Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Tăng cường vai trò của ngân hàng nhà nước trong việc quản lý nợ nước ngoài của chính phủ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (339.52 KB, 67 trang )

MC LC
Li núi u
CHNG I:

C S Lí LUN V THC TIN CA VIC QUN Lí N NC
NGOI.
I/ KHI NIM V PHN N NC NGOI

1. Khỏi nim n nc ngoi
2. Phõn loi n nc ngoi
2.1 N nc ngoi ca Chớnh ph
2.2 N nc ngoi ca doanh nghip
II/ TNH TT YU CA VIC VAY N NC NGOI V S
CN THIT TNG CNG QUN Lí HOT NG VAY, TR N
NC NGOI

1. Tính tất yếu của việc vay nợ nớc ngoài
2. Sự cần thiết tăng cờng quản lý hoạt động vay, trả nợ nớc
ngoài
III/ MC TIấU QUN Lí VAY N TRONG THI GIAN TI
IV/ KINH NGHIM VAY N CA MT S NC TRấN TH GII

1. Kinh nghim ca Hn quc
2. Kinh nghim ca Mờhicụ
3. Kinh nghim ca Thỏi lan
CHNG II:

THC TRNG QUN Lí VAY, TR N NC NGOI
CA CHNH PH TRONG THI GIAN QUA
I/ QUAN H TN DNG CA VIT NAM VI CC T CHC TI
CHNH QUC T



1.Quỏ trỡnh hỡnh thnh v phỏt trin mi quan h tớn dng
ca Vit Nam vi cỏc T chc Ti chớnh Quc t
2. Khỏi quỏt c ch tớn dng ca cỏc T chc Ti chớnh
Quc t
2.1. Th tc gii ngõn (rỳt vụn)
2.2 Cỏc th tc, chng t thc hin vic gii ngõn.
II/ C CH QUN Lí CA VIT NAM I VI CC KHON VAY
N NC NGOI CA CHNH PH

1. C ch rỳt vn cỏc khon vay ca Chớnh ph
1.2 Th thc Ngõn hng Nh nc trc tip qun lý

1


1.2 Thể thức Ngân hàng Nhà nước không trực tiếp quản

2. Cơ chế sử dụng và quản lý vốn vay nước ngoài của
Chính phủ
3. Cơ chế trả nợ vốn vay
III / KẾT QUẢ THAM GIA QUẢN LÝ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ
NƯỚC VÀ NHỮNG TỒN TẠI TRONG VIỆC QUẢN LÝ VAY NỢ
NƯỚC NGOÀI CỦA CHÍNH PHỦ TRONG THỜI GIAN QUA

1. Kết quả tham gia quản lý của Ngân hàng Nhà nước
1.1 Về vay nợ
1.2 Về trả nợ
2. Đánh giá kết quả tham gia quản lý
2.1 Về cơ chế nhận nợ rút vốn

2.2 Về cơ chế kiểm soát đơn rút vốn
2.3 Về cơ chế hạch toán
2.4 Đối với thể thức hoàn vốn
2.5 Về việc thực hiện nghĩa vụ đối với các Tổ chức Tài
chính Quốc tế
CHƯƠNG III :

NHỮNG GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM KHẮC PHỤC
NHỮNG TỒN TẠI
I/ GIẢI PHÁP NHẰM KHẮC PHỤC NHỮNG TỒN TẠI TRONG
CÔNG TÁC QUẢN LÝ NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA CHÍNH PHỦ

1. Đối với cơ chế nhận nợ, rút vốn
2. Đối với cơ chế hạch toán
3. Thành lập Hội đồng quản lý nợ nước ngoài
II/ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

Kết luận
Phụ lục
Danh mục tài liệu tham khảo

LỜI NÓI ĐẦU

2


Trong bối cảnh của các nước đang phát triển và các nước chậm phát
triển, muốn nhanh chóng thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu nhằm đạt
tới mục tiêu tăng trưởng dự kiếnthì nhu cầu vốn đầu tư luôn là sự mâu thuẫn
giữa khả năng tích luỹ có hạn với yêu cầu đầu tư lại lớn. Do vậy việc huy

động vốn vay nước ngoài là vấn đề tất yếu.
Đối với Việt Nam chúng ta, để đạt được mục tiêu dân giầu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra, bằng
con đường duy nhất là thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất
nước. Trong hoàn cảnh là một quốc gia được xếp vào nhóm các nước nghèo
nhất trên thế giới bởi kết quả của một cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ dành
độc lập, tự do cho đất nước thì sự bất cập giữa yêu cầu đầu tư với khả năng
tích luỹ là điều dễ thấy. Mặc dù những năm qua khi bước vào giai đoạn phát
triển kinh tế nhằm nhanh chóng hoà nhập với các nước trong khu vực, quan
điểm phát huy tối đa nội lực của Đảng và Nhà nước ta cũng không thể đáp
ứng được yêu cầu đầu tư cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Do
vậy nguồn vốn vay nợ nước ngoài (mà chủ yếu là các khoản vay của Chính
phủ) tuy không là yếu tố quyết định song là cần thiết như Đảng và Nhà nước
ta đã xác định là “quan trọng”.
Ngân hàng Nhà nước tuy không trực tiếp quản lý chính với các khoản
vay của Chính phủ nhưng với vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong quản
lý vay nợ của Chính phủ như hiện naylà điều chưa hợp lý. Trên phạm vi
rộng, công tác vay và trả nợ nước ngoài hiện nay còn rất nhiều những vấn
đề mà chúng ta cần quan tâm. Chỉ xét riêng dưới góc độ là Ngân hàng Nhà
nước, cơ chế vay và trả nợ nước ngoài đã bộc lộ khá nhiều những tồn tại,
chưa phù hợp với yêu cầu đối với công tác quản lý. Sự chồng chéo về tổ
chức, sự trùng lặp về nội dung quản lý,... đã gây ra rất nhiều khó khăn trong
công tác quản lý, rất có thể ảnh hưởng tới uy tín của Chính phủ trên thị
trường quốc tế. Đây cũng là lý do mà em chọn đề tài “Tăng cường vai trò
của Ngân hàng Nhà nước trong việc quản lý nợ nước ngoài của Chính phủ”.
* Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu về cơ chế quản lý vay và trả nợ nước ngoài của Chính phủ
hiện nay, đồng thời nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước tiêu biểu về

3



lĩnh vực này. Bài viết này xin được giới hạn phạm vi nghiên cứu những vấn
đề tồn tại dưới góc độ quản lý của Ngân hàng Nhà nước.
* Phương pháp nghiên cứu:
Vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật
lịch sử để phân tích những cơ chế, tồn tại trong quản lý vay nợ nước ngoài
của Chính phủ, từ đó đưa ra các giải pháp và kiến nghị nhằm khắc phục
những tồn tại đó.
* Bài viết này được trình bày làm 3 chương:
- Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quản lý nợ nước
ngoài.
- Chương II: Thực trạng quản lý vay và trả nợ nước ngoài của Chính
phủ trong thời gian qua.
- Chương III: Những giải pháp, kiến nghị nhằm khắc phục những tồn
tại.

CHƯƠNG I

4


CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC QUẢN LÝ
NỢ NƯỚC NGOÀI
I/ KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI NỢ NƯỚC NGOÀI

1/ Khái niệm nợ nước ngoài
Vay nợ nước ngoài hay tín dụng nước ngoài là quan hệ tín dụng phát
sinh quyền và nghĩa vụ giữa bên vay ở trong nước và bên cho vay ở nước
ngoài . Theo khái niệm thông thường nhất, nợ nước ngoài là tổng số tiền nợ

mà quốc gia đi vay có trách nhiệm và ràng buộc phải trả, thanh toán cho một
hay nhiều quốc gia khác hay có thể là các tổ chức tài chính tín dụng quốc tế,
các doanh nghiệp, tư nhân nước ngoài. Gần đây một nhóm tổ chức quốc tế
nghiên cứu thống kê nợ nước ngoài bao gồm đại diện của Ngân hàng Thanh
toán quốc tế (BIS), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Tổ chức hợp tác và phát triển
kinh tế (OECD) và Ngân hàng Thế giới (WB) đã thoả thuận và đưa ra một
định nghĩa chung về nợ nước ngoài như sau:
“Nợ nước ngoài tính gộp tại một thời điểm nhất định tương ứng với
hạn mức cam kết hợp đồng đang có hiệu lực và đã tạo ra việc người cư trú
của một nước chuyển vốn cho người không cư trú bao gồm nghĩa vụ phải trả
lại gốc cùng với lãi “
Ở Việt nam, Nghi định 58/ CP ban hành ngày 30/8/1998 thống nhất
một số khái niệm sau :
- Vay nước ngoài là những khoản vay ngắn, trung hoặc dài ( có lãi
hoặc không có lãi ) các khoản bảo lãnh và các hình thức vay khác như việc
thỏa thuận hoãn nợ hoặc các hình thức vay mới trả cũ với các chủ nợ nước
ngoài .
-Vay nước ngoài của Chính phủ là các khoản vay do Chính phủ vay
và cam kết thực hiện nghĩa vụ với nước ngoài hoặc các khoản vay do Chính
phủ uỷ quền cho các doanh nghiệp vay hộ, được Bộ Tài chính hoặc Ngân
hàng Nhà nước bảo lãnh.
*Khái niệm chủ nợ và con nợ .

