Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Việc tham gia chính sách bảo hiểm y tế của ngườidân xã Hòa Thịnh, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (579.75 KB, 95 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ngày càng phát triển, đi cùng với sự phát triển đó là chất lượng cuộc
sống người dân dần được cải thiện về mọi mặt. Đặc biệt, trong lĩnh vực chăm sóc
sức khỏe, việc nghiên cứu và áp dụng khoa học – công nghệ tiên tiến vào khám,
chữa bệnh đã mang lại những kết quả chữa trị thật sự hiệu quả. Tuy nhiên, đi cùng
với nền y học hiện đại là chi phí khám, chữa bệnh ngày càng cao. Chính vì vậy, việc
thực hiện chính sách bảo hiểm y tế cho người dân trở thành chính sách xã hội quan
trọng, mang ý nghĩa nhân đạo, nhân văn sâu sắc với tinh thần tương thần tương ái
“Mình vì mọi người, mọi người vì mình”. Bảo hiểm y tế là phương thức phù hợp
với nền kinh tế thị trường, là biện pháp chi trả tiến bộ, văn minh, đảm bảo tính công
bằng, hiệu quả và đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe cho đại đa số người dân, nhất
là người nghèo, tránh được nguy cơ đói nghèo do việc chi trả viện phí khám, chữa
bệnh. Thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân sẽ tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy xã hội
hóa công tác chăm sóc sức khỏe trong cộng đồng.
Tại Phú Yên, bảo hiểm y tế là một chính sách rất quan trọng trong hệ thống
chính sách an sinh xã hội của tỉnh. Bảo hiểm y tế không những giải quyết những
vấn đề phát sinh trong việc thanh toán chi phí khám, chữa bệnh mà còn góp phần
đảm bảo sự công bằng trong khám, chữa bệnh của người dân. Cùng với sự quan
tâm, lãnh đạo của ngành y tế tỉnh trong việc chú trọng đầu tư về trang thiết bị hiện
đại, áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, đội ngũ y bác sĩ có trình độ vào quá trình
khám, chữa bệnh của người dân việc triển khai thực hiện chính sách BHYT đạt
được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Nhưng vấn đề thu hút người dân tham gia chính
sách BHYT còn gặp nhiều hạn chế ở tỉnh, ngay sau khi Luật BHYT được Quốc hội
thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/07/2009 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật BHYT thông qua ngày 01/01/2015 qua 5 năm thực hiện Luật BHYT và 6
tháng thực hiện Luật BHYT sửa đổi, bổ sung, công tác phát triển mở rộng diện bao
phủ BHYT ở tỉnh còn thấp so với tỉ lệ chung của cả nước. Trong năm 2014, toàn
tỉnh có tỷ lệ tham gia BHYT chiếm 64%, tỷ lệ này vẫn thấp so với tỷ lệ tham gia
BHYT ở các tỉnh khác. Đặc biệt, tỷ lệ người dân tham gia BHYT hộ gia đình còn
rất thấp, chiếm 14%; đối với những người thuộc hộ cận nghèo thì có tổng số đối


1


tượng tham gia BHYT là 51,182 người, chiếm 49% trong tổng số 104,343 đối tượng
thuộc diện cận nghèo; với các đối tượng trẻ em dưới 6 tuổi thì vẫn chưa được cấp
thẻ BHYT kịp thời (nhất là trẻ em ở các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa); tỷ lệ tham
gia của các đối tượng bắt buộc trong các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, hộ kinh
doanh cá thể... chưa đạt 100% theo quy định nhưng chưa có giải pháp hữu hiệu để
khắc phục tình trạng này; tỷ lệ tham gia BHYT của các đối tượng tự nguyện còn rất
thấp chỉ chiếm 20% trong tổng số đối tượng tham gia BHYT là 64,004 người so với
tổng số đối tượng là 315,566 người. Vì vậy, quá trình thực hiện chính sách BHYT
trên địa bàn tỉnh vẫn còn gặp một số vấn đề khác nhau, xuất phát từ phía người thực
hiện cũng như người tham gia BHYT làm cho tỷ lệ tham gia BHYT của người dân
trong tỉnh chưa cao.
Trong thực trạng chung của việc tham gia chính sách BHYT của người dân,
những năm gần đây tại địa bàn xã Hòa Thịnh, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên có thể
thấy việc tham gia chính sách BHYT đã làm giảm gánh nặng về chi phí khám, chữa
bệnh cho người dân tại địa phương. Tuy nhiên, với đặc thù là một xã miền núi
nghèo nên mức độ bao phủ của BHYT tại địa phương vẫn còn thấp.
Để tìm hiểu thực trạng tham gia BHYT của người dân đồng thời phát hiện ra
nguyên nhân, từ đó đề xuất một số giải pháp góp phần đảm bảo việc tham gia
BHYT của người dân được tăng lên trên địa bàn nghiên cứu. Tác giả đã tiến hành
thực hiện nghiên cứu đề tài: “ Việc tham gia chính sách bảo hiểm y tế của người
dân xã Hòa Thịnh, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên” để làm khóa luận tốt nghiệp
cho ngành học của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu việc tham gia chính sách bảo hiểm y tế của người dân xã Hòa
Thịnh, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên. Từ đó đề xuất một số giải pháp phù hợp góp
phần nâng cao hiệu quả việc tham gia chính sách bảo hiểm y tế của người dân tại

địa bàn nghiên cứu.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu và tổng hợp cơ sở lý luận chung về bảo hiểm y tế
- Tìm hiểu thực trạng tham gia chính sách bảo hiểm y tế tại xã Hòa Thịnh,
huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên.

2


- Tìm hiểu các yếu tố tác động đến việc tham gia chính sách BHYT của người
dân xã Hòa Thịnh, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên.
- Đề xuất một số giải pháp góp phần đảm bảo việc tham gia chính sách bảo
hiểm y tế của người dân trên địa bàn xã Hòa Thịnh, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Việc tham gia chính sách bảo hiểm y tế của người dân xã Hòa Thịnh, huyện Tây
Hòa, tỉnh Phú Yên
3.2. Khách thể nghiên cứu
Người dân (trong độ tuổi từ 18 tuổi trở lên) tham gia bảo hiểm y tế trên địa bàn
xã Hòa Thịnh cụ thể là ở hai thôn: thôn Mỹ Hòa, thôn Mỹ Xuân và cán bộ triển khai
bảo hiểm y tế.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Địa bàn nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu về việc tham gia chính sách bảo hiểm
y tế của người dân được thực hiện trên địa bàn xã Hòa Thịnh, huyện Tây Hòa, tỉnh
Phú Yên.
- Thời gian nghiên cứu: Thời gian nghiên cứu được tiến hành từ tháng 01/
2016 đến tháng 05/ 2016.
- Nội dung nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu một số khía cạnh như sau:
khảo sát thực trạng việc tham gia chính sách bảo hiểm y tế của người dân tại địa bàn
xã Hòa Thịnh, từ đó đi sâu vào tìm hiểu nguyên nhân, hậu quả của vấn đề và đề

xuất một số giải pháp nhằm góp phần hạn chế, giải quyết thực trạng trên.
5. Giả thuyết nghiên cứu
- Người dân xã Hòa Thịnh, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên đã có ý thức tham
gia bảo hiểm y tế.
- Việc tham gia chính sách bảo hiểm y tế của người dân, xã Hòa Thịnh, huyện
Tây Hòa, tỉnh Phú Yên còn hạn chế là do nhiều nguyên nhân khác nhau.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài tác giả sử dụng một số phương pháp sau
đây:
6.1.

