Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU THAN KHOÁNG sản VIỆT NAM GIAI đoạn 2001 2007

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.69 MB, 48 trang )

Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

Chương I.
Lý luận chung về than khoáng sản Việt Nam
1.1.

Sơ lược về than khoáng sản
1.1.1. Đặc điểm của than
Than là một trong những tài nguyên khoáng sản trong lòng đất của quốc gia,

cùng với các loại khoáng sản khác như: Đồng, chì, kẽm, thiếc…đã tạo thành một nguồn
tài nguyên khoáng sản đa dạng phong phú và có giá trị của Việt Nam.
Than là một trong những loại nhiên liệu hóa thạch được hình thành ở các hệ sinh
thái đầm lầy, các xác cây cối thực vật được nước và bùn lưu giữ khỏi bị oxi hóa và phân
hủy bởi sinh vật mà hình thành nên than đá ngày nay. Thành phần chính của than là
chất Cacbon, ngoài ra còn có các chất khác như lưu huỳnh. Với thành phần chính của
than là chất Cacbon nên than có tính năng là đốt cháy tốt và sinh ra lượng nhiệt lớn, vì
vậy than là nguồn nguyên liệu sản xuất điện năng lớn nhất thế giới. Hiện nay, lượng
than được khai thác trên thế giới và Việt Nam được sử dụng trong các ngành năng
lượng, phục vụ sản xuất nhà máy nhiệt điện và các ngành công nghiệp sử dụng chất
đốt… Than đang được khai thác từ các mỏ than lộ thiên hay nằm sâu dưới lòng đất.
Ngày nay, với trình độ công nghệ hiện đại, công tác thăm dò và khai thác đã
giúp con người phát hiện ra nhiều tài nguyên khoáng sản có giá trị đồng thời khai thác
có hiệu quả hơn đối với nguồn tài sản quốc gia này. Việt Nam được đánh giá là có
nguồn dự trữ than đá đáng kể và có giá trị về mặt kinh tế, trong tài nguyên về khoáng
sản thì than đá là nguồn tài nguyên có trữ lượng và hiệu quả kinh tế lớn nhất. Theo Cơ
quan Năng lượng quốc tế thì trữ lượng than hiện nay trên thế giới rất lớn, khoảng 910 tỷ
tấn, đủ cho sản xuất trong 155 năm với tốc độ như hiện nay và nếu như không có sự đột
biến nào thì nhu cầu sử dụng than trên thế giới sẽ tăng gấp 3 lần từ nay đến năm 2050.
Theo các cuộc thăm dò và khai thác thì than hiện diện ở khắp nơi trên thế giới và được
sử dụng chủ yếu trong các nhà máy nhiệt điện, sản xuất xi măng, phục vụ các ngành


công nghiệp và nhu cầu sinh hoạt của người dân, nhưng được sử dụng lớn nhất là trong
các nhà máy nhiệt điện, do đó 40% lượng điện được sản xuất trên toàn cầu là từ các nhà
máy nhiệt điện dùng than.

1


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

1.1.2. Lịch sử phát triển của ngành than Việt Nam
Ngành than Việt Nam đã có lịch sử khai thác hơn 100 năm, trải qua 72 năm
truyền thống vẻ vang, từ cuộc tổng bãi công ngày 12/11/1936 của hơn 3 vạn thợ mỏ đã
giành được thắng lợi rực rõ, đánh dấu mốc son chói lói trong trang sử hào hùng đấu
tranh cách mạng vì sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng vùng mỏ góp phần to lớn
vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc. Trải qua quá
trình hình thành, hoạt động và phát triển của ngành, dù trong bất kỳ hoàn cảnh khó
khăn gian khổ nào, người thợ mỏ Việt Nam vẫn phát huy bản lĩnh sáng tạo và tinh thần
đoàn kết, dũng cảm, luôn tiên phong đi đầu, tạo nên nhiều chiến công xuất sắc trong
chiến đấu chống giặc ngoại xâm cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong chặng đường đã đi qua, ngành than Việt Nam đã gặp không ít những khó
khăn và thăng trầm trong lịch sử phát triển, đặc biệt là thời kỳ bước vào công cuộc đổi
mới của đất nước và những năm đầu của thập niên 90, nạn khai thác than trái phép phát
triển tràn lan đã dần đến nhiều hậu quả đối với ngành than và xã hội, tình trạng tài
nguyên môi trường vùng mỏ than bị hủy hoại, trật tự xã hội phức tạp, công nhân thiếu
việc làm, ngành than đã phải cắt giảm sản xuất… với những khó khăn đó đã đẩy ngành
than của Việt Nam vào tình trạng khủng hoảng và suy thoái nghiêm trọng trong một
thời gian.
Cho đến những năm 1988, nhờ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự giúp đỡ
từ Liên Xô nên ngành than đã đầu tư vào cơ sở hạ tầng, các mỏ lộ thiên lớn cùng các

hầm lò được xây dựng, cải tạo và mở rộng. Trong thời gian này, ngành than hoạt động
theo cơ chế bao cấp, nhận kế hoạch sản xuất từ nhà nước và giao nộp sản phẩm cho nhà
nước. Nhờ có được sự quan tâm đúng lúc khó khăn nên ngành than đã có được một số
kết quả ban đầu trong quá trình sản xuất và kinh doanh than sản phầm.
Trong giai đoạn 1985 – 1988, ngành than đã đạt được nhiều kết quả cao trong
việc khai thác và tiêu thụ than, đỉnh điểm của giai đoạn này là hai năm 1987 và năm
1988, riêng trong năm 1987 đã công ty khai thác được 7690 nghìn tần than, tăng hơn
20% so với lượng than khai thác được trong năm 1985 và tăng 835 nghìn tấn so với
năm trước 1986. Với lượng than khai thác tăng lên qua các năm nên lượng than tiêu thụ
trong nước và xuất khẩu cũng không ngừng tăng lên hằng năm trong giai đoạn, lượng
than sử dụng cho các nhà máy nhiệt điện trong nước chiếm 34% - 50% trong tổng số
2


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

than được tiêu thụ nội địa. Trong năm 2008, toàn ngành than đã bốc 29,2 triệu m3 đất
và đã khai thác được 7605 nghìn tấn than nguyên khai, sàng tuyển được 6304 nghìn tấn
than sạch để đưa đi tiêu thụ trên thị trường.
Bảng: Sản xuất và kinh doanh than trong giai đoạn 1985 – 1994
(Đơn vị: 1000 tấn)
1985

1986

1987

1988

1989


1990

1991

1992

1993

1994

nguyên

6295

6855

7690

7605

4221

5198

4895

5226

5835


7575

khai
Tiêu thụ
Xuất khẩu
Tiêu thụ

5689
640

6120
620

6340
201

5657
314

3873
528

4091
676

4128
920

4852

132

5351
182

6000
215

5049

5500

6139

5343

3345

3415

3208

3528

3526

3850

Than


nội địa

(Nguồn: Số liệu lịch sử ngành than – Bộ Năng lượng)
Nhưng từ năm 1989, tổ điện của nhà máy thủy điện Hòa Bình lần lượt được đưa
vào vận hành sử dụng và nền kinh tế Việt Nam bị khủng hoảng thì nhu cầu sử dụng
than bị suy giảm, lượng than khai thác từ lòng đất cũng giảm sút so với các năm trước
đó dẫn đến tình trạng giảm sút trong kinh doanh và tiêu thụ của ngành than Việt Nam.
Có thể nói trong giai đoạn 1991-1994 là giai đoạn khủng hoảng nhất của ngành than,
khi mà nạn khai thác than trái phép lại phát triển, cùng với tình hình thị trường tiêu thụ
lũng đoạn nên đã đẩy các mỏ than chính thống phải cắt giảm sản xuất, hạn chế bóc đất,
giảm đào lò, cắt giảm tiền lương công nhân viên để cân đối tài chính theo nguyên tắc tự
trang trải, công nhân thiếu việc làm…
Trong bối cảnh đấy, ngày 10/10/1994, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định
563/1994/QĐ-TTg về việc thành lập Tổng công ty than Việt Nam. Sự ra đời của Tổng
công ty than như một cuộc cách mạng trong ngành than khoáng sản của Việt Nam, tạo
cơ hội để ngành than phát triển trở lại, phục hồi và phát triển công việc khai thác và
kinh doanh than. Nhiệm vụ chính mà Đảng và Chính phủ giao cho Tổng công ty than
là:
● Lập lại trật tự trong khai thác. Kinh doanh than