5


Chủ nợ (hay nói cách khác là bên cho vay) là các tổ chức Tài chính
(như Quỹ tiền tệ Quốc tế IMF, Ngân hàng Thế giới WB ...), các chính phủ
hay các Ngân hàng Thương mại, các Công ty, tư nhân cho một quốc gia nào
đó cho vay theo những thoả thuận ( như về thời hạn trả, về lãi suất...) nhất

định. Ngược lại, một Chính phủ hay một doanh nghiệp của một quốc gia đi
vay các tổ chức Tổ chức Tài chính Quốc tế, các quốc gia khác theo những
thoả thuận nhất định thì gọi là con nợ (hay còn gọi là bên vay).
2/ Phân loại nợ nước ngoài.
Để phát huy hiệu quả kinh tế của việc sử dụng các khoản nợ vay nước
ngoài phù hợp với đối tượng sử dụng người ta phân chia nợ nước ngoài ra
làm hai loại: Nợ nước ngoài của Chính phủ và nợ nước ngoài của doanh
nghiệp.
2.1 Nợ nước ngoài của Chính phủ.
Nguồn vốn vay nước ngoài của Chính phủ bao gồm vốn vay từ Chính
phủ các nước, các tổ chức tài chính như Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân
hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu á (ADB)... Đối với các
khoản vốn vay này, các Bộ, Ngành, địa phương và doanh nghiệp không
được thoả thuận hoặc ký các hiệp định, hợp đồng vay nếu không được Chính
phủ uỷ quyền.
Việc sử dụng vốn vay nước ngoài và chi trả nợ nước ngoài của Chính
phủ phải được cân đối vào kế hoạch thu, chi ngân sách hàng năm . Tất cả
các khoản vay và trả nợ nước ngoài của Chính phủ phải được tập trung quản
lý qua Bộ Tài chính, Bộ Tài chính chịu trách nhiệm xem xét và tổng hợp kế
hoạch tổng hạn mức vay và trả nợ nước ngoài của Chính phủ. Tham khảo
các cơ quan có liên quan để trình thủ tướng Chính phủ phê duyệt cùng với
kế hoạch thu chi ngân sách hàng năm. Vấn đề đặt ra là dựa vào cơ sở nào để
hàng năm có thể lập ra kế hoạch tổng hạn mức vay nợ của Chính phủ?
Vốn vay của Chính phủ trước hết được sử dụng cho các dự án đầu tư
xây dựng cơ bản theo kế hoạch Nhà nước. Đó là các dự án đầu tư thuộc cơ
sở hạ tầng, phúc lợi xã hội và các dự án khác có khả năng hoàn vốn hoặc
không có khả năng hoàn vốn. Đối với những dự án đầu tư không có khả
năng hoàn vốn (các dự án đầu tư các công trình giao thông, thuỷ lợi, giáo
dục, y tế v.v...), vốn được đầu tư theo chế độ cấp phát hiện hành. Ngược lại


6


một số dự án có khả năng hoàn vốn (cung cấp nước sinh hoạt, cầu cảng, điện
dân dụng v.v...) sẽ được Chính phủ đầu tư theo cơ chế cho vay lại.
Vốn vay của Chính phủ có thể phục vụ cho nhu cầu Ngân sách Nhà
nước thực hiện theo chế độ quản lý vốn Ngân sách Nhà nước hiện hành.
Khoản vốn vay này bao gồm cả các khoản do Chính phủ uỷ quyền cho các
doanh nghiệp nhà nước vay hộ Ngân sách Nhà nước sẽ do Bộ Tài chính trực
tiếp lập kế hoạch vay, tham khảo ý kiến của các cơ quan và trình Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt.Trong trường hợp nguồn vốn vay bằng hàng hoá thì
căn cứ vào các hợp đồng, hiệp định đã ký với nước ngoài, Bộ Tài chính
cùng Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Thương mại và Bộ ngành chủ quản
xem xét để giao cho các đơn vị đầu mối đứng ra nhập hàng, bán và nộp tiền
vào Ngân sách Nhà nước.
Ngoài ra còn hình thức vốn vay nước ngoài của các doanh nghiệp
không được Chính phủ uỷ quyền nhưng được Chính phủ bảo lãnh (việc bảo
lãnh vốn vay nước ngoài của các doanh nghiệp được thực hiện theo quy chế
bảo lãnh vốn vay nước ngoài của Chính phủ). Trường hợp vay cho đầu tư
xây dựng cơ bản (trừ vốn góp liên doanh), doanh nghiệp phải tuân thủ theo
trình tự lập và xét duyệt dự án đầu tư xây dựng cơ bản hiện hành.
Mọi khoản vay nước ngoài của Chính phủ, bao gồm trực tiếp vay, uỷ
quyền cho các doanh nghiệp vay hộ v.v... đều phải được quản lý thông qua
hạn mức vay nợ nước ngoài của Chính phủ.
Kế hoạch tổng hạn mức vay nợ nước ngoài hàng năm được xây dựng
trên cơ sở nhu cầu thực tế về sử dụng vốn vay nước ngoài trong năm kế
hoạch được xây dựng trên các căn cứ chủ yếu sau đây:
- Căn cứ vào số vốn vay cho các dự án đã được ký kết trong các hợp
đồng, hiệp định vay vốn với nước ngoài do Chính phủ ký kết hay uỷ quyền
cho các doanh nghiệp ký kết hay có sự bảo lãnh của Chính phủ.

- Căn cứ vào nhu cầu vốn vay nước ngoài cho các dự án đầu tư xây
dựng cơ bản dự kiến bắt đầu thực hiện từ năm kế hoạch đã có đối tác nước
ngoài nhưng chưa ký kết được hợp đồng ngay.
- Cân đối thu, chi Ngân sách Nhà nước năm kế hoạch và các dự kiến
nhu cầu vay vốn nước ngoài để bù đắp thiếu hụt ngân sách;

7


- Và cuối cùng là căn cứ vào khả năng trả nợ nước ngoài trong năm
kế hoạch được Bộ Tài chính xem xét.
2.2 Nợ nước ngoài của doanh nghiệp dưới hình thức tự vay tự trả.
Nợ nước ngoài chủ yếu là nợ của Chính phủ tức là các khoản do
Chính phủ vay và cam kết thực hiện nghĩa vụ với nước ngoài hoặc các
khoản vay Chính phủ uỷ quyền cho các doanh nghiệp vay, được Bộ Tài
chính hoặc Ngân hàng Nhà nước bảo lãnh. Song các doanh nghiệp tầm cỡ
đủ lớn để được người cho vay tin tưởng mà không cần sự bảo lãnh của nhà
nước, có thể vay trực tiếp theo hình thức tự vay tự trả. Các doanh nghiệp
này thường là các Ngân hàng, các xí nghiệp ... có các hoạt động quốc tế
(luyện kim, vận tải biển, hàng không, du lịch...). Các doanh nghiệp vay nợ
nước ngoài theo hình thức đó gọi là nợ của doanh nghiệp.
Cho vay của các Tổ chức Tài chính Quốc tế phần lớn dành cho Nhà
nước hoặc dạng được Nhà nước bảo lãnh. Đối với các khoản cho vay song
phương của Nhà nước cũng chủ yếu là như vậy. Ngược lại các khoản cho
vay của các ngân hàng và các công ty tư nhân trong một số trường hợp
không được Nhà nước đảm bảo. Chính những nước nợ nhiều nhất của các
chủ nợ tư nhân là những nước có thể vay nhiều mà không cần sự bảo lãnh
như ở Chi lê, Bờ Biển Ngà và Vênêzuêla với số nợtư nhân chiếm đến 1/4
tổng số nợ dài hạn. Tuy nhiên tình trạng tài chính và sự phát triển kinh tế có
ảnh hưởng lớn đến việc các công ty có thể tự vay tự trả cho các chủ nước

ngoài hay không? Một công ty hoạt động kém hiệu quả, khả năng trả nợ
kém thì sẽ khó có thể vay nợ nước ngoài dưới hình thức trực tiếp tự vay tự
trả. Về nguyên tắc thì Chính phủ không can thiệp vào vay nợ của các doanh
nghiệp dưới hình thức tự vay tự trả, tuy nhiên mọi nhu cầu vay nợ nước
ngoài, ngoài phần vay của Chính phủ thì nhu cầu vay nợ nước ngoài của các
doanh nghiệp nói chung qua hình thức tự vay tự trả đều phải nằm trong tổng
hạn mức vay nợ nước ngoài được Chính phủ xem xét và chấp nhận.

