Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

PHÂN TÍCH NHỮNG ĐÁNH GIÁ của các NHÀ NHÀ đầu tư về GIÁ TRỊ sản PHẨM HIỆN có TRONG MARKETING LÃNH THỔ ở TỈNH THÁI NGUYÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (532.59 KB, 101 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA MARKETING

NCS. Phạm Công Toàn

CHUYÊN ĐỀ 2:
PHÂN TÍCH NHỮNG ĐÁNH GIÁ CỦA CÁC NHÀ NHÀ ĐẦU TƯ
VỀ GIÁ TRỊ SẢN PHẨM HIỆN CÓ TRONG MARKETING LÃNH THỔ
Ở TỈNH THÁI NGUYÊN
CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU
LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ VÀ KẾ HOẠCH HOÁ KINH TẾ QUỐC DÂN
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH (MARKETING)
MÃ CHUYÊN NGÀNH: 62.34.05.01

Hướng dẫn khoa học:
Hướng dẫn 1: GS, TS. Trần Minh Đạo
Hướng dẫn 2: PGS, TS. Vũ Trí Dũng

Hà Nội, tháng 11/2007


Phân tích những đánh giá của các nhà đầu tư về giá trị sản phẩm hiện có ....

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
PHẦN 1: TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ KẾT
QUẢ THU HÚT ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA TỈNH
THÁI NGUYÊN, GIAI ĐOẠN 1996 - 2005
PHẦN 2: TỔNG QUAN VỀ NHỮNG ĐÁNH GIÁ CỦA
CÁC NHÀ ĐẦU TƯ VỀ MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ
CỦA TỈNH THÁI NGUYÊN


PHẦN 3: PHÂN TÍCH NHỮNG ĐÁNH GIÁ CỦA CÁC
NHÀ ĐẦU TƯ THEO CÁC TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ GIÁ TRỊ
SẢN PHẨM ĐỐI VỚI SẢN PHẨM LÃNH THỔ CỦA TỈNH
THÁI NGUYÊN

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

2

Trang
2
4


NCS. Phạm Công Toàn

Khoá 26 (2005 - 2008)

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết và mục tiêu của vấn đề nghiên cứu
Cạnh tranh thu hút đầu tư phát triển giữa các lãnh thổ ngày càng
trở nên rõ ràng. Chính quyền các lãnh thổ không ngừng đưa ra những
chương trình, những chính sách ưu đãi trong thu hút đầu tư nhằm kích
thích, lôi kéo các nhà đầu tư về với lãnh thổ của mình.
Sản phẩm lãnh thổ ngày càng trở nên đa dạng và khác biệt hơn
giữa các lãnh thổ khác nhau buộc các nhà đầu tư phải cân nhắc, phân
tích và đánh giá trước khi đưa ra quyết định đầu tư, trong đó, yếu tố
được các nhà đầu tư quan tâm đặc biệt hơn cả chính là giá trị sản
phẩm lãnh thổ. Nó bao gồm tất cả những gì mà nhà đầu tư có thể nhận

được từ việc đầu tư vào lãnh thổ đó.
Nằm ở vị trí chiến lược của khu vực miền núi phía Bắc Việt
Nam, phía trên của thủ đô Hà Nội, tỉnh Thái Nguyên được xem là khu
vực lãnh thổ đòi hỏi phải có sự phát triển toàn diện cả về mặt kinh tế
và mặt xã hội. Tuy nhiên, thực tế đánh giá của nhiều nhà quản lý cho
thấy, thực trạng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Nguyên trong
nhiều năm qua chưa tương xứng với tiềm năng, vị trí và nhiệm vụ mà
Đảng và Nhà nước đã đặt ra. Nguyên nhân chính được đề cập đến
chính là khả năng thu hút đầu tư phát triển, xét trên cả hai phương
diện phát huy nội lực và ngoại lực.
Tìm hiểu và phân tích những đánh giá của các nhà đầu tư về giá
trị sản phẩm địa phương của tỉnh Thái Nguyên là việc làm cần thiết để
giúp các nhà quản lý có được những quyết định đúng đắn hơn trong

3


Phân tích những đánh giá của các nhà đầu tư về giá trị sản phẩm hiện có ....

việc tạo ra sản phẩm địa phương của tỉnh nhà ngày càng hoàn thiện và
phù hợp với nhu cầu cũng như những đòi hỏi của các nhà đầu tư.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Những kết quả đánh giá sản phẩm lãnh thổ cấp địa phương cho
trường hợp của tỉnh Thái Nguyên qua kết quả của một số cuộc điều tra
nghiên cứu chính thức.
- Phạm vi nghiên cứu
Địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
3. Phương pháp nghiên cứu
Chủ yếu sử dụng các phương pháp: thống kê, phân tích, so sánh

và suy luận.
Với những mục đích như vậy, chuyên đề “Phân tích những
đánh giá của các nhà đầu tư về giá trị sản phẩm hiện có trong
marketing lãnh thổ ở tỉnh Thái Nguyên” sẽ tập trung phân tích những
ý kiến đánh giá của các nhà đầu tư về giá trị sản phẩm lãnh thổ của
tỉnh Thái Nguyên thông qua các kết quả điều tra nghiên cứu đã có.
Trong chuyên đề này, thuật ngữ “địa phương” sẽ được dùng chủ
yếu để phù hợp với trường hợp của địa phương là tỉnh Thái Nguyên.
Do vậy, thuật ngữ “marketing địa phương” cũng sẽ được sử dụng
xuyên suốt chuyên đề.
Chuyên đề được hoàn thành với sự hướng dẫn của GS,TS. Trần
Minh Đạo và PGS,TS. Vũ Trí Dũng - Khoa Marketing, Trường Đại
học Kinh tế quốc dân.
Nội dung của chuyên đề được trình bày trong ba phần chính sau:

4


NCS. Phạm Công Toàn

Khoá 26 (2005 - 2008)

Phần 1. Tổng quan về kinh tế - xã hội và kết quả thu hút đầu tư
phát triển của tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 1996 - 2005.
Phần 2. Tổng quan về những đánh giá của các nhà đầu tư về môi
trường đầu tư tỉnh Thái Nguyên.
Phần 3. Phân tích những đánh giá của các nhà đầu tư theo những
tiêu chí đánh giá giá trị sản phẩm đối với sản phẩm lãnh thổ của tỉnh
Thái Nguyên.