3


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

● Thõa mãn các nhu cầu về than của nền kinh tế, phát triển các ngành nghề khác
trên nền công nghiệp than một cách có hiệu quả để giải quyết việc làm cho
người lao động.
Thực hiện nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước giao phó, ngay trong
năm 1995, Tổng công ty than Việt Nam đã xây dựng đề án “Đổi mới tổ chức, quản lý

và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh”. Trên cơ sở tiềm năng và nội lực sẵn có về
vốn, lao động, các phương tiện sản xuất, cơ sở vật chất kỹ thuật và điều kiện thực tế,
Tổng công ty than Việt Nam đã lựa chọn phương hướng xây dựng một tập đoàn kinh
doanh đa ngành trong nền sản xuất than sản phẩm. Từ mục tiêu chiến lược đã được đề
ra, Tổng công ty đã cụ thể hóa những mục tiêu đấy thành giải pháp và biện pháp thực
hiện cụ thể hóa trong ngành sản xuất than khoáng sản. Một trong những chiến lược
quan trọng và mang tính chất sống còn với ngành than trong những ngày mới thành lập
Tổng công ty đó là chiến lược quản lý tài nguyên và môi trường. Tổng công ty than
Việt Nam và cùng các doanh nghiệp thành viên đã triển khai và áp dụng đồng bộ các
biện pháp hành chính - kinh tế - kỹ thuật, sắp xếp lại tổ chức, lập lại trật tự trong khai
thác và kinh doanh than. Bên cạnh đấy, an ninh chính trị và trật tự trong quá trình thăm
dò, khai thác là vấn đề cấp bách được đặt ra, Tổng công ty đã tiến hành thu thập, phân
tích, đánh giá các tài liệu, báo cáo địa chất sẵn có, tính toán trữ lượng; Tiếp tục điều tra,
khảo sát, thăm dò bổ sung, thăm dò mới tài nguyên.. Công tác cập nhật địa chất đã có
một bước tiến rõ rệt so với trước đây, nhờ có sự đổi mới trong tư duy và ứng dụng công
nghệ mới theo kinh nghiệm của các nước tiên tiến trên thế giới. Một số chiến lược cụ
thể và mang tính quyết định được ngành than cụ thể hóa như:
● Bảo vệ môi trường và giữ gìn cảnh quan là mục tiêu quan trọng trong chiến
lược phát triển bền vững của ngành than Việt Nam, để khắc phục hậu quả suy thoái môi
trường ở các vùng mỏ sau nhiều năm để lại, ngành than Việt Nam đã có các cuộc khảo
sát và đánh giá tác động của hoạt động khai thác than đến môi trường của vùng mỏ rồi
đưa ra các giải pháp và chương trình để cải thiện môi trường. Tổng công ty đã quyết
định thành lập Qũy môi trường Than Việt Nam trên cơ sở sử dụng 1% chi phí tính thêm
vào giá thành được Chính phủ cho phép và các nguồn huy động khác, qua đấy đã đầu tư
trồng mới và chăm sóc được 1780 ha rừng trong ranh giới mỏ, tạo nguồn gỗ chống lò
phục vụ trong quá trình khai thác của các hầm lò. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp thành
viên đã có nhiều biện pháp để tăng cường cải tạo, nâng cấp đường sá, giảm thiểu bụi
4



Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

trong công tác khoan nổ mìn, bốc xúc và sàng tuyển, vận chuyển than, cải thiện điều
kiện làm việc cho lao động.
● Đầu tư đổi mới công nghệ là chiến lược quan trọng hàng đầu được Tổng công
ty than đặc biệt quan tâm, nhằm khai thác tối đa cơ sở vật chất, tài sản sẵn có, nâng cao
mức độ đảm bảo an toàn trong sản xuất; Cải thiện điều kiện làm việc cho lao động,
giảm thiểu ô nhiễm môi trường, nâng cao chất lượng than trong nguyên khai, than sạch
và tỷ lệ thu hồi than đồng thời tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, đa dạng
hóa sản phẩm theo nhu cầu của thị trường. Tại các mỏ lộ thiên, công nghệ xuống sâu đã
được áp dụng và ngày càng hoàn thiện hơn đồng thời các mỏ được trang bị máy xúc
thủy lực gần ngược và áp dụng công nghệ xúc chọn lọc nên giảm thiểu được hệ số bóc
đất ở một số mỏ. Công nghệ cột chống thủy lực đơn và giá thủy lực di động cũng được
đưa vào sử dụng tại một số hầm lò, giảm được tổn thất than từ 40%-50% xuống còn
15%-20%, giảm tiêu hao gỗ chống lò, giảm tỷ lệ gỗ dăm trong than và đảm bảo được an
toàn cho người lao động. Bên cạnh việc đầu tư đổi mới công nghệ cho khai thác than,
các doanh nghiệp đã chú trọng trong đầu tư cải tạo, thay đổi công nghệ sàng tuyển để
phù hợp với yêu cầu của khách hàng, tận thu than bùn và xử lý nước thải trước khi ra
biển. Công tác đầu tư và hoàn thiện các kho bãi cũng được đẩy mạnh, nâng cấp bến rót
tiêu thụ, đầu tư luồng lạch mở rộng cảng biển đảm bảo cho tàu thuyền giao nhận than
thuận lợi và nhanh chóng.
● Song song với việc đổi mới công nghệ, hiện đại hóa dây chuyền sản xuất để
nâng cao chất lượng sản phẩm, ngành than của Việt Nam đã đặc biệt quan tâm đến
chiến lược thị trường, bởi “có thị trường là có tất cả”. Tổng công ty đã kiên trì xây dựng
ngành than, trước hết là trật tự trong kinh doanh than, đổi mới tổ chức, quản lý và
phương pháp kinh doanh than của hệ thống các công ty than trong nội địa, hoàn thiện
và phát triển cách thức quản lý trong công tác tiếp thị và giao dịch xuất nhập khẩu than.
Bằng việc phát triển thị trường sản phẩm chính là cách để tháo gỡ đầu ra cho sản phẩm
và cân bằng cung cầu than trên thị trường.
Than Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong giai đoạn đầu thành lập Tổng

công ty, ngành than Việt Nam đã mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm trong và
ngoài nước, xây dựng được các mối quan hệ bạn hàng tin cậy trong và ngoài nước, đã
ký hợp đồng dài hạn với các hộ lớn khoảng 30% sản lượng than tiêu thụ hàng năm.
Than Việt Nam đã có quan hệ với các bạn hàng nước ngoài ở khắp các châu lục, năm
5


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

1997 đã xuất khẩu được 3,7 triệu tấn than, mức cao nhất từ trước đến nay. Trong giai
đoạn này, than Việt Nam đã xuất sang các thị trường như: Nhật Bản, Trung Quốc,
Canada, Hàn Quốc, Thái Lan, Đài Loan… Bằng nhiều biện pháp kinh tế tổng hợp,
phương châm nhất quán “Cùng phát triển với bạn hàng”, Tổng công ty than Việt Nam
đã phát huy nội lực sẵn có để xây dựng một chiến lược phát triển thị trường tiêu thụ sản
phẩm. Việc mở rộng và giữ vững thị trường là yếu tố quyết định để ngành than Việt
Nam mở rộng tổ chức sản xuất mới cũng như tiếp cận các thị trường tài chính, tín dụng,
đảm bảo vốn cho kinh doanh, phục vụ các dự án khai thác, đầu tư và phát triển. Bên
cạnh những nỗ lực phát triển thị trường tiêu thụ, nâng cao trình độ công nghệ thì ngành
than còn chủ động tiếp xúc và tìm kiếm khách hàng cho riêng mình, tiến hành đàm
phán và kí kết các hợp đồng ngắn hạn, dài hạn với cơ chế giá mềm dẻo, cạnh tranh để
tăng cường khả năng kiểm soát và mở rộng thị trường tiêu thụ than trong và ngoài
nước, đưa than sản phẩm đến tận nơi sử dụng và mở rộng mạng lưới bán than đến các
tỉnh, thành phố trong cả nước, bao gồm cả thị trường nông thôn, miền núi.
Trong giai đoạn sản xuất và kinh doanh 1995-2001, ngành than khoáng sản Việt
Nam cũng gặt hái được nhiều thành công trong khai thác, chế biến và xuất khẩu. Bằng
sự nỗ lực của chính Tổng công ty đã giúp cho lượng than khai thác và than sản phẩm
xuất khẩu hàng năm không ngừng gia tăng, đó là một dấu hiệu đáng mừng trong việc
đầu tư đổi mới công nghệ trong quá trình khai thác và chiến lược phát triển thị trường
của công ty đưa ra trong những năm đầu thành lập. Việc đổi mới công nghệ cọc chống
trong hầm lò hay công nghệ khai thác các mỏ lộ thiên, đổi mới và cải tiến công nghệ

trong giai đoạn vận chuyển trên băng chuyền… cùng với việc phát triển thị trường, bạn
hàng đã mang đến cho ngành than một số thành công nhất định.