Phương pháp chọn mẫu
Nhằm phục vụ cho đề tài nghiên cứu và thu thập, tổng hợp những thông tin

mang tính khách quan, phản ánh một cách trung thực, chính xác về diễn biến thực tế
của vấn đề, tác giả dùng phương pháp chọn mẫu.Mặt khác, trong quá trình nghiên
cứu do có nhiều yếu tố khác nhau chi phối nên mẫu nghiên cứu được lựa chọn gồm

3


100 đối tượng là người dân, thuộc hai thôn Mỹ Hòa và Mỹ Xuân thuộc xã Hòa
Thịnh làm mẫu nghiên cứu.
6.2. Phương pháp thu thập thông tin
6.2.1. Phương pháp trưng cầu ý kiến
Tác giả sử dụng phương pháp này với mục đích là thu thập được nhiều thông
tin từ trực tiếp đối tượng nghiên cứu. Từ đó, có những thông tin thiết thực hơn,phát
hiện ra những đặc trưng khác nhau phù hợp với điều kiện khảo sát trên địa bàn
nghiên cứu.
6.2.2. Phương pháp thu thập thông tin

Sử dụng phương pháp này nhằm tìm hiểu, phân tích, nghiên cứu các số liệu
thống kê từ các nguồn khác nhau, các thông tin từ báo chí các trang mạng. Đặc biệt,
là báo cáo của văn phòng uỷ ban xã…nhằm phục vụ đề tài nghiên cứu.
6.2.3. Phương pháp phỏng vấn
Phương pháp này được tiến hành với người dân ở địa phương, đồng thời kèm
theo đó là phương pháp phỏng vấn sâu đối với cán bộ tại cơ quan uỷ ban xã.Việc sử
dụng phương pháp phỏng vấn giúp cho quá trình điều tra, thu thập thông tin được
đầy đủ và toàn diện hơn, phát hiện ra những vấn đề tìm ẩn mà các phương pháp
khác chưa khái quát hết.
6.2.4. Phương pháp quan sát
Tác giả sử dụng phương pháp quan sát để hỗ trợ, lồng ghép các phương pháp
trưng cầu ý kiến, phương pháp phỏng vấn trong quá trình điều tra. Quan sát cách
làm việc của cán bộ xã khi thực hiện chính sách bảo hiểm y tế tại địa phương, quan
sát những biểu hiện, thái độ của người dân khi tiến hành khảo sát trên địa bàn xã
Hòa Thịnh, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên.
6.3. Phương pháp xử lý thông tin
Thực hiện theo phương pháp này, kết quả thu được từ những câu trả lời đã
phát từ phiếu trưng cầu ý kiến thu thập từ người dân và chính quyền tại địa phương,
tác giả thực hiện công việc thống kê các phương án trong từng câu hỏi, sử dụng
phần mềm SPSS để xử lý số liệu, tính tỷ lệ phần trăm và xem xét các mối tương
quan giữa các câu hỏi với nhau, nhằm phục vụ đề tài nghiên cứu.
7. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu
7.1. Ý nghĩa ý luận
Những thông tin thu thập được từ thực tế thực trạng tham gia bảo hiểm y tế tại
xã Hòa Thịnh, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên sẽ góp phần bổ sung, đóng góp thêm

4


vào hệ thống cơ sở dữ liệu cho việc phân tích và nghiên cứu lý luận về bảo hiểm y

tế.
7.2.

Ý nghĩa thực tiễn
Thông qua việc nghiên cứu đề tài trên làm cơ sở để đưa ra một số giải pháp

góp phần nâng cao hiệu quả việc tham gia bảo hiểm y tế của người dân xã Hòa
Thịnh, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên để đảm bảo sức khỏe, góp phần nâng cao chất
lượng cuộc sống của người dân nơi đây.
8. Cấu trúc khóa luận tốt nghiệp.
Bố cục khóa luận gồm có phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận, phu lục
và danh mục tài liệu tham khảo. Trong đó, phần nội dung gồm có 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận
Chương II: Thực trạng việc tham gia chính sách bảo hiểm y tế của người dân
xã Hòa Thịnh, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên.
Chương III: Một số giải pháp góp phần đảm bảo việc tham gia chính sách
bảo hiểm y tế xã Hòa Thịnh, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên.

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.

Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Bảo hiểm y tế là một trong những chính sách an sinh xã hội có ý nghĩa nhân

văn hướng tới mục tiêu công bằng và hiệu quả trong chăm sóc sức khỏe người dân
ở mỗi quốc gia, vì vậy ở những quốc gia có nền kinh tế phát triển BHYT là một
trong những công cụ đảm bảo chất lượng cuộc sống cho người dân. Ở Việt Nam,
nhận thức được sự cần thiết của BHYT trong giai đoạn mới, Đảng và Nhà nước đã
có sự quan tâm, chỉ đạo sát sao việc thực hiện chính sách này. Tuy nhiên, với đặc

thù phát triển của nền kinh tế nông nghiệp, sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước chưa ổn định, do đó việc hỗ trợ người dân tham gia BHYT còn gặp nhiều khó
khăn, bất cập. Vì vậy, để giúp người dân cải thiện chất lượng cuộc sống nhất là
trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, có cơ hội tiếp cận với chính sách BHYT luôn là
vấn đề được các nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm. Đã có nhiều công trình nghiên
5


cứu, điều tra, khảo sát các vấn đề liên quan đến chính sách BHYT qua từng giai
đoạn khác nhau, với mục đích phát hiện ra những hạn chế và nguyên nhân còn tồn
tại trong quá trình thực hiện chính sách BHYT từ đó có những đề xuất giải pháp
phù hợp góp phần làm cho quá trình thực hiện chính sách BHYT của cả nước đạt
hiệu quả cao hơn, tăng độ bao phủ BHYT trong cộng đồng.
Trong những năm qua đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu khoa học liên quan
đến chính sách BHYT, cụ thể:
Đề tài luận văn thạc sĩ “Thực trạng tham gia bảo hiểm y tế của sinh viên một
số trường đại học, cao đẳng tại tỉnh Thái Nguyên (2006-2008)” của tác giả Mai Thị
Thu Nga. Nghiên cứu này chỉ ra thực trạng tham gia BHYT của sinh viên một số
trường đại học, cao đẳng trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, điều tra sự hiểu biết, thái
độ cũng như là nguyện vọng của sinh viên khi tham gia BHYT. Tuy nhiên nghiên
cứu này chưa quan tâm nhiều đến việc đưa ra các biện pháp giải quyết những vấn
đề còn hạn chế về BHYT từ phản hồi của sinh viên.
Hay đề tài “Thực trạng và nhu cầu tham gia bảo hiểm y tế của người dân
nông thôn hiện nay” của tác giả Nghiêm Xuân Nam. Nghiên cứu này chỉ ra thực
trạng tham gia BHYT của người dân, đồng thời tìm hiểu nhận thức, mức độ tham
gia và sử dụng BHYT của người dân, tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ
tham gia chính sách BHYT, chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh và thái độ làm
việc của nhân viên y tế. Từ đó, xác định nhu cầu hiện tại của người dân và đưa ra
biện pháp phù hợp để giải quyết vấn đề. Tuy nhiên nghiên cứu này có địa bàn
nghiên cứu rộng, chưa đi sâu vào phân tích ở một địa phương cụ thể.

Nghiên cứu về “Thực trạng tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện ở Hà Tĩnh” của
Chu Thị Kim Loan và Nguyễn Hồng Ban, đăng trên tạp chí Khoa học và Phát triển
năm 2013. Nghiên cứu này đã điều tra tìm hiểu thực trạng tham gia BHYT tự
nguyện của người dân trên địa bàn thành phố Hà Tĩnh. Kết quả điều tra cho thấy tỷ
lệ tham gia BHYT của người dân thành phố Hà Tĩnh có xu hướng tăng lên nhưng
vẫn chiếm tỷ lệ khiêm tốn trong tổng số đối tượng tham gia BHYT, qua điều tra cho
thấy tỷ lệ người dân sử dụng BHYT trong khám, chữa bệnh chiếm tỷ lệ khá cao.
Tuy nhiên người dân vẫn còn gặp một số khó khăn, phiền hà khi khám, chữa bệnh
bằng thẻ BHYT tự nguyện, kết hợp với phỏng vấn sâu nghiên cứu đã đề xuất ra một