5


Phân tích những đánh giá của các nhà đầu tư về giá trị sản phẩm hiện có ....

PHẦN 1
TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ KẾT QUẢ THU HÚT
ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA TỈNH THÁI NGUYÊN GIAI
ĐOẠN 1996 - 2005
1.1 Một số nét cơ bản về tỉnh Thái Nguyên
1.1.1 Điều kiện tự nhiên
1.1.1.1 Vị trí địa lý
Thái Nguyên có diện tích đất tự nhiên không lớn với 3.541,1
km2, chiếm 1,13% diện tích cả nước. Phía Bắc giáp tỉnh Bắc Kạn, phía
tây giáp tỉnh Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, phía Đông giáp tỉnh Lạng Sơn,
Bắc Giang, phía Nam giáp thủ đô Hà Nội.
1.1.1.2 Địa hình
Thái Nguyên có nhiều dãy núi cao chạy theo hướng Bắc - Nam,
thấp dần xuống phía Nam và chấm dứt ở đèo Khế. Cấu trúc vùng núi
phía Bắc chủ yếu là đá phong hoá mạnh (castơ) tạo thành nhiều hang
động, thung lũng nhỏ. Phía Tây Nam có dãy Tam Đảo với đỉnh cao
nhất 1.590m, các vách núi dựng đứng và kéo dài theo hướng Tây Bắc
- Đông Nam. Ngoài hai dãy núi kể trên, tỉnh còn có dãy Ngân Sơn (bắt
đầu từ Bắc Kạn chạy theo theo hướng Đông Bắc - Tây Nam đến
huyện Võ Nhai) và dãy núi Bắc Sơn chạy theo hướng Tây Bắc - Đông
Nam.
Là tỉnh trung du, miền núi, nhưng địa hình tỉnh Thái Nguyên
không phức tạp lắm nếu so với các tỉnh trung du, miền núi khác trong
vùng. Đây là điều kiện thuận lợi cho tỉnh trong quá trình phát triển sản
6



NCS. Phạm Công Toàn

Khoá 26 (2005 - 2008)

xuất nông - lâm nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói
chung.
1.1.1.3 Khí hậu
Khí hậu của Thái Nguyên chia làm 4 mùa: xuân, hạ, thu, đông.
Lượng mưa trung bình khoảng 2.00 mm/năm, cao nhất vào tháng 8
(400 mm) và thấp nhất vào tháng 1 (dưới 50 mm).
Do địa hình thấp dần từ vùng núi cao xuống vùng núi thấp, trung
du, đồng bằng theo hướng Bắc - Nam, nên khí hậu Thái Nguyên vào
mùa Đông được chia thành 3 vùng rõ rệt: vùng lạnh nhiều nằm ở phía
Bắc huyện Võ Nhai; vùng lạnh vừa gồm các huyện Định Hoá, Phú
Lương và phía Nam huyện Võ Nhai; vùng ấm gồm các huyện Đại Từ,
Đồng Hỷ, Phú Bình, Phổ Yên, thị xã Sông Công và thành phố Thái
Nguyên. Nhiệt độ chênh lệch giữa tháng nóng nhất (tháng 6: 28,9oC)
với tháng lạnh nhất (tháng 1: 15,2oC) là 13,7oC. Tổng số giờ nắng
trong năm dao động trong khoảng 1.300 - 1.750 giờ, phân phối tương
đối đều cho các tháng trong năm.
1.1.1.4 Thuỷ văn
Tổng lượng mưa khá lớn, khoảng 6,4 tỷ m3/năm. Tuy nhiên,
lượng mưa phân bố không đều theo thời gian và không gian, trong đó:
Theo không gian, lượng mưa tập trung nhiều hơn ở thành phố
Thái Nguyên, huyện Đại Từ, trong khi đó các huyện Võ Nhai, Phú
Lương lượng mưa tập trung ít hơn.
Theo thời gian, lượng mưa tập trung khoảng 87% vào mùa mưa,
trong đó riêng tháng 8 lượng mưa chiếm gần 30% tổng lượng mưa cả

năm, vì vậy thường gây ra những trận lũ lớn. Vào mùa khô, đặc biệt là
tháng 12, lượng mưa trong tháng chỉ bằng 0,5% lượng mưa cả năm.
7


Phân tích những đánh giá của các nhà đầu tư về giá trị sản phẩm hiện có ....

1.1.1.5 Hệ thống sông
Thái Nguyên có 2 sông chính là sông Công và sông Cầu, trong
đó:
Sông Cầu nằm trong hệ thống sông Thái Bình, có lưu vực 3.480
km2, bắt nguồn từ huyện Chợ Đồn (Bắc Kạn), chảy theo hướng Bắc Đông Nam. Hệ thống thuỷ nông sông Cầu (trong đó có đập dâng Thác
Huống) đảm bảo nước tưới cho 24 nghìn ha lúa 2 vụ của các huyện
Phú Bình (Thái Nguyên) và Hiệp Hoà, Tân Yên (Bắc Giang).
Sông Công có lưu vực 951 km2, bắt nguồn từ vùng núi Ba Lá
(huyện Định Hoá), chạy dọc theo chân núi Tam Đảo, nằm trong vùng
mưa lớn nhất của tỉnh. Dòng sông đã được ngăn lại ở Đại Từ, tạo
thành Hồ Núi Cốc, có mặt nước rộng khoảng 25km2, dung lượng 175
triệu m3 nước, có tác dụng điều hoà dòng chảy và chủ động tưới tiêu
nước cho hơn 10 nghìn ha lúa 2 vụ, hoa màu, cây công nghiệp và cung
cấp nước sinh hoạt cho thành phố Thái Nguyên và thị xã Sông Công.
Ngoài ra, tỉnh còn có nhiều sông nhỏ thuộc hệ thống sông Kỳ
Cùng và sông Lô. Theo đánh giá của các cơ quan chuyên môn, trên
các con sông chảy qua tỉnh có thể xây dựng nhiều công trình thuỷ điện
kết hợp với thuỷ lợi quy mô nhỏ. Việc xây dựng các công trình này sẽ
góp phần thay đổi diện mạo nông thôn vùng cao.
1.1.1.6 Tài nguyên đất
Đất núi: chiếm 48,4% diện tích tự nhiên, nằm ở độ cao trên
200m so với mực nước biển, hình thành do sự phong hoá trên đá mắcma, đá biến chất và đá trầm tích. Đất núi thích hợp cho việc phát triển
lâm nghiệp, trồng rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, rừng kinh doanh và