6


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

Bảng: Sản xuất và kinh doanh than trong giai đoạn 1995-2001

Than tiêu thụ
(1000 tấn)
- Xuất khẩu
- Trong
nước
Doanh thu tiêu
thụ (tỷ Đồng)
- Xuất khẩu
- Trong
nước
Doanh thu sxkd khác (tỷ
Đồng)
Tổng doanh
thu (tỷ Đồng)
Nạp ngân sách
(tỷ Đồng)

1995

1996


1997

1998

1999

2000

2001

7592

9653

10779

10721

10500

11467

12500

2783

3666

3525


2900

3300

3076

4000

4809

5987

7254

7821

7200

8333

8500

1917

2584

2953

2953


2792

3114

3675

955

1262

1323

1246

1328

1765

1850

962

1322

1630

1707

1464


1349

1825

485

1074

1301

1605

1337

1764

1994

2402

3658

4254

4558

4129

4887


5669

120

152

199

154

133

155

165

(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động ngành than Việt Nam)
Với những chính sách và đướng lối hoạt động đúng đắn, trong năm 1995 ngành
than đã tiêu thụ được 7592 nghìn tấn than với doanh thu tiêu thụ thu về khoảng 1917 tỷ
Đồng, tuy sản lượng than tiêu thụ trong nước lớn gấp 2 lần lượng than tiêu thụ trên thị
trường quốc tế nhưng doanh thu tiêu thụ của 2 thị trường này lại bằng nhau, như vậy có
thể thấy rằng ngành than đang thực hiện trợ giá cho thị trường trong nước. Đây cũng có
thể là một biện pháp để khuyến khích nhu cầu sử dụng than trong nước và một phần hỗ
trợ thị trường trong nước. Trong những năm tiếp theo, sản lượng than khai thác và sản
lượng kinh doanh trên thị trường của ngành than Việt Nam tăng liên tục, trong năm
1996 sản lượng than khai thác và doanh thu từ kinh doanh than tăng khoảng 30% so với
năm trước nên doanh thu từ thị trường trong nước và thế giới cũng tăng với tốc độ 32%
so với năm 1995. Ngành than đã rất nỗ lực để giữ vững được tốc độ tăng lên trong khai
thác và kinh doanh tiêu thụ, năm 1997 ngành than đã khai thác được 10779 nghìn tấn

than, tăng gần 42% sản lượng khai thác so với năm 1995 về than sản phẩm, kết quả đó
7


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

được đánh giá là một thành quả vượt bậc và là mong ước của ngành than trong thời
gian bấy giờ. Tuy trong khai thác than thành phẩm tăng nhanh nhưng lại xuất hiện dấu
hiệu chững lại của hoạt động kinh doanh xuất khẩu do những ảnh hưởng ban đầu của
cuộc đại khủng hoảng tài chính – tiền tệ châu Á trong năm 1997, sản lượng tiêu thụ
giảm, doanh thu từ hoạt động xuất khẩu tăng nhẹ và đó là dấu hiệu đầu tiên cho những
giảm sút của doanh thu trong những năm tiếp theo. Đánh giá trong những năm 19951997, ngành than của Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc nhờ biết phát huy được
nội lực, công nghệ mới áp dụng và những chính sách phát triển hợp lý, đóng góp vào
ngân sách nhà nước 471 tỷ Đồng trong 3 năm 1995-1997.
Năm 1998, sau khi chịu sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực
nên đã tác động đến than xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường thế giới về lượng lẫn về giá
cả, ngành than của Việt Nam phải cạnh tranh hơn khi mà cung vượt quá cầu trên thị trường,
nhưng nhờ sự mềm dẻo trong quan hệ bạn hàng và có các mối quan hệ bạn hàng lâu năm nên
lượng than xuất khẩu của Việt Nam vẫn duy trì tại mức 3 triệu tấn và giữ được 25%-30% thị
phần than Antraxit buôn bán thế giới. Thị trường trong nước cũng có sự giảm sút trong tiêu
thụ, đặc biệt là năm 1999, lượng than tiêu thụ giảm hơn 600 tấn so với năm 1998 và doanh thu
kinh doanh than của Việt Nam đã giảm xuống từ 2953 tỷ Đồng năm 1998 xuống 2792 tỷ Đồng
cả năm 1999. Cho đến năm 2001, Tổng công ty than Việt Nam đã mở rộng quan hệ dài hạn với
các nhà tiêu thụ như: Nhật Bản, Hungari, Trung Quốc, Thái Lan, Philippin, Đài Loan, Hà lan,
Hàn Quốc, Nam Phi… Về thị trường xuất khẩu, công ty không chỉ duy trì ở các thị trường tiêu
thụ tiềm năng mà còn mở rộng ra các thị trường mới nên sản phẩm than của công ty đã có mặt
tại khoảng 40 nước trên thế giới, và công ty cũng đã tiến hành ký kết nhiều hợp đồng cung cấp
than dài hạn cho khách hàng.

Các giai đoạn phát triển và trưởng thành của ngành than Việt Nam từ năm 1855

đến nay, có thể nhìn nhận mô hình quản lý ngành than từ trước đến nay:
● Từ tháng 4/1955 đến tháng 7/1960, ngành than do Bộ Công nghiệp quản lý.
● Từ tháng 7/1960 đến tháng 8/1969, ngành than do Bộ Công nghiệp nặng quản lý.
● Từ tháng 8/1969 đến tháng 1/1981,ngành than do Bộ Điện và Than quản lý.
● Từ tháng 1/1981 đến tháng 3/1987, ngành than thuộc sự quản lý của Bộ Mỏ và Than.
● Từ tháng 3/1987 đến tháng 10/1994, ngành than thuộc sự quản lý của Bộ Năng
lượng.
● Từ tháng 10/1994, ngành than của Việt Nam chịu sự quản lý của Tổng công ty than
Việt Nam, Tổng công ty Than Việt Nam là một tập đoàn kinh tế trực thuộc Chính phủ.
8


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

(nghiên cứu về ngành than của Việt Nam và kết quả sản xuất kinh doanh đến năm 2002
hay hết cả quá trình nghiên cứu ?)
1.1.3. Chiến lược phát triển của ngành than Việt Nam
Với mục tiêu đặt ra cho ngành than trong quá trình phát triển là xây dựng các mỏ
than “xanh, sạch, ít người, sản lượng cao”, trong những năm qua, Tập đoàn công
nghiệp Than - khoáng sản Việt Nam (TKV) đã thực hiện các chương trình đổi mới và
phát triển kỹ thuật công nghiệp áp dụng trong quá trình sản xuất nhằm đạt được sản
lượng cao. Nhiều giải pháp về công nghệ và kỹ thuật mới được đưa vào áp dụng và sử
dụng trong sản xuất như các dự án cơ giới hóa đào lò và khai thác than ở các mỏ hầm
lò; hàng loạt dây chuyền công nghệ tuyển than được sử dụng tại các cụm mỏ nhỏ đã
góp phần nâng cao chất lượng than tiêu thụm giảm thiểu tỷ lệ than ứ đọng do chất
lượng thấp. Vấn đề môi sinh môi trường vùng mỏ cũng đặc biệt được quan tâm và xử lý
bằng cách triển khai nhiều dự án khắc phục suy thoái môi trường, tích cực cùng địa
phương chuyển đổi các phương thức vận chuyển, chế biến, tiêu thụ than theo hướng
thân thiện với môi trường. Bên cạnh những phương châm và chiến lược phát triển
xuyên suốt của ngành than là bảo vệ môi sinh – môi trường vùng mỏ, đầu tư đổi mới và

áp dụng công nghệ vào sản xuất và chiến lược phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm
thì ngành than cũng xác định những phương hướng phát triển trong ngắn hạn để từng
bước tháo gỡ khó khăn, chuyển dịch cơ cấu đầu tư , cơ cấu lao động và lấy than để hỗ
trợ phát triển các ngành khác… Tổng công ty đã lựa chọn:
● Chiến lược phát triển: Xây dựng tổng công ty than Việt Nam thành một tập
đoàn kinh doanh đa ngành mạnh dựa trên nền sản xuất than. Bên cạnh đó là tăng cường
phát triển, củng cố ngành nghề cơ khí, vật liệu nổ công nghiệp, vật liệu xây dựng và các
ngành sản xuất dịch vụ khác đã có trong ngành than từ trước khi thành lập Tổng công ty
than, phát triển các ngành nghề liên quan đến ngành than như các nhà máy nhiệt điện,
xi măng, khai thác khoáng sản, các ngành nghề giải quyết được nhiều lao động nữ (may
mặc, giày da hay dịch vụ…). Trên cơ sở liên kết, hợp tác với các doanh nghiệp khác và
tận dụng thế mạnh của địa phương, phát huy năng lực quản lý, sử dụng lao động và tận
dụng tối đa cơ sở vật chất, công nghệ.