6


số giải pháp để thúc đẩy người dân thành phố Hà Tĩnh tích cực tham gia BHYT tự
nguyện.
Nghiên cứu về “Tình hình tham gia chính sách bảo hiểm y tế của người dân
thành phố Cần Thơ” năm 2012 của tác giả Cao Minh Chu. Nghiên cứu này khảo sát
tình hình tham gia BHYT của người dân thành phố Cần Thơ đồng thời tìm ra
nguyên nhân, khó khăn và hạn chế của trong việc tham gia BHYT của người dân
nơi đây. Đồng thời đưa ra những biện pháp phù hợp giải quyết vấn đề còn tồn tại.
Với đề tài nghiên cứu “Giải pháp thu hút nông dân tham gia BHYT tự nguyện
ở tỉnh Hải Dương” của tác giả Trần Qúy Quỳnh. Nghiên cứu này đã đưa ra được
thực trạng triển khai chính sách BHYT, từ đó đưa ra các biện pháp cụ thể thu hút
người dân tham gia BHYT tự nguyện. Tuy nhiên, ở đề tài này giải pháp đưa ra chỉ
chú trọng vào giải pháp chung cho cả tỉnh mà chưa có sự quan tâm đến việc đưa ra
các giải pháp riêng, cụ thể cho từng địa phương trong tỉnh.
Cùng với đề tài “Thực trạng thực hiện chính sách bảo hiểm y tế toàn dân tại
tỉnh Thanh Hóa” của tác giả Đặng Trần Anh Minh. Đề tài đã nghiên cứu về thực
trạng công tác thực hiện chính sách BHYT toàn dân tại tỉnh Thanh Hóa. Kết quả
nghiên cứu cho thấy tỷ lệ tham gia BHYT của người dân trong tỉnh có xu hướng

tăng lên, tuy nhiên vẫn tồn tại một số khó khăn, hạn chế nhất định làm cho mức độ
bao phủ BHYT trong dân vẫn chưa cao. Từ thực trạng đó, đề tài đã đưa ra một số đề
xuất giải pháp nhằm góp phần thúc đẩy việc tham gia BHYT ở người dân, phấn đấu
đạt chỉ tiêu thực hiện BHYT theo lộ trình chính phủ đề ra.
Ngoài ra, phải kể đến công trình nghiên cứu của Tùng Anh với đề tài “Bảo
hiểm y tế toàn dân – thực trạng và kiến nghị” được đăng trên Tạp chí BHXH, kỳ 2,
tháng 1/2014. Theo bài viết này, tác giả đưa ra những thuận lợi và khó khăn trong
quá trình triển khai thực hiện BHYT toàn dân và đưa ra những giải pháp, kiến nghị
sửa đổi, bổ sung Luật BHYT.
Như vậy, nhìn chung các đề tài nghiên cứu trên đều đề cập đến nhiều khía
cạnh khác nhau của BHYT. Tuy nhiên chưa có nghiên cứu nào tập trung vào điều
tra khảo sát việc tham gia BHYT ở một địa phương cụ thể theo hướng có sự quan
tâm của hoạt động công tác xã hội. Vì vậy, đề tài nghiên cứu “Việc tham gia chính

7


sách bảo hiểm y tế của người dân xã Hòa Thịnh, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên”
là thực sự cần thiết và có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Chính sách
Thuật ngữ “chính sách” trên thực tế được sử dụng với nhiều định nghĩa khác
nhau.
Từ góc độ chính sách công có thể định nghĩa: chính sách là chương trình hành
động do các nhà lãnh đạo hay các nhà quản lý đưa ra để giải quyết một vấn đề nào
đó thuộc phạm vi thẩm quyền của mình. (TS. Lê Chi Mai)
Hay chính sách là hoạt động chính trị, liên quan đến những mục tiêu cơ bản,
một chuỗi các hành động, một tập hợp các quy tắc và điều chỉnh. Có thể phân tích
chính sách theo nghĩa các giá trị, mục tiêu (targets), nguồn lực, phong cách và chiến
lược. (PGS.TS. Bùi Thế Cường – bài giảng chính sách xã hội).

Như vậy, khi nói đến chính sách xã hội luôn có các yếu tố sau:
Một chủ thể tạo dựng và thực thi chính sách
Các nhóm xã hội khác nhau bị tác động bởi chính sách
Một chính sách phân biệt đối xử giữa các nhóm xã hội
Mục tiêu chung của toàn hệ thống. (Vũ Cao Đàm – Đề cương bài giảng xã hội
học môi trường).
Trong đề tài này, chính sách được hiểu là chính sách công do Nhà nước ban
hành, bao gồm các cấp có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa
phương. Nó đối nghĩa với chính sách tư - chính sách riêng do các tổ chức, các
doanh nghiệp, các hiệp hội, đoàn thể đề ra để án dụng trong phạm vi của tổ chức,
doanh nghiệp, hiệp hội hay đoàn thể đó.
1.2.2. Chính sách xã hội
Đứng ở nhiều góc độ, các nhà nghiên cứu có những định nghĩa khác nhau về
chính sách xã hội, cụ thể như sau:
Chính sách xã hội là công cụ quan trọng của Đảng và Nhà nước để thực hiện
và điều chỉnh những vấn đề xã hội đang được đặt ra đối với con người (con người ở
đây được xét theo góc độ con người xã hội, chứ không phải là con người kinh tế,
hay con người kỹ thuật…) để thỏa mãn hoặc phần nào đáp ứng các nhu cầu cuộc
8


sống chính đáng của con người, phù hợp với các đối tượng khác nhau, trong những
trình độ kinh tế, văn hóa, xã hội của các thời kỳ nhất định, nhằm bảo đảm sự ổn
định và phát triển của xã hội…(Phạm Tất Dong - Chính sách xã hội)
Chính sách xã hội là loại chính sách được thể chế bằng pháp luật của Nhà
Nước thành một hệ thống quan điểm, chủ trương, phương hướng và biện pháp để
giải quyết những vấn đề xã hội nhất định, trước hết là những vấn đề xã hội liên
quan đến công bằng xã hội và phát triển an sinh xã hội, nhằm góp phần ổn định,
phát triển và tiến bộ xã hội. (PGS.TS.Lê Trung Nguyệt).
Chính sách xã hội trước hết là một khoa học, chính sách xã hội phải là thành

tựu của những sự nghiên cứu nghiêm túc của khoa học xã hội, trả lời những câu hỏi
của cuộc sống, ở dạng hoạt động thực tiễn của đặc thù này. Chính sách xã hội cần
được xem xét như một lĩnh vực khoa học đặc thù, bám chắc vào sự vận động của
thực tiễn, khoa học nghiên cứu về chính sách xã hội cần phải mạnh dạn trả lời
những câu hỏi đặt ra từ thực trạng kinh tế xã hội nước ta hiện nay. (GS. Phạm Như
Cương).
Chính sách xã hội được xem như một sự tác động của Nhà nước vào việc
phân phối và ổn định các hoàn cảnh sống cho con người thuộc các nhóm xã hội
khác nhau trong lĩnh vực thu nhập, việc làm, sức khỏe, nhà ở và giáo dục, trên cơ sở
mở rộng bình đẳng và công bằng xã hội trong một phối cảnh lịch sử và cấu trúc xã
hội nhất định. (Bùi Thế Cường, 2002, Chính sách xã hội và Công tác xã hội ở Việt
Nam thập niên 90, NXB: KHXH).
Từ định nghĩa về chính sách xã hội nêu trên có thể thấy rằng khái niệm
chính sách xã hội bao gồm những yếu tố cơ bản hợp thành sau đây:
Thứ nhất, chủ thể đặt ra chính sách xã hội: tổ chức chính trị lãnh đạo. Ở
nước ta là Đảng Cộng sản, Nhà nước và các tổ chức hoạt động xã hội.
Thứ hai, nội dung các chính sách xã hội dựa trên những quan điểm, tư tưởng
chỉ đạo và thể chế nào?
Thứ ba, các đối tượng của các chính sách xã hội (chung, riêng, đặc biệt).
Thứ tư, những mục tiêu nhằm đạt tới.
Hay nói cách khác là cần trả lời bốn câu hỏi sau:
Ai đặt ra chính sách xã hội?
9


Đặt chính sách xã hội cho ai?
Nội dung của các chính sách xã hội là gì?
Chính sách xã hội nhằm mục đích gì?
(Bùi Đình Thanh, 2004, Xã hội học và Chính sách xã hội, NXB: KHXH).
Như vậy, có thể coi chính sách xã hội là sự tổng hợp các phương thức, các