8


NCS. Phạm Công Toàn

Khoá 26 (2005 - 2008)

trồng các cây đặc sản, cây ăn quả, cây lương thực phục vụ nhân dân
vùng cao.
Đất đồi: chiếm 31,4% diện tích tự nhiên, chủ yếu hình thành trên
cát kết, bột kết, phiến sét và một phần phù sa cổ. Đất đồi tại một số
vùng như Đại Từ, Phú Lương, ... nằm ở độ cao 150 - 200m, độ dốc 5 20o, phù hợp cho sự sinh trưởng của cây công nghiệp và cây ăn quả
lâu năm.
Đất ruộng: chiếm 12,4% diện tích tự nhiên, đây là loại đất có sự
phân hoá phức tạp. Một phần phân bố dọc theo các con suối, rải rác
không tập trung, chịu tác độ lớn của chế độ thuỷ văn khắc nghiệt (lũ
đột ngột, hạn hán, ...), khó khăn cho việc canh tác.
Điều đáng lưu ý, diện tích đất chưa sử dụng ở Thái Nguyên khá
lớn, chiếm 22,18% diện tích đất tự nhiên. Diện tích đất này có khả
năng phát triển lâm nghiệp, nhất là mô hình trang trại vườn rừng. Đây
là tiềm năng, đồng thời cũng là nhiệm vụ lớn đặt ra cho tỉnh trong việc
khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên này.
1.1.1.7 Tài nguyên rừng
Là tỉnh miền núi với diện tích đất lâm nghiệp 152 nghìn ha
(chiếm 43% diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh), Thái Nguyên có lợi thế
trong khai thác và phát triển kinh tế rừng. Tuy nhiên, diện tích rừng
của Thái Nguyên ngày càng bị thu hẹp, tài nguyên rừng đang bị suy
giảm đáng kể. Vầu, nứa và các loại đặc sản rừng, dược liệu và động
vật rừng bị giảm sút nghiêm trọng. Thực trạng này đặt ra cho tỉnh Thái

Nguyên nhiệm vụ rất nặng nề trong việc bảo vệ, trồng mới rừng.
1.1.1.8 Tài nguyên khoáng sản

9


Phân tích những đánh giá của các nhà đầu tư về giá trị sản phẩm hiện có ....

Trong lòng đất Thái Nguyên chứa đựng những nguồn tài nguyên
khoáng sản phong phú, đa dạng. Theo tài liệu điều tra của Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh, Thái Nguyên có tiềm năng rất lớn về
khoáng sản, phân bố tập trung tại các huyện Đại Từ, Phú Yên, Đồng
Hỷ và Võ Nhai.
Khoáng sản nhiên liệu: sau Quảng Ninh, Thái Nguyên được
đánh giá là tỉnh có trữ lượng than lớn thứ 2 trong cả nước, đáp ứng
nhu cầu cho ngành sản xuất vật liệu xây dựng, nhiệt điện và các nhu
cầu khác không chỉ trong tỉnh Thái Nguyên.
Đến năm 2004, tỉnh đã thăm dò và đăng ký 10 mỏ và
điểm than đá, tổng trữ lượng đã được thăm dò là 71,9
triệu tấn. Trong đó, đáng kể nhất là than antraxit với các
mỏ Núi Hồng (sản lượng khai thác khoảng 300 nghìn
tấn/năm), Khánh Hoà (khoảng 180 nghìn tấn/năm), Bá
Sơn (35 nghìn tấn/năm). Trữ lượng than mỡ chiếm số
lượng lớn với mỏ Phấn Mễ (100 nghìn tấn/năm) và mỏ
Làng Cẩm (25 nghìn tấn/năm).
Khoáng sản kim loại: Thái Nguyên là tỉnh giàu tài nguyên kim
loại đen, kim loại màu, kim loại quý hiếm. Đến năm 2004, toàn tỉnh
đã đăng ký 39 mỏ và điểm quặng sắt, với tổng trữ lượng trên 50 triệu
tấn, trong đó nhiều mỏ có trữ lượng 1 - 5 triệu tấn. Hàm lượng Fe đạt
58,8 - 62,8%, được xếp vào loại có chất lượng tốt. Riêng mỏ Tiến Bộ

(Đồng Hỷ) có trữ lượng 24,1 triệu tấn. Về titan, tỉnh đã đăng ký gần
20 điểm mỏ, tổng trữ lượng (gốc + sa khoáng) khoảng 20 triệu tấn,
trong đó mỏ Cây Châm (Phú Lương) có trữ lượng khoảng 4,8 triệu
tấn.
10


NCS. Phạm Công Toàn

Khoá 26 (2005 - 2008)

Kim loại màu cũng khá phong phú với các chủng loại: chì, kẽm,
thiếc, vonfram. Trong đó, chì kẽm có 19 mỏ và điểm quặng, tập trung
ở 2 khu vực: vùng Lang Hít (Đồng Hỷ) trữ lượng trên 130 nghìn tấn;
vùng Nam Đại Từ, trữ lượng trên 23 nghìn tấn. Thiếc tập trung ở vùng
La Bằng, phía tây Núi Pháo, trữ lượng dự kiến 11,3 nghìn tấn Sn và
2.982 tấn Bi. Thiếc sa khoáng tập trung ở vùng Phục Linh. Qua đánh
giá sơ bộ, trữ lượng thiếc sa khoáng C1 + C2 vào khoảng 1.130 tấn
SnO2 (canxiterit), nhưng triển vọng (P) có thể đạt khoảng 6.000 tấn.
Đặc biệt, vùng Hà Thượng (Núi Pháo - Đại Từ) đã phát hiện thấy mỏ
đa kim với trữ lượng thăm dò khoảng 110 triệu tấn, trong đó có nhiều
loại như: WO3, CaF2, Au, Cu, Bi, .. Mỏ đa kim này được đánh giá là
một trong các mỏ có trữ lượng lớn nhất thế giới.
Kim loại quý hiếm có vàng với 20 mỏ và điểm quặng, trong đó
có 10 điểm quặng vàng gốc.
Khoáng sản phi kim: Thái Nguyên có rất nhiều khoáng sản phi
kim phục vụ cho công nghiệp xây dựng như: đá vôi (trữ lượng thăm
dò gần 200 triệu tấn, dự tính còn hàng trăm triệu tấn chưa được thăm
dò); đá vôi trợ dung (mới thăm dò tại mỏ Núi Voi, trữ lượng 8,38 triệu
tấn); đá vôi ốp lát (mỏ La Hiên, trữ lượng 35 triệu tấn), ngoài ra còn