II/ TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC VAY NỢ NƯỚC NGOÀI VÀ SỰ CẦN
THIẾT TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG VAY, TRẢ NỢ NƯỚC NGOÀI .
1/ Tính tất yếu của việc vay nợ nước ngoài .

8


Lịch sử phát triển của các nước trên thế giới (nhất là các nước phát
triển từ sau đạI chiến thế giới thứ hai tới những năm của thập kỷ 80 và các
nước đang phát triển hiện nay ở khu vực Đông á , Mỹ La tinh) đã khẳng
định chắc chắn rằng vay nợ nước ngoài là một tất yếu trong tiến trình phát
triển. Thật vậy, trong bối cảnh của các nước đang phát triển và các nước
chậm phát triển muốn nhanh chóng thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu
nhằm đạt tới mục tiêu tăng trưởng dự kiến thì nhu cầu vốn đầu tư luôn là
một vấn đề nan giải bởi nó luôn là sự mâu thuẫn bất cập giữa khả năng tích
luỹ có hạn với nhu cầu đầu tư lại lớn. Do vậy, việc huy động vốn nước
ngoài là một vấn đề tất yếu.
Đối với Việt nam, chúng ta thực hiện phát triển kinh tế trong điều
kiện từ một đất nước vừa thoát khỏi hàng chục năm chiến tranh liên miên và
trong thế bị bao vây cấm vận của Hoa Kỳ, cùng với một nền kinh tế đặc
trưng nông nghiệp lạc hậu vào loại nghèo nhất thế giới. Do vậy, thực hiên
công nghiệp hóa, hiện đại hoá là giải pháp duy nhất để thoát khỏi vòng luẩn

quẩn của sự nghèo đói, đồng thời công nghiệp hóa, hiện đại hoá cũng là
mục tiêu duy nhất của Đảng và Nhà nước ta để đưa nền kinh tế Việt Nam
nhanh chóng hoà nhập với nền kinh tế trên thế giới và trong khu vực, là cơ
sở để thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Để đạt được các chỉ tiêu phát triển kinh tế theo định hướng phát triển
kinh tế - xã hôi trong giai đoạn 2001-2005 là tăng gấp đôi GDP so với năm
1995 và tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 9-10 % thì chúng ta cần một
lượng vốn đầu tư khoảng 40-42 tỷ USD, trong khi đó khả năng đáp ứng vốn
từ nền kinh tế trong nước theo quy hoạch đầu tư đạt khoảng 45 % (xấp xỉ 20
tỷ USD). Vậy số thiếu hụt lấy từ đâu? Một câu hỏi không dễ trả lời, nhưng
chắc chắn phải là nguồn vốn từ bên ngoài thông qua hoạt động vay nợ.

2/ Sự cần thiết tăng cường quản lý hoạt động vay, trả nợ nước ngoài.
Để hiểu rõ được vấn đề, trước hết chúng ta hãy xét thực trạng nợ nước
ngoài của Việt Nam :
Theo số liệu của Bộ Tài chính, tính đến 31/12/2001, nợ nước ngoài
của Việt Nam bằng ngoại tệ chuyển đổi là 3,6 tỷ đô -la Mỹ và hơn 10 tỷ
đồng rúp chuyển nhượng, chiếm 50 % GDP, trong đó 1/3 số nợ của Chính

9


phủ do hậu quả từ thời cơ chế bao cấp để lại. Xét về số tuyệt đối, đây là con
số không lớn nhưng là không nhỏ so với thu nhập quốc dân và điều kiện
kinh tế của nước ta. Đáng lưu ý hơn là năm 1999,WB căn cứ vào các chỉ tiêu
đánh giá mức độ vay nợ của một quốc gia đã xếp Việt Nam vào nhóm các
nước mắc nợ trầm trọng trong nhóm các nước có thu nhập thấp. Theo sốliệu
này, nợ của Việt Nam so với GDP là 92,1 % và so với xuất khẩu là 282,8 %.
Hơn nữa, trong một tương lai gần, khi mà quan hệ của chúng ta với
các Tổ chức Tài chính Quốc tế ngày càng thắt chặt, qui mô tín dụng nước

ngoài của chúng ta sẽ tăng lên nhiều hơn nữa:
Biểu 1. Khuynh hướng tích lũy trong nước ở Việt Nam ,1994-2001
(% của GDP)

Tích lũy quốc gia
Tích lũy của Ch. Phủ
.a/
Tích lũy phi Ch. Phủ .b/
Ghi chú:
Nguồn:

17
6

2002
khoảng
18
5

2005
dự
đoán
19
7

2010
dự
đoán
22
8


11

13

13

14

1994

1996

1998

2000

2001

3
-2

13
1

17
2

17
5


5

12

15

12

a/Thu ngân sách và viện trợ trừ đi chi thường xuyên (cơ sở tiền mặt).
Tích lũy Chính phủ bao gồm cả trung ương và địa phương.
b/Tích lũy quốc gia trừ đi tích lũy tổng cộng.
Bộ Tài chính và Tổng Cục Thống Kê.

Tỷ lệ tích lũy của Việt Nam khá cao so với các nước có thu nhập thấp
khác.Chỉ có Trung Quốc và các nước Nam á gồm Ấn độ, Pakistan và Sri
Lanka có tỷ lệ tích lũy cao hơn. Nếu xem xét trong điều kiện của các nứơc
Đông á, tỷ lệ tích lũy của Việt Nam khá thấp, nhưng điều đó có thể do
nguyên nhân chủ yếu do sự khác biệt về thu nhập. Tỷ lệ tích lũy của Việt
Nam đã được nâng lên trong suốt thập kỷ vừa qua,nhưng nỗ lực sẽ hết sức
cần thiết để ngăn chặn khuynh hướng giảm gần đây và phục hồi tỷ lệ tăng
trưởng tích lũy nhanh, nhằm đạt được mức tăng tỷ lệ tích lũy dự kiến là 20
% GDP vào năm 2005.
Mặc dù tích lũy trong nước tăng đáng kể, nhu cầu tài trợ từ bên ngoài
của Việt Nam vẫn lớn (Biểu 1). Trong năm 2003, Ngân hàng Thế giới dự
tính nhu cầu tài chính bên ngoài là 3,7 tỷ đô -la Mỹ. Với mức tổng dư nợ
nước ngoài cao và khả năng trả nợ nước ngoài của Việt Nam trong trung

10



hạn vẫn còn hạn chế, phần lớn nhu cầu tái chính bên ngoài này cần phải ở
dưới dạng tài trợ với điều kiện ưu đãI, và cả nguồn vốn FDI nữa.