9


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

● Phương châm phát triển: ngành than Việt Nam đã xác định phương châm
phát triển là “Cùng phát triển với bạn hàng” mà trước hết là hợp tác cùng các tổng công
ty, công ty trong nước, giúp đỡ nhau, phân chia thị trường và định giá phù hợp với khả
năng chịu đựng của các bạn hàng. Tổng công ty than Việt Nam cũng tạo điều kiện để
các công ty nước ngoài nghiên cứu và sử dụng sản phẩm than của Việt Nam, thúc đẩy
quá trình hợp tác quốc tế.
● Mục tiêu chiến lược đề ra trong tương lai là tiêu thụ được 18-20 triệu tấn than
thương phẩm.
1.2.

Tình hình sản xuất than xuất khẩu Việt Nam trong thời gian qua

1.2.1. Phân bố than ở Việt Nam
Qua các cuộc nghiên cứu và khảo sát, người ta đã xác định được các trầm tích

tạo ra than và hình thành các mỏ than ở Việt Nam rải rác từ Cao Bằng cho đến Quảng
Nam-Đà Nẵng, với các bể than lớn nhỏ khác nhau và nhiều loại than: than gầy (Than
Antraxit), than non, than bùn và than mỡ… Nhưng các thành hệ quặng hình thành nên
các mỏ than lớn đều tập trung ở miền bắc nước ta, trong thành hệ quặng đấy có thể
được chia làm 2 đới trầm tích chứa than chính, đó là: Bể than Quảng Ninh và Bể than
Đồng bằng Bắc bộ. Theo số liệu của Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam công bố,
tổng trữ lượng than của Việt Nam trên 220 tỷ tấn, trong đó khu mỏ than Quảng Ninh có
trữ lượng khoảng 10,5 tỷ tấn và khu mỏ vùng đồng bằng sông Hồng có trữ lượng
khoảng 210 tỷ tấn nằm rải rác trên diện rộng.
● Bể than Antraxit Quảng Ninh: nằm về phía Đông bắc Việt Nam, về địa lý
được xác định từ Phả Lại qua Đông Triều – Hòn Gai, Mông Dương – Cái Bầu – Vạn
Hoa, bể than này kéo dài 130 km, rộng 10-30 km. Theo nghiên cứu thì bể than Quảng
Ninh có trữ lượng ước tính khoảng 3,5 tỷ tấn nằm trong độ sâu dưới (-300) mét và trong
độ sâu khoảng (-300) m đến (-1000) m dự báo có trữ lượng khoảng 7-10 tỷ tấn than,
chất lượng than tại bê than này được đánh giá cao về chất lượng và các mỏ than gần các
đầu mối giao thông nên cũng thuận tiện trong việc tiêu thụ sản phẩm.
Trong bể than Quảng Ninh có một số vùng than nổi tiếng về chất lượng than như
vùng mỏ than Hòn Gai, Vàng Danh, Tràng Bạch – Mạo Khê… Điều đáng chú ý là loại
than Antraxit của vùng than Hòn Gai có chất lượng rất cao khi đốt lên không có khói và
xỉ, các thông số kĩ thuật đã được phân tích hàm lượng Lưu huỳnh trong loại than này
10


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

nhỏ hơn 1%, độ ẩm 1,5-2%, tro 3-17%, chất bốc 6-11% và nhiệt năng tỏa ra là 78008400 calo. Trong vùng than Hòn Gai bao gồm các mỏ than như: (1) mỏ than Cẩm Phả,
mỏ than này nằm về phía đông bắc của thị trấn Cẩm Phả và dựa vào cấu tạo riêng biệt

thì trong mỏ này bao gồm các khu vực khai thác như: Lộ trí, Đèo Nai, Cọc Sáu và
Quảng Lợi. (2) mỏ than Hà Tu – Hà Lầm, (3) mỏ Mông Dương, (4) mỏ Khe Sim, (5)
mỏ Nagotna…
● Bể than Đồng bằng Bắc bộ: nằm trong khu vực kéo dài từ Việt trì cho đến bờ
biển phía nam và các tỉnh Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nam, Nam Định,
Thái Bình và Ninh Bình. Trữ lượng than dự báo ở bể than này khoảng 100 tỷ tấn nằm ở
độ sâu 100-2000 m. Trữ lượng than ở bể Đồng bằng Bắc bộ có lượng lớn nhưng lại
nằm quá sâu dưới lòng đất và rải rác trên diện rộng của khu vực sử dụng đất nông
nghiệp nên công tác khai thác gặp rất nhiều khó khăn và tốn kém. Trong bể than Đồng
bằng Bắc chứa chủ yếu là loại than mỡ quan trọng dùng để chế biến than cốc luyện
kim, ta đã biết chất bốc trong than là yếu tố căn bản để quyết định tính chất và phương
hướng sử dụng. Các mỏ than mỡ chính nằm trong bể than Đồng bằng Bắc bộ như: (1)
mỏ Quỳnh Nhai, mỏ than này nằm về phía tả ngạn sông Đà, khu mỏ này gồm 5 vỉa than
có độ dày khoảng 0,5-7m với các thông số kỹ thuật được phân tích: tro 5-9%, chất bốc
18-24% và Lưu huỳnh 0,5-1%. Với số lượng vỉa than và các thông số kỹ thuật thì mỏ
than Quỳnh Nhai là một nguồn lợi đáng kể cho ngành than và các ngành công nghiệp.
(2) mỏ Suối Báng thuộc địa bàn tỉnh Sơn La, về trữ lượng của mỏ có hàng chục vỉa
than với độ dày mỗi vỉa khoảng 0,5-3m tuy nhiên hàm lượng tro trong mỏ than này khá
cao (20%) nhưng vẫn có thể chế biến thành than cốc. (3) mỏ Suối Hoa, (4) mỏ Đầm
Đùn, (5) mỏ Đồi Hoa…
Trên đây là một số mỏ than chính trong hai bể than lớn của miền bắc Việt Nam,
đó là những mỏ than lớn có thể cung cấp một số lượng lớn than hàng năm phục vụ
trong các ngành công nghiệp và xuất khẩu. Nhìn vào triển vọng có thể thấy lượng than
Antraxit có giá trị kinh tế lớn và có thể khai thác ở một số mỏ lộ thiên là một điều kiện
tốt để phát triển ngành than, gia tăng lượng than khai thác hàng năm của Tổng công ty
than Việt Nam và hơn hết là đủ lượng than tốt phục vụ các ngành công nghiệp năng
lượng như nhiệt điện, luyện kim hay sản xuất xi măng…/
1.2.2. Một số đặc điểm than sản phẩm Việt Nam
11



Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

Trong bể than Đồng bằng Bắc bộ có trữ lượng chủ yếu là loại than mỡ thì trong
bể than Quảng Ninh lại chứa chủ yếu là loại than Antraxit, một loại than có giá trị kinh
tế và chất lượng cao khi sử dụng trong các ngành công nghiệp năng lượng. Than
Antraxit của Việt Nam được biết đến với chất lượng tốt, ít khói, nhiệt lượng tỏa ra cao,
hàm lượng Nitơ và Lưu huỳnh thấp, ít gây ô nhiễm môi trường… đặc biệt là trong hơn
10 năm trở lại nay, than Antraxit của Việt Nam đã xuất khẩu sang nhiều thị trường trên
thế giới như: Anh, Pháp, Mỹ, Đài Loan, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc… Than xuất
khẩu của Việt Nam đã giữ một vai trò quan trọng trên thị trường quốc tế về chất lượng
cũng như sản lượng tiêu thụ, lượng than xuất khẩu của Việt Nam được sử dụng trong
các ngành: Luyện kim, nhiệt điện, hóa chất… Để đáp ứng nhu cầu của khách hàng cũng
như nhu cầu phát triển và tiêu thụ than trên thị trường, than Antraxit xuất khẩu cũng
được chia thành các loại khác nhau để đáp ứng các loại khách hàng và từng loại thị
trường tiêu thụ, tùy theo mục đích sử dụng khác nhau để tự do lựa chọn.
Trong cơ cấu than xuất khẩu của Việt Nam, hiện nay than xuất khẩu chủ yếu vẫn
là than Antraxit của mỏ than Quảng Ninh,cơ bản được phân chia thành các loại sau:

12


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

Bảng: Cơ cấu và đặc tính than Antraxit xuất khẩu của Việt Nam

Loại

Cỡ hạt


than

(mm)

Số 1
Số 2
Số 3
Số 4
Số 5
Số 6
Số 7
Số 8
Số 9
Số 10
Số 11

35 –
100
50 – 75
35 – 50
15 – 35
6 – 18
0 – 15
0 – 15
0 – 15
0 – 15
0 – 15
0 – 15

Độ ẩm


Độ tro

Chất

(%max) (%max) bốc (%)
6
4
4
5
5
8
8
8
8
8
8

8 – 12

6–8

Lưu
huỳnh
(%max)

Cacbon

Nhiệt lượng


(%)

(kcal/kg)

81

7200 min

0,6

6–8
5–7
0,6
88
3–5
5–7
0,6
87
4–6
5–7
0,6
86,5
5–7
5–7
0,6
86
6–8
6–8
0,6
84

8 – 10
6–8
0,6
82
10 – 15
6–8
0,6
77
15 – 22
6–8
0,6
70
22 – 32
6–8
0,6
60
32 – 42
6–8
0,6
50
(Nguồn: Tổng công ty Than Việt Nam)

8300-8100
8300-8000
8200-7900
8100-7900
8000-7800
7800-7600
7600-7200
7200-6500

6500-5600
5500-4600

Các tiêu chí để phân loại than xuất khẩu vẫn là các chỉ tiêu về: cỡ hạt, độ ẩm, độ
tro, chất bốc, hàm lượng lưu huỳnh, cacbon và nhiệt lượng, trong đó yếu tố nhiệt lượng
tỏa ra là yếu tố quan trọng nhất bởi vì yếu tố nhiệt lượng tỏa ra quyết định sự vận dụng
than trong các ngành công nghiệp năng lượng, dựa vào nhiệt lượng tỏa ra mà người ta
có thể sử dụng một lượng than hợp lý và tiết kiệm.
1.3.

Tầm quan trọng của ngành than khoáng sản Việt Nam
1.3.1. Tầm quan trọng của ngành than trong nền kinh tế - xã hội
Việt Nam là một trong những quốc gia có trữ lượng than lớn trên thế giới, với

ước tính có khoảng 4 tỷ tấn than Antraxit. Với trữ lượng than phân bố chủ yếu là ở độ
sâu dưới 500m trong khi lượng than ở các mỏ lộ thiên lại rất nhỏ, khoảng 300 triệu tấn
nên gặp không ít khó khăn trong việc khai thác. Hơn nữa, Việt Nam có trữ lượng
khoảng 17 tỷ tấn than nâu thích hợp cho việc sử dụng trong các ngành công nghiệp nồi
hơi, nhưng phần lớn lượng than này nằm dưới Đồng bằng châu thổ sông Hồng nên số
than này sẽ rất khó khăn trong việc khai thác do việc ảnh hưởng đến diện tích đất nông

13


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

nghiệp và ảnh hưởng của lượng nước ngầm cao. Than Antraxit nằm chủ yếu ở vùng mỏ
Quảng Ninh còn than nâu chủ yếu tập trung ở Đồng bằng sông Hồng.
Ngành than là một bộ phận của nền kinh quốc dân thống nhất, phát triển của
ngành than phải đặt trong sự phát triển của các ngành liên quan và đặt trong tổng thể

phát triển của nền kinh tế và xã hội. Ngành than là một trong những ngành công nghiệp
mang tính chất hạ tầng và là nguồn cung cấp đầu vào phục vụ cho nhiều ngành kinh tế
khác. Mang tính chất là một ngành công nghiệp hạ tầng nên ngành cần có tính chất đặc
thù cho cả đầu tư phát triển nội ngành và cả con người, đảm bảo cho ngành than Việt
Nam phát triển một cách bền vững, chắc chắn và đồng bộ với các ngành nó phục vụ.
Khi nói đến tầm quan trọng của ngành than, chúng ta cần đánh giá than trong các mặt
kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường và an ninh năng lượng…
Về Kinh tế
Việc khai thác than có một vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của nền kinh
tế nói chung và sự phát triển của nhiều ngành nói riêng, cụ thể như:
● Đảm bảo nhu cầu về nguyên liệu, nhiên liệu cho một số ngành trong nền kinh
tế quốc dân như: điện, xi măng, sắt thép, giấy, đạm, vật liệu xây dựng và chất đốt sinh
hoạt… Hàng năm, một lượng than lón được cung cấp cho các ngành công nghiệp luyện
kim cũng như phục vụ nhu cầu tiêu thụ trong sinh hoạt không ngừng được tăng lên.
Nếu như trong năm 1995 với lượng than cung cấp cho các ngành trong nước khoảng
4,8 triệu tấn thì đến năm 2000 lượng than tiêu thụ trong nước đã tăng lên gần gấp đôi và
đạt mức 8,4 triệu tấn. Sau cuộc khủng hoáng kinh tế châu Á năm 1997 thì nhu cầu tiêu
dùng than phục vụ trong sản xuất của các ngành công nghiệp sử dụng than cũng được
ổn định nên đến năm 2004, lượng than cung cấp cho tiêu dùng trong nước đạt trên 14,5
triệu tấn than, tốc độ trung bình gia tăng cung cấp than cho nền kinh tế trong giai đoạn
2000 – 2004 đạt tốc độ khoảng 13%/năm. Dự kiến từ nay đến năm 2020, sản lượng
cung cấp than cho nền kinh tế ước đạt khoảng 15 – 43 triệu tấn than, tốc độ gia tăng
bình quân hằng năm là 8%/năm. Ngoài ra, nhờ giá bán than của công ty than đối với thị
trường trong nước chỉ bằng một nửa so với giá bán than trên thị trường thế giới nên nó
đã gián tiếp làm giá thành một số mặt hàng này trong nước; Hay nói cách khác, than đã
gián tiếp đóng góp vào giá trị GDP của đất nước thông qua các ngành sử dụng than…

14



Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

Bảng: Sản lượng và giá trị than tiêu thụ (bổ sung số liệu cập nhật)
2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008*

Than tiêu
thụ

11467 12500 15700 18100

(1000 tấn)
- Xuất
khẩu
- Trong

nước
Doanh thu
tiêu thụ (tỷ

3076

4000

6600

6600

8333

8500

9100

11500 14500

3114

3675

155

165

Đồng)
Nạp ngân

sách
(tỷ Đồng)
(Nguồn: Tổng công ty Than Việt Nam)
● Ngành than đóng góp vào giá trị gia tăng của đất nước – giá trị GDP. Mỗi
năm, ngành than đã đóng góp vào giá trị GDP hàng ngàn tỷ đồng, năm 1995 giá trị
đóng góp của ngành than mới chỉ khoảng 120 tỷ Đồng thì đến năm 2004 giá trị đóng
góp của ngành than đã đạt mức 6 ngàn tỷ Đồng và mức độ đóng góp này ngày càng
tăng lên, trong giai đoạn 1995 đến 2004, tốc độ trung bình đóng góp của ngành than đối
với nhà nước đạt 19,1%. Không những thế, trong hoạt động xuất khẩu than hàng năm,
ngành cũng đã thu về một lượng ngoại tệ lớn, năm 2004 lượng ngoại tệ thu về đạt 322
triệu USD.
Về xã hội
Ngành than đã trực tiếp tạo ra việc làm cho hàng chục nghìn việc làm cho người
lao động và gián tiếp tạo việc làm cho hàng chục vạn người ở các ngành kinh tế khác.
Theo số liệu tổng kết của ngành than về số lượng lao động tham gia hoạt động trong
ngành và thu nhập bình quân qua các năm.
Bảng: Tổng hợp lao động của công nhân ngành than

