theo.
Xuất khẩu thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ một kinh tế đóng sang
nền kinh tế hướng ngoại. Bởi vì nó xuất phát từ những nhu cầu của thị trường thế giới để
sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm mà thị trường thế giới cần. Vì vậy quốc gia đó
phải chuyển đổi có cấu kinh tế trong nước hợp lý với các nước trên thế giới để có thể
nâng cao hiệu quả xuất khẩu.
1.1.2.3. Đối với doanh nghiệp
Hoạt động xuất khẩu khiến cho doanh nghiệp có khả năng mở rộng thị trường vốn
nhỏ bé, khai thác được nguồn lực dư thừa trong nước, giảm chi phí hoạt động nhờ mở
rộng quy mô sản xuất, phân tán được rủi ro do không phải kinh doanh trên một thị trường
nhất định, học hỏi tiếp thu được những kinh nghiệm quản lý cũng như công nghệ mới của
các nước tiên tiến.
1.1.3. Các hình thức xuất khẩu
Trong hoạt động xuất khẩu có rất nhiều hình thức xuất khẩu tùy thuộc vào điều kiện,
khả năng và mặt hàng xuất khẩu cụ thể mà các doanh nghiệp có thể lựa chọn khi tiến
hành xuất khẩu. Dưới đây là một số hình thực xuất khẩu:
Xuất khẩu trực tiếp
Trong hình thức này các doanh nghiệp thực hiện xuất khẩu trực tiếp giao dịch và kí
kết hợp đồng bán hàng cho các doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài được Nhà nước và

pháp luật cho phép. Hình thức này có ưu điểm là doanh nghiệp có thể tận dụng được hết
tiềm năng, lợi thế để sản xuất hàng xuất khẩu, chủ động trong mọi tình huống với đối tác
và lợi nhuận thu được không phải phân chia. Nhưng hình thức xuất khẩu này đòi hỏi các
doanh nghiệp phải có một số điều kiện sau: phải có khối lượng hàng hoá lớn, có thị
trường ổn định, có năng lực thực hiện xuất nhập khẩu.
Xuất khẩu ủy thác
Xuất khẩu uỷ thác được tiến hành trong trường hợp một doanh nghiệp có hàng hoá
muốn xuất khẩu nhưng không có điều kiện để tham gia. Khi đó họ sẽ uỷ thác cho doanh
4


nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu làm nhiệm vụ xuất khẩu hàng hoá cho mình. Khi đó
bên nhận uỷ thác sẽ thu được phí uỷ thác. Theo hình thức này quan hệ giữa người bán và
người mua được thông qua người thứ ba gọi là trung gian ( người trung gian phổ biến
trên thị trường là đại lí và môi giới).
Việc thực hiện hình thức này có ưu điểm là: Giúp cho doanh nghiệp có thể xuất
khẩu được những mặt hàng mà họ có khả năng sản xuất nhưng không có điều kiện thực
hiện xuất khẩu; Người trung gian có những hiểu biết về thị trường, pháp luật tập quán địa
phương..v.v... do đó họ có khả năng đẩy mạnh việc buôn bán và giảm bớt rủi ro cho
người uỷ thác; Giúp cho người uỷ thác tiết kiệm được tiền đầu tư cơ sở vật chất do tận
dụng được của người trung gian; Hình thành được mạng lưới tiêu thụ rộng khắp tạo điều
kiện cho việc chiếm lĩnh thị trường, đặc biệt là thị trường mới.
Tuy nhiên hình thức này cũng có khó khăn như: Mất liên hệ trực tiếp với thị trường
buôn bán ; Kinh doanh buôn bán phụ thuộc vào năng lực - phẩm chất của người trung
gian; Lợi nhuận bị chia sẻ.
Do vậy hình thức xuất khẩu uỷ thác chỉ nên sử dụng trong trường hợp cần thiết như:
thâm nhập thị trường mới, kinh doanh những mặt hàng cần đảm bảo chất lượng cao
( những mặt hàng tươi sống).
Buôn bán đối lưu
Đây là hình thức giao dịch mà trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu,

người bán đồng thời là người mua lượng hàng hóa trao đổi có giá trị tương đương. ở đây,
xuất khẩu không nhằm thu về một khoản ngoại tệ mà nhằm thu về một lượng hàng có giá
trị bằng giá trị xuất khẩu.
Các bên tham gia buôn bán đối lưu luôn phải quan tâm đến sự cân bằng trong trao
đổi hàng hoá, sự cân bằng đó thể hiện cân bằng về mặt hàng, cân bằng về giá cả, cân
bằng về tổng giá trị hàng giao cho nhau, cân bằng về điều kiện giao hàng.
Gia công xuất khẩu
Đây là hình thức kinh doanh trong đó một bên (gọi là bên nhận gia công ) nhập khẩu
nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của bên khác ( gọi là bên đặt gia công) để chế tạo ra
thành phẩm giao lại cho bên đặt gia công và nhận thù lao (gọi là phí gia công ).
5


Gia công xuất khẩu ngày nay khá phổ biến trong buôn bán thương mại của nhiều
nước. Đối với bên đặt gia công, hình thức này giúp cho họ tận dụng giá nhân công và
nguyên liệu phụ rẻ. Đối với bên nhận gia công hình thức này giúp cho họ giải quyết được
công ăn việc làm cho nhân dân lao động trong nước.
Giao dịch tái xuất khẩu
Tái xuất khẩu là sự tiếp tục xuất khẩu ra nước ngoài những mặt hàng trước đây đã
nhập khẩu với nguyên dạng khi nhập khẩu (có thể qua sơ chế hoặc không qua sơ chế).
Hình thức này được áp dụng khi một doanh nghiệp không sản xuất được sản phẩm hoàn
chỉnh hoặc sản xuất được nhưng với khối lượng ít, không đủ để xuất khẩu nên phải nhập
từ nước ngoài, sau đó tái xuất.
1.1.4. Tổ chức công tác xuất khẩu trong một doanh nghiệp
1.1.4.1. Nghiên cứu thị trường
Điều tra, nghiên cứu thị trường là khâu không thể thiếu được đối với bất kỳ doanh
nghiệp nào muốn kinh doanh trên thị trường thế giới. Điều tra, nghiên cứu thị trường là
quá trình thu thập thông tin, số liệu về thị trường, so sánh, phân tích thông tin số liệu đó
để rút ra kết luận về thực trạng, xu hướng vận động của thị trường. Nội dung chính của
điều tra, nghiên cứu thị trường là xem xét khả năng xâm nhập, duy trì, mở rộng thị

trường. Nghiên cứu thị trường được thực hiện theo hai bước:
Nghiên cứu khái quát thị trường cung cấp những thông tin về quy mô, cơ cấu, sự
vận động của thị trường, các yếu tố ảnh hưởng đến thị trường như môi trường kinh tế,
môi trường chính trị – luật pháp, khoa học công nghệ, môi trường văn hoá xã hội, môi
trường sinh thái.
Nghiên cứu chi tiết thị trường cho biết những thông tin về tập quán mua bán, thói
quen tiêu dùng, các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi mua hàng của người mua.
Nghiên cứu thị trường gồm hai phương pháp chủ yếu: nghiên cứu tại bàn và
nghiên cứu tại hiện trường
Các nước khác nhau có nhu cầu, yêu cầu rất nhau về mỗi loại hàng hoá, việc lựa
chọn thị trường xuất khẩu tốn nhiều thời gian, công sức mới đưa ra được quyết định đúng
đắn, khả thi.
6