11


Biểu 2. Nhu cầu tài trợ từ bên ngoài và nguồn.
(Tỷ đô-la Mỹ)
Thực Ước
2001 tính
2002
Nhu cầu tài trợ
Thâm hụt cán cân vãnglai
Khấu trừ nợ chính thức
trung và dài hạn
Những khoản khác (ròng)
Dự trữ bắt buộc
Tổng số
Nguồn tài trợ
Viện trợ không hoàn lại
chính thức
Vay nợ dài hạn
trong đó:
ODA giải ngân
IMF(ròng)
Đầu tư trực tiếp nước
ngoài
Vốn ngắn hạn (ròng)
Dư nợ quá hạn tồn đọng

Giảm nợ
Tổng số

Dự

báo

2003

2004

2005

2005-2010
TB năm

2,6
0,9

2,5
0,5

2,6
0,6

2,9
0,8

2,1
0,8


3,7
1,0

-0,3
0,5
3,7

0,5
3,5

0,4
3,7

0,5
4,1

0,7
4,5

0,7
5,4

0,2

0,2

0,2

0,2


0,2

0,2

0,6

1,2

1,5

1,6

1,9

2,3

0,4
0,2
1,8

0,7
0,03
1,9

0,9
0,0
2,0

1,1

-0,0
2,1

1,4
-0,0
2,1

1,8
-0,08
2,2

0,3
0,6
-

0,1
-4,1
4,1

-0,0
-

0,3
-

0,4
-

0,5
-


3,7

3,5

3,7

4,1

4,5

5,4

Nguồn: Ước tính của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ngân hàng Thế giới .

Theo đánh giá của các chuyên gia Ngân hàng Thế giới , trong khuôn
khỏ đẩy mạnh cải cách của Chính phủ, tuy có một khối lượng luồng FDI lớn,
nguồn tài trợ phát triển chính thức (ODA) vẫn đóng một vai trò to lớn và
quan tọng , vẫn cần có một nguồn ODA đáng kể để có thể đạt được các mục
tiêu phát triển trung hạn. Giải ngân của ODA, kể cả viện trợ không hoàn lại,
cần dược tăng từ khoảng 900 triệu đô - la Mỹ lên 1 tỷ đô -la Mỹ trong năm
2003. Mặc dù phần lớn số tiền này sẽ là giải ngân từ những cam kết đã có,
mức cam kết mới của Hội Nghị Tài Trợ cần phải tương đương với mức cam

12


kết năm ngoái là 2,4 tỷ đô- la Mỹ. Cần có mức cam kết này để đảm bảo việc
xây dựng một nguồn vốn tài trợ đầy đủ để giúp giải ngân đều đặncho các dự
án trong rung hạnvà có đầy đủ luồng vốn ưu đãI. Những ưu tiênvề phát triển

của Việt Nam, mà luồng ODA cần hỗ trợ, đã được trình bày trong kế hoạch
phát triển Kinh tế Xã hội của Chính phủ và trong văn bản chính thức chuẩn
bị cho hội nghị Tài trợ năm 2002. Những nhu cầu này rất đáng kể và cần
thiết ở Việt Nam. Khoảng 50 % dân số vẫnsống dưới mức nghèo khó và
không có đủ các dịch vụ xã hội quan trọng trong khi chất lượng các dịch vụ
lại yếu kém. Khoảng 40 % dân số có nước sạch trong khi các dịch vụ y tế
chỉ phục được 21% dân số. Những chứng cứ về các chỉ tiêu trong các lĩnh
vực y tế đã bị xấu đi từ thập kỷ 80 chothấy những thành quả về dịch vụ y tế
mà Việt Nam đã bị đảo ngược. Mặc dù chi phí của khu vực tư nhân trong
lĩnh vực y tế là nguồn lớn nhất để tài trợ cho lĩnh vực này ,cần phải
tăngthem chi phí công cộng trong lĩnh vực y tế để cải thiện chất lượng dịch
vụ y tế công cộng và đáp ứng được nhu cầu của người nghèo khó. Trong
lĩnh vực giáo dục, Việt Nam đã đạt được mức học sinh đến trường đáng
khâm phục so với mức thu nhập hiện nay. Tuy nhiên, giáo dục và chất lượng
cần được cải thiện hơn nữa để có thể cung cấp được lao động và tay nghề
cần thiết cho sự tăng trưởng nhanh. Về cơ sở hạ tầng kinh tế, hệ thống cơ sở
hạ tầng nông thôn còn thấp và cải thiện hệ thống này rất cần thiết cho sự
tăng trưởng chung và cho sự phát triển nông thôn. Nhu cầu năng lực cũng rất
cao và sẽ tăng nhanh cùng với sự tăng trưởng : nhu cầu về điện được dự
đoán tăng từ 14 đến 16 %mỗi năm trong thập niên sắp tới. Dự đoán cần 5
%của GDP để đầu tư vào lĩnh vực năng lực để có thể đáp ứng nhu cầu này .
Như vậy, trong những năm tới, tín dụng nước ngoài của Việt Nam
ngày càng phát triển, vì vậy cần thiết phải quản lý nợ nước ngoài một cách
có hiệu quả và phải tăng cường hơn nữa vai trò hệ thống quản lý vay nợ
nước ngoài nói chung và vai trò của Ngân hàng Nhà nước với tư cách là
Ngân hàng Trung ương nói riêng vì những lý do sau:
Thứ nhất, nợ nước ngoài tác động mạnh mẽ tới sự tăng trưởng theo
hai hướng tích cực hoặc tiêu cực tùy thuộc vào việc quản lý những khoản nợ
vay nước ngoài hiệu quả hay không:
Trong sự phát triển của các nước đi sau việc tìm kiếm các nguồn vốn

nước ngoài để phát triển kinh tế bổ sung cho nguồn tích lũy trong nước là
sự cần thiết khách quan. Nó không những chỉ đơn thuần là cung cấp nguồn
tài chính để chi trả các khoản đầu tư phát triển mà nếu quản lý tốt thì sẽ kéo
theo sự chuyển giao công nghệ và góp phần tạo ra sự phát triển bền vững,

13


tránh sự tụt hậu về kinh tế. Thông thường trong giai đoạn khởi động nền
kinh tế các nước đang phát triển có tỷ lệ tích lũy nội bộ chỉ trên dưới 10 %
GDP, trong khi muốn tăng trưởng nhanh thì tỷ lệ đầu tư ít nhất cũng phải là
20 % GDP. Nhìn chung nếu tỷ lệ tích lũy nội bộ cao, nguồn vốn nước ngoài
chỉ mang tính bổ sung thì nền kinh tế chẳng những phát triển nhanh mà còn
đảm bảo phát triển trong thế ổn định. Chẳng hạn như Hàn quốc,để gia tăng
nhịp độ phát triển kinh tế đã phải tăng cường vay nợ đến mức trở thành đất
nước có số nợ nước ngoài lớn thứ tư trên thế giới (sau Brazin, Chile và
Mexico), song do quản lý vay nợ chặt chẽ trong diều kiện nền kinh tế hoạt
động có hiệu qủa nên không những trả được nợ lãi và gốc, tổng số nợ
không những giảm mà còn có khả năng xuất khẩu vốn ra nước ngoài.
Nguồn ngoài nước trở thành nhu cầu tất yếu khi mà tích lũy trong
nước không đủ trang trải nhu cầu đầu tư. Độ chênh lệch lớn hay nhỏ phản
ánh mức độ nội lực kinh tế yếu hay mạnh. Các nguồn vốn nước ngoài tuy
rất quan trọng nhưng không phải bao giờ cũng trực tiếp dẫn đến tăng trưởng
kinh tế nhanh: trong nhiều thập niên qua một số nước Châu phi đã nhận
được nhiều viện trợ ODA song do sử dụngkhông hiệu qủa nguồn vốn viện
trợ và vay nợ nên nhịp độ tăng trưởng kinh tế chỉ có 0,2 %/năm.
Đánh giá mức độ nợ của một quốc gia thật không đơn giản bởi nó
không chỉ liên quan đến quy mô của khoản nợmà còn có những tiêu thức
khác liên quan đến mối quan hệ tương hỗ chẳng hạn giữa xuất khẩu và trả
nợ hoặc cơ cấu các khoản nợ.

Nếu xử lý đúng hướng thì dù quy mô nợ hay số nợ tính trên đầu người
là lớn nhưng vấn đề nợ có thể không phải là gánh nặng nếu trong nước giải
quyết tốt vấn đề quản lý tốt các khoản vay nợ, tăng cường tiềm lực xuất
khẩu (trường hợp Hàn quốc là ví dụ minh chứng).
Trái lại, có những nước khối lượng nợ ban đầu không lớn lắm nhưng
do công tác quản lý kém , vốn được sử dụng không hiệu quả đã làm cho
tổng số nợ tăng lên nhanh chóng.Thực tế, vấn đề nợ trở nên gay gắt không
chỉ đơn giản là do tổng số nợ tăng lên mà chủ yếu là do tỷ lệ dịch vụ trả nợ
tăng lên, phản ánh tỷ lệ xuất khẩu không tăng lên tương ứng với nguồn vốn
nước ngoài đưa vào, trong trường hợp đó các nước cho vay không muốn
cho vay thêm.