có nhiều điểm quặng ở Định Hoá. Bên cạnh đó, đôlômít có 3 mỏ đã
được thăm dò ở Đồng Hỷ, Võ Nhai với trữ lượng trên 100 triệu tấn.
Sét (xi măng), tổng trữ lượng đã thăm dò hơn 60 triệu tấn, tập trung ở
các vùng Cúc Đường (La Hiên) và Khe Mo (Đồng Hỷ). Sét cao lanh
có ở nhiều nơi, trữ lượng đã thăm dò 356.937 tấn, trong đó có một mỏ
sét (cao lanh) trữ lượng lớn, chất lượng cao được phát hiện ở Đại Từ,
dự đoán trữ lượng trên 20 triệu tấn. Loại sét này có thể phục vụ cho
11


Phân tích những đánh giá của các nhà đầu tư về giá trị sản phẩm hiện có ....

sản xuất gốm sứ, gạch chịu lửa, ... Sét (gạch ngói) đã đăng ký 12 mỏ
và điểm, trong đó đa số đã được thăm dò, tổng trữ lượng trên 30 triệu
m3. Ngoài ra, Thái Nguyên còn có trữ lượng cát, cuội, sỏi khá lớn,
phân bổ chủ yếu ở trên sông Cầu và sông Công.
1.1.1.9 Tài nguyên du lịch
Tài nguyên du lịch của Thái Nguyên rất đa dạng. Trong đó, hồ
Núi Cốc với diện tích 25km2 cùng nhiều đảo lớn nhỏ trong lòng hồ đã
mở ra tiềm năng du lịch lớn nhất tỉnh. Khu du lịch hồ Núi Cốc cách
thành phố Thái Nguyên 20km về phía Tây, với phong cảnh sơn thuỷ
hữu tình đã trở thành khu du lịch lớn nhất của tỉnh, thu hút đông đảo
du khách đến thăm quan, nghỉ dưỡng, kéo theo sự phát triển của các
loại hình du lịch, tạo thêm nhiều việc làm cho người dân địa phương,
đồng thời mang lại cho tỉnh khoản thu không nhỏ. Ngoài ra, Thái
Nguyên còn có bãi đá cổ Thần Sa, Mái Đá Ngườm, nơi được coi là cái
nôi của người tiền cổ. Cùng với đó, hang Phượng Hoàng, suối Mỏ Gà,
thác Mưa Roi (huyện Võ Nhai), thác Bảy Tầng, cây đa nghìn tuổi
(huyện Định Hoá),... là những tiềm năng du lịch lớn của tỉnh.
Thái Nguyên còn có tài nguyên du lịch nhân văn khá lớn với

nhiều di tích lịch sử, công trình kiến trúc, nghệ thuật, phong tục, tập
quán, lễ hội, truyền thống văn hoá đặc sắc của đồng bào các dân tộc
thiểu số,.. Thái Nguyên là nơi có truyền thống cách mạng lâu đời, thủ
đô kháng chiên - “Thủ đô gió ngàn” trong kháng chiến chống thực dân
Pháp. An toàn khu (ATK) với nhiều địa danh như: đồi Tỉn Keo - nơi
chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống và làm việc; khu nhà làm việc của Bộ
Chính trị, Bộ Quốc phòng, ... là những di tích lịch sử vô cùng quý giá.
Bên cạnh đó, với vị trí là trung tâm văn hoá của các dân tộc thiểu số
12


NCS. Phạm Công Toàn

Khoá 26 (2005 - 2008)

miền núi, có Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam, Thái Nguyên có
lợi thế lớn để phát triển đa dạng các loại hình du lịch. Nhân dịp kỷ
niệm 115 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng bộ và nhân
dân thủ đô Hà Nội tặng thủ đô kháng chiến Nhà tưởng niệm Hồ Chí
Minh (công trình văn hoá - lịch sử có ý nghĩa giáo dục sâu sắc đối với
thế hệ hôm nay và mai sau).
Vị trí địa lý thuận lợi, nguồn tài nguyên đa dạng, phong phú,
tiềm năng du lịch sinh thái, du lịch lịch sử, du lịch về nguồn đầy hấp
dẫn, .. tiếp tục khai thác, phát huy hiệu quả những lợi thế, tiềm năng
này trong phát triển kinh tế - xã hội, Thái Nguyên sẽ tiến nhanh, tiến
mạnh, tiến vững chắc trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đến năm 2004, tỉnh đã thăm dò và đăng ký 10 mỏ và điểm than
đá, tổng trữ lượng đã được thăm dò là 71,9 triệu tấn. Trong đó, đáng
kể nhất là than antraxit với các mỏ: Núi Hồng (sản lượng khai thác
khoảng 300 nghìn tấn/năm), Khánh Hoà (khoảng 180 nghìn tấn/năm),

Bá Sơn (35 nghìn tấn/năm). Trữ lượng than mỡ chiếm số lượng lớn
với mỏ Phấn Mễ (100 nghìn tấn/năm) và mỏ Làng Cẩm (25 nghìn
tấn/năm).
1.1.2 Đặc điểm xã hội
1.1.2.1 Cơ cấu hành chính
Tỉnh Thái Nguyên bao gồm 7 huyện (Phổ Yên, Phú Bình, Đại
Từ, Định Hoá, Phú Lương, Võ Nhai và Đồng Hỷ), 1 thành phố trực
thuộc tỉnh (thành phố Thái Nguyên) và 1 thị xã (thị xã Sông Công).
1.1.2.2 Dân số
Thái Nguyên có khoảng 1,1 triệu dân, gồm 8 dân tộc, chủ yếu là
người Kinh (chiếm khoảng 75%). Mật độ dân số trung bình 260
13


Phân tích những đánh giá của các nhà đầu tư về giá trị sản phẩm hiện có ....