1.1.4.2. Tìm kiếm khách hàng
Việc lựa chọn đúng đối tác là điều rất quan trọng để có thể thực hiện thắng lợi hợp
đồng xuất khẩu. Để lựa chọn đối tác kinh doanh người ta thường dựa vào:
- Tình hình sản xuất, kinh doanh của đối tác để thấy được khả năng cung cấp lâu dài sản
phẩm. Các lĩnh vực kinh doanh của đối tác.
- Những quan điểm kinh doanh của đối tác trên thị trường trong nước cũng như trên thị
trường quốc tế. Các mối quan hệ của đối tác trong kinh doanh.
- Khả năng tài chính và cơ sở hạ tầng, khả năng thanh toán của đối tác trong ngắn hạn
đảm bảo hợp đồng được thanh toán đúng thời hạn, sức mạnh về vốn, công nghệ của đối
tác phản ánh sức mạnh trong thoả thuận về giá cả, điều kiện thanh toán.
1.1.4.3. Đánh giá khả năng xuất khẩu
Công ty cần đặt ra những mục tiêu, kế hoạch cho từng thời kỳ nhất định, thống
nhất với mục tiêu chiến lược của Công ty. Mục tiêu kế hoạch phải rõ ràng, cụ thể đối với
toàn công ty và đối với từng bộ phận.
Có thể vạch ra các mục tiêu định tính và định lượng. Các mục tiêu định lượng

được coi là chỉ tiêu kế hoạch xuất khẩu, bao gồm: Chỉ tiêu doanh số, chỉ tiêu doanh thu,
chỉ tiêu chi phí, chỉ tiêu lợi nhuận…Công ty cần xây dựng kế hoạch các công việc cụ thể,
rõ ràng để hoàn thành các chỉ tiêu này.
Xây dựng kế hoạch xuất khẩu giúp công ty nắm bắt những cơ hội và giảm thiểu
rủi ro. Việc dự báo chính xác nhu cầu thị trường, từ đó xây dựng lên các kế hoạch thu
mua, bảo quản, dự trữ…sẽ đảm bảo cho xuất khẩu thành công.
1.1.4.4. Lập phương án kinh doanh
Trên cơ sở kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp
lập phương án kinh doanh cho mình. Xây dựng phương án kinh doanh gồm:
- Đánh giá tình hình thị trường và các doanh nghiệp, phác hoạ bức tranh tổng quát về
hoạt động kinh doanh, những thuận lợi và khó khăn, cơ hội và thách thức.
- Lựa chọn mặt hàng, điều kiện và phương thức kinh doanh, sự lựa chọn này phải mang
tính thuyết phục trên cơ sở phân tích tình hình thực tế.

7


- Đề ra mục tiêu cụ thể: bán được bao nhiêu hàng, giá bán lẻ bao nhiêu, thâm nhập vào
thị trường nào…Đề ra biện pháp, công cụ, từng bước thực hiện nhằm đạt được mục tiêu.
- Đánh giá sơ bộ hiệu quả kinh tế hoạt động kinh doanh qua các chỉ tiêu cơ bản: Tỷ suất
ngoại tệ hàng xuất khẩu.,,tỷ suất doanh lợi xuất khẩu, điểm hoà vốn xuất khẩu.
1.1.4.5. Giao dịch đàm phán
Giao dịch là sự tiếp xúc giữa các cá nhân để trao đổi thông tin hoặc thoả mãn một
nhu cầu nào đó. Giao dịch kinh doanh là sự tiếp xúc giữa các chủ thể kinh doanh nhằm
trao đổi thông tin về thị trường, hàng hoá, giá cả…
Đàm phán kinh doanh là bàn bạc, thoả thuận giữa hai hay nhiều bên, cùng nhau
nhất trí hoặc thoả hiệp giải quyết vấn đề kinh doanh liên quan đến các bên.
Giao dịch đàm phán trong hoạt động xuất khẩu là một quá trình, diễn ra sự trao
đổi, bàn bạc giữa doanh nghiệp ngoại thương và khách hàng quốc tế về các điều kiện
mua bán hàng hoá nhằm đi đến thoả thuận, nhất trí giữa hai bên.

Trong kinh doanh nói chung và trong kinh doanh quốc tế nói riêng, có thể sử dụng
các phương thức giao dịch, đàm phán sau:
- Giao dịch, đàm phán qua thư tín: Phương thức này thường là sự khởi đầu giúp cho việc
duy trì những giao dịch lâu dài. So với phương thức gặp gỡ trực tiếp, giao dịch qua thư
tín tiết kiệm được chi phí, các quyết định đưa ra thường được cân nhắc kỹ càng và tranh
thủ được nhiều ý kiến của tập thể.
- Giao dịch, đàm phán qua điện thoại: Trao đổi qua điện thoại đảm bảo tính kịp thời,
đúng thời điểm cần thiết trong kinh doanh. Do không có gì làm bằng chứng, phương thức
này chỉ được sử dụng trong những trường hợp cần thiết như sợ bị lỡ cơ hội kinh doanh
hoặc chỉ chờ xác nhận một vài chi tiết của hợp đồng.
- Giao dịch, đàm phán trực tiếp: là giao dịch mà người mua và người bán cùng thoả
thuận, bàn bạc trực tiếp về hàng hoá, giá cả, điều kiện giao dịch, phương thức thanh
toán…Phương thức đàm phán này đẩy nhanh tốc độ giải quyết những bất đồng và là lối
thoát mở ra cho những cuộc đàm phán qua thư tín, điện thoại đã kéo dài quá lâu không có
kết quả. Phương thức này phù hợp đàm phán ký kết những hợp đồng lớn.
Việc giao dịch đàm phán tiến hành theo các bước sau:
8


Bước 1: Hỏi giá: Người mua đề nghị người bán báo cho mình biết giá cả và các điều kiện
để mua hàng.
Bước 2: Chào hàng: lời đề nghị ký kết hợp đồng với khách hàng. Có hai loại chào hàng là
chào hàng cố định và chào hàng tự do.
Bước 3: Đặt hàng: lời đề nghị ký kết hợp đồng từ phía người mua đưa ra dưới hình thức
đặt hàng.
Bước 4: Hoàn giá: khi nhận được đơn chào hàng, người nhận không chấp nhận hoàn toàn
đơn chào hàng thì họ sẽ đưa ra đề nghị mới thì lời đề nghị này gọi là hoàn giá.
Bước 5: Chấp nhận: là kết quả của quá trình hoàn giá. Khi đã chấp nhận thì có nghĩa là
hợp đồng đã được xác lập.
Bước 6: Xác nhận: Hai bên sau khi thống nhất với nhau về các điều kiện giao dịch (nếu

cần) có thể ghi lại mọi điều đã thoả thuận gửi bên kia. Đó là văn kiện xác nhận có cả chữ
ký của cả hai bên và mang tính pháp lý.
Sau khi hai bên mua bán tiến hành giao dịch và đàm phán có kết quả, tiến hành ký
kết hợp đồng. Về mặt pháp lý, hợp đồng xuất khẩu là căn cứ pháp luật ràng buộc trách
nhiệm và quyền lợi của các bên. Vì vậy, trước khi ký kết hợp đồng xuất khẩu, doanh
nghiệp phải xem xét kỹ các điều khoản thoả thuận.
1.1.4.6. Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu
Sau khi hợp đồng xuất khẩu được ký kết, doanh nghiệp cần tiến hành triển khai
công việc để thực hiện hợp đồng xuất khẩu hàng hoá đúng những điều khoản đã quy định
trong hợp đồng.
Để thực hiện một hợp đồng xuất khẩu thanh toán bằng L/C (một hình thức thanh
toán phổ biến), doanh nghiệp xuất khẩu phải tiến hành các khâu công việc:

9


Sơ đồ 1.1: Các khâu công việc để thực hiện một hợp đồng xuất khẩu

Ký kết hợp

Kiểm tra thư tín

Xin giấy phép

Chuẩn bị

đồng xuất

dụng L/C


xuất khẩu

hànghoá

Làm thủ tục hải

Kiểm nghiệm

Uỷ thác để

quan

hàng hoá

thuê tàu

Giao hàng
lên tàu
Mua bảo hiểm

Làm thủ tục

Giải quyết khiếu

(nếu có)

thanh toán

nại (nếu có)


 Kiểm tra thư tín dụng (thanh toán bằng L/C): Sau khi ký hợp đồng, nhà nhập khẩu
nước ngoài sẽ mở L/C tại một ngân hàng có ngân hàng thông báo tại Việt Nam. Bản chất
của thư tín dụng L/C là sự thoả thuận cam kết của ngân hàng với nhà xuất khẩu. L/C độc
lập với hợp đồng xuất khẩu nhưng dựa trên các điều khoản của hợp đồng xuất khẩu.
Ngân hàng chỉ dựa vào L/C mà thanh toán tiền hàng và việc thực hiện các quy định trong
L/C để trả tiền cho nhà xuất khẩu. Vì vậy, nhà xuất khẩu cần kiểm tra kỹ L/C căn cứ vào
hợp đồng. Nếu chưa hợp lý chỗ nào cần báo lại cho phía đối tác để hai bên thống nhất
sửa lại.

 Xin giấy phép xuất khẩu: Giấy phép xuất khẩu là một trong những công cụ quan
trọng để Nhà nước quản lý xuất khẩu. Vì thế, sau khi ký hợp đồng xuất khẩu doanh
nghiệp phải xin giấy phép xuất khẩu hàng hoá để thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
Theo nghị định 57/CP ngày 31/07/1998: Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh
tế thành lập theo đúng quy định của pháp luật được xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá theo
ngành nghề đã ghi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh sau khi đã đăng ký mã số
tại cục Hải quan tỉnh, thành phố thì không phải xin giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu.

 Chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu: Căn cứ hợp đồng đã ký với khách hàng hoặc L/C,
công việc chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu gồm ba khâu chủ yếu:
- Thu, gom hàng hoá, tập trung thành lô hàng xuất khẩu: Doanh nghiệp xuất khẩu tổ
chức thu gom hàng hoá dưới nhiều hình thức như mua nguyên liệu về gia công, sản xuất
thành hàng xuất khẩu, mua đứt bán đoạn với đơn vị sản xuất, đại lý thu mua, doanh
10


nghiệp thương mại. Đây là một khâu quan trọng đảm bảo cho doanh nghiệp thực hiện tốt
hợp đồng xuất khẩu theo đúng điều khoản đã quy định trong hợp đồng.
- Đóng gói bao bì hàng hoá xuất khẩu: Bao bì được đóng gói theo yêu cầu của hợp đồng
phải bảo đảm được phẩm chất của hàng hoá, thuận tiện cho quá trình vận chuyển bốc xếp
hàng hoá, tạo điều kiện cho việc nhận biết hàng hoá.

- Kẻ, vẽ ký mã hiệu hàng hoá xuất khẩu: Ký hiệu bằng số hoặc chữ, hình vẽ được ghi ở
mặt ngoài bao bì thông báo thông tin cần thiết cho việc nhận biết, giao nhận, bốc dỡ và
bảo quản hàng hoá chính xác. Ký mã hiệu phải đảm bảo những nội dung trên, thông báo
cho người nhận hàng đồng thời phải rõ ràng, sáng sủa .

 Thuê tàu (nếu trong điều kiện hợp đồng, doanh nghiệp là người đi thuê tàu): Việc
thuê tàu chở hàng được tiến hành dưạ vào ba căn cứ: Những điều khoản của hợp đồng
mua bán quy định, đặc điểm hàng mua bán và điều kiện vận tải.

 Kiểm nghiệm hàng hoá: Trước khi giao hàng, người xuất khẩu có nghĩa vụ kiểm tra
hàng hóa về phẩm chất, số lượng, trọng lượng, bao bì… Đây là công việc cần thiết vì
quyền lợi của khách hàng được bảo đảm và nâng cao uy tín của doanh nghiệp. Việc kiểm
nghiệm, kiểm định được tiến hành ở hai cấp: Kiểm tra ở cơ sở do phòng KCS, kiểm tra ở
cửa khẩu hải quan kiểm tra lại kết quả kiểm tra lần trước đó.

 Làm thủ tục hải quan: Hàng hoá qua biên giới quốc gia để xuất khẩu, nhập khẩu đều
phải làm thủ tục hải quan. Làm thủ tục hải quan gồm 3 bước chủ yếu sau:
- Khai báo hải quan: chủ hàng khai báo các chi tiết về hàng hoá lên tờ khai hải quan. Tờ
khai hải quan phải được xuất trình kèm theo với một số chứng từ khác theo quy định, chủ
yếu là giấy phép xuất nhập khẩu, hoá đơn thương mại, phiếu đóng gói, bảng kê chi tiết,
chứng nhận xuất xứ hàng hoá.
- Xuất trình hàng hoá: Hàng hoá xuất nhập khẩu phải được sắp xếp đúng theo thoả
thuận, thuận lợi cho bốc xếp, thuận tiện cho việc kiểm soát. Chủ hàng chịu chi phí và
nhân công về việc mở, đóng và sắp xếp các kiện hàng.
- Thực hiện các quyết định của cục hải quan.

11


 Giao hàng lên tàu chở hàng: Tuỳ theo thoả thuận về điều kiện cơ sở giao hàng (theo

Incoterms), giao hàng lên phương tiện vận chuyển sẽ thuộc trách nhiệm bên nào. Nếu
hàng hoá được giao bằng đường biển, chủ hàng phải tiến hành các công việc:
- Lập bản đăng ký hàng chuyên chở căn cứ vào các chi tiết hàng hóa xuất khẩu.
- Xuất trình bản đăng ký hàng hoá chuyên chở cho người vận tải để lấy hồ sơ xếp hàng.
- Bố trí phương tiện đưa hàng ra cảng, xếp hàng lên tàu.
- Lấy biên lai thuyền phó và đổi biên lai thuyền phó lấy vận đơn đường biển B/L. Vận
đơn đường biển phải là vận đơn hoàn hảo, đã bốc hàng và chuyển nhượng được. Vận đơn
cần phải chuyển về bộ phận kế toán để lập bộ chứng từ thanh toán.

 Mua bảo hiểm: Hàng hoá chuyên chở bằng đường biển thường gặp nhiều rủi ro, tổn
thất. Vì thế, bảo hiểm hàng hoá đường biển là loại bảo hiểm cần thiết, phổ biến.Việc lựa
chọn điều kiện bảo hiểm, bên nào mua bảo hiểm dựa trên: Điều khoản trong hợp đồng,
tính chất hàng hoá, đặc điểm bao bì và phương thức xếp hàng…

 Làm thủ tục thanh toán: thanh toán là khâu trọng tâm, là bước cuối cùng của tất cả
các giao dịch kinh doanh xuất khẩu. Trong thanh toán, doanh nghiệp phải chú ý đến các
vấn đề: Đồng tiền thanh toán, tỷ giá thanh toán, thời hạn thanh toán, phương thức và hình
thức thanh toán, điều kiện đảm bảo hối đoái.
Hiện nay, có nhiều phương thức thanh toán nhưng người ta thường sử dụng rộng rãi hai
phương thức thanh toán là thanh toán bằng thư tín dụng L/C và thanh toán bằng phương
thức nhờ thu.