14


Như vậy, các khoản vay nợ nước ngoài tác động mạnh mẽ tới sự tăng
trưởng và phát triển của nền kinh tế . Đó làmột lý do tại sao phải tăng cường
quản lý các khoản vay nợ nước ngoài .
Thứ hai, nhìn chung vay nước ngoài nhàm tạo ra nguồn vốn ( bằng
ngoại tệ hay hàng hoá) bổ sung đáp ứngnhu cầu trogn nước song thực chất
vay nước ngoài là việc sử dụng có điều kiện các nguồn vốn tín dụng nước
ngoài , bởi vậy nguồn vốn này tác động trực tiếp tới hoạt động tài chính, tiền
tệ, thị trường hàng hoá và cán cân thanh toán quốc tế thông qua mối quan hệ
qua lại giữa lãi suất, tỷ giá, chính sách tài chính quốc gia với vay nợ nước
ngoài. Do vậy, cần thiết có sự tham gia của Ngân hàng Nhà nước trong
quản lý vay nợ nước ngoài nhằm kiểm soát luồng vốn ngoại tệ vào, ra khỏi
Việt Nam, lập cán cân thanh toán quốc tế, nghiên cứu ảnh hưởng của nguồn
vốn vay nước ngoài đến tỷ giá, cung ứng tiền ...để điều hành chính sách tiền
tệ, góp phần hoạch định và thực hiện chiến lược vay và trả nợ nước ngoài ,
tìm kiếm và khai thác các nguồn vốn vay ưu đãi.

Thứ ba, trước thời gian các nước Đông âu và Liên Xô cũ tan rã chúng
ta đã nhận được một lượng lớn nguồn viện trợ từ nước ngoài (chủ yếu là các
nước thuộc khối Xã hộị Chủ nghĩa) .Trong năm 2001 và năm 2002, nguồn
viện trợ không hoàn lại chính thức của chúng ta là 0,2 tỷ đô-la Mỹ, chiếm
khoảng 5 % tổng số nguồn tài trợ mỗi năm. Theo dự báo của các chuyên gia
Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng Thế giới, trong những năm tới nguồn
viện trợ này về trị số tuyệt đối vẫn giữ ở mức 0,2 tỷ đô-la Mỹ (theo biểu 2)
song các nguồn này sẽ giảm một cách tương đối ( khoảng 4 % mỗi năm trên
tổng số nguồn tài trợ từ 4 đến 5 tỷ đô-la Mỹ ). Đối với các nguồn viện trợ
chính thức này, chúng ta sử dụng chúng như là một nguồn vốn trong nước
mà không phải bận tâm về việc hoàn trả.
Ngoài các khoản viện trợ không hoàn lại đang có xu hướng giảm này,
các khoản còn lại đều là các khoản vay nợ với trách nhiệm hoàn trả phần lãi
và phần gốc khi tới hạn, vì vậy vấn đề đặt ra là phải có một chính sách,
chiến lược huy động, sử dụng và quản lý sao cho có hiệu quả để đảm bảo
khả năng trả nợ lãi và đặc biệt là vốn gốc. Nhiều chuyên gia trong lĩnh vực
quản lý nợ nước ngoài nhất trí với kết luận rằng “huy động vốn là quan
trọng , nhưng chính sách quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả là quyết định”
, nghĩa là không có chính sách quản lý vay nợ nước ngoài tốt tất yếu sẽ đưa
đến khủng hoảng nợ , kế tiếp là khủng hoảng kinh tế , tài chính và thậm chí
cả về chính trị. Chừng nào vốn vay được quản lý và sử dụng có hiệu quả cho
phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh để tạo ra nhiều nguồn thu hơn làm

15


cơ sở đảm bảo cho việc trả nợ sau này và tăng thêm phúc lợi xã hội cho
nước đi vay.
Thứ tư, hoạt động tín dụng quốc tế có ảnh hưởng rất lớn tới uy tín
( về ngoại giao, ngoại thương ...) của Chính phủ đối với các Tổ chức Tài

chính-Tín dụng Quốc tế, đối với Chính phủ các nước và cộng đồng tài chính
quốc tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại là một vấn đề quan trọng mà mỗi quốc
gia đều trú trọng nhằm tăng cường quan hệ hợp tác với các nước và các tổ
chức tài chính quốc tế . Để có thể thực hiện được theo phương đó nhằm
củng cố và giữ vững uy tín về mặt đối ngoại, chúng ta cần xây dựng một
lòng tin, một chỗ đứng vững chắc trên thị trường quốc tế .Muốn vậy ,cần
phải giải quyết nợ tồn đọng , đó là một vấn đề phải được coi như là một
nhiệm vụ trọng yếu trong chính sách phát triển kinh tế và chính sách đối
ngoại nói chung của đất nước. Nợ tồn tại do những khoản nợ cũ chưa trả,
những khoản nợ vay mới cộng với khoản lãi, vì thế giải quyết nợ là một vấn
đề rất nan giải có ảnh hưởng trực tiếp tới sự tăng trưởng kinh tế , tới quan hệ
kinh tế đối ngoại, tới việc thực thi chính sách tiền tệ quốc gia ...Chẳng hạn
Việt Nam dư nợ nước ngoài rất lớn ( hơn 14 tỷ đô-la Mỹ tính tương đương),
hàng năm ngân sách phải chi ra khoảng 2500 tỷ đồng ( tương đương trên
200 triệu đô-la Mỹ ) để trả một phần nợ quá hạn và nợ đến hạn , số này
chiếm tới 10 % tổng số thu về xuất khẩu. Trong bối cảnh nên kinh tế Việt
Nam hiện nay còn rất thiếu vốn để mở rộng và đầu tư chiều sâu cho sản xuất
thì vấn đề này càng trở nên quan trọng.
Khi một đất nước có nền kinh tế đang phát triển thì nhu cầu đầu tư
vào sản xuất sẽ rất cao nhằm tăng thu nhập quốc dân, nâng cao mức sống
của người dân. Song quốc gia đó có những khoản nợ tồn đọng đang phải trả
hay nợ chồng chất thì buộc họ phải trích từ thu nhập quốc dân để trả nợ .
Điều này làm giảm khả năng nhập khẩu đồng thời hoạt động xuất khẩu cũng
bị hạn chế, hàng trong nước không được bảo vệ trước sự cạnh tranh của
hàng hoá nhập khẩu thất nghiệp gia tăng và cán cân thương mại mất cân đối
nghiêm trọng ...
Nợ nước ngoài nhiều hay ít không phải là tiêu chuẩn để đánh giá
một nước giầu hay nghèo. Nó tác động đến sự tăng trưởng kinh tế trong
nước , đến mối quan hệ tín dụng ngoại thươn, đến cán cân thanh toán ,tỷ giá
và lạm phát, làm ảnh hưởng tới việc thực thi chính sách tiền tệ và góp phần

quyết định chính sách kinh tế đối ngoại. Với tầm quan trọng như vậy nợ và
trả nợ phải được quản lý chặt chẽ hơn nữa cơ chế cần phải chỉnh sửa cho
phù hợp với chức năng của các cơ quan chủ quản.

16


Thứ năm, thực trạng hệ thống quản lý vĩ mô (về cơ chế, chính sách
quản lý ...) nợ nước ngoài của Việt Nam còn rất yếu kém chưa đáp ứng
được yêu cầu của hệ thống quản lý có hiệu quả. Thêm vào đó, cho đến nay
chúng ta vẫn chưa có một cơ quan nào đứng ra thống nhất quản lý vay và trả
nợ nước ngoài . Sự phối hợp của các cơ quan còn chưa đúng chức năng,
chồng chéo hoặc thiếu sự chặt chẽ và đồng bộ. Xét trong tổng thể kinh tế vĩ
mô, hoạt động vay nợ phải hướng theo các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội
và có khả năng tác động tới mọi lĩnh vực của đời sống. Bởi vậy, tăng cường
vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong công tác quản lý nợ nước ngoài nói
chung và nợ nước ngoài của Chính phủ nói riêng là vấn đề hết sức cần thiết.
III/ MỤC TIÊU CỦA QUẢN LÝ VAY NỢ TRONG THỜI GIAN TỚI.