người/km2, cao nhất trong các tỉnh miền núi phía Bắc. Tuy nhiên, dân
cư phân bố không đều, vùng cao và vùng núi dân cư rất thưa thớt.
Trong khi đó, ở vùng thành thị cà đồng bằng dân cư rất dày đặc. Nơi
có mật độ dân cư cao nhất là thành phố Thái Nguyên (1.300
người/km2), nơi có mật độ dân cư thấp nhất là huyện Võ Nhai (khoảng
80 người/km2).
1.1.2.3 Hạ tầng giao thông
Hệ thống giao thông thuận lợi tạo điều kiện cho Thái Nguyên
đẩy mạnh giao lưu kinh tế, văn hoá - xã hội với các địa phương khác
trong vùng và cả nước. Hệ thống đường bộ của tỉnh có tổng chiều dài
2.753km. Quốc lộ 3 từ Hà Nội đi Bắc Kạn, Cao Bằng cắt dọc tỉnh
Thái Nguyên, chạy qua thành phố Thái Nguyên - cửa ngõ phía Nam
nối Thái Nguyên với Hà Nội, các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ và cá tỉnh,
thành phố trong cả nước. Các quốc lộ 37, 1B, 279 cùng với hệ thống

tỉnh lộ, huyện lộ là những mạch máu quan trọng nối Thái Nguyên với
các tỉnh trong vùng. Tuyến đường sắt Long Biên - Quán Triều là đầu
mối giao lưu quan trọng giữa vùng đồng bằng sông Hồng với khu
công nghiệp Sông Công, khu gang thép Thái Nguyên và thành phố
Thái Nguyên. Hệ thống đường thuỷ có 2 tuyến sông chính đi Hải
Phòng và Hòn Gai (Quảng Ninh), rất thuận lợi cho việc vận chuyển
hàng hoá từ Thái Nguyên đến hai cảng lớn Hải Phòng và Cái Lân
(Quảng Ninh).
1.1.2.4 Văn hoá, giáo dục - đào tạo
Với vị trí trung tâm vùng Việt Bắc, Thái Nguyên còn là nơi hội
tụ văn hoá của các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc, đầu mối hoạt
động văn hoá, giáo dục của cả vùng núi phía Bắc. Với 8 trường đại
14


NCS. Phạm Công Toàn

Khoá 26 (2005 - 2008)

học và tương đương thuộc Đại học Thái Nguyên, 14 trường cao đẳng,
trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, Thái Nguyên là trung tâm đào
tạo khoa học và giáo dục lớn thứ ba cả nước (sau Hà Nội và thành phố
Hồ Chí Minh). Đó là những tiền đề, những tiềm năng quan trọng đưa
Thái Nguyên trở thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của Việt
Bắc và vùng núi Đông Bắc trong hiện tại và tương lai.
1.2 Tổng quan về kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Nguyên trong
giai đoạn 1996 đến 2005
1.2.1 Tăng trưởng kinh tế
1.2.1.1 Quy mô kinh tế của tỉnh còn nhỏ bé, năm 2005 mới
chiếm 0,77% GDP của cả nước (tính theo giá so sánh 1994).

Tổng sản phẩm quốc nội (GDP - Gross Domestic Product) của
tỉnh năm 2005 đạt gần 3.757 tỷ đồng tính theo giá so sánh 1994 (gần
6.459 tỷ đồng theo giá hiện hành). GDP bình quân đầu người theo giá
hiện hành của tỉnh đạt 5,83 triệu đồng, cao hơn nhiều mức trung bình
của vùng (4,51 triệu đồng) nhưng thấp hơn nhiều so với mức bình
quân của cả nước (10,08 triệu đồng). Như vậy, tỉnh có điểm xuất phát
thuận lợi hơn nhiều tỉnh khác trong vùng nhưng lại không thuận lợi
bằng hầu hết các địa phương khác trong cả nước.
1.2.1.2 Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm của tỉnh
trong cả thời kỳ 1997-2005 cao hơn mức bình quân của toàn vùng,
nhưng trong giai đoạn 2001-2005 lại thấp hơn mức bình quân của
vùng (9,05% so với 10,33%).
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm của tỉnh đạt 8,69%
cả thời kỳ 1997-2005, trong đó giai đoạn 1997-2000 là 8,25% và giai
đoạn 2001-2005 là 9,05%. Năm 2005 tốc độ tăng GDP của tỉnh dự
15


Phân tích những đánh giá của các nhà đầu tư về giá trị sản phẩm hiện có ....

kiến đạt 8,9%. Các tốc độ trên đều cao hơn mức tăng chung của cả
nước nhưng thấp hơn mức tăng của một số tỉnh khác trong vùng và
nhiều địa phương khác trong cả nước.
Vai trò của tỉnh trong vùng trung du miền núi Bắc Bộ ngày càng
được tăng cường, thể hiện rõ qua một số chỉ tiêu quan trọng: Tỷ trọng
GDP (theo giá hiện hành) của tỉnh trong vùng ngày càng tăng lên (từ
12,13% năm 2000 lêm 13,2% năm 2005); GDP bình quân đầu người
tính theo giá hiện hành của tỉnh đạt 111,9% mức bình quân của vùng
năm 2000 và tăng lên 129,2% năm 2005.
Kim ngạch xuất khẩu của tỉnh năm 2005 đạt trên 31,6 triệu

USD.
Xét về mức độ đóng góp cho tăng trưởng GDP, trong thời kỳ
1997-2000, khu vực dịch vụ đóng góp nhiều nhất cho tăng trưởng
GDP của tỉnh (39,4%), tiếp đó là khu vực nông - lâm - thủy sản
(32,7%), còn khu vực công nghiệp - xây dựng chỉ đóng góp 27,9%.
Trong giai đoạn 5 năm tiếp theo, trừ một vài năm, khu vực công
nghiệp - xây dựng tỉnh luôn có đóng góp lớn nhất (47,9%), tiếp đến là
khu vực dịch vụ (35,3%) và cuối cùng là nông - lâm - thủy sản
(16,7%). Như vậy, mức đóng góp của khu vực công nghiệp - xây dựng
đã tăng lên rất nhanh trong khi mức đóng góp của khu vực nông - lâm
- thủy sản giảm rất mạnh (giảm gần một nửa). Điều này thể hiện sự
chuyển dịch mạnh trong cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng hiện đại.
Mặc dù đạt được tốc độ tăng trưởng tương đối cao như vậy
nhưng do xuất phát điểm ban đầu của tỉnh thấp nên trong tương lai,
nếu chỉ duy trì mức tăng trưởng như hiện nay thì Thái Nguyên tăng
đáng kể phần đóng góp của mình cho GDP toàn vùng, nhất là về công
16