biện pháp của Nhà nước, của các đảng phái và những tổ chức chính trị khác, nhằm
thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân, phù hợp với trình độ phát triển
của đất nước về kinh tế, văn hoá, xã hội … Chính sách xã hội là sự cụ thể hoá và
thể chế hoá bằng pháp luật những chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước.
1.2.3. An sinh xã hội
Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì ASXH “là sự đảm bảo thực hiện các quyền của
con người được sống trong hòa bình, được tự do làm ăn, cư trú, di chuyển, phát
biểu, chứng kiến trong khuôn khổ luật pháp; được bảo vệ và bình đẳng trước pháp
luật những nhu cầu sinh sống thiết yếu khi bị rủi ro, tai nạn, tuổi già” (Mạc Văn
Tiến, năm 2011 ). Theo nghĩa hẹp, ASXH được hiểu là: “sự đảm bảo thu nhập và
một số điều kiện sinh sống thiết yếu khác cho người lao động và gia đình họ khi bị
giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hay mất việc làm;
cho những người già, cô đơn, trẻ mồ côi, người khuyết tật; những người nghèo đói
và những người bị thiên tai, dịch họa…” (Mạc Văn Tiến, 2011). Theo cách hiểu
này, ASXH là tổng thể các biện pháp để đảm bảo các quyền tối thiểu của con người.
Thuật ngữ Social Protection được hiểu là “hệ thống các chính sách can thiệp
của nhà nước ( bảo hiểm xã hội/ trợ giúp xã hội ) và tư nhân ( các chế độ không
theo luật định hoặc của tư nhân ) nhằm giảm mức độ nghèo đói và tổn thương, nâng
cao năng lực tự bảo vệ của người dân và xã hội trước những rủi ro hay nguy cơ
giảm hoặc mất thu nhập, bảo đảm ổn định, phát triển và công bằng xã hội. (Viện
Khoa học Lao động & Xã hội, Tổ chức GIZ, 2011). Theo cách hiểu này, ASXH
chính là hệ thống các chính sách nhằm đảm bảo đời sống cho các nhóm đối tượng
dễ bị tổn thương trong xã hội.
Như vậy, từ những định nghĩa khác nhau của các nhà nghiên cứu, có thể hiểu
khái niệm an sinh xã hội như sau: An sinh xã hội là một hệ thống các cơ chế, chính
sách, các giải pháp của Nhà nước và cộng động nhằm trợ giúp mọi thành viên trong
10


xã hội đối phó với các rủi ro, các cú sốc về kinh tế, xã hội làm suy giảm làm mất

nguồn thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn, bệnh nghề nghiệp, già cả, không còn
sức lao động hay vì các nguyên nhân khách quan khác rơi vào hoàn cảnh nghèo
khổ, bần cùng hóa và cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng thông qua
các hệ thống chính sách về bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, trợ giúp đặc biệt và trợ
giúp xã hội.
1.2.4. Bảo hiểm
Bảo hiểm là hoạt động là thể hiện người bảo hiểm cam kết bồi thường cho
người tham gia bảo hiểm với điều kiện người tham gia nộp một khoản chi phí cho
chính anh ta hoặc người thứ ba; điều này có ý nghĩa là người tham gia bảo hiểm
chuyển gia một phần hoặc toàn bộ rủi ro cho người bảo hiểm bằng cách nộp khoản
phí để hình thành quỹ dự trữ trợ cấp hoặc bồi thường thiệt hại thuộc phạm vi bảo
hiểm cho người tham gia bảo hiểm. Phạm vi bảo hiểm là những rủi ro mà người
tham gia đăng ký với người bảo hiểm.
1.2.4. Bảo hiểm y tế
1.2.5.1. Khái niệm
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về bảo hiểm y tế, cụ thể như sau:
Bảo hiểm y tế (BHYT) là hình thức bảo hiểm được áp dụng trong lĩnh vực
chăm sóc sức khỏe và là một trong 9 nội dung của bảo hiểm xã hội (BHXH) được
quy định tại Công ước 102 ngày 28/06/1952 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO)
về các tiêu chuẩn tối thiểu cho các loại trở cấp BHXH.
Bảo hiểm y tế là loại bảo hiểm do Nhà nước tổ chức, quản lý nhằm huy động
sự đóng góp của cá nhân, tập thể và cộng đồng xã hội để chăm lo sức khỏe, khám
bệnh và chữa bệnh cho nhân dân. (“Từ điển Bách khoa Việt Nam I xuất bản năm
1995” – Nhà xuất bản từ điển Bách khoa – trang 151).
Tuy nhiên, khái niệm bảo hiểm y tế thường được sử dụng phổ biến hiện nay đó
là: Bảo hiểm y tế là hình thức bảo hiểm bắt buộc được áp dụng đối với các đối
tượng theo quy định của Luật này để chăm sóc sức khỏe, không vì mục đích lợi
nhuận do Nhà nước tổ chức thực hiện (Theo khoản 1, điều 2 Luật Bảo hiểm Y tế số
46/2014/QH13 ngày 13/06/2014 do Quốc hội ban hành).
1.2.5.2. Đặc điểm của bảo hiểm y tế


11


BHYT là một chính sách xã hội do Nhà nước tổ chức thực hiện, nhằm huy
động đóng góp của người sử dụng lao động các tổ chức và cá nhân để thanh toán
chi phí khám, chữa bệnh cho người có thẻ BHYT khi không may đau ốm. Chính vì
vậy mà nó là một tổ chức tự hạch toán không thu lợi nhuận nhằm phục vụ công tác
chăm sóc sức khỏe và công bằng xã hội trong khám, chữa bệnh.
Bản chất BHYT là sự san sẻ rủi ro, nhằm giảm nhẹ những khó khăn cho người
bệnh và gia đình họ khi không may mắc phải đau ốm, bệnh tật mà vẫn đảm bảo
được yêu cầu chữa trị tốt, giảm thiểu sự ảnh hưởng xấu đến kinh tế của gia đình họ,
góp phần chăm sóc sức khỏe cho dân cư
Việc triển khai BHYT có các đặc điểm cơ bản sau:
+ Đối tượng của BHYT là rộng rãi nhất vì vậy nó cũng phức tạp nhất, nếu
thực hiện tốt chính sách BHYT sẽ đảm bảo được quy luật lấy số đông bù số ít. Quy
luật này đối với bảo hiểm nói chung và BHYT nói riêng là vô cùng quan trọng. Nó
quyết định đến sự tồn tại hay không tồn tại của bảo hiểm. Nếu quy luật này được
đảm bảo nó sẽ là một trong những nhân tố quyết định đến sự tồn tại của BHYT.
+ BHYT là loại hình bảo hiểm mang tính chất nhân đạo, nó đáp ứng được
nhu cầu chăm sóc sức khỏe với chất lượng ngày càng cao đối với đại bộ phận dân
cư. Với BHYT mọi người sẽ bình đẳng hơn, được điều trị theo bệnh. Đây là đặc
trưng ưu việc thể hiện tính nhân đạo sâu sắc của BHYT, tham gia BHYT vừa có lợi
cho mình vừa có lợi cho xã hội.
+ Việc triển khai thực hiện chính sách BHYT liên quan chặt chẽ đến toàn bộ
ngành y tế kể cả nhũng y bác sỹ, cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ chế hoạt động của
ngành y tế. Bởi vì người tham gia bảo hiểm đóng tiền BHYT cho cơ quan BHYT
nhưng cơ quan này không trực tiếp khám, chữa bệnh cho người mua BHYT khi họ
không may ốm đau. Cơ quan BHYT chỉ là trung gian thanh toán chi phí khám, chữa
bệnh cho người tham gia thông qua hợp đồng khám, chữa bệnh với các cơ sở y tế.

+ BHYT góp phần cùng với các loại hình bảo hiểm con người khác khắc
phục nhanh chóng những hậu quả xảy ra với con người. Vì vậy, BHYT luôn được
Chính phủ các nước quan tâm.
1.2.5.3. Nguyên tắc của bảo hiểm y tế
Bảo hiểm y tế được thực hiện dựa trên 05 nguyên tắc sau:
12


Thứ nhất, bảo đảm chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia bảo hiểm y tế.
Thứ hai, mức đóng BHYT được xác định theo tỷ lệ phần trăm của tiền lương,
tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp hoặc mức lương tối thiểu của khu vực hành
chính.
Thứ ba, mức hưởng BHYT theo mức độ bệnh tật, nhóm đối tượng trong phạm vi
quyền lợi của người tham gia BHYT.
Thứ tư, chi phí khám bệnh, chữa bệnh BHYT do quỹ BHYT và người tham gia
BHYT cùng chi trả.
Thứ năm, quỹ BHYT được quản lý tập trung, thống nhất, công khai, minh bạch,
bảo đảm cân đối thu, chi và được Nhà nước bảo hộ.
1.2.5.4. Vai trò của bảo hiểm y tế
Bảo hiểm y tế là một chính sách xã hội mang ý nghĩa nhân đạo, có tính chia sẻ
cao, ngoài mục đích là chia sẻ rủi ro sức khỏe, BHYT còn góp phần thực hiện mục
tiêu công bằng trong chăm sóc sức khỏe nhân dân, đảm bảo an sinh xã hội. Vì vậy,
vai trò của BHYT thể hiện qua những mặt sau:
- BHYT là nguồn hỗ trợ tài chính giúp người tham gia khắc phục những khó
khăn về kinh tế khi bất ngờ ốm đau, bệnh tật. Tham gia BHYT sẽ giúp người bệnh
giải quyết một phần khó khăn kinh tế vì chi phí khám, chữa bệnh đã được cơ quan
BHYT thay mặt thanh toán với các cơ sở y tế.
- BHYT góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Nguồn thu chủ yếu
của ngân sách nhà nước là từ thuế nhưng có rất nhiều khoản chi cần đến nguồn
ngân sách này. Vì vậy chăm sóc y tế không chỉ dựa vào sự viện trợ của Nhà nước.