 Giải quyết khiếu nại (nếu có): Trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh doanh xuất
khẩu có thể phát sinh những vấn đề ảnh hưởng đến kết quả thực hiện hợp đồng. Trong
trường hợp đó, hai bên cần trao đổi, thảo luận để tự giải quyết. Nếu không thành, tiến
hành các thủ tục kiện đối tác lên trọng tài kinh tế. Việc khiếu nại phải tiến hành kịp thời
dựa trên căn cứ của các chứng từ và hợp đồng kinh tế.

12



1.2. Cơ sở lý thuyết về thị trường xuất khẩu
1.2.1. Khái niệmvề thị trường xuất khẩu
Thị trường xuất khẩu là tổng thể các mối quan hệ tác động qua lại giữa các thương
nhân ở các quốc gia khác nhau nhằm mục đích mua bán hàng hoá và dịch vụ.
1.2.2. Các yếu tố của thị trường xuất khẩu
1.2.2.1. Yếu tố cung cầu
Nhìn chung, nhu cầu về đá xây dựng của thế giới tăng mạnh của thế giới tăng mạnh
từ năm 2005, ổn định hơn sau năm 2010. Năm 2012, nhu cầu nhập khẩu đá xây dựng của
thế giới khoảng 34,75 triệu tấn . Nhìn tổng thể, nhu cầu về xuất khẩu đá xây dựng sẽ tiếp
tục tăng trong các năm tiếp theo, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Bên cạnh đó,
cung chưa đáp ứng đủ cầu, do sản xuất đá xây dựng trong nước của các nước phát triển
không đáp ứng đủ nhu cầu đang tăng mạnh và nhu cầu khác nhau ở mỗi thị trường, mỗi
khu vực mà bản thân thị trường ấy, khu vực ấy không thể đáp ứng hết được… đơn cử như
khối thị trường chung Châu Âu nhập khẩu 13,9 triệu tấn năm 2012. Ở các đoạn thị trường
khác nhau, nhu cầu về các sản phẩm đá xây dựng cũng rất khác nhau, do vậy để kinh
doanh tốt được trên thị trường quốc tế, các doanh nghiệp phân đoạn thị trường cũng như
đánh giá cung cầu trên thị trường đó trong từng thời điểm, từng đoạn thị trường khác
nhau. Điều đó mang lại kết quả kinh doanh cho doanh nghiệp hiệu quả hay không hiệu
quả, tùy vào những quyết định của doanh nghiệp.
1.2.2.2. Yếu tố giá cả
Tỷ giá hối đoái (TGHĐ) là sự so sánh giữa đồng tiền bản địa (nội tệ) với đồng tiền
nước ngoài (ngoại tệ). TGHĐ ảnh hưởng đến kinh doanh xuất nhập khẩu trên nhiều
phương diện. Khi TGHĐ tăng, đồng tiền nội tệ mất giá, giá cả sản phẩm nhập khẩu tính
bằng đồng nội tệ sẽ đắt hơn một cách tương đối, sản phẩm xuất khẩu tính bằng đồng
ngoại tệ sẽ rẻ hơn một cách tương đối, khi đó TGHĐ sẽ khuyến khích xuất khẩu và hạn
chế nhập khẩu. Khi TGHĐ giảm, đồng nội tệ sẽ có giá hơn, TGHĐ sẽ khuyến khích nhập
khẩu và hạn chế xuất khẩu. Sự thay đổi TGHĐ ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình xuất
nhập khẩu và lợi nhuận của các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu. Vì vậy, với các nhà kinh
doanh, TGHĐ tăng hay giảm là yếu tố khách quan nhưng việc theo dõi sát tình hình

13


TGHĐ thay đổi, để kịp thời đề ra những biện pháp điều chỉnh hoạt động kinh doanh của
mình vô cùng cần thiết.
Các doanh nghiệp thường sử dụng đồng USD để thanh toán trong các giao dịch
quốc tế. Đồng USD là một đồng tiền mạnh và tỷ giá giữa VND/USD là tỷ giá thả nổi
nhưng có sự quản lý của Nhà nước. Gần đây, những biến động về tỷ giá của USD nảy
sinh nhiều rủi ro. Do vậy, các doanh nghiệp có xu hướng sử dụng những đồng tiền mạnh
khác trong thanh toán để giữ cho tỷ giá ít rủi ro hơn như đồng EURO, yên Nhật.., sử
dụng thêm những biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng như bảo đảm giá trị thanh toán bằng
rổ tiền tệ,…
Nhân tố này quyết định bạn hàng, phương án kinh doanh, quan hệ kinh doanh của
doanh nghiệp xuất khẩu. Sự biến đổi của nhân tố này sẽ gây biến đổi lớn trong các quyết
định kinh doanh của Công ty.
Về cơ bản giá bán sản phẩm của doanh nghiệp hình thành trên cơ sở các chi phí
lưu thông. Mặt khác, chi phí lưu thông một đơn vị sản phẩm lại chịu ảnh hưởng tác động
của giá bán, thông qua khối lượng hàng hoá tiêu thụ được. Cơ sở hạ tầng, hệ thống giao
thông Việt Nam kém phát triển nên chi phí lưu thông cao làm tăng giá, ảnh hưởng đến
hoạt động xuất khẩu. Để giảm giá thành sản phẩm là doanh nghiệp nên cố gắng tối thiểu
hoá các chi phí lưu thông và cố gắng kiểm soát chúng.
Đánh giá chung về giá bán sản phẩm đá của Việt Nam là giá so sánh, có lợi thế
cạnh tranh so với sản phẩm của các nước khác. Điều này tạo điều kiện cho doanh nghiệp
tiếp tục kinh doanh và mở rộng kinh doanh trên lĩnh vực này.
1.2.2.3. Yếu tố cạnh tranh
Sự phát triển của nền sản xuất trong nước tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ với sản
phẩm của các đối thủ nước ngoài tại nước sở tại do vậy sẽ thúc đẩy xuất khẩu. Ngược lại,
sự phát triển của nền sản xuất nước ngoài làm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm
xuất khẩu do vậy làm giảm hoạt động xuất khẩu. Tuy nhiên, không phải lúc nào sản xuất
trong nước phát triển thì hoạt động xuất khẩu được mở rộng và khi sản xuất nước ngoài

phát triển, hoạt động xuất khẩu bị thu hẹp, thực ra còn phụ thuộc vào chính sách Nhà
Nước lúc đó cần bảo vệ và khuyến khích sản xuất trong nước hay cần giảm ảnh hưởng
14