NCS. Phạm Công Toàn

Khoá 26 (2005 - 2008)

nghiệp và dịch vụ, và khoảng cách phát triển giữa tỉnh với các địa
phương khác trong cả nước sẽ ngày càng tăng lên.
1.2.1.3 Một số ngành, sản phẩm mũi nhọn có sự phát triển
tương đối nhanh, vững chắc, quy mô ngày càng tăng
Giai đoạn 1997-2005, GDP ngành công nghiệp - xây dựng của
tỉnh tăng bình quân hàng năm 9,93% (trong đó, giai đoạn 2001-2005
tăng 12,45%); ngành thương nghiệp tăng 15,9% (giai đoạn 2001-2005

tăng 13%); dịch vụ vận tải kho bãi và thông tin liên lạc tăng tương
ứng 12,5% và 9,8% trong hai giai đoạn này.
Một số sản phẩm chủ lực của tỉnh như thép (cán), xi măng, giấy
có tốc độ tăng trưởng cao. Giá trị tăng thêm và giá trị xuất khẩu của
sản phẩm chè chế biến (một trong những sản phẩm xuất khẩu quan
trọng của tỉnh) tăng nhanh.
Tuy nhiên, có thể thấy tốc độ tăng trưởng ngành dịch vụ tỉnh nói
chung và ngành du lịch - khách sạn - nhà hàng tỉnh nói riêng chưa
tương xứng với tiềm năng của tỉnh.
1.2.1.4 Hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế tỉnh đã được
nâng lên theo thời gian nhưng mức cải thiện chưa lớn
Năng suất lao động của toàn nền kinh tế tỉnh tính theo GDP giá
so sánh 1994 tăng tương đối nhanh: bình quân cả thời kỳ 1992-2005
tăng 6,62%/năm. Năng suất lao động trong khu vực nông - lâm - thủy
sản tăng nhanh nhất (bình quân 4,85%/năm) nhưng con số tuyệt đối
rất nhỏ, tiếp đó là khu vực công nghiệp - xây dựng (bình quân 3,2%/
năm). Năng suất lao động trong ngành dịch vụ tăng chậm nhất ( bình
quân 1,98%/năm) và có những năm còn bị giảm đi (năm 2002 và 2003
giảm so với năm 2001). Mức năng suất chung của toàn nền kinh tế
17


Phân tích những đánh giá của các nhà đầu tư về giá trị sản phẩm hiện có ....

tỉnh năm 2005 tính theo GDP giá so sánh 1994 đạt 6,27 triệu đồng
(giá hiện hành đạt 10,78 triệu đồng), cao hơn nhiều so với mức trung
bình của vùng Trung du miền núi Bắc Bộ (tương ứng là 4,3 triệu đồng
và 7,6 triệu đồng) nhưng thấp hơn nhiều so với mức bình quân trong
cả nước (tương ứng là 9,2 triệu đồng và 19,62 triệu đồng). Ngành
công nghiệp - xây dựng tỉnh hiện có mức năng suất lao động cao nhất

(17,31 triệu đồng tính theo giá so sánh năm 1994, 30,28 triệu đồng
tính theo giá hiện hành), còn ngành có mức năng suất thấp nhất là
nông - lâm nghiệp - thủy sản (2,74 triệu đồng tính theo giá so sánh
năm 1994 và 4,26 triệu đồng tính theo giá hiện hành).
Một số sản phẩm công, nông nghiệp của Thái Nguyên có khả
năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế nhưng chủ yếu
vẫn là những mặt hàng truyền thống.
1.2.2 Cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế theo ngành của Thái Nguyên đã có sự chuyển
dịch đúng hướng với sự gia tăng nhanh của các ngành công nghiệp và
dịch vụ, nông nghiệp hàng hóa mà tỉnh có lợi thế phát triển (như công
nghiệp khai thác, chế biến, thương mại, du lịch - khách sạn - nhà hàng,
sản xuất sản phẩm cây công nghiệp).
Ngành công nghiệp - xây dựng tỉnh được đầu tư nhiều nhất trong
những năm qua và cho tới nay vẫn là ngành có đóng góp lớn nhất cho
GDP của tỉnh: 33,2% năm 1996, 30,4% năm 2000, 38,5% năm 2004
và 38,6% năm 2005.
Tỷ trọng của ngành dịch vụ của tỉnh trong GDP tăng nhanh
trong giai đoạn 1996-2000 nhưng hầu như không cải thiện trong giai
đoạn 2001-2005. Xu thế này tương đương đối giống với xu thế phát
18


NCS. Phạm Công Toàn

Khoá 26 (2005 - 2008)

triển ngành dịch vụ cả nước trong giai đoạn này. Nguyên nhân chủ
yếu là do các ngành dịch vụ tỉnh chưa có đủ các điều kiện cần thiết để
phát triển (vốn, trang thiết bị, tổ chức kinh doanh, cơ chế chính sách,

thị trường...).
Phần đóng góp của ngành nông - lâm - thủy sản cho GDP tỉnh
giảm nhanh qua các năm (mặc dù vẫn tăng lên về giá trị tuyệt đối),
phù hợp với đường lối chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh. Tỷ trọng của ngành này giảm từ
36,9% năm 1996 xuống 33,7% năm 2000 và tiếp đó xuống 26,9%
năm 2004 và 26,5% năm 2005.
Cơ cấu theo thành phần kinh tế đang chuyển dịch theo đúng quy
luật của nền kinh tế thị trường với sự tăng trưởng rất nhanh và gia tăng
dần tỷ trọng của khu vực kinh tế ngoài Nhà nước, nhất là trong các
lĩnh vực thương mại, du lịch, khách sạn - nhà hàng, giao thông vận tải.
Tuy nhiên, nhìn chung hoạt động của các loại hình kinh tế tư nhân vẫn
mang tính tự phát, quy mô còn nhỏ bé, vốn và lao động ít, doanh thu
thấp so với bình quân chung của cả nước, hiệu quả kinh doanh chưa
cao. Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng có đóng
góp cho GDP của tỉnh và xuất khẩu nhưng tỷ trọng còn nhỏ và mới
chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp. Năm 2004, khu vực này đóng góp
6,2% cho giá trị sản xuất công nghiệp tỉnh.
Chương trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước của tỉnh đã
góp phần vào chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế phù hợp với nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xu thế phát triển
chung.