Một trong những phương pháp đem lại hiệu quả cao nhất là BHYT, Nhà nước và
nhân dân cùng chi trả. Như vậy BHYT có hoạch toán thu chi độc lập với ngân sách
nhà nước sẽ làm giảm được gánh nặng rất lớn cho ngân sách trong việc đảm bảo
hoạt động cho ngành y.
- BHYT góp phần thực hiện mục tiêu công bằng trong chăm sóc sức khỏe nhân
dân, thể hiện rõ nét tính nhân đạo, xã hội sâu sắc. Tham gia BHYT, người bệnh
được chi trả theo phác đồ điều trị riêng của từng người chứ không phân biệt địa vị,
giàu nghèo hay mức đóng. BHYT hoạt động theo nguyên tắc có đóng có hưởng và
mang tính nhân văn sâu sắc.
- BHYT làm tăng chất lượng khám, chữa bệnh và quản lý y tế thông qua hoạt
động của quỹ BHYT. Nguồn thu từ viện phí do quỹ BHYT thanh toán góp phần
13


giúp các cơ sở y tế chủ động trong việc phục vụ người bệnh, nâng cao chất lượng
dịch vụ y tế. Đồng thời, đội ngũ cán bộ y tế sẽ được đào tạo tốt hơn, dẫn đến sự
quản lý dễ dàng và chặt chẽ hơn trong khám, chữa bệnh.
- BHYT là một công cụ quỹ mô của Nhà nước để thực hiện tốt phúc lợi xã hội,
đồng thời tạo nguồn tài chính hỗ trợ, cung cấp cho hoạt động chăm sóc sức khỏe
của người dân.
1.2.5.5. Phân loại bảo hiểm y tế
Việt Nam tồn tại 2 loại hình BHYT đó là: BHYT tự nguyện và BHYT bắt buộc.
Bảo hiểm y tế bắt buộc
Bảo hiểm y tế bắt buộc là loại hình BHYT chỉ áp dụng đối với một số nhóm đối
tượng nhất định, thường là những khu vực có tiềm lực kinh tế (thành phố, thị xã,
trung tâm…) có thu nhập ổn định ( tiền lương, tiền công ). Tiêu chí để định mức phí
BHYT thường được tính theo tỷ lệ % thu nhập của người tham gia bảo hiểm, người
có thu nhập cao thì đóng nhiều, nhưng việc hưởng BHYT lại dựa trên sự kiện pháp
lý ( ốm đau, tai nạn,…) theo quy định của pháp luật.
Bảo hiểm y tế tự nguyện

Bảo hiểm y tế tự nguyện là hình thức bảo hiểm do Nhà nước thực hiện không vì
mục đích lợi nhuận. Người dân tự nguyện tham gia để được chăm sóc sức khỏe khi
đau ốm, bệnh tật từ quỹ bảo hiểm y tế.
BHYT tự nguyện là loại hình BHYT thứ hai đang được thực hiện ở nước ta so
với BHYT bắt buộc, BHYT tự nguyện có số lượng tham gia đông đảo, đa dạng về
thành phần và nhận thức xã hội, có điều kiện kinh tế và nhu cầu chăm sóc sức khỏe
khác nhau. BHYT tự nguyện được triển khai theo địa giới hành chính ( áp dụng cho
hộ gia đình, tổ chức triển khai theo cấp xã, phường, thị trấn,…) và theo nhóm đối
tượng ( học sinh, sinh viên, hội viên các đoàn thể…).
BHYT tự nguyện gồm nhiều loại khác nhau: Bảo hiểm khám chữa bệnh (KCB)
nội trú, bảo hiểm KCB ngoại trú, bảo hiểm bổ sung cho loại hình BHYT bắt buộc;
BHYT cộng đồng, BHYT hộ gia đình và các loại hình BHYT khác.
1.2.5.6. Đối tượng tham gia bảo hiểm y tế
Theo Điều 12, Luật BHYT Việt Nam có những bổ sung, sửa đổi có hiệu lực từ
ngày 01/01/2015 thì đối tượng tham gia BHYT được quy định cụ thể như sau:
14


- Nhóm do người lao động và người sử dụng lao động đóng, bao gồm: Người
lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao
động có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên; người lao động là người quản lý doanh
nghiệp hưởng tiền lương; cán bộ, công chức, viên chức; Người hoạt động không
chuyên trách ở xã, phường, thị trấn theo quy định của pháp luật.
- Nhóm do tổ chức bảo hiểm xã hội đóng, bao gồm: Người hưởng lương hưu,
trợ cấp mất sức lao động hằng tháng; Người đang hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội
hằng tháng; Cán bộ xã, phường, thị trấn đã nghỉ việc đang hưởng trợ cấp bảo hiểm
xã hội hằng tháng; Người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp.
- Nhóm do ngân sách nhà nước đóng, bao gồm: Lực lượng quân đội, công an
nhân dân; Cán bộ, viên chứ Nhà nước; Người có công với cách mạng và thân nhân
của họ; Trẻ em dưới 6 tuổi; Người thuộc diện hưởng trợ cấp hằng tháng; Người

thuộc hộ gia đình nghèo, người dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng có điều kiện
kinh tế - xã hội khó khăn.
- Nhóm được ngân sách nhà nước hỗ trợ mức đóng, bao gồm: Người thuộc hộ gia
đình cận nghèo; Học sinh, sinh viên.
- Nhóm tham gia bảo hiểm y tế theo hộ gia đình gồm những người thuộc hộ gia
đình, trừ đối tượng quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này.
- Chính phủ quy định các đối tượng khác ngoài các đối tượng quy định tại các
khoản 3, 4 và 5 Điều này; quy định việc cấp thẻ bảo hiểm y tế đối với đối tượng do
Bộ Quốc phòng, Bộ Công an quản lý và đối tượng quy định tại điểm l khoản 3 Điều
này; quy định lộ trình thực hiện bảo hiểm y tế, phạm vi quyền lợi, mức hưởng bảo
hiểm y tế, khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế, quản lý, sử dụng phần kinh phí
dành cho khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế, giám định bảo hiểm y tế, thanh toán,
quyết toán bảo hiểm y tế đối với các đối tượng quy định tại điểm a khoản 3 Điều
này.
1.2.5.7. Phạm vi hưởng và mức hưởng bảo hiểm y tế
Phạm vi hưởng bảo hiểm y tế
-

Ở nước ta, người tham gia bảo hiểm y tế được Quỹ BHYT chi trả các chi phí
sau đây:
+ Khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng, khám thai định kỳ, sinh con;
15


+ Khám bệnh để sàng lọc, chẩn đoán sớm một số bệnh;
+ Vận chuyển người bệnh từ tuyến huyện lên tuyến trên đối với đối tượng:
Người có công với cách mạng, người thuộc diện hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội hằng
tháng theo quy định của pháp luật; người thuộc hộ gia đình nghèo; người dân tộc
thiểu số đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó
khăn,trẻ em dưới 6 tuổi và người thuộc gia đình hộ cận nghèo trong trường hợp cấp

cứu hoặc đang điều trị nội trú phải chuyển tuyến chuyên môn kỹ thuật.
- Về danh mục thuốc, hóa chất, vật tư, thiết bị y tế, dịch vụ kỹ thuật y tế
thuộc phạm vi được hưởng của người tham gia bảo hiểm y tế sẽ được Bộ trưởng Bộ
Y tế phối hợp cùng với cơ quan liên quan ban hành cụ thể.
Mức hưởng bảo hiểm y tế
- Người tham gia BHYT khi đi khám, chữa bệnh theo quy định tại điều 26,
27, 28 của Luật này được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán chi phí khám bệnh, chữa
bệnh trong phạm vi được hưởng với mức hưởng như sau:
+ 100% chi phí khám bệnh, chữa bệnh đối với: sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ
và sĩ quan hạ sĩ quan chuyên môn, kỹ thuật đang công tác trong lực lượng Công an
nhân dân; người có công với cách mạng; trẻ em dưới 6 tuổi; các trường hợp chi phí
cho một lần khám bệnh, chữa bệnh thấp hơn mức do Chính phủ quy định và khám
bệnh, chữa bệnh tại tuyến xã; người bệnh có thời gian tham gia bảo hiểm y tế 5 năm
liên tục trở lên và có số tiền cùng chi trả chi phí khám bệnh, chữa bệnh trong năm
lớn hơn 6 tháng lương cơ sở, trừ trường hợp tự đi khám bệnh, chữa bệnh không
đúng tuyến;
+ 95% chi phí khám bệnh, chữa bệnh đối với đối với người hưởng lương
hưu, trợ cấp mất sức lao động hằng tháng; người thuộc diện hưởng trợ cấp bảo trợ
hằng tháng theo quy định của pháp luật; người thuộc diện hộ gia đình nghèo người
dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc
biệt khó khăn.
+ 80% chi phí khám bệnh, chữa bệnh đối với các đối tượng khác; phần còn
lại do người bệnh tự thanh toán với cơ sở khám, chữa bệnh..
- Trường hợp một người thuộc nhiều đối tượng tham gia bảo hiểm y tế thì
được hưởng quyền lợi bảo hiểm y tế theo đối tượng có quyền lợi cao nhất.
16