độc quyền…Ở Việt Nam hiện nay, nền sản xuất và chế biến đá xây dựng công nghệ chưa
cao, dây chuyền sản xuất nhỏ, lẻ và lạc hậu do vậy năng suất thấp. Tuy rằng, công nghệ
và kỹ thuật đang được cải thiện từng ngày nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng
khoáng sản của Việt Nam. Điều này ảnh hưởng lớn đến các doanh nghiệp tham gia xuất
khẩu của Việt Nam. Sản phẩm từ ngành chế biến đá xây dựng chất lượng chưa cao, chỉ
đáp ứng được nhu cầu của các thị trường không khó tính Châu phi, Trung Đông… Một số
ít sản phẩm từ đá xây dựng đáp ứng được các thị trường khó tính như EU, Nhật Bản..Do
vậy, nền sản xuất ảnh hưởng đến thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam,
cũng như hiệu quả mà các doanh nghiệp thu được. Với một nền sản xuất chưa phát triển
cao như hiện nay, hiệu quả xuất khẩu sẽ thấp hơn các doanh nghiệp ở các nước có nền
sản xuất phát triển cao.
1.2.3. Phân loại thị trường xuất khẩu
Các khách hàng nhập khẩu đá từ Việt Nam chia làm ba đoạn thị trường. Thị trường
khó tính như Châu Âu, Mỹ, Nhật Bản…đòi hỏi đá có chất lượng cao, mẫu mã phong phú
và có cách giao dịch chuyên nghiệp. Thị trường tương đối dễ tính như các nước Trung
Đông (Ả Rập, Iran, Irắc, Pakistan…) không đòi hỏi cao về chất lượng và giá giao dịch
cũng thấp hơn. Thị trường trung tính là những thị trường không đòi hỏi cao như thị
trường khó tính nhưng yêu cầu về chủng loại hàng hoá và cách giao dịch phải đáp ứng
tương đối tốt.
Về thị trường tiêu thụ đá xây dựng ngày càng mở rộng theo khuynh hướng “kiến trúc
thân thiện với môi trường” dùng các loại sản phẩm của đá xây dựng trong nhà, sân vườn,
hàng nội thất tạo môi trường mát mẻ đưa cuộc sống gắn liền với thiên nhiên. Cộng với
những yếu tố khác lượng đá xây dựng tiêu thụ nội địa ở nước ta tăng hàng năm từ 25 –
30%, trong tương lai là thị trường tiêu thụ lớn. Đồng thời, thị trường tiêu thụ đá toàn cầu
cũng tăng trưởng nhanh chóng.

1.2.4. Phân khúc thị trường xuất khẩu
Phân khúc thị trường xuất khẩu được hiểu là chia thị trường thành những đoạn khác nhau
mà trong đó ứng với mỗi đoạn sẽ có một mặt hàng xuất khẩu nhất định cho một nhóm
người, một thị trường xuất khẩu nhất định. Người ta gọi các đoạn phân chia đó là phân
15


khúc thị trường xuất khẩu, tức là một nhóm người tiêu dùng, khách hàng, đối tác thị
trường xuất khẩu có phản ứng như nhau đối với cùng một tập hợp những kích thích của
marketing. Và phân khúc thị trường xuất khẩu chính là quá trình phân chia người tiêu
dùng, đối tác xuất khẩu thành nhóm trên cơ sở những điểm khác biệt như về nhu cầu, về
thị hiếu, về tính cách hay hành vi.
Phân khúc thị trường xuất khẩu bảo đảm sự nghiệp kinh doanh của doanh nghiệp an toàn
hơn bởi nó giúp doanh nghiệp biết tập trung nỗ lực của mình đúng thị trường xuất khẩu,
xây dựng cho mình một tư cách riêng, một hình ảnh riêng, mạnh mẽ, rõ nét và nhất quán
để khả năng vốn có của doanh nghiệp không chỉ có một mình trên thị trường xuất khẩu.
Họ phải đối mặt với nhiều đối thủ cạnh tranh trên thị trường trong nước cũng như quốc tế
về những cách thức lôi kéo khách hàng khác nhau. Mỗi một doanh nghiệp thường chỉ có
một thế mạnh xét trên một phương diện nào đó trong việc thỏa mãn nhu cầu thị trường.
Do đó, nếu xác định các khúc thị trường xuất khẩu tốt cho sản phẩm, doanh nghiệp sẽ
kiểm soát được sự cạnh tranh của các đối thủ, từng bước làm chủ thị trường trong nước
cũng như nước xuất khẩu..
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp
1.3.1. Môi trường kinh doanh quốc tế
Hoạt động xuất khẩu như một chiếc cầu nối giữa thị trường trong nước và thị
trường ngoài nước, tạo ra sự gắn bó, phản ánh tác động qua lại giữa hai thị trường. Nếu
có sự biến động nhu cầu về một mặt hàng ở thị trường ngoài nước thay đổi sẽ làm thay
đổi ngay lập tức lượng hàng hoá qua chiếc cầu xuất khẩu và ngược lại thị trường ngoài
nước quyết định tới sự thoả mãn các nhu cầu thị trường trong nước…Điều này thể hiện
rất rõ đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu đá xây dựng. Chẳng hạn, gần đây thị

trường ngoài nước tăng nhu cầu nhập khẩu đá Granite, thì nhu cầu nhập khẩu các loại đá
xây dựng khác như đá Marble, đá ceramic sẽ giảm xuống. Đi đôi với điều đó, xuất khẩu
đá Granite tăng lên và xuất khẩu các loại đá khác sẽ giảm xuống. Sự tác động qua lại này
ảnh hưởng rất lớn tới các doanh nghiệp xuất khẩu đá xây dựng, để có thể lựa chọn
phương án kinh doanh và các quyết sách kinh doanh linh hoạt và phù hợp.
Hoạt động xuất khẩu sẽ khó có thể thực hiện được nếu như không có sự phát triển
16


của hệ thống tài chính ngân hàng. Thông qua các quan hệ, uy tín của mình, nghiệp vụ
thanh toán liên ngân hàng rất thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất
khẩu sẽ được đảm bảo về mặt lợi ích. Và trong nhiều trường hợp do có lòng tin với ngân
hàng mà kinh doanh xuất nhập khẩu có thể được ngân hàng đứng ra bảo lãnh hay cho vay
với khối lượng vốn lớn, kịp thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp nắm bắt được cơ hội
xuất khẩu có lợi. Với sự gia nhập WTO, tạo điều kiện cho các ngân hàng nước ngoài vào
Việt Nam dễ dàng hơn. Cùng với sự hội nhập kinh tế sâu rộng, lĩnh vực tài chính ngân
hàng cũng không ngừng phát triển do nhu cầu xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và các nước
khác trên thế giới không ngừng tăng mạnh, cũng như nhu cầu trong nước tăng do hoạt
động kinh doanh trong nước phát triển. Hệ thống tài chính ngân hàng phát triển hơn lại
tác động trở lại hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng, điều
tiết vốn của các doanh nghiệp cũng như thực hiện các thanh toán xuất nhập khẩu nói
chung và xuất khẩu đá xây dựng nói riêng. Hiện nay, hệ thống ngân hàng có rất nhiều
hình thức hỗ trợ doanh nghiệp kinh doanh nói chung và xuất khẩu nói riêng. Điều đó thúc
đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, hệ thống tài chính ngân hàng
của Việt Nam chưa phát triển nên thực hiện các thủ tục thanh toán, cho vay vốn..còn
nhiều điều chưa tốt, gây phiền hà và tốn nhiều chi phí cho các doanh nghiệp kinh doanh
xuất khẩu. Các ngân hàng Việt Nam chưa có mối liên kết với nhiều ngân hàng quốc tế
dẫn đến tăng chi phí cho các doanh nghiệp trong các giao dịch.
1.3.2. Môi trường vĩ mô
Sự biến động môi trường chính trị – văn hoá - xã hội và công nghệ làm ảnh hưởng