19


Phân tích những đánh giá của các nhà đầu tư về giá trị sản phẩm hiện có ....

Chương trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước của tỉnh được
thực hiện có hiệu quả kể từ năm 1998 đến nay. Chương trình nhìn

chung đạt được mục tiêu đề ra: mở rộng quy mô vốn của doanh
nghiệp; lành mạnh hóa loại hình tài chính doanh nghiệp; cơ cấu lại lao
động doanh nghiệp; huy động được vốn của xã hội vào phát triển sản
xuất kinh doanh; cơ chế quản lý doanh nghiệp trở nên hiệu quả, năng
động hơn, phù hợp với kinh tế thị trường; nâng cao vai trò làm chủ
doanh nghiệp của người lao động; và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp - mục tiêu lớn nhất của chương trình cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước.
Cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ cũng đang có sự chuyển dịch theo
hướng giảm bớt chênh lệch giữa các vùng, mở rộng đô thị, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn.
- Khu vực đô thị: Quy mô đô thị ngày càng mở rộng, chất lượng
đô thị ngày càng được nâng cao. Đây là nơi tập trung các hoạt động
sản xuất công nghiệp và dịch vụ.
- Khu vực nông thôn: Khu vực này đã có sự thay đổi cơ bản theo
hướng sản xuất hàng hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
tăng tỷ trọng của lĩnh vực sản xuất phi nông nghiệp. Một số vùng sản
xuất cây, con tập trung và làng nghề tiểu thủ công nghiệp (TTCN)
được hình thành và phát triển. Các hợp tác xã kiểu mới ở nông thôn
được thành lập, đóng vai trò chính trong việc cung cấp các dịch vụ cày
bừa, tưới tiêu, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, cung ứng vật tư
kỹ thuật, chuyển giao công nghệ,... phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Một số mô hình sản xuất có hiệu quả đã xuất hiện ở nông thôn Thái

20


NCS. Phạm Công Toàn

Khoá 26 (2005 - 2008)


Nguyên như mô hình kinh tế trang trại, kinh tế gò đồi ... Hệ thống kết
cấu hạ tầng nông thôn được cải thiện đáng kể trong những năm qua.
1.3 Thực trạng phát triển các ngành, lĩnh vực và sản phẩm
chủ lực
1.3.1 Ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và các sản
phẩm chủ lực
1.3.1.1 Tăng trưởng và cơ cấu
Thái Nguyên có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển công
nghiệp. Trong thời kỳ 1996-2005, GDP ngành tăng bình quân hàng
năm 9,93% (trong đó giai đoạn 2001-2005 tăng nhanh hơn, đạt
12,45%/năm, riêng ngành công nghiệp tăng nhanh hơn với tốc độ
13,65%/năm).
Tỷ trọng của ngành trong GDP toàn tỉnh liên tục tăng lên qua
các năm và cho tới nay ngành này vẫn đóng góp nhiều nhất cho GDP
của tỉnh. Năm 2005, ngành công nghiệp - xây dựng chiếm 38,64%
GDP toàn tỉnh. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng công
nghiệp hóa đã góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế của
tỉnh, từng bước khẳng định xu thế đúng đắn trong chuyển dịch cơ cấu
kinh tế của tỉnh.
Sau một số năm sản xuất công nghiệp sa sút (năm 1998, 1999
tăng trưởng âm), từ năm 2000 đến nay, sau khi Khu Gang thép được
phục hồi, sản xuất công nghiệp trên địa bàn được phục hồi nhanh với
tốc độ tăng trưởng hàng năm ở mức khá cao. Trừ năm 2003, giá trị sản
xuất công nghiệp tỉnh (theo giá so sánh năm 1994) hàng năm đều tăng
trên 13%, riêng năm 2001 tăng tới 30,1%, bình quân cả giai đoạn
2001-2005 tăng 17%. Năm 2005 giá trị sản xuất công nghiệp theo giá
21



Phân tích những đánh giá của các nhà đầu tư về giá trị sản phẩm hiện có ....

so sánh năm 1994 đạt 4.760 tỷ đồng. Khu vực kinh tế Nhà nước vẫn
chiếm vai trò quan trọng nhất trong ngành công nghiệp tỉnh và thường
xuyên đóng góp trên 70% cho giá trị sản xuất công nghiệp tỉnh.
1.3.2.2 Hiện trạng các ngành và sản phẩm công nghiệp chủ
yếu
Năm 2005 toàn tỉnh có gần 8.200 cơ sở sản xuất công nghiệp,
trong đó có trên 1.000 doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh theo Luật
Doanh nghiệp. Trong số này có trên 130 cơ sở sản xuất công nghiệp
lớn, điển hình là Công ty Gang thép Thái Nguyên, Công ty vật liệu
xây dựng, Điện lực Thái Nguyên, Công ty phụ tùng máy số I, Công ty
Natsteel Vina... Sản xuất công nghiệp giai đoạn 1998-1999 tuy có
giảm đang kể do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính
khu vực, do một số doanh nghiệp chậm đổi mới, năng lực quản lý hạn
chế như sau đó lại tăng trở lại.
Các ngành công nghiệp chủ yếu của tỉnh bao gồm:
- Công nghiệp sản xuất cơ khí: Gồm chế tạo máy, cơ khí tiêu
dùng, lắp ráp sản xuất phụ tùng, sửa chữa và cung cấp phụ tùng thay
thế, tập trung chủ yếu ở Khu công nghiệp Sông Công và các nhà máy
quốc phòng trong tỉnh. Các sản phẩm chủ yếu là các loại máy nông
nghiệp, động cơ diezen, các loại phụ tùng, hộp số, công cụ, dụng cụ
cơ khí, dụng cụ y tế, băng chuyền...
- Công nghiệp khai khoáng, luyện kim: Gồm than, quặng sắt,
chì, kẽm, thiếc, đôlômít, pirit, titan, đá xây dựng, sét, ... phân bố ở các
huyện phía Bắc thành phố Thái Nguyên. Công nghiệp khai khoáng
của địa phương chủ yếu là tận thu. Trừ thiếc được chế biến tinh, các