- Trường hợp người có thẻ bảo hiểm y tế tự đi khám, chữa bệnh không đúng
tuyến được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán theo mức hưởng quy định tại khoản 1

Điều này theo tỷ lệ như sau, trừ trường hợp quy định tại khoản 5 Điều này:
+ Chi phí điều trị khám, chữa bệnh tại bệnh viện: tuyến trung ương là 40%;
tuyến tỉnh là 60%; tuyến huyện là 70%.
+ Từ ngày 01/ 01/ 2016, người tham gia bảo hiểm y tế đăng ký khám, chữa
bệnh ban đầu ở đâu thì được quyền khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế tại nơi mà mình
đã đăng ký khám bệnh ban đầu.
+ Người dân tộc thiểu số và người thuộc hộ gia đình nghèo tham gia bảo
hiểm y tế đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt
khó khăn; người tham gia bảo hiểm y tế đang sinh sống tại xã đảo, huyện đảo khi tự
đi khám, chữa bệnh không đúng tuyến được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán chi phí
khám, chữa bệnh đối với bệnh viện tuyến huyện, tuyến tỉnh, tuyến trung ương và có
mức hưởng theo quy định tại khoản 1 Điều này.
Mặc dù vậy vẫn có một số trường hợp không được hưởng bảo hiểm y tế chi trả,
cụ thể như sau:
- Điều dưỡng, an dưỡng tại cơ sở điều dưỡng an dưỡng.
- Khám sức khỏe.
- Xét nghiệm, chuẩn đoán thai không nhằm mục đích điều trị.
- Sử dụng dịch vụ thẩm mỹ.
- Điều trị lác, cận thị và tật khúc xạ của mắt, trừ trường hợp trẻ em dưới 6 tuổi.
- Sử dụng vật tư y tế thay thế bao gồm chân tay giả, mắt giả, răng giả, kính
mắt, máy trợ thính, phương tiện trợ giúp vận động trong khám chữa bệnh và phục
hồi chức năng.
- Khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng trong trường hợp thảm họa.
- Điều trị trong trường hợp tự tử, tự gây thương tích.
- Khám bệnh, chữa bệnh nghiện ma túy, nghiện rượu hoặc chất gây nghiện
khác.
- Giám định y khoa, giám định pháp y, giám định pháp y tinh thần.
- Tham gia thử nghiệm lâm sàn, nghiên cứu khoa học.
- Thuốc đặc trị điều trị các bệnh: lao, sốt rét, tâm thần phân liệt, động kinh và
các bệnh khác nếu đã được ngân sách nhà nước chi trả thông qua chương trình y tế

quốc gia, các dự án hay các nguồn kinh phí khác.
1.2.5.5.
Bảo hiểm y tế toàn dân
Có rất nhiều quan điểm về BHYT toàn dân cụ thể như sau:
17


Theo quan điểm của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), vấn đề BHYT toàn dân phải
được tiếp cận đầy đủ trên cả ba phương diện về chăm sóc sức khỏe toàn dân bao
gồm: (1) Bao phủ về dân số, tức là tỷ lệ dân số tham gia BHYT; (2) Bao phủ gói
quyền lợi về BHYT, tức là phạm vi dịch vụ y tế được đảm bảo; (3) Bao phủ về chi
phí hay mức độ được bảo hiểm để giảm mức chi trả từ tiền túi của người bệnh.
Theo quan điểm của một số quốc gia, từ việc quy định các đối tượng tham gia
có thể thấy, BHYT toàn dân mà các nước hướng tới đó chính là độ bao phủ BHYT
tơi mọi tầng lớp nhân dân, đây cũng là hướng tiếp cận của pháp luật Việt Nam.
Theo quy định của Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân ban hành ngày 30/06/1989,
mọi người dân có quyền được chăm sóc sức khỏe và tiếp cận dịch vụ y tế. Sử dụng
cơ chế tài chính y tế thông qua BHYT để đạt được mục tiêu chăm sóc sức khỏe toàn
dân. Thực tế là phạm vi quyền lợi và mức độ được bảo hiểm có ảnh hưởng quan
trọng đến mở rông bao phủ BHYT. Tuy nhiên, xuất phát từ thực tế điều kiện kinh tế
- xã hội ở Việt Nam hiện nay, vấn đề thực hiện BHYT toàn dân hướng đến việc gia
tăng tỷ lệ dân số tham gia BHYT được xác định là mục tiêu ưu tiên hàng đầu, trước
khi cân nhắc mở rộng phạm vi quyền lợi và mức độ được bảo hiểm.
Luật BHYT năm 2008 quy định: “BHYT toàn dân là việc các đối tượng quy
định trong Luật này đều tham gia BHYT”.
Thực hiện BHYT toàn dân là một giải pháp mang lại hiệu quả cao trong việc
đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh chăm sóc sức khỏe của người dân trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay.
1.3. Lý thuyết áp dụng
1.3.1. Lý thuyết nhu cầu

Abraham Maslow (1908 – 1970) là nhà Tâm lý học người Mỹ, ông là người
đáng chú ý nhất với sự đề xuất của tháp nhu cầu, sử dụng lý thuyết nhu cầu về sự
phát triển của con người nhằm giải thích những nhu cầu nhất định của con người
cần được áp dụng như thế nào để một cá nhân có thể định hướng cuộc sống lành
mạnh và có ích cả về thể chất lẫn tinh thần. Tùy theo trình độ nhận thức, môi trường
sống, những đặc điểm tâm sinh lý mà mỗi con người có những nhu cầu khác nhau,
theo Maslow, nhu cầu của con người được sắp xếp theo thứ tự bậc thang từ thấp đến
cao, từ các nhu cầu thiết yếu nhất tới các nhu cầu thứ yếu cao hơn. Sự thỏa mãn nhu
18


cầu của con người cũng theo các bậc thang đó. Khi con người thõa mãn được nhu
cầu thấp rồi thì sẽ thỏa mãn các nhu cầu cao hơn. Tiếp cận theo nhu cầu làm việc
trực tiếp với cá nhân phải cần nắm được các nhu cầu của con người về mặt lý
thuyết.
Tuy nhiên, trong từng hoàn cảnh khác nhau, con người nảy sinh các nhu cầu
khác biệt. Thậm chí, ngay cả những người gặp phải vấn đề như nhau, song nhu cầu
của họ vẫn khác nhau. Vì vậy Maslow đã thiết lập một lý thuyết có thứ bậc của nhu
cầu. Tất cả các nhu cầu cơ bản theo ông là bản năng, giống với bản năng động vật.
Con người sẽ bắt đầu khuynh hướng chưa rõ rệt để rồi sẽ phát triển về sau. Nếu môi
trường thích ứng con người sẽ phát triển đầy đủ và thể hiện được cái tìm năng mà
họ thừa kế. Maslow đã thiết lập một hệ thống gồm năm cấp độ của nhu cầu cơ bản ,
ngoài những nhu cầu này còn có những nhu cầu ở cấp độ cao hơn. Chúng bao gồm
nhu cầu cho sự hiểu biết, sự đánh giá cao về nhu cầu thẩm mỹ, tinh thần. Trong các
mức độ của năm nhu cầu cơ bản, con người cảm thấy không cần thiết nhu cầu thứ
hai khi nhu cầu thứ nhất chưa được đáp ứng, tương tự vậy, họ sẽ cảm thấy không
cần nhu cầu thứ ba nếu như nhu cầu thứ hai chưa được thỏa mãn, và như vậy bậc
thang nhu cầu cơ bản của Maslow được thể hiện đầy đủ và cụ thể với những nhu
cầu sau đây:
Nhu cầu sinh lý: bao gồm các nhu cầu về ăn, uống, ngủ, hít thở,…Như vậy, nhu

cầu này là nhu cầu cơ bản của mỗi cá nhân, là nhu cầu quyết định đến sự sống còn
của con người.
Nhu cầu an toàn: Một khi nhu cầu sinh lý đã được đáp ứng, con người có nhu cầu
được bảo vệ, che chở, quan tâm, lo lắng…, luôn mong muốn có cảm giác an toàn và
ổn định.
Nhu cầu về xã hội: Khi những nhu cầu như nhu cầu sinh lý, nhu cầu an toàn được
đáp ứng con người tiến đến mong muốn được yêu, được tham gia hòa nhập vào xã
hội, muốn được tất cả mọi người thừa nhận họ như chính bản thân những gì họ có.
Nhu cầu được tôn trọng: Ở nhu cầu này, con người mong muốn được người khác
tôn trọng với tất cả những gì mà họ có, không có sự phân biệt đối xử, xa lánh. Khi
được tôn trọng họ sẽ cảm thấy tự tin hơn vào bản thân mình, cảm thấy mình có ích
cho xã hội và có xu hướng vươn lên để thỏa mãn những nhu cầu tiếp theo.
19