rất nhiều đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp: tình hình chính trị của quốc gia các
đối tác, phong tục tập quán, sự phát triển công nghệ trên thế giới. Tình hình của một quốc
gia bất ổn dẫn tới sự sụt giảm về nhu cầu nhập khẩu và ngược lại tình hình chính trị ổn
định tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, từ đó tăng nhu cầu các loại hàng hóa đặc biệt là
về xây dựng- ngành đi đầu trong phát triển kinh tế. Văn hóa của một quốc gia ảnh hưởng
đến sự tiêu dùng sản phẩm, ưa chuộng mặt hàng nào, tiêu thụ mặt hàng nào tùy thuộc vào
tôn giáo, tín ngưỡng của từng vùng, từng khu vực trên thế giới. Môi trường công nghệ
của thế giới, cụ thể là của mỗi nước khác nhau là khác nhau. Nếu một nước có nền công
17


nghệ cao có nhu cầu về những sản phẩm chất lượng cao nhiều hơn và ngược lại các nước
có công nghệ kém hơn có nhu cầu nhiều hơn về sản phẩm có chất lượng vừa phải…
Các nhân tố vừa trình bày ở trên đều có tác động qua lại lẫn nhau tạo thành đặc trương
của từng thị trường, từng khu vực thị trường có đăc trưng riêng. Đối với các doanh
nghiệp xuất khẩu Việt Nam, nắm rõ được đặc điểm từng đoạn thị trường, từ đó có
phương án kinh doanh phù hợp sẽ mang lại hiệu quả cho doanh nghiệp.
1.3.3. Môi trường tác nghiệp
Việc thực hiện hoạt động xuất khẩu không thể tách rời công việc vận chuyển, xếp
dỡ và thông tin liên lạc. Một hệ thống thông tin liên lạc tốt, một hệ thống đường giao
thông thuận lợi, hiện đại, và các trang thiết bị bốc dỡ, vận chuyển hiện đại sẽ giúp cho
doanh nghiệp giảm rất nhiều chi phí, tiết kiệm nguồn lực cho doanh nghiệp và cho cả
quốc gia. Thực tế, sự phát triển của hệ thống cơ sở hạ tầng đơn giản hóa công việc của
hoạt động xuất khẩu, giảm đi hàng loạt các chi phí, nâng cao tính kịp thời nhanh gọn, an
toàn và hiệu quả cho hoạt động kinh doanh.
Hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội của Việt Nam ngày càng được cải thiện rõ rệt, từ đó
đơn giản hóa công việc của hoạt động xuất khẩu giảm chi phí xuất khẩu. Có thể thấy rõ,
hệ thống giao thông của Việt Nam ngày càng được mở rộng từ đường bộ, hàng không,
đường thủy… Với sự xuất hiện của nhiều phương tiện chuyên chở hiện đại, các container,
các ô tô tải cỡ lớn, các thuyền chở hàng cỡ lớn..cùng với các trang thiết bị bốc dỡ đời mới

như cần cẩu, các dụng cụ chuyên dụng..đã làm tăng năng suất lao động, giảm các chi phí
và tăng hiệu quả xuất khẩu của các Doanh nghiệp. Nhưng sự phát triển này mới ở giai
đoạn bước đầu, và đang có xu hướng tăng trong các năm tiếp theo, theo đà tăng trưởng,
phát triển của Việt Nam. Sự phát triển hệ thống thông tin ở Việt Nam đang ở giai đoạn
bùng nổ, rất nhiều phương tiện thông tin liên lạc ra đời và được sử dụng. Sự phát triển
nhanh chóng của hệ thống thông tin như điện thoại di động, điện thoại bàn, mạng
Internet, máy Fax.. là phương tiện giúp các doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường quốc
tế cũng như điều hành và điều khiển hoạt động của doanh nghiệp hiệu quả .
1.3.4. Các yếu tố thuộc môi trường bên trong của doanh nghiệp
18


Cơ cấu, chủng loại, chất lượng của mặt hàng xuất khẩu và uy tín của doanh
nghiệp xuất khẩu
Đây là những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh
nghiệp. Doanh nghiệp có cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu phù hợp theo hướng đa dạng
hoá và đáp ứng nhu cầu thực của thị trường, hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp ngày
càng được củng cố, phát triển. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của doanh nghiệp xuất khẩu
không thích hợp với sự biến đổi của nhu cầu thị trường, hoạt động xuất khẩu của doanh
nghiệp sẽ ngày càng bị thu hẹp lại. Do vậy, các công ty kinh doanh xuất nhập khẩu cần
thay đổi cơ cấu mặt hàng theo hướng đa dạng hoá mặt hàng trên cơ sở đa dạng hóa thị
trường. Ngày nay, các doanh nghiệp Việt Nam với thị trường xuất khẩu rộng lớn, cơ cấu
và chủng loại đá xây dựng ngày càng mở rộng, đáp ứng nhu cầu của thị trường xuất khẩu.
Nhưng sự phong phú về cơ cấu và chủng loại của các sản phẩm về đá của Việt Nam chưa
tương xứng với tiềm năng khoáng sản này. Do nguồn nguyên liệu đá xây dựng không
những nhiều mà còn phong phú, có nhiều loại đáp ứng được những sản phẩm đá xây
dựng khác, nhưng Việt Nam chưa có đủ máy móc và công nghệ để có thể sản xuất được
sản phẩm đó.
Chất lượng hàng hoá là nhân tố ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp, uy tín là tài sản vô hình của doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp cần

tính toán, tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, sức cạnh tranh tốt nhất, hay có giá cả so
sánh. Trong khi, chỉ sản phẩm chất lượng cao, phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng mới
có thể xuất khẩu với số lượng lớn, giá cao hơn mà không gây phản ứng của người tiêu
dùng và đối tác. Tuy nhiên, điều này gây khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam bởi
trình độ phát triển khoa học – kỹ thuật công nghệ lạc hậu dẫn đến chất lượng hàng hoá
không cao, đặc biệt trong ngành chế biến đá xây dựng. Những máy móc của ngành này
đa phần là cũ và lạc hậu một phần do chi phí đầu tư máy móc mới lớn. Do vậy, chất
lượng sản phẩm chưa cao, hạn chế xuất khẩu, chưa tương xứng với tiềm năng phát triển
của Việt Nam, đòi hỏi trong thời gian tới các doanh nghiệp Việt Nam cần chú ý tới việc
nâng cao chất lượng hàng hoá bằng để đẩy mạnh xuất khẩu.
Phương thức xuất khẩu hàng hóa.
19


Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường mọi doanh nghiệp đều được phép tham gia
xuất khẩu và việc tự do lựa chọn phương thức xuất khẩu ảnh hưởng tới hiệu quả xuất
khẩu của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải nghiên cứu tình hình cụ thể của thị trường,
của doanh nghiệp mới có thể lựa chọn phương thức xuất khẩu phù hợp, đem lại hiệu quả
cho hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Doanh nghiệp xuất khẩu hiện nay thực hiện
rất nhiều hình thức xuất khẩu. Xuất khẩu trực tiếp, xuất khẩu gián tiếp (qua trung gian),
xuất khẩu ủy thác, xuất khẩu theo hình thức tạm nhập tái xuất… là những hình thức
thường được sử dụng trong xuất khẩu đá xây dựng của Việt Nam. Tùy từng điều kiện,
hoàn cảnh của thị trường cũng như doanh nghiệp mà lựa chọn phương thức xuất khẩu
phù hợp nhất để mang lại cho doanh nghiệp hiệu quả tối đa. Hình thức gia công quốc tế
hầu như không xuất hiện trong xuất khẩu đá xây dựng, vì không phù hợp với sự phát
triển của ngành này.
Khả năng nắm bắt thông tin về thị trường xuất khẩu
Trong xã hội ngày nay, thông tin đã trở thành một nhân tố quan trọng quyết định
đến sự thành công hay thất bại của mỗi doanh nghiệp. Doanh nghiệp muốn hiểu biết về
khách hàng, thị trường, sản phẩm… phải thông qua thông tin. Nhu cầu về thông tin ngày

càng trở nên cấp bách, cần thiết do thị trường không ngừng thay đổi về quy mô và phạm
vi, nhu cầu, sự lựa chọn của khách hàng thay đổi, sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của
các doanh nghiệp với những hình thức cạnh tranh ngày càng đa dạng. Vì vậy, thu thập và
xử lý thông tin đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào
có khả năng nắm bắt thông tin, hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp đó chắc chắn sẽ
đem lại hiệu quả cao.
Đặc điểm của đá xây dựng được xuất khẩu
Đá xây dựng có đặc điểm là trọng lượng nặng, thể tích lớn, khó đóng gói bảo
quản, vận chuyển trong khi giá trị sản phẩm lại không cao. Vì vậy, việc sản xuất kinh
doanh các sản phẩm đá xây dựng gặp nhiều khó khăn vì chi phí vận chuyển thường
chiếm một tỷ lệ khá cao trong giá thành sản phẩm.Từ đó, đặt ra yêu cầu đối với doanh
nghiệp là phải hạ thấp chi phí vận chuyển sản phẩm, để từ đó giảm được giá bán sản
phẩm cũng như nâng cao khả năng cạnh tranh của đá xây dựng trên thị trường thế giới.
20


Các nhân tố khác
Bên cạnh đó, nhân tố về khả năng thanh toán, các quan hệ của doanh nghiệp, các
hoạt động Marketing của doanh nghiệp, trình độ nghiệp vụ của cán bộ, yếu tố tâm lý và
thị hiếu của khách hàng… cũng ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động xuất khẩu của
doanh nghiệp.. Ở Việt Nam, đa phần các doanh nghiệp xuất khẩu đá xây dựng đều rất
năng động tìm kiếm thị trường, thực hiện các hoạt động Marketing khá tốt thông qua các
Website và các phương tiện khác như đại sứ quán, các hội chợ…Từ đó nắm được nhu cầu
khách hàng kịp thời và phục vụ khách hàng tốt nhất có thể, hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp đạt hiệu quả cao. Trình độ chuyên môn của các cán bộ trong doanh nghiệp
ngày càng nâng cao, đáp ứng được yêu cầu của công việc. Những nhân viên nghiệp vụ
kém sẽ bị thải loại để thay vào đó là các nhân viên làm được việc. Như vậy, xu hướng
trình độ chuyên môn của cán bộ nhân viên sẽ không ngừng cải thiện để phục vụ tốt hơn
cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Trên đây là một số nhân tố chính ảnh hưởng có tính chất quyết định đến hoạt động xuất

khẩu của bất kỳ công ty nào. Còn rất nhiều nhân tố khác ảnh hưởng đến hoạt động xuất
khẩu, nhưng hình thành trên sự tác động qua lại giữa các nhân tố này.
1.4. Thực trạng hoạt động xuất khẩu sản phẩm đá trong thời gian qua của
Việt Nam
Đá xây dựng ở Việt Nam đã được ra đời trên nghìn năm, bằng bàn tay trí óc của
các nghệ nhân đã khai thác, đục, đẽo, chế tác ra nhiều sản phẩm đá Granite, cẩm thạch
góp phần xây dựng nên nhiều công trình kiến trúc cổ đại. Trong những năm gần đây đá
xây dựng đã dần dần phát triển thành ngành công nghiệp. Từ sản lượng nhỏ bé 0,2 triệu
m2 vào năm 1990, lên 0,5 triệu m 2 vào năm 1995 và 1,52 triệu m 2 năm 2000, đến nay đã
tăng lên 6,5 triệu m2 tăng gấp 32 lần so với năm 1990.
Tổng quan về thực trạng thị trường đá xây dựng Việt Nam được thể hiện trên một
số bình diện sau:
Thứ nhất, về nguồn hàng xuất khẩu: Nhiều trung tâm khai thác chế biến đá xây
dựng đã hình thành ở các địa phương, nổi bật nhất là tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Bình
Định, Khánh Hoà, Phú Yên, miền Đông Nam bộ… Mặt khác, tiềm năng khoáng sản để
21


sản xuất đá xây dựng của nước ta rất đa dạng phong phú về chủng loại đá Granite, đá
cẩm thạch, đá gabro, đá bazan, đá mabro, thạch anh màu sắc các loại: màu đỏ, vàng,
trắng, hồng, xanh, lục, đen… với trữ lượng rất lớn, theo tài liệu tìm kiếm thăm dò của 6
vùng: Tây Bắc, Đông Bắc Bắc Bộ, vùng Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ và duyên hải
miền Trung, miền Đông Nam bộ và Tây Nam Bộ, có 325 mỏ, với trữ lượng tìm kiếm là
37 tỉ m3, đến nay chưa có khảo sát đầy đủ, chỉ khảo sát một số lượng mỏ rất nhỏ do các
chủ xí nghiệp khảo sát để khai thác. Dự kiến trữ lượng có thể khai thác được trên 4 tỉ m 3.
Đây là một trữ lượng đá rất lớn có thể khai thác, chế biến hàng trăm tỷ m 3 đá xây dựng
phục vụ xây dựng đất nước và xuất khẩu lâu dài.
Thứ hai, về thị trường xuất khẩu: Đá xây dựng của Việt Nam không chỉ lưu thông
trên thị trường nội địa mà còn xuất khẩu ra nước ngoài được thị trường thế giới ưa
chuộng có mặt trên thị trường của 85 nước và vùng lãnh thổ. Trong số 85 nước và vùng

lãnh thổ nhập khẩu đá xây dựng của Việt Nam, chỉ có 15 nước có kim ngạch nhập khẩu
trên 1 triệu USD, 22 nước có kim ngạch nhập khẩu trên 100.000 USD, còn hơn 48 thị
trường có kim ngạch dưới 100.000 USD. Tổ chức xuất khẩu của Việt Nam do nhiều đơn
vị cùng làm với kim ngạch nhỏ bé, phân tán không có sức mạnh tổng hợp, sức cạnh tranh
còn yếu, chưa đủ sức vào các thị trường lớn. Tuy nhiên, với những yếu tố khác lượng đá
xây dựng tiêu thụ nội địa ở nước ta tăng hàng năm từ 25 – 30%, trong tương lai là thị
trường tiêu thụ lớn. Đồng thời, thị trường tiêu thụ đá toàn cầu cũng tăng trưởng nhanh
chóng. Kim ngạch xuất nhập khẩu đá xây dựng toàn cầu tăng nhanh năm 2012 kim ngạch
xuất nhập khẩu toàn cầu khoảng 26 tỉ USD tăng 2 lần so với năm 2007.
Như phân tích ở trên, Việt Nam có nguồn tài nguyên khoáng sản đá xây dựng rất
phong phú, đa dạng, thị trường tiêu thụ nội địa và nước ngoài rất rộng lớn, lại có nguồn
lao động dồi dào có năng khiếu tiếp thu nhanh chóng kỹ thuật. Đây là những tiềm năng to
lớn để phát triển. Hơn nữa trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO tham gia vào thị
trường toàn cầu không chỉ có xuất khẩu mà còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt
Nam nhập khẩu các nguyên liệu đá khối có chất lượng tốt, màu sắc đẹp mà nước ta
không có để về gia công chế biến cung cấp cho thị trường trong nước, đồng thời xuất
khẩu ra nước ngoài, tăng năng lực cạnh tranh của đá xây dựng Việt Nam trên thị trường
22