15


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

Lao động
TNBQ/người

2002
80.123

2003

82.126

2004
93
2587

2005

2006

2007

2008*

(1000 Đồng)
(Nguồn: Tổng công ty Than Việt Nam – 2008*: số liệu sơ bộ)
● Ngành than đã tạo việc làm cho một bộ phận lớn người lao động tại địa
phương hay khắp các vùng miền khác đến tham gia khai thác trong các mỏ than hay
quản lý. Năm 2002 , lượng lao động tham gia trong ngành than mới khoảng hơn 80
ngàn người, nhưng đến năm 2004 thì lượng lao động của ngành than đã tăng lên đến 93
ngàn lao động, với mức thu nhập bình quân của một lao động khoảng 2.587 ngàn
Đồng/lao động. Ngoài ra, nếu tính mỗi lao động của ngành than nuôi thêm 1,5 – 2
người ăn theo thì trong thực tế việc khai thác than đã nuôi sống hàng trăm ngàn người.
● Tạo mới và phát triển các khu dân cư, hình thành nhiều làng mỏ, phát triển
dân số và từ đó phát triển về nhà ở, trường học, bệnh viện… và các dịch vụ hạ tầng cơ
sở hạ tầng gần các khu mỏ khai thác. Tại các khu vực khai thác mỏ than sẽ hình thành
các dịch vụ, các ngành nghề sản xuất nhỏ để phục vụ hay cung cấp cho công nhân, hay
đấy chính là việc phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ, tạo công ăn việc làm,
thu nhập cho một bộ phận người dân.
● Hình thành giai cấp công nhân mỏ ở Việt Nam và văn hóa người mỏ, nhất là ở

Quảng Ninh. Đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa… Ở những vùng
xa xôi hẻo lánh, phát triển khai thác mỏ than là việc làm gia tăng sử dụng vùng đất
xung quanh và giá trị của chúng.
● Góp phần phân bố lại dân cư lao động hợp lý hơn, giảm được sức ép gia tăng
dân số lên các trung tâm, thành thị.
Tuy nhiên trong việc khai thác than, đặc biệt là hoạt động khai thác trong hầm lò
luôn tiềm ẩn những rủi ro nổ lò, cháy lò, bục nước, sập lún hầm lò… Hậu quả là người
lao động gánh chịu, bên cạnh đấy cũng có nhiều lao động mắc bệnh nghề nghiệp … đấy
cũng là một vấn đề lớn đặt ra cho ngành trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của
đại bộ phận lao động của ngành.
Về bảo vệ môi trường
Từ khi được thành lập vào năm 1994, Than Việt Nam đã thực hiện nhiều biện
pháp cải thiện môi trường vùng mỏ khai thác theo tinh thần đảm bảo sự phát triển bền
16


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

vững của ngành than và các vùng than. Với phương châm và mục tiêu đặt ra trong công
tác bảo vệ môi trường, ngành than đã có nhiều hoạt động có ý nghĩa trong việc quản lý
môi trường và giảm thiểu các ô nhiễm do hoạt động khai thác. Có thể những kết quả
trong công tác quản lý môi trường của ngành than không triệt để hay chưa kiểm soát
hoàn toàn lượng ô nhiễm của hoạt động khai thác gây ra nhưng những hành động của
ngành đã tạo động lực và bước đi đầu cho những ngành công nghề khác học tập và làm
theo trong công tác bảo vệ môi trường, khắc phục sự suy thoái của môi trường sống
xung quanh con người. Một số kết quả mà ngành than đạt được:
● Hầu hết các mỏ và các đơn vị sản xuất – kinh doanh đã lập và được duyệt báo
cáo đánh giá tác động môi trường, là cơ sở ban đầu cho việc quan trắc, quản lý môi
trường và thực hiện các giải pháp kiểm soát và giảm thiểu ô nhiễm. Bên cạnh đấy, các
mỏ và các nhà máy sàng tuyển đã, đang và thực hiện các dự án xây dựng các công trình

chống bụi, thoát nước, xử lý nước thải, thực hiện nạo vét sông suối, khôi phục một số
hồ nước ở Quảng Ninh, xây kè đập ở chân bãi thải đất đá của quá trình khai thác và
trồng cây xanh xung quanh các vùng mỏ, thực hiện chương trình phủ xanh đất trống đồi
trọc… tổng cộng đã trồng mới và chăm sóc được hơn 2 nghìn ha.
● Với sự tài trợ của UNDP đã thực hiện dự án VIE/95/003 về bảo vệ môi trường
trong khai thác mỏ lộ thiên ở vùng mỏ than Quảng Ninh. Ngoài ra, ngành cũng đã và
đang thực hiện các dự án về bảo vệ môi trường khác do các tổ chức quốc tế tài trợ như:
SIDA, JICA… Về phía Than Việt Nam, trong giai đoạn 1996-1998 đã chủ động thành
lập quỹ nhằm chi vào hoạt động bảo vệ môi trường (trích 1% từ giá thành). Đến năm
1999, đã thành lập Qũy môi trường TVN, quỹ môi trường TVN được trích từ 1% giá
thành và từ hoạt động khác có liên quan. Hiện nay, mỗi năm ngành than sử dụng
khoảng 60 tỷ Đồng để thực hiện các chương trình bảo vệ môi trường, bảo vệ sự đa dạng
sinh học vùng mỏ và xử lý các sự cố môi trường trong hoạt động khai thác than của
Than Việt Nam. Mục đích của than Việt Nam là xây dựng một môi trường xanh-sạchđẹp.
● Than Việt Nam đã xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý về môi trường các cấp và
ban hành “Quy định về công tác bảo vệ môi trường và phòng chống sự cố môi trường
trong Than Việt Nam”, đề ra giải pháp cũng như thực hiện các dự án, khắc phục ô
nhiễm và bảo vệ môi trường trên toàn vùng và tại các khu đô thị, dân cư.

17


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

1.3.2. Than trong ngành năng lượng
Than là một trong những tài nguyên năng lượng của quốc gia trong nguồn tài
nguyên năng lượng đa dạng của Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam đang khai thác nguồn
năng lượng thương mại bao gồm: dầu khí, than, thủy điện và khí đốt với tổng năng
lượng khai thác trong năm 2003 là 35,1 triệu TOE (triệu tấn dầu tương đương) và tốc
độ tăng trưởng bình quân hàng năm của nguồn năng lượng thương mại là 13,14%/năm.

Nguồn tài nguyên năng lượng của Việt Nam có thể đáp ứng dược nhu cầu cơ bản về
năng lượng trong nước và một phần cung cấp cho hoạt động xuất khẩu ra nước ngoài.
Nếu như phần trên của bài viết nghiên cứu về vai trò của than sản phẩm trong nền kinh
tế xã hội, thì phần này bài viết sẽ nhìn nhận đóng góp của than trong tổng thể các nguồn
năng lượng Việt Nam đối với nền kinh tế đang phát triển của Việt Nam. Do hạn chế về
phát triển kinh tế và trình độ công nghệ nên sản lượng sản xuất và tiêu thụ các dạng
năng lượng thương mại trên đầu người của Việt Nam còn thấp, năm 1990 là 107 kgOE
và năm 2003 là 436 kgOE mỗi năm.
● Quan hệ năng lượng và GDP
Trong sản lượng năng lượng sản xuất ra hằng năm thì than sạch có tốc độ gia
tăng bình quân hàng năm khoảng 12%/năm, với năm 2003 đạt 18,7 triệu tấn, năm 2004
tăng lên đến 25,4 triệu tấn… Trong những năm qua, cường độ sử dụng năng lượng của
Việt Nam không ngừng được tăng lên, đó là điều tất yếu khi mà Việt Nam đang trong
giai đoạn đầu công nghiệp hóa nên thực hiện quá trình thay đổi năng lượng phi thương
mại (củi gỗ, than gỗ, phụ phẩm nông nghiệp…) bằng các nguồn năng lượng thương
mại. Bên cạnh đó, nhà nước Việt Nam cũng đang thực hiện chính sách trợ giá năng
lượng và áp dụng chính sách giá năng lượng thấp cũng như việc sử dụng các nhà máy,
các thiết bị có hiệu suất thấp và đã quá thời hạn sử dụng cũng làm tăng cường độ sử
dụng nănh lượng; Cường độ sử dụng năng lượng của Việt Nam theo giá hiện hành hiện
nay là khoảng 400 kgOE/1000 USD, trong khi giá trị bình quân của các nước đang phát
triển OECD là 130,5, giá trị bình quân của thế giới là 176,5 và một số nước trên thế giới
như: Thái Lan 248, Inđônêxia 319, Malaixia 262, Trung Quốc 538, Hàn Quốc 209 và
Nhật Bản 61…
Xét về hệ số đàn hồi giữa năng lượng và GDP (tỷ số giữa tốc độ tăng tiêu thụ
năng lượng và tốc độ tăng trưởng GDP trong cùng một giai đoạn) – một trong những