Về cơ bản, mục tiêu của hoạt động vay nợ của Việt Nam trong thời
gian tới phải phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội tổng thể hay
nói cách khác chính sách quản lý vay nợ nước ngoài phải nằm trong hệ
thống quản lý vĩ mô hướng tới tăng trưởng và ổn định kinh tế, xã hội , ổn
định giá trị của đồng tiền. Tuy nhiên mục tiêu cơ bản này sẽ phải được cụ
thể hoá trên từng phạm vi cụ thể :
Trên phạm vi nền kinh tế :
- Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn vay nước ngoài
phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế -xã hội và sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hoá, trên cơ sở tạo lập một hệ thống quản lý vay nợ hữu hiệu;
- Góp phần phát triển nhanh, cân đối và ổn định nền kinh tế quyết

quốc dân, giảm thiểu tác động tiêu cực của việc vay nợ đến nền kinh tế quốc
dân ;
- Đánh giá đúng tầm quan trọng của nguồn tư bản quốc tế trong qúa
trình phát triển kinh tế, nghĩa là xác định được 3 vấn đề lớn của vay nợ
nước ngoài là : Đâu là lợi ích tiềm năng của nguồn vốn tư bản quốc tế ? Vay
bao nhiêu và vay dưới hình thức nào là tối ưu ? Vốn vay được sử dụng cho
mục đích nào ? Từ đó có chiến lược huy động và sử dụng có hiệu quả .
Đối với Ngân hàng Nhà nước :

17


- Góp phần khai thác và sử dụng tối đa các nguồn vốn vay nước ngoài,
nhằm kiểm soát nguồn ngoại tệ vào ra khỏi lãnh thổ Việt Nam, ổn định thị
trường tiền tệ tài chính và điều hành có hiệu quả chính sách tiền tệ .
- Đảm bảo nguồn ngoại tệ dự trữ ở mức cần thiết đáp ứng các nhu cầu
trả nợ. Thông qua các công cụ điều hành chính sách tiền tệ như tỷ giá lãi
suất để hỗ trợ cho việc phòng tránh rủi ro cho các hoạt động vay và trả nợ
cũng như duy trì sự an toàn trong hoạt động của hệ thống ngân hàng , nghĩa
là nhằm nghiên cứu tác động ảnh hưởng của nguồn vốn vay nước ngoài tới
tỷ giá, lượng tiền cung ứng và lạm phát để điều hành chính sách tiền tệ.
- Góp phần hoạch định và thực hiện một cách tốt nhất chiến lược, kế
hoạch vay trả nợ nước ngoài, lựa chọn nguồn vốn vay thích hợp cũng như
các điều kiện vay vốn.
IV/ KINH NGHIỆM VAY NỢ CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI .

Trong hai cuộc hội thảo lớn tại các nước Châu á và Thái Bình Dương
do tổ chức ES
(hội đồng kinh tế xã hội các nước Châu á - Thái Bình
Dương) đứng ra tổ chức tại Bắc Kinh năm 1986 và ở Cameroune năm 1987,

các nhà quản lý và nghiên cứu kinh tế đều đI đến kết luận là : Muốn phát
triển kinh tế Châu á -Thái Bình Dương phải ra sức huy động và sử dụng có
hiệu quả các nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài. Các hội nghị
này đã tổng kết kinh nghiệm của các nước đang phát triển trong việc vay
vốn nước ngoài và đã có những kết luận rất đáng được quan tâm.
Trong giai đoạn cuối thập kỷ 70 cho tới năm 1983 nợ quốc tế của các
nước đang phát triển lên đến 810 tỷ đô-la Mỹ ,trong đó có những nước
thành công trong vay nợ để phát triển kinh tế như Hàn quốc,nhưng cũng có
những nước thất bại, rơi vào tình trạng khủng hoảng nợ để lại gánh nợ chồng
chất cho hậu thế mà có khi phải trả giá bằng sự khủng hoảng về kinh tế chính trị như: Thái lan, Braxin, Mehico, Chi le, Peru, Venezunea. Nguyên
nhân của sự thất bại của các nước phát triển dựa vào vay nợ là do sai lầm
trong chính sách quản lý vay nợ nước ngoài. Sau đây là một vài ví dụ điển
hình về quản lý vay nợ nước ngoài :
1. Kinh nghiệm của Hàn quốc.

18


Vào cuối năm 1965, khi công cuộc cải cách kinh tế , tài chính, thương
mại của Hàn quốc đã được tiến hành có hiệu quả, xuất khẩu bắt đầu tăng lên
nhanh chóng, giá cả trong nước ổn định, đầu tư vào sản xuất trong nước đã
bắt đầu kích thích kinh tế tăng trưởng, các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá
lạc quan về triển vọng kinh tế tốt đẹp của nền kinh tế Hàn quốc (giống
trường hợp của Việt Nam hiện nay).Vì vậy vào giữa năm 1966, nguồn vốn
ngắn hạn ồ ạt chảy vào Hàn quốc một cách đột ngột, đặt chính sách kinh tế
vĩ mô trước một vấn đề nan giải: nếu Ngân hàng Trung ương để mặc cho
đồng vốn đó chạy vào quá nhiều, đồng Won sẽ lên giá, công nghiệp xuất
khẩu non trẻ sẽ bị giáng một đòn nặng nề. Nhưng nếu Ngân hàng Trung
ương tìm cách giữ cho tỷ giá đồng Won ổn định trong khi nguồn vốn tài
chính tràn ngập, Ngân hàng Trung ương sẽ gặp khó khăn trong việc kiểm

soát tiền tệ trong nước và nạn lạm phát lại tiếp tục bùng nổ, đúng như đã xảy
ra cuối những năm 60. Vào những năm 70 Hàn quốc phải tiếp tục chịu sự
lạm phát trong nước kèm theo gánh nặng nợ nước ngoài, Ngân hàng Trung
ương Hàn quốc đã phải tiến hành liên tục nhiều cuộc phá giá nhỏ (mini
devaluation) để cứu nguy cho các nhà xuất khẩu.Từ thập kỷ 70 Hàn quốc đã
sử dụng nguồn vốn nước ngoài vào chiến lược tăng trưởng hàng xuất khẩu
(chủ yếu là gia tăng xuất khẩu các sản phẩm chế tạo và nhờ đó ngày nay Hàn
quốc đã trở thành một trong số những con rồng Châu á.
2. Kinh nghiệm của Mêhicô.
Qua bài phát biểu của ông Camdessus, giám đốc điều hành IMF ngày
25/5/2000 “tiến tới một khu vực tự do mậu dịch ở Châu Mỹ” và các tài liệu
khác cho thấy một bài học quan trọng về thất bại của Mêhicô trong vay nợ
nước ngoài.
Trong những năm 1993-1998 với sự hỗ trợ tích cực của IMF, Mêhicô
đã tạm thời ổn định kinh tế vĩ mô, trang trải được nợ nước ngoài, đặt nền
móng cho nền kinh tế khu vực tư nhân, tự do ngoại hối và thương mại, cơ
cấu lại các khoản nợ nước ngoài.
Nhưng tiếp sau đó, vào cuối năm 1999 nền kinh tế Mêhicô lại bộc lộ
những dấu hiệu một cuộc khủng hoảng mới: Bội chi cán cân thanh toán trở
nên rất nghiêm trọng. Từ đó Mêhicô lại phải tiếp tục vay nợ ngắn hạn để bù
đắp cho số bội chi này. Vốn nước ngoài chạy vào nhiều đã làm cho đồng
Peso tăng giá , nhưng sự tăng giá này trong điều kiện lúc đó là giả tạo. Đầu
năm 2000 cán cân thanh toán lại tiếp tục bội chi trầm trọng hơn, buộc Chính
phủ Mêhicô phải phá giá đồng Peso. Sau khi phá giá, cuộc khủng hoảng