Quốc tế.
Thứ ba, về kim ngạch xuất khẩu: Kim ngạch xuất khẩu năm 2012 đạt 99.317.547
USD so với năm 2007 tăng gấp 7,2 lần; với tốc độ tăng trưởng bình quân 38,5% năm.
Xuất khẩu lớn nhất là công ty Vicostone.
Kim ngạch xuất khẩu đá xây dựng của Việt Nam trong những năm qua tuy có tăng
trưởng nhanh, nhưng chỉ chiếm tỉ trọng rất nhỏ bé so với kim ngạch xuất khẩu toàn cầu từ
0,23% lên 0,793%, đá xây dựng Việt Nam đã cắm chân ở một số thị trường quan trọng để
làm bàn đạp cho xuất khẩu. Đây là thị trường rộng mở cho ngành đá xây dựng Việt Nam
thâm nhập trong bối cảnh hội nhập Quốc tế (năm 2010 Trung Quốc xuất khẩu 1,482 triệu
tấn đá ốp lát với kim ngạch xuất khẩu 2,869 tỉ USD chiếm 25% kim ngạch xuất khẩu đá

toàn cầu).
Thứ tư, về các doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực xuất khẩu đá, năm 2013 có
510 doanh nghiệp xuất khẩu đá với tổng kim ngạch xuất khẩu 90 triệu USD, trong đó chỉ
có 15 doanh nghiệp đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 triệu USD, 96 doanh nghiệp đạt kim
ngạch xuất khẩu trên 100.000 USD còn lại 399 doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu
dưới 100.000 USD. Hình thành một cách đa dạng thị trường xuất khẩu đá xây dựng Việt
Nam ở một số nước ở Châu Âu, Châu Á, Châu Mỹ, Châu Úc để hỗ trợ cho nhau bảo đảm
tổng kim ngạch xuất khẩu ổn định. Trong đó, công ty Vicostone sản xuất và xuất khẩu đá
xây dựng đạt doanh thu trực tiếp 16 triệu USD năm 2012 và 22 triệu USD năm 2013, là
công ty đi đầu trong lĩnh vực xuất khẩu đá xây dựng. Các doanh nghiệp lớn này đa phần
có các xưởng sản xuất ở một số địa phương có nguồn cung cấp dồi dào như Thanh Hoá,
Nghệ An, Bình Định, Khánh Hoà, Phú Yên, Đồng Nai, Yên Bái.

23


CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU
SẢN PHẨM ĐÁ CỦA CÔNG TY TNHH TRƯỜNG HUY
2.1. Giới thiệu chung về công ty TNHH Trường Huy
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty
 Tên công ty: Công ty TNHH Trường Huy
 Tên giao dịch: TRUONG HUY COMPANY LIMITED
 Tên viết tắt: TRUONG HUY CO.,LTD

Địa chỉ: Lô A10, Khu công nghiệp Phú Tài - TP Quy Nhơn – tỉnh Bình Định.
Điện thoại: (056)3 541 718.
Giám đốc công ty: Phan Trường Thọ.
Phó giám đốc

: Trần Thị Hoa


Kế toán trưởng

: Trần Hiển Ngọc.

Tài khoản số: 0051000046177 tại ngân hàng Vietcombank Phú Tài.
Mã số thuế: 4100519068.
Ngành nghề kinh doanh: Khai thác, chế biến đá granite, khai thác khoáng sản.
Email: truonghuyco@.vnn.vn.
 Webside: truonghuygranite.com.vn
 Giấy đăng ký kinh doanh số: 0102013493 ngày 03/08 do phòng đăng ký kinh

doanh số 01 thuộc sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Bình Định cấp.
Khi mới thành lập, năm 2004 công ty chỉ có 10 thành viên nhưng với sự hoạt động
hiệu quả của mình đến nay công ty đã có tới hơn 30 thành viên. Từ việc chỉ có một phòng
và giám đốc quản lý chung tất cả các mặt, đến nay công ty đã hình thành một hệ thống tổ
chức rõ ràng, với chức năng của từng phòng ban riêng biệt, hoạt động hiệu quả, cụ thể
gồm 5 phòng dưới sự chỉ đạo của ban giám đốc (phó giám đốc và giám đốc) thực hiện
các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trước đây, công ty chỉ thực hiện hoạt động
kinh doanh xuất khẩu là chủ yếu, năm 2012 công ty đã mở rộng sang mảng nhập khẩu
bằng việc thành lập thêm một phòng nhập khẩu đá. Khi mới thành lập, công ty có tổng
giá trị vốn góp là 1.900.000.000 VND, cho đến nay, trải qua 10 năm hoạt động, vốn kinh
24


doanh của công ty đã lên tới hơn 10.000.000.000 VND. Do hoạt động làm ăn có hiệu quả
do vậy cơ sở vật chất ngày càng được đầu tư xây dựng phù hợp với điều kiện kinh doanh
trong nền kinh tế thị trường.
Chủng loại mặt hàng ngày càng phong phú và đa dạng, đáp ứng được nhu cầu của
khách hàng. Đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh chính của công ty là xuất khẩu đá, ngày

càng có nhiều loại sản phẩm khác nhau từ đá khối, đá tảng, đá viên…có hàng trăm loại đá
gạch viên khác nhau, do sự cải tiến không ngừng của thị trường, đáp ứng được nhu cầu
ngày càng phong phú của khách hàng.
Công ty luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đề ra, mở rộng ngành nghề lĩnh vực
kinh doanh của mình, từng bước khẳng định được uy tín và thế mạnh của mình. Bên cạnh
đó, công ty đảm bảo và không ngừng nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên do hoạt
động làm ăn kinh doanh có hiệu quả của mình.
Mặt khác, công ty luôn hoàn thành nghĩa vụ với Nhà nước và làm ăn đúng pháp
luật. Sau 10 năm hoạt động kinh doanh, vốn kinh doanh của công ty đã lên tới hơn 10 tỷ
đồng và có nhiều khách hàng thân thuộc trên thị trường. Đồng thời, thị trường của công
ty ngày càng mở rộng ra nhiều nước. Đến nay, công ty có quan hệ làm ăn với khách hàng
của hơn 25 nước trên thế giới.
2.1.2. Chức năng và nhiệm vụ của Công ty
Chức năng
Theo quyết định của hội đồng thành viên tháng 01/2008 công ty đã tập trung vào các
ngành kinh doanh truyền thống như: sản xuất đá xây dựng các loại, khai thác, chế biến đá
ốp lát granite, khai thác khoáng sản(nhà nước không cấm), xây dựng các công trình thủy
lợi, thủy điện, đầu tư vào lĩnh vực xây dựng, phát huy những kết quả đạt được trong
những năm trước… hội đồng thành viên công ty đã đặt ra mục tiêu là chỉ đấu thầu và thi
công những công trình có nguồn vốn đảm bảo mà thôi.
Nhiệm vụ:


Xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các kế hoạch sản xuất kinh doanh và

dịch vụ kể cả kế hoạch xuất nhập khẩu tư doanh.
25



×