18


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com


chỉ tiêu quan trọng đánh giá mối quan hệ giữa Năng lượng và Kinh tế trong cùng một
giai đoạn nghiên cứu.
Bảng: Mối quan hệ tương quan Năng lượng – Kinh tế của Việt Nam
Nhịp tăng GDP (%)
Nhịp tăng nhu cầu Năng lượng

1991-1995
8.18

1996-2003
6.99

2004-2007

13.8
9.3
(%)
Hệ số Năng lượng - GDP
1.68
1.33
(Nguồn: Ban quản lý dự án – Bộ kế hoạch và Đầu tư)

1.25

Trong quan hệ năng lượng – GDP giai đoạn đầu của cuộc đổi mới kinh tế 1991 –
1995 ở mức 1,68 là phù hợp với tình hình của một quốc gia đang phát triển ở giai đoạn
đầu, giai đoạn này nền kinh tế bắt đầu đổi mới và phát triển kéo theo nhu cầu tiêu thụ
các nguồn năng lượng tăng cao. Nhưng đến giai đoạn sau, hệ số Năng lượng – GDP đã
giảm xuống còn 1,33, điều đó chứng tỏ nền kinh tế đã vận hành một cách đúng hướng

và có hiệu quả hơn, tập trung phát triển các ngành sử dụng ít năng lượng hơn.
(Bổ sung số liệu)
1.4.

Những yếu tố kinh tế xã hội tác động đến ngành than Việt Nam
1.4.1. Vấn đề phân bố vùng mỏ và địa phương khai thác
● Hiện nay, đa số các vùng mỏ than khai thác, các kho vật liệu nổ… đều nằm ở

các khu vực hẻo lánh, giao thông đi lại khó khăn nên ngành than gặp không ít khó khăn
trong việc đưa phương tiện và vận chuyển than khai thác được đi tiêu thụ. Các mỏ than
được đánh giá có trữ lượng lớn và giá trị lớn nằm rải rác trên khu vực rộng lớn, các mỏ
nằm trong khu vực đồi núi thì ngành than có thể tiến hành bóc đất khai thác nhưng các
mỏ than tập trung ở đồng bằng sông Hồng thì ngành than gặp nhiều khó khăn do việc
bóc đất và ảnh hưởng đến một diện tích đất nông nghiệp nên các mỏ than trọng tâm
thường là ở khu vực hẻo lánh và xa khu dân cư hay ở các vùng đồi núi. Công tác khai
thác các mỏ than ở khu vực đồi núi sẽ kéo theo một hệ quả là ngành than phải đầu tư
nhiều hơn vào công tác xây dựng và quản lý cơ sở vật chất phục vụ của công nhân viên
từ các dịch vụ phục vụ cuộc sống như: điện, nước, trạm y tế, trường học, bệnh viện,
đường sá giao thông… đã phần nào làm tăng chi phí đầu tư cố định phục vụ ngành
than. Đặc biệt, hiện nay lượng công nhân phục vụ trong các khu mỏ ngày càng lớn nên
19


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

sức ép về đảm bảo cuộc sống cho lao động ở khu vực đồi núi, hẻo lánh là một nhiệm vụ
không dễ giải quyết của ngành.
● Vùng mỏ than Quảng Ninh lâu nay chỉ tập trung sản xuất và kinh doanh xoay
quanh sản phẩm than mà các ngành nghề sản xuất hàng tiêu dùng, dịch vụ có khả năng
thu hút lao động nữ lại hạn chế. Với vùng mỏ than Quảng Ninh, để đòi hỏi lượng nhân

công khai thác trong khu mỏ là rất lớn và chủ yếu là nhân công nam trong khi các chính
sách và chiến lược giải quyết công ăn việc làm cho nữ giới trong khu mỏ lại triển khai
còn chậm; những người phụ nữ ở đấy là người thân, là vợ, là con của công nhân đang
khai thác than trong các hầm mỏ… Cuộc sống của những hộ gia đình đó mà phụ thuộc
vào đồng lương của ngành than độc canh sẽ gây không ít khó khăn và gành nặng cho
công nhân tham gia hoạt động trong ngành than.
● Quảng Ninh nằm trong khu vực trọng điểm kinh tế Bắc bộ, có tốc độ đô thị
hóa nhanh nên ý thức bảo vệ môi trường, giữ gìn cảnh quan môi trường, di tích lịch sử
văn hóa lại càng được chú trọng. Bên cạnh Quảng Ninh là Vịnh Hạ Long, một di sản
thiên nhiên thế giới mở ra triển vọng về du lịch văn hóa và dịch vụ… những yếu tố đấy
buộc ngành than phải có một số điều chỉnh trong ngành để phù hợp với yêu cầu phát
triển chung của xã hội, ngành than đã phải tháo dỡ hệ thống đường sắt Hà Lầm – Hòn
Gai, Hòn Gai – Cọc 5 – Cọc 8 và chuyển đổi mục đích sử dụng cảng than Hòn Gai…
Với những thay đổi đấy đã đẩy chi phí sản xuất của ngành than tăng lên, đẩy giá thành
sản xuất than tăng lên.
1.4.2. Vấn đề thuộc nội bộ ngành than
● Chất lượng than nguyên vỉa của các mỏ than là khác nhau, điều kiện khai thác
than ở các mỏ cũng không giống nhau nên giá bán than và hiệu quả khai thác của các
mỏ than là khác nhau dẫn đến sự khác khác nhau trong thu nhập của cán bộ công nhân
viên lao động trong các mỏ than. Mặt khác, hiện nay giá bán than trong nước và xuất đi
thị trường quốc tế là khác nhau, giá bán trên thị trường thế giới gấp đôi giá bán trong
nước nên các mỏ than được xuất đi nước ngoài sẽ có doanh thu trong kinh doanh lớn
hơn là các mỏ than chỉ được tiêu thụ trong nước.
● Xuất phát từ lợi nhuận của hoạt động bán than mà tổng công ty có những đầu
tư trong công nghệ khai thác và đào tạo nguồn lao động mới cho ngành than. Đối với
các mỏ mới được đưa vào hoạt động hay mỏ kinh doanh than trong nước thì lượng tích
20


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com


lũy không cao trong khi điều kiện khai thác là rất phức tạp và nguy hiểm, các mỏ than
càng ngày càng phải khai thác xuống sâu dưới lòng đất nên suất đầu tư ngày càng tăng.
Đối với các mỏ hầm lò, các công nghệ lạc hậu vẫn còn sử dụng nên tổn thất trong quá
trình khai thác than khá cao, mức độ đảm bảo an toàn thấp, đã nhiều năm các mỏ than
phải tự cân đối tài chính bằng cách giảm hệ số bóc đất ở mỏ lộ thiên và giảm hệ số đào
lò ở các mỏ hầm lò nên đã đưa các mỏ vào tình trạng vi phạm các tiêu chuẩn kỹ thuật
và công nghiệp ở các mức độ khác nhau.
● Do tài nguyên phân chia không đồng đều và khác nhau về trữ lượng, chất
lượng trong khi các công ty khai thác lại khác nhau về điều kiện kỹ thuật khai thác và
vốn khác nhau nên trong trường hợp nhiều công ty khai thác ở cùng một vùng mỏ thì
cần phải có các phương án điều hòa hợp lý nhằm phát huy tối đa năng lực và công nghệ
- kỹ thuật của các bên.
● Điều chỉnh quan hệ cung – cầu trên thị trường là một vấn đề phức tạp đã tồn
tại lâu nay mà ngành than vẫn chưa giải quyết được.
1.4.3. Tác động chung của nền kinh tế
● Các biến cố xảy ra trong nền kinh tế đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển sẽ
tác động mạnh đến bất cứ một ngành nghề nào trong nền kinh tế, ngành than cũng
không nằm ngoài ngoại lệ đó. Việt Nam đã là thành viên của WTO, nền kinh tế của
Việt Nam sẽ chịu trực tiếp các tác động trên thị trường thế giới nhanh và sâu hơn; Hiện
nay, giá dầu trên thế giới tăng cao đã tác động gần như là tất cả các lĩnh vực sản xuất –
kinh doanh trong nền kinh tế. Đối với ngành than, chi phí vào vận chuyển sản phẩm,
vận chuyển đất đá thải ra trong quá trình khai thác và chi phí vào các máy móc khoan,
khai thác tăng lên, đẩy giá thành sản phẩm tăng cao.
● Sự điều chỉnh của các chính sách của Chính phủ cũng tác động sâu sắc đến sản
lượng khai thác và tiêu thụ của ngành than. Trong nhiều năm qua, Chính phủ cũng đã
có các chính sách vĩ mô hợp lý và tích cực vào ngành than như hướng dẫn trong công
tác lập kế hoạch khai thác, kinh doanh và xuất khẩu của ngành than nhưng bên cạnh
đấy nhiều trường hợp Nhà nước cũng chưa có các chính sách thỏa đáng hỗ trợ nhân
dùng than thay củi đốt phục vụ sinh hoạt và sản xuất. Nguồn gỗ tự nhiên của Việt Nam

