Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Giáo dục sức khỏe răng miệng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.12 KB, 12 trang )

I.
1.

Một số khái niệm được sử dụng trong nghiên cứu
Bệnh răng miệng
Theo chuyên gia răng hàm mặt (RHM), bệnh răng miệng là các bệnh về tổ chức

cứng ở răng, tổ chức quanh răng và niêm mạc miệng, trong đó hai bệnh thường gặp là
sâu răng và viêm lợi [1].
2.
Bệnh sâu răng
Sâu răng là một quá trình bệnh lý, xuất hiện sau khi răng đã mọc, tổ chức cứng
của răng bị phá huỷ và tạo thành một hố gọi là lỗ sâu [2].
Người ta có thể tóm lược cơ chế sinh bệnh học sâu răng bằng hai quá trình huỷ
khoáng và tái khoáng. Mỗi quá trình đều do một số yếu tố thúc đẩy. Nếu quá trình huỷ
khoáng lớn hơn quá trình tái khoáng thì sẽ xuất hiện sâu răng.
3.
Viêm lợi
Viêm lợi là sự khích thích vi khuẩn ở mảng bám răng, bờ viền lợi tròn, tấy đỏ và
phù nề, mềm. Nhóm vi khuẩn thường kết hợp với viêm lợi xoắn khuẩn Actinomyces
(Gram dương, hình sợi) và Eikenella (Gram âm, hình que).
- Viêm lợi hoại tử cấp tính là sự hoại tử gai lợi, chảy máu tự phát, có mùi hôi.
- Viêm quanh răng là thời kỳ tiếng triển nặng hơn của bệnh quanh răng: lợi , xương
và các tổ chức khác giữ răng sẽ bị phá huỷ [3].
4.
Các biện pháp phòng bệnh răng miệng
4.1. Giáo dục sức khỏe răng miệng[4]
4.1.1. Định nghĩa
Giáo dục sức khỏe răng miệng là một nghệ thuật truyền bá các kiến thức tổng
quát về nguyên nhân, triệu chứng, biến chứng, cách điều trị, dự phòng các BRM đến
quần chúng, thay đổi tư tưởng và tập quán cü nhằm cải thiện tốt sức khỏe răng miệng


cho cộng đồng.
Giáo dục sức khỏe răng miệng là một biện pháp mà mọi người được hưởng đồng
đều qua báo chí, truyền thanh, truyền hình... không phân biệt tầng lớp xã hội, kinh tế,
văn hoá... Đây là một biện pháp dự phòng chủ động (nhân dân chủ động tham gia) nên
cần có thời gian để người dân có thể thay đổi tập quán cü, đồng thời trước khi giáo dục
cần phải chú đến tập quán, phong tục, tín ngưỡng có thể làm cản trở việc từ bỏ thói
quen cü hoặc chấp nhận một thói quen mới, khả năng kinh tế, khả năng nhận thức, khả
năng đáp ứng y tế đối với cộng đồng.
4.1.2. Mục tiêu


Mục tiêu chính của giáo dục sức khỏe răng miệng là cung cấp thông tin và kiến
thức mới về sức khoẻ răng miệng để nhân dân quan tâm và tham gia công tác phòng
BRM, biến hành động chăm sóc thành hành động tự chăm sóc.
Nội dung
Phổ biến những kiến thức cơ bản về răng miệng
Chức năng của răng (nhai, phát âm, thẩm mỹ).
Thời gian mọc răng và thay răng cùng những biến chứng khi mọc răng. Răng sữa

4.1.3.

-

của trẻ cần thiết cho ăn nhai, phát triển cơ thể, khuôn mặt, giữ cho răng vĩnh viễn
-

mọc khỏi lệch lạc,...vì thế không nên xem thường việc chăm sóc răng sữa.
Nguyên nhân, triệu chứng, biến chứng, của bệnh sâu răng và nha chu.
Vai trò của mảng bám răng trong bệnh sâu răng và nha chu.
Nguyên nhân, triệu chứng của ung thư vùng miệng.

Tác hại của thuốc lá, trầu cau, rượu đối với ung thư vùng miệng.
Cách phát hiện sớm các BRM (chấm đen trên răng, đau khi ăn uống nóng lạnh,
chảy máu nướu, vết loét không lành sau 10 ngày điều trị kháng sinh, vết trắng,

hồng, nâu ở niêm mạc miệng, vết sùi chảy máu không đau...).
 Phổ biến cách giữ gìn vệ sinh răng miệng đúng phương pháp
Là tổng hợp những biện pháp hướng tới việc làm sạch xoang miệng đặc biệt là
răng, nướu, bao gồm chải răng và súc miệng kỹ sau khi ăn, dùng tăm xỉa răng, chỉ nha
khoa.
Chải răng và súc miệng sau khi ăn:
Là một công việc hết sức nhẹ nhàng mà hữu ích, nhưng vẫn còn nhiều người chưa
quan tâm cho đó là công việc tầm thường không quan trọng. Thật ra đây là một biện
pháp hữu hiệu nhất, dễ làm nhất, rẻ tiền nhất để giữ gìn vệ sinh răng miệng phòng bệnh
sâu răng và nha chu. Chải răng là để lấy đi những mảnh vụn thức ăn, màng bám làm
giảm mức thấp nhất sự hiện diện của vi khuẩn, đồng thời còn xoa nắn lợi nhẹ nhàng và
làm sạch vùng khe lợi. Nếu chải răng đã trở thành một thói quen hàng ngày thì chải
răng là một công việc không khó và không mất thời gian, chải răng thật kỹ sau khi ăn
và trước khi ngủ tốt hơn chải nhiều lần mà cẩu thả. Muốn chải răng có kết quả (sạch
sẽ) cần phải chọn bàn chải và chải răng đúng phương pháp. Chọn và giữ gìn bàn chải.
Bàn chải sau khi dùng rẩy khô và để nơi thoáng, khi lông bàn chải bị tưa thì phải thay
bàn chải khác.
Phương pháp chải răng đúng cách:


Có nhiều phương pháp nhưng phương pháp Bass dễ thực hiện và làm sạch được
mảng bám ở cổ răng, rãnh nứơu và kẻ răng, đồng thời kích thích nướu.
• Mặt ngoài: Đặt lông bàn chải tại cổ răng, nghiêng một góc 450, hướng về
phía nướu (so với trục răng).Cử động tới lui nhẹ tại chỗ, vừa ép vừa đè cho
lông bàn chải đi vào rãnh nướu và kẻ răng, sau đó hất xuống về phía mặt
nhai. Mỗi vùng làm 5-6 lần rồi chuyển sang vùng khác.

• Mặt trong: Cüng như trên.
• Mặt nhai: Chải tới lui hay xoay tròn.

Thời gian chải răng:
Tốt nhất chải sau khi ăn, hoặc một lần (tối) hoặc 2 lần (sáng, tối)
Tăm xỉa răng:
Chỉ dùng để khều thức ăn giắt ở kẻ răng, không dùng để xỉa tới lui ở các kẻ răng
vì sẽ rộng kẻ và mòn men răng.
Chỉ nha khoa:
Dùng để lấy thức ăn ở những kẽ sít.
 Phổ biến về vấn đề dinh dưỡng trong bệnh răng miệng
Dinh dưỡng (chất lượng, số lượng, số lần ăn) ảnh hưởng trực tiếp trên răng và vi
khuẩn, làm gia tăng hoặc làm chậm các BRM. Dinh dưỡng ảnh hưởng trước lúc mọc
răng (cơ cấu, thành phần hoá học của răng), giai đoạn mọc răng và sau mọc răng (tạo
môi trường nuôi dưỡng hoạt động của vi khuẩn, gia tăng mảng bám).
• Chất dinh dưỡng: Các thực phẩm tốt cho răng gồm:
- Calci: có trong sữa, phomat, đậu nành, thận, các loại đậu, rau cải, bông cải
xanh, tôm cua...
- Vitamin C: có trong cam, chanh, cà chua, các loại rau cải xanh.
- Vitamin D: có trong cá biển.
- Carbohydrat: có trong gạo, bánh mì, đường.
- Protide: có trong các loại thịt, cá, trứng, đậu khô.
Tuy các chất dinh dưỡng đều cần thiết cho sức khỏe toàn thân, nhưng chúng ta
nên tăng cường ăn những chất dinh dưỡng có chứa nhiều Calci, vitamin C, vitamin D,
protide, còn giảm ăn các loại carbohydrat.
• Cách ăn:Nên ăn đúng bữa, đúng lúc, đủ các loại dinh dưỡng, tránh ăn vặt
nhiều lần trong ngày.
• Dạng thực phẩm:Nên ăn loại tự nhiên không nên ăn các loại được chế biến,
thực phẩm tươi có nhiều chất xơ làm sạch răng, còn thực phẩm bám dính dễ
gây sâu răng, viêm nướu.





Phổ biến các thói quen, tập quán có hại cho răng miệng
Một số thói quen xấu có thể gây ảnh hưởng đến răng như cắn nút chai, cắn chỉ,

xỉa răng, bú đêm... hoặc ảnh hưởng đến sự phát triển xương hàm, khớp cắn như mút
tay, thở miệng... Ăn trầu, hút thuốc lá vấn có thể gây ung thư, vì vậy chúng ta cần phải
giáo dục cho cộng đồng, hầu làm thay đổi các thói quen có hại cho răng miệng.
4.2. Tăng sức đề kháng của răng[4]
Để tăng cường sức đề kháng của răng đối với các tác nhân gây sâu răng, chúng ta
có thể sử dụng rộng rãi Fluor và các chất trám bít hố rãnh.
4.2.1. Sử dụng Fluor
Hiện nay Fluor được dùng rộng rãi trên thế giới để phòng ngừa bệnh sâu răng.
Fluor là một chất dinh dưỡng giúp cho sự tăng trưởng, Fluor biến hydroxyapatit của
men răng thành fluoroapatit giúp răng khó hòa tan trong acit, tăng tái khoáng hoá, ngăn
cản sự bám dính của vi khuẩn... Fluor diệt vi khuẩn sâu răng đặc biệt ở pH thấp (pH <
5,5) Fluor có trong thực phẩm như cá, trà, bia... Fluor tác dụng tốt trên bề mặt láng của
men răng, Fluor có thể sử dụng dưới nhiều hình thức:
• Toàn thân (ăn uống)
Fluor dùng toàn thân có lợi cho răng đang hình thành và răng đã mọc, Fluor ngấm
vào men răng đồng thời vào máu và tiết qua các tuyến nước bọt, dịch nướu để tẩm các
mặt răng. Để cung cấp fluor toàn thân ta có thể chọn 1 trong 4 cách sau:
- Fluor hoá nước máy (0,7-1 ppm) chi phí thấp, hiệu quả cao, an toàn, là một
biện pháp sức khỏe cộng đồng công bằng nhất, không đòi hỏi sự hợp tác