22



NCS. Phạm Công Toàn

Khoá 26 (2005 - 2008)

loại quặng khai thác sau khi khai thác đều được bán thô. Các thiết bị
phân tích kiểm tra tiên tiến, hiện đại không có.
- Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng: Gồm cát, sỏi, xi măng,
sét, đá xẻ, gạch xây..., tập trung ở Đồng Hỷ, Võ Nhai, thành phố Thái
Nguyên, Phú Lương, Phổ Yên. Ngành khai thác cát sỏi xây dựng tập
trung ở khu vực sông Cầu, sông Công. Có 9 doanh nghiệp và 4 nhà
máy xi măng lò đứng với công suất nhỏ. Có hai nhà máy sản xuất
gạch tuy-nen: Nhà máy gạch Cao Ngạn có công suất 20 triệu viên/năm
và nhà máy gạch Phổ Yên mới đưa vào vận hành với công suất thiết
kế 50 triệu viên/năm.
- Công nghiệp nhẹ: Các sản phẩm chủ yếu là hàng may mặc, da
giày, giấy, tơ tằm, bao bì, thực phẩm tươi sống, bia, nước giải khát,
lắp ráp, kinh doanh xe máy...
- Công nghiệp chế biến nông, lâm sản, thực phẩm: Các sản phẩm
chủ yếu của ngành là chè, trái cây, bia hơi, thực phẩm đông lạnh, nước
khoáng,...
- Công nghiệp điện tử tin học: Gồm lắp ráp điện tử, ứng dụng
công nghệ thông tin, dịch vụ cung cấp, sửa chữa lắp đặt, bảo trì các
thiết bị điện tử tin học.
Từ năm 2000 đến 2005, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu
truyền thống của tỉnh phát triển khá. Năm 2005 sản lượng khai thác
than sạch đạt 753,7 nghìn tấn, thiếc thỏi 340 nghìn tấn, xi măng 492,1
nghìn tấn, thép cán kéo 564,7 nghìn tấn. Nhiều sản phẩm hàng hóa
mới như giấy, đồ uống, hàng may mặc, vật liệu xây dựng đã được thị
trường chấp nhận, sản lượng tăng khá nhanh qua các năm.


23


Phân tích những đánh giá của các nhà đầu tư về giá trị sản phẩm hiện có ....

- Các ngành tiểu thủ công nghiệp: Hoạt động sản xuất tiểu thủ
công nghiệp của Thái Nguyên còn nhỏ bé, tập trung chủ yếu ở thành
phố Thái Nguyên, Đồng Hỷ và một vài huyện. Nhìn chung, quy mô
sản xuất nhỏ, chủ yếu là lao động thủ công, một số cơ sở gia công sửa
chữa cơ khí sản xuất công cụ, dụng cụ có trang bị những thiết bị máy
móc nhưng đã lạc hậu. Các cơ sở cán kéo thép thiết bị đầu tư chưa
đồng bộ, chất lượng sản phẩm thấp, sản lượng chiếm khoảng 1% tổng
sản lượng sản xuất trên địa bàn.
Ở Thái Nguyên hoạt động của làng nghề còn yếu, một số nghề
truyền thống đang bị mai một trong khi các nghề mới chưa được phát
triển rộng rãi. Trong những năm gần đây, một số lĩnh vực sản xuất và
một số nghề đã từng bước được khôi phục và có chiều hướng phát
triển như đan lát (cót, rổ, rá, rọ tôm), sản xuất mía đường, chế biến mì,
bún bánh và thêu ren.
Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đã góp phần quan
trọng vào sự tăng trưởng kinh tế của tỉnh, đáp ứng nhu cầu trong tỉnh
về các loại sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ và mở rộng thị trường ra
ngoài tỉnh đối với một số sản phẩm. Sự phát triển tiểu thủ công nghiệp
đã góp phần thúc đẩy tiến trình đô thị hóa nông thôn, hình thành thêm
các thị trấn, thị tứ trên cơ sở hình thành những ngành nghề mới tại các
xã và cụm xã, góp phần nâng cao dân trí, thúc đẩy nhanh quá trình xây
dựng kết cấu hạ tầng nông thôn.
1.3.2.3 Thực trạng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong
công nghiệp

Trong những năm qua, tuy các thành phần kinh tế đã đầu tư
nhiều cho cải tạo nhà xưởng, nâng cấp máy móc, trang thiết bị, ... để
24


NCS. Phạm Công Toàn

Khoá 26 (2005 - 2008)

tăng năng lực sản xuất nhưng trình độ công nghệ của các ngành công
nghiệp tỉnh nhìn chung chưa cao, trang thiết bị sử dụng trong chế biến,
chế tạo còn đơn giản, lao động thủ công còn chiếm tỷ lệ tương đối lớn
trong hoạt động sản xuất công nghiệp.
Trang bị trong ngành công nghiệp có tới trên 60% là thiết bị,
công nghệ cũ, lạc hậu. Tốc độ đổi mới công nghệ thấp chỉ ở mức
3%/năm. Tính chung năng lực sản xuất công nghiệp chưa vượt quá
50% công suất thiết kế với mức cơ giới hóa 45%. Mức tiêu hao năng
lượng, nguyên liệu cao hơn gấp nhiều lần mức trung bình tiên tiến của
thế giới. Sản phẩm đạt chất lượng thấp, chỉ đạt khoảng 70% tiêu chuẩn
nội địa, 15% tiêu chuẩn xuất khẩu.
Các cơ sở sản xuất cơ khí trong tỉnh được đầu tư xây dựng từ
thập kỷ 70, trang thiết bị lạc hậu. Ngành chế biến khoáng sản của tỉnh
sử dụng công nghệ cũ, lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường.
Một số cơ sở chế biến sử dụng công nghệ nhập khẩu, ví dụ chế
biến chè khô (công nghệ Nhật Bản), chế biến lợn sữa đông lạnh (công
nghệ Đài Loan), nhưng trình độ công nghệ mới chỉ ở mức trung bình.
Nguồn vốn đầu tư có hạn là lý do chủ yếu khiến cho trình độ công
nghệ của ngành công nghiệp tỉnh thấp hơn so với địa phương khác
trong cả nước.
1.3.2.4 Thực trạng lao động, năng suất lao động công nghiệp

Lao động công nghiệp - xây dựng tỉnh hiện chiếm 13,75% tổng
số lao động đang làm việc của tỉnh. Tỷ trọng này tăng dần qua các
năm cùng với sự gia tăng tỷ trọng giá trị sản xuất và GDP công nghiệp
tỉnh. Trình độ lao động công nghiệp tỉnh cao hơn nhiều so với các địa

25


×