đang cạn kiệt và tàn phá nặng nề, trong khi lượng than khai thác ra đủ để đảm bảo tiêu

21


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

thụ trong nước vì vậy Nhà nước cần phải đưa ra chính sách bảo vệ nguồn gỗ phục vụ
chống lò trong ngành than và đưa than đến với các hộ dân sinh hoạt hay sản xuất…
● Việc sử dụng công nghệ lạc hậu của các nhà máy, xí nghiệp, cơ sở sản xuất xi
măng, vật liệu xây dựng, phân bón… nên phải tiêu tốn một lượng than khá lớn và quen
dùng với giá than thấp, do đó khó chấp nhận việc tăng dần giá than, buộc Nhà nước
phải vào cuộc để điều chỉnh lại. Trường hợp thay đổi công nghệ ở nhà máy xi măng
Bỉm Sơn và ở ngành đường sắt đã dẫn đến sự mất hẳn thị trường tiêu thụ của mỏ than
Na Dương, mỏ Khe Bố vốn dĩ đã từ lâu được xây dựng để phục vụ riêng cho ngành xi
măng và đường sắt...

22


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

Chương II.
Thực trạng hoạt động xuất khẩu Than Việt Nam
trong giai đoạn 2001 – 2007
2.1.

Thị trường tiêu thụ than thế giới trong giai đoạn hiện nay
2.1.1. Phân bố trữ lượng than trên thế giới
Than được dùng làm nguồn năng lượng phục vụ nhu cầu của con người từ hàng


ngàn năm nay, trên thế giới cũng như Việt Nam, than được dùng làm chất đốt trong
sinh hoạt, là nguyên liệu phục vụ trong các ngành công nghiệp luyện kim, hóa chất,
sành sứ và thủy tinh… Kể từ cuộc khủng hoảng năng lượng vào những năm thập niên
70 đến nay, nhu cầu sử dụng nguồn năng lượng thương mại không ngừng được tăng lên
với mức tăng khoảng 60%, trong dó 1/4 nguồn năng lượng được cung cấp từ than. Trên
thực tế thì than vẫn là nguồn năng lượng hóa thạch có trữ lượng lớn nhất trong các
nguồn năng lượng hóa thạch khác như dầu mỏ, khí đốt, Uran, với trữ lượng chiếm
khoảng 68% nguồn trữ lượng của năng lượng hóa thạch. Trong lòng trái đất đang có
một trữ lượng than khổng lồ mà chưa thể khai thác hết được, theo dự báo của Cơ quan
năng lượng thế giới – IEA thì tổng lượng than khoáng sản của thế giới hiện nay vào
khoảng 1089 tỷ tấn và được nằm rải rác trên khắp trái đất. Các quốc gia có trữ lượng
than lớn trên thế giới là Mỹ 25%, Liên Xô cũ 23%, Trung Quốc 12%, các quốc gia Ấn
Độ, Australia, Nam Phi, Đức có tổng trữ lượng chiếm 29% và phần còn lại là các nước
khác trên thế giới.
Biểu đồ: Phân bố trữ lượng Than khoáng sản trên thế giới

23


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

Tuy được dự báo là trự lượng than chưa khai thác là khá lớn nhưng nếu như tốc
độ khai thác năm 2002 thì sau khoảng gần 250 năm nữa là lượng than trên trái đất này
sẽ cạn kiệt, do đó cần phải tính đến các phương án khai thác và kinh doang hiệu quả,
tránh lãng phí nhằm sử dụng triệt để và hiệu quả nguồn tài nguyên quý báu của trái đất
này. Theo báo cáo của BP statistical Review 2004, tính đến năm 2004 thì trữ lượng than
trên toàn thế giới là 984 tỷ tấn trong đó 50% than Antraxit và 50% là than nâu, chỉ có
thể được trong 192 năm nữa. Các quốc gia Mỹ, Cộng đồng các quốc gia độc lập và
Trung Quốc là có trữ lượng lớn nhất (chiếm trên 50% trữ lượng than của thế giới), một

số quốc gia có trữ lượng than như: Ấn Độ là 90 tỷ tấn, Úc là 90 tỷ tấn và Nam phi là 50
tỷ tấn than…
Bảng: Phân bố trữ lượng than trên thế giới năm 2004

(Nguồn: BP statistical Review 2004)
Trong hơn 50 năm qua, sản lượng than được khai thác và tiêu thụ trên thế giới
tăng lên gấp 3 lần, cùng với các giao dịch và buôn bán than trên thế giới được mở rộng
nên đã tăng hệ số sử dụng than trong ngành năng lượng, giảm được sức ép lên dầu mỏ.
Nhờ việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào quá trình khai thác ở các mỏ than nên sản
lượng sản xuất của năm sau luôn lơn hơn năm trước, đấy cũng là một phần của nguyên
nhân vì sao giá than trên thị trường ít có biến động lớn so với giá của các nguồn năng
24


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

lượng khác. Hiện nay, hàng năm con người moi từ lòng đất lên hơn 3 tỷ tấn than mỗi
năm và các quốc gia có trữ lượng than lớn cũng chính là những quốc gia có lượng than
được sản xuất ra nhiều nhất, như: Hoa Kỳ khoảng 25-35% tổng sản lượng than thế giới,
Trung Quốc khoảng 23-25%, Ấn Độ khoảng 8%, Astraulia khoảng 8%, Nga khoảng
5%, Nam Phi khoảng 7% và một số nước như Đức, Inđônêxia, Ba Lan và Canada mỗi
nước khai thác và tiêu thụ khoảng 3% sản lượng than trên toàn thế giới. /
2.1.2. Thị trường tiêu thụ than trên thế giới hiện nay
2.1.2.1. Xu hướng tiêu thụ của thị trường
Than đóng góp một phần rất lớn vào nguồn năng lượng được tạo ra trên thế giới,
hàng năm than cung cấp 23% nguồn năng lượng chính toàn cầu và trong lượng than
được sử dụng thì có tới 60% là phục vụ cho sản xuất điện và chiếm 38% lượng điện
được sản xuất ra trên toàn cầu. Đồng thời, than đóng một vai trò quan trọng trong sản
xuất thép, chiếm 70% sản lượng thép được sản xuất trên thế giới. Than được tiêu thụ
trên thế giới được phân chia như sau: Các nước thuộc OECD chiếm 51% trong tổng

lượng tiêu thụ than cứng, các nước có nền kinh tế chuyển đổi là 9% và 40% là tỉ lệ của
các nước đang phát triển.
Nếu như trong những thập niên 60 – 70 của thế kỷ trước khi mà nhu cầu mua
nhiều than nhất là khu vực tây Âu với tỷ lệ vào khoảng 57,4% than tiêu thụ trên thế
giới, kế đến là khu vực đông Âu chiếm 21,1% và thứ ba là Nhật Bản có tỷ lệ khoảng
6,4%... Nhưng kể từ thập niên 80 trở lại nay, khu vực Châu Á – Thái Bình Dương với
đầu tàu là Nhật Bản và sau này có thêm Trung Quốc đã có tốc độ tăng nhập khẩu than
hết sức nhanh chóng, tỷ lệ than tiêu thụ của khu vực hiện chiếm khoảng 49% tổng
lượng than tiêu thụ trên thị trường thế giới. Than dần được ưa chuộng sử dụng hơn
trong ngành năng lượng của các quốc gia trên thế giới với vị thế chi phí thấp, trữ lượng
dồi dào và phân bố rộng. Trong 6 năm lại nay, lượng than tiêu thụ trên thế giới đã tăng
lên 30%, gấp đôi so với bất kỳ loại nguyên liệu nào, nhưng giá than trên thế giới đang
có xu hướng tăng lên do nguồn cung thiếu hụt so với lượng cầu phục vụ trong các
ngành công nghiệp của các quốc gia trên thế giới. Trong xu hướng tiêu thụ than trên thế
giới trong thời gian vừa qua, có 2 xu hướng nổi bật đó là: (1) Nhu cầu sử dụng năng
lượng nói chung và than nói riêng trên thế giới đang có xu hướng tăng lên. (2) Khu vực

25


×