19


kinh tế lại trở nên nghiêm trọng. Mêhicô được coi là mất khả năng thanh
toán trên thị trường tài chính quốc tế. Đồng Peso bị các lực lượng đầu cơ

tiền tệ tung ra, cuộc khủng hoảng đồng Peso kéo đồng đô-la Mỹ vào cơn lốc
đầu cơ, hàng tỷ đô-la Mỹ đã tung ra để mua các đồng tiền mạnh. Trước tình
trạng đó Chính phủ Mêhicô phải tìm biện pháp cứu nguy nhưng không thay
đổi chính sách tiền tệ để lành mạnh hoá nền kinh tế mà vẫn tiếp tục nhờ vào
vay nợ nước ngoài. Trong khi đó Quỹ tiền tệ Quốc tế và Mỹ lại sẵn sàng hỗ
trợ : ngày 1/2/2000, IMF cho Mêhicô vay 17,8 tỷ USD trong vòng 18 tháng,
Mỹ cho vay 20 tỷ USD và nhóm G10 cho vay ngắn hạn 10 tỷ USD . Như
vậy Mêhicô đã vay thêm nợ ngắn hạn 47,8 tỷ USD để giải quyết khủng
hoảng kinh tế . Ông Camdessus lại coi đó là “một sự giúp đỡ lớn nhất của
IMF đối với một nước hội viên từ trước đến nay” ,và liều thuốc đó lập tức
phát huy hiệu quả, ông Camdessus cho biết cán cân thanh toán của Mêhicô
đã bắt đầu bội thu vào quý I năm 2000, đồng Peso đã lên giá so với đồng
đô-la Mỹ từ 8,1 Peso/1 USD lên 6 Peso/ 1USD. ĐIều này lại có nghĩa là có
lợi cho các nhà xuất khẩu Mỹ bán hàng sang Mêhicô - thị trường xuất khẩu
đứng thứ 3 của Mỹ, còn Mêhicô thì lại chủ yếu nhập khẩu, xuất khẩu kém
làm cho cán cân thương mại của Mêhicô thâm hụt - những tiền đề cho cuộc
khủng hoảng mới lại xuất hiện.
Bài học lớn từ sự kiện Mêhicô cho thấy : Một nước nếu chỉ dựa vào
vay nợ nước ngoài để phát triển kinh tế sẽ có thể đưa nền kinh tế nước đó
vào một vòng luẩn quẩn đầy bế tắc :vay nợ để phát triển dãn tới khủng
hoảng kinh tế, tiền tệ, để giải nguy lại tiếp tục vay nợ vay nợ lại dẫn tới
khủng hoảng mới với công nợ chồng chất ...
Một nước ban đầu tưởng chừng rất thành công trong vay nợ nước
ngoài song cuối cùng lại vấp ngã . Để làm rõ hơn về vấn đề này chúng ta
nghiên cứu thêm một trường hợp của Thái lan trong việc quản lý vay nợ
nước ngoài.
3. Kinh nghiệm của Thái lan .
Vay nợ nước ngoài của Thái lan được thực hiện theo Luật vay nợ
nước ngoài ( năm 1976). Theo luật này, Bộ Tài chính được phép huy động
vốn vay từ nước ngoài phục vụ các mục đích phát triển kinh tế - xã hội .

Việc cấp bảo lãnh cho các khoản vay của xí nghiệp quốc doanh được quy
định trong luật (năm 1976) và sau này có sửa đổi. Đạo luật Hoàng gia (năm
1985) trao quyền cho bộ phận quản lý và Chính sách vay nợ (LPMD) của Bộ
Tài chính tiến hành cơ cấu lại nợ nước ngoài của khu vực Nhà nước.

20


Hot ng ca LPMD c cỏc khi thng mi song phng v a
phng gii quyt trong khi cỏc chc nng qun lý n c giao cho khi
lp k hoch v chớnh sỏch. Tt c cỏc tho thun v vay n nc ngoi ca
Chớnh ph cỏc thụng bỏo gii ngõn v hoỏ n thanh toỏn m ch n gi n
u c gi LPMD . Vic thanh toỏn n do khi chớnh sỏch khi xng,
khi lp k hoch v v tng kim soỏt s ghi chộp, ni chu trỏch nhim
hch toỏn nhng khon vay v hon tr n. Vỡ vy nhng s sỏch y chi
tit i vi vay Chớnh ph yờu cu c vi tớnh húa ti LPMD
LPMD cú th ly y thụng tin v n Chớnh ph trong c s d
liu ca mỡnh. Cỏc bỏo cỏo v n nc ngoi c gii trỡnh thng xuyờn
cho B Ti chớnh v U ban chớnh sỏch n quc gia. C quan ny chu trỏch
nhim xỏc nh hn mc vay n v bo lónh hng nm ca Chớnh ph da
trờn nhng kin ngh ca c quan chớnh sỏch ti chớnh. U ban hot ng
di s ch to ca B trng B Ti chớnh v Th trng l phú ch tch.
Nhng c quan kinh t ch cht khỏc m hot ng ca nú tỏc ng ti
chớnh sỏch qun lý n cú I din trong U ban l Ban ngõn sỏch , Ban phỏt
trin kinh t -xó hi quc gia, c quan tng kim soỏt v Ngõn hng Trung
ng Thỏi lan.
Biu 3. Tỡnh hỡnh n nc ngoi ca Thỏi lan .
N nc ngoi

1980


1981

1982

1983

1984

1985

1986

Tng s n
(t ụ-la M )

6,7

8,8

10,1

11,2

12,8

14,7

16,0


T l % so vi
xut nhp khu

15,6

16,5

18,0

20,4

20,8

22,7

20,6

Những khoản tiền vay nợ của nớc ngoài , một phần để chi tiêu quốc
phòng, phần còn lại để đầu t cho các công trình kinh tế , đặc biệt là cơ sở hạ
tầng.
Để giữ đợc lòng tin với các Tổ chức Tài chính Quốc tế , Thái lan đã đề
ra cả một chiến lợc vay nợ và trả nợ có tính chất khả thi.

21


Thật vậy từ đầu thập niên 80 , Thái lan đã ban hành chính sách hạn
chế vay nợ nớc ngoài . Chính sách này chỉ áp dụng cho khu vực kinh tế Nhà
nớc . Trong kế hoạch năm năm lần thứ 5 (1982-1986), giới hạn vay nợ cho
khu vực Nhà nớc đã giảm từ 2400 triệu đô-la Mỹ xuống 2060 triệu đô-la

Mỹ cho mỗi năm tài chính 1983,1984 ; 1600 triệu đô-la Mỹ cho năm tài
chính 1985 và 1000 triệu cho năm tài chính 1986. Việc vay nợ là một điều
không tránh khỏi với một nớc đang phát triển nh Thái lan. Nhng làm thế nào
để có thẻ trả nợ thì không đơn giản. Vì thế vào năm 1984, Nhà nớc đã phải
đề ra một chiến lợc phát bốn điểm nhằm thanh toán dần các khoản nợ đó.
Bốn điểm đó là :
1. Chuyển từ vay lãi suất cố định sang vay với lãi suất thả nổi
2. Chuyểntừ vay với lãi suất chênh lệch cao sang vay với lãi suất
chênh lệch thấp.
3. Chuyển từ vay ngoại tệ với lãi suất cao sang vay ngoại tệ với lãi
suất thấp.
4. Chuyển vay vốn lãi suất cao của các tổ chức đa phơng sang vay
vốn lãi suất thấp trên thị trờng vốn quốc tế.
Nhờ kinh tế phát triển nhanh từ nửa sau những năm 80 và áp dụng
chiến lợc trả nợ trên, Thái lan đã thanh toán đợc và thanh toán đúng hạn các
khoản tiền đã vay để tiếp tục đợc vay.
Trong thời gian này (1982-1986), Thái lan là nớc mắc nợ ít nhất so với
các nớc ASEAN khác. Chính phủ không khống chế giới hạn vay nợ của khu
vực t nhân, nhng thông qua Ngân hàng Trung ơng Thái lan, Nhà nớc đã
giám sát việc vay nợ để đảm bảo tổng số nợ không vợt quá giới hạn có thể
trả đợc .
Tuy nhiên, Thái lan đã không giữ đợc danh hiệu tấm gơng sáng về
quản lý vay nợ nớc ngoài. Các nhà phân tích đã đa ra kết luận về cuộc khủng
hoảng tiền tệ của Thái lan trong thời gian gần đây, đó là: trong những năm
qua, Thái lan đã mua sản phẩm và dịch vụ của nớc ngoài nhiều hơn là số
tiền nhận đợc từ xuất khẩu và đầu t. Hậu quả là thâm hụt cán cân vãng lai
của Thái lan chiếm tới 8 % GDP vào năm 2001.
Biểu 4. Nợ nớc ngoài của Thái lan
(tớnh n 5/2002)