Nhu cầu được khẳng định bản thân: Khi tất cả các nhu cầu nói trên được thoả
mãn, con người mong muốn được thể hiện khả năng của bản thân, muốn đem hết
những sáng kiến, ý tưởng mà mình ấp ủ bấy lâu thể hiện ra ngoài xã hội và khẳng
định mình với tất cả mọi người, được làm những gì mình thích.
Với địa bàn xã Hòa Thịnh, tác giả vận dụng lý thuyết nhu cầu nhằm khảo sát
nhu cầu thực tế của người dân nơi đây trong việc tham gia chính sách BHYT, người
dân có thực sự cần đến BHYT trong quá trình khám, chữa bệnh hay không, từ đó đề
xuất một số giải pháp giúp người dân có điều kiện thuận lợi tiếp cận với chính sách
BHYT góp phần tăng tỷ lệ tham gia BHYT trong cộng đồng dân cư tại địa phương.
1.3.2. Lý thuyết trách nhiệm xã hội
Theo lý thuyết trách nhiệm xã hội thì:
Trách nhiệm xã hội (Social Responsibility) là một lý thuyết hoặc một hệ tư
tưởng đạo đức nhấn mạnh đến việc một cá nhân hoặc một tổ chức phải có nghĩa vụ
hành động vì lợi ích của xã hội. Trách nhiệm xã hội là một vấn đề quan trọng của cả
đạo đức cá nhân lẫn đạo đức xã hội.

Xét từ góc độ cá nhân, ý thức về trách nhiệm xã hội không chỉ là một đức hạnh,
một tiêu chuẩn của luân lý, mà còn là một yếu tố cấu thành nhân cách con người;
thực hiện trách nhiệm xã hội là thể hiện hành vi đạo đức của con người. Xét từ góc
độ xã hội, trách nhiệm xã hội là một trong những nền tảng để gắn kết các mối quan
hệ xã hội, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội; là một giá trị để đảm bảo cho
quyền sống của tất cả mọi người. Ý thức về người khác, quan niệm về bổn phận đối
với đất nước, nghĩa vụ đối với xã hội, lòng tốt, tính vị tha, tinh thần bao dung…là
những biểu hiện cụ thể của trách nhiệm xã hội.
Trách nhiệm là năng lực hồi đáp, Levinas nhấn mạnh vào chủ thể chịu trách
nhiệm đạo đức, cho người khác trước khi cho chính bản thân. Levinas nhấn mạnh
đến ý nghĩa của sự tiếp nhận người khác trong trách nhiệm đạo đức cá nhân, cá
nhân cho người khác trước khi cho chính bản thân mình.
Đối với người dân, thể hiện trách nhiệm đối với xã hội là rất quan trọng, trước
tiên cần phải ý thức được trách nhiệm của bản thân mình đối với xã hội, phải không
ngừng tìm hiểu, tra cứu thông tin, rèn luyện những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của
20


bản thân đồng thời tích cực tham gia đầy đủ các chính sách xã hội Nhà nước đề ra
nhằm thực hiện tốt trách nhiệm của bản thân đối với xã hội.
Trách nhiệm từ phía xã hội là tạo mọi điều kiện thuận lợi từ môi trường xã hội
để cá nhân được thể hiện bản thân, họ có thể vận dụng tất cả những gì tốt đẹp mà xã
hội mang lại để phát triển, giữa cá nhân và xã hội có mối quan hệ mật thiết và hỗ trợ
cho nhau, thúc đẩy cùng phát triển. Chính sách bảo hiểm y tế dành cho mọi người
dân thể hiện trách nhiệm xã hội của Nhà nước đối với tất cả người dân đang sống và
làm việc, cống hiến cho đất nước, giúp cho người dân có thêm điều kiện thuận lợi
tham gia chăm sóc bảo vệ sức khỏe của bản thân. Từ đó, tất cả mọi người sẽ nỗ lực
và phấn đấu hết mình để tăng gia sản xuất, đảm bảo đáp ứng đầy đủ nhu cầu cuộc
sống, đồng thời, góp phần đẩy mạnh sự phát triển của đất nước ngày càng mạnh mẽ
hơn.

Thông qua lý thuyết này, tác giả có thể nhận thấy được trách nhiệm của người
dân trong việc tham gia chính sách BHYT và cán bộ thực hiện chính sách BHYT.
Đồng thời, lý thuyết cũng thể hiện trách nhiệm của hệ thống chính quyền địa
phương trong công tác triển khai thực hiện chính sách BHYT tại địa phương, từ đó
thấy được mức độ bao phủ BHYT, cũng như hiệu quả việc thực hiện chính sách
BHYT tại địa bàn xã Hòa Thịnh.
1.3.3. Lý thuyết hệ thống
Lý thuyết hệ thống ra đời vào những năm 30 và 40 bởi Von Bertalanfly, lý
thuyết hệ thống đưa ra một số khái niệm, nguyên tắc và cách phân loại cơ bản như
sau:
Hệ thống là một tập hợp các yếu tố được sắp xếp có trật tự và có quan hệ tương
tác với nhau và môi trường xung quanh tạo thành một chỉnh thể thống nhất hoạt
động để thực hiện một số chức năng hay mục tiêu nhất định. [Theo Từ điển Tiếng
Việt]
Có 5 nguyên tắc hoạt động cơ bản trong một hệ thống: (1) Mọi hệ thống đều có
thể được những hệ thống khác nhỏ hơn. Nằm trong một hệ thống rộng lớn bao gồm
các tiểu hệ thống và đến lượt chính nó lại là một hệ thống nằm trong một hệ thống
lớn hơn nữa. (2) Mọi hệ thống đều nằm trong một hệ thống khác lớn hơn.(3) Mọi hệ
thống đều có tương tác với hệ thống khác. Các thành phần chỉ tồn tại trong một hệ
21


thống khi chúng có quan hệ với nhau theo kiểu nào đó. Mọi hệ thống đều có liên hệ,
tác động với các hệ thống khác, không có hệ thống tồn tại độc lâp.(4) Mọi hệ thống
đều cần năng lượng “đầu vào” hay năng lượng từ môi trường để tồn tại.(5) Mọi hệ
thống đều tìm kiếm sự cân bằng tứ những hệ thống khác.
Trong công tác xã hội hai hình thức căn bản của lý thuyết hệ thống được phân
chia thành: Lý thuyết hệ thống và lý thuyết sinh thái.
Pincus và Minahan đã áp dụng lý thuyết hệ thống vào thực hành công tác xã hội.
Nguyên tắc tiếp cận này chính là các cá nhân phụ thuộc vào hệ thống trong môi

trường xã hội trung gian của họ nhằm thỏa mãn được cuộc sống riêng, do đó công
tác xã hội phải nhấn mạnh đến các hệ thống. Ba hình thức chủ yếu của hệ thống
tổng quát đó là: Hệ thống chính thức, hệ thống phi chính thức và hệ thống xã hội.
Dựa vào lý thuyết này giúp phân tích sự tác động qua lại của hệ thống này lên hệ
thống khác đồng thời theo dõi sự tương tác giữa các hệ thống; khi xem xét vấn đề,
cần xem xét một cách tổng thể chứ không được đi vào phân tích một chi tiết cụ thể
nào đó.
Tác giả vận dụng lý thuyết hệ thống để tìm hiểu rõ hơn về các hình thức tổ
chức trong hệ thống tổng quát hiện có tại xã Hòa Thịnh bao gồm: hệ thống chính
thức, hệ thống phi chính thức và hệ thống xã hội. Xác định hệ thống nào còn đang
thiếu hụt trên địa bàn xã, từ đó tìm ra các giải pháp tạo mối liên kết giữa các hình
thức tổ chức trong hệ thống với nhau và áp dụng vào giải quyết vấn đề tham gia
BHYT của người dân trên địa bàn nghiên cứu.
1.4. Cơ sở pháp lý của việc tham gia của người dân vào BHYT
- Luật Bảo hiểm y tế sửa đổi năm 2014 (Hiệu lực 01/01/2015) về việc sửa đổi
bổ sung một số Điều, Khoản mới tại kỳ họp Quốc hội khóa 13.
- Chỉ thị 38-CT/TW về “Đẩy mạnh công tác bảo hiểm y tế trong tình hình
mới”
- Chương trình 527/CTr-BYT về nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh tại các
cơ sở khám chữa bệnh vì mục tiêu đáp ứng sự hài lòng của người bệnh BHYT
- Nghị quyết 21-NQ/TW tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo
hiểm xã hội, y tế giai đoạn 2012 – 2020