22


N di
hn
(t USD)

%n di
hn trờn
tng n

N ngn hn
(t USD,
di 3 nm)

% n ngn
hn trờn
tng n

Tng
s n
(t
USD)

Chớnh ph
T hp ngõn hng
quc t Bangkok
Khu vc phi
ngõn hng


18,681

21,96

-

-

18,681

28,183

33,13

7,046

8,28

35,229

22,250

26,15

8,914

10,47

31,164


Tng cng

69,114

81,24

15,960

18,76

85,074

Để tài trợ cho đầu t trong nớc và thoả mãn nhu cầu tiêu dùng nội
địa, mỗi tháng Thái lan phải vay trên thị trờng tiền tệ từ 800 triệu đến 1 tỷ
đô-la Mỹ, con số này cha kể đến nợ nớc ngoài của khu vực t nhân (trên 60
tỷ đô-la Mỹ). Các khoản vay đợc đầu t chủ yếu vào những khu vực có giá cả
khá nhạy cảm nh bất động sản. Hơn nữa nợ ngắn hạn lại chiếm một tỷ lệ lớn
trong tổng số nợ, xuất khẩu của Thái lan bị giảm sút, điều này khiến cho các
chủ nợ, các nhà đầu t nớc ngoài lo ngại rằng đất nớc này không trả nổi các
khoản tín dụng khổng lồ.
Thực ra, nếu nguồn vốn vay nớc ngoài mà chủ yếu là dài hạn thì khả
năng xảy ra những vấn đề đáng tiếc có thể đợc khắc phục bởi nớc đI vay có
nhiều thời gian để sử dụng vốn vào sản xuất sinh lời (mà cha phải trả nợ
gốc), hay chí ít cũng có thể lo liệu đợc nguồn để trả nợ. Song trên thực tế,
nh đã đề cập ở phần trên, các nớc vẫn có những khoản tín dụng ngắn hạn
khổng lồ đó là nguồn gốc của khủng hoảng nợ, khủng hoảng tài chính.
Thật vậy, ở các nớc Mỹ La tinh, đặc biệt là Chi lê, và cả Hàn quốc, khi
quá trình tự do hoá và ổn định kinh tế trong các nớc đã có những thành công,
tính sinh lợi của nền kinh tế đã tăng lên, thờng có một xu hớng xuất hiện: các
nhà đầu t trong nớc cũng nh các nhà đầu t nớc ngoài đều muốn ồ ạt bỏ vốn

vào đầu t. Một điều nguy hiểm là các nhà kinh tế t nhân trong nớc cũng nh
các nhà đầu t nớc ngoài không dự đoán đợc những gì sẽ xảy ra trong tơng
lai và nguy hiểm hơn là các luồng vốn này là ngắn hạn. Khi vốn chạy vào
quá nhiều, tỷ giá danh nghĩa và thực tế đồng tiền trong nớc tăng lên, xuất
khẩu bị hạn chế, lạm phát có chiều hớng gia tăng thì chính vào lúc đó các
khoản nợ ngắn đã đến hạn phải trả. Chi lê vào cuối những năm 70, Hàn quốc
giữa những năm 60 các nớc này đã không đề phòng tình trạng số nợ ngắn
hạn của khu vực t nhân tăng lên vào giai đoạn này.

23


Mặc khác, trong những năm 70 và 80 Chính phủ của các nớc này đã
đứng ra bảo lãnh tất cả các khoản tín dụng nớc ngoài của kinh tế t nhân, do
đó trên thực tế ngời cho vay không gắn liền với ngời đI vay đã làm cho tình
trạng nợ nớc ngoài tăng lên khủng khiếp trong hai thập kỷ này. Chính vì sự
bảo lãnh này của Chính phủ nên các doanh nghiệp trong nớc tha hồ vay vốn
nớc ngoài với bất kỳ ở mức lãi suất nào và gánh nặng công nợ đều đổ lên vai
Chính phủ, kết cục đã làm tăng thêm gánh nợ cho đất nớc.
Do tình trạng thiếu vốn, thiếu ngoại tệ các Chính phủ lại tìm mọi cách
khuyến khích luồng vốn nớc ngoài chảy vào trong nớc. Nhiều nớc đã vội
vàng huỷ bỏ các biện pháp quản lý ngoại hối, tự do hoá nhanh việc xuất nhập
khẩu vốn ngoại tệ.
Một nhà kinh tế học đã cho rằng tình trạng đó là một quả bom nổ
chậm làm bùng nổ gánh nợ nớc ngoài và lạm phát trong nớc. Tình hình này
diễn ra ở Issariel cuối năm 1977, ở Azentina năm 1981 và cả Ba lan, Nam t
khi họ để cho tình trạng đô la hoá quá lớn trong nền kinh tế của họ trong
những năm 1980.
Từ những bài học thành công và thất bại về vay nợ nớc ngoài của một
số nớc tiêu biểu đã đề cập ở trên ta có thể rút ra một bài học là: Quản lý nợ

nớc ngoài tồi là căn nguyên của khủng hoảng nợ và hậu quả cuối cùng là
khủng hoảng kinh tế tài chính. Qua đó một lần nữa cho thấy quan hệ nhân
quả giữa chính sách tiền tệ (tỷ giá, lãi suất ) với vay nợ nớc ngoài đồng thời
khẳng định sự cần thiết phải tăng cờng các biện pháp quản lý vay nợ nớc
ngoài, trong đó không thể thiếu vai trò quản lý của Ngân hàng Nhà nớc.

CHNG II

THC TRNG QUN Lí VAY, TR N NC NGOI
CA CHNH PH TRONG THI GIAN QUA
I/ QUAN H TN DNG CA VIT NAM VI CC T CHC
TI CHNH QUC T .

24


1./ Quá trình hình thành và phát triển của mối quan hệ tín dụng
của Việt Nam với các Tổ chức Tài chính Quốc tế .
a) Với Quỹ tiền tệ Quốc tế(IMF).
* Giới thiệu sơ lược.
Quỹ tiền tệ Quốc tế là một tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế, được
thành lập từ hội nghị Bretton Wood năm 1945. Đây là một tổ chức tiền tệ
lớn nhất bao gồm 176 nước thành viên và đóng vai trò quan trọng trong
quan hệ tài chính tiền tệ quốc tế. Quỹ tiền tệ Quốc tế được thành lập và hoạt
động trên cơ sở hoạt động của các nước hội viên qua hình thức hiệp định .
Hoạt động và giao dịch của Quỹ được thông qua hai vụ:
- Vụ tổng hợp : Vụ điều hành hoạt động của Quỹ.
- Vụ SDR (Special Drawing Rigts): Xác định quyền và nghĩa vụ của
các nước hội viên( quyền rút vốn đặc biệt). Đây là vụ quan trọng bởi nó xác
lập được quyền của các nước hội viên trong việc sử dụng số SDR cho phép

(số SDR được sử dụng phụ thuộc vào sự đóng góp cổ phần khi tham gia vào
Quỹ của hội viên). Việc thanh toán trên thị trường quốc tế sẽ dựa vào đồng
SDR - là đồng tiền không bị mất giá ( bởi nó được xác định từ rổ tiền tệ với
5 đồng tiền mạnh trên thế giới, bao gồm: đô-la Mỹ, Mác Đức, Bảng Anh,
France Pháp và Yên Nhật).
Khác với Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển Châu á (sẽ
được trình bày ở phần sau), mục đích trực tiếp của Quỹ tiền tệ Quốc tế
không phải là phát triển mà là :
- Khuyến khích hợp tác tiền tệ quốc tế ( sử dụng một đơn vị tiền tệ
chung hay cùng sử dụng một đơn vị ngang giá với các đơn vị tiền tệ của tất
cả các nước hội viên thông qua một tổ chức . Chẳng hạn như liên minh tiền
tệ Châu âu và sự ra đời của đồng tiền chung Châu á trong tương lai.
- Tạo điều kiện phát triển cân đối mậu dịch quốc tế, tạo điều kiện để
phát triển các nguồn lực sản xuất của các nước hội viên, giải quyết công ăn
việc làm, nâng cao thu nhập cho các nước hội viên .
- Tăng cường sự ổn định tỷ giá của đồng tiền, tránh sự cạnh tranh về
tỷ giá giữa các đồng tiền thông qua phương thức cạnh tranh.

25


×