22


- Quyết định 538/QĐ-TTg phê duyệt Đề án thực hiện lộ trình tiến tới bảo hiểm
y tế toàn dân giai đoạn 2012-2015 và 2020
Trong đó cơ sở pháp lý thực hiện chính sách BHYT được quy định cụ thể như
sau:

* Quy định chung
- Nghị định 105/2014/NĐ-CP hướng dẫn Luật Bảo hiểm y tế.
- Thông tư liên tịch 41/2014/TTLT-BYT-BTC hướng dẫn thực hiện bảo hiểm y
tế.
- Thông tư liên tịch 16/2015/TTLT-BYT-BTC sửa đổi khoản 5 Điều 13 Thông
tư liên tịch 41/2014/TTLT-BYT-BTC hướng dẫn thực hiện bảo hiểm y tế.
* Khám chữa bệnh
- Quyết định 1399/QĐ-BHXH năm 2014 quy định về tổ chức thực hiện bảo
hiểm y tế trong khám, chữa bệnh.
- Quyết định 919/QĐ-BHXH năm 2015 sửa đổi Quyết định 01/QĐ-BHXH năm
2014, Quyết định 1399/QĐ-BHXH năm 2014 và Quyết định 488/QĐ-BHXH năm
2012 về quy trình hưởng chế độ bảo hiểm xã hội và thực hiện bảo hiểm y tế trong
khám, chữa bệnh.
- Thông tư 40/2015/TT-BYT quy định đăng ký khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế
ban đầu và chuyển tuyến khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế (Hiệu lực 01/01/2016).
- Thông tư 43/2013/TT-BYT quy định chi tiết phân tuyến chuyên môn kỹ thuật
đối với hệ thống cơ sở khám, chữa bệnh.
- Quyết định 1456/QĐ-BHXH năm 2015 quy trình giám định bảo hiểm y
tế (Hiệu lực 01/01/2016).
* Danh mục dịch vụ, thuốc được thanh toán BHYT
- Quyết định 36/2005/QĐ-BYT về Danh mục dịch vụ kỹ thuật cao, chi phí lớn.
- Thông tư 40/2014/TT-BYT hướng dẫn thực hiện danh mục thuốc tân dược
thuộc phạm vi thanh toán của quỹ bảo hiểm y tế.
- Thông tư 05/2015/TT-BYT về Danh mục thuốc đông y, thuốc từ dược liệu và
vị thuốc y học cổ truyền thuộc phạm vi thanh toán của quỹ bảo hiểm y tế (Hiệu lực
01/5/2015).

23



- Thông tư 27/2013/TT-BYT về Danh mục vật tư y tế thuộc phạm vi thanh toán
của Quỹ bảo hiểm y tế.
* Hướng dẫn thực hiện chế độ BHYT đối với một số đối tượng cụ thể
- Thông tư liên tịch 03/2012/TTLT-BQP-BYT-BTC hướng dẫn BHYT đối với
người làm công tác khác trong tổ chức cơ yếu và thân nhân người đang làm công
tác cơ yếu.
- Nghị định 70/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật Bảo hiểm y tế đối với Quân đội
nhân dân, Công an nhân dân và người làm công tác cơ yếu.
- Thông tư liên tịch 03/2010/TTLT-BNV-BTC-BLĐTBXH hướng dẫn Nghị
định 92/2009/NĐ-CP về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã,
phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
- Quyết định 797/QĐ-TTg năm 2012 nâng mức hỗ trợ đóng BHYT cho người
thuộc hộ gia đình cận nghèo.
- Thông tư liên tịch 33/2013/TTLT-BYT-BTC Hướng dẫn thực hiện Quyết định
14/2012/QĐ-TTg về khám, chữa bệnh cho người nghèo.
- Quyết định 170/2008/QĐ-TTg về chế độ BHYT và trợ cấp mai táng đối với
Thanh niên xung phong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
- Thông tư liên tịch 25/2010/TTLT-BQP-BYT-BTC hướng dẫn quản lý, tổ chức
thực hiện BHYT đối với người lao động trong quân đội và thân nhân quân nhân tại
ngũ.
- Quyết định 62/2011/QĐ-TTg chế độ đối với đối tượng tham gia làm nhiệm vụ
quốc tế ở Campuchia, Lào sau 30/4/1975 đã phục viên, xuất ngũ, thôi việc.
* Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm về BHYT
- Nghị định 122/2014/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Thanh tra y tế.
- Nghị định 176/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực y tế.
- Quyết định 3745/QĐ-BYT năm 2012 về Quy trình và Nội dung thanh tra thực
hiện chính sách bảo hiểm y tế tại cơ sở khám, chữa bệnh.
1.4.


Tiểu kết chương 1
Việc nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe và mong muốn giảm bớt chi phí

khám, chữa bệnh luôn là nhu cầu thiết yếu của con người trong cuộc sống hiện nay.
24


Vì vậy thực hiện tốt chính sách BHYT là góp phần đặc biệt quan trọng trong quá
trình ổn định xã hội, xây dựng và phát triển đất nước, tuy nhiên, quá trình tham gia
chính sách BHYT của người dân còn gặp nhiều khó khăn dẫn đến mức độ bao phủ
BHYT trong dân còn hạn chế. Qua phần nội dung Chương 1 là Cơ sở lý luận chung
giúp định hướng cho việc nghiên cứu đề tài: “Việc tham gia chính sách bảo hiểm y
tế của người dân xã Hòa Thịnh, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên”.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THAM GIA CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM Y TẾ
CỦA NGƯỜI DÂN XÃ HÒA THỊNH, HUYỆN TÂY HÒA,TỈNH PHÚ YÊN
2.1. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu
2.1.1. Tổng quan về điều kiện tự nhiên
2.1.1.1. Về vị trí địa lý
Xã Hòa Thịnh nằm về phía tây Nam huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên cách trung
tâm huyện Tây Hòa 10km, có tọa độ 12 độ 53 phút Bắc đến 109 độ 15 phút Đông,
ranh giới hành chính giáp với các xã như:
+ Phía Đông giáp xã Hòa Tân Đông, huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên.
+ Phía Tây giáp xã Hòa Mỹ Đông, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên.
+ Phía Nam giáp xã Đại Lãnh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa.
+ Phía Bắc giáp xã Hòa Đồng, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên.
Xã Hòa Thịnh được phân chia thành 10 thôn hành chính: Mỹ Lâm, Mỹ Xuân I,
Mỹ Xuân II, Mỹ cảnh, Cảnh Tịnh, Mỹ Phú, Mỹ Trung, Mỹ Điền, Mỹ Hòa, Phú
Hữu.
2.1.1.2. Về đặc điểm địa hình, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên

Địa hình xã Hòa Thịnh thấp dần từ Tây sang Đông, có sông Bàng Thạch chạy
qua nên địa hình đặc trưng là địa hình đồi núi và bị chia cắt bởi các con sông nhỏ.
Vùng đồng bằng tương đối bằng phẳng, đồng ruộng có độ dốc nhỏ, thuận lợi cho
việc canh tác trồng trọt. Trong khi đó, tại khu vực đồi núi lại có độ dốc cao, giao
thông đi lại khó khăn gây ảnh hưởng trong việc trao đổi, buôn bán ở các vùng khác
nhau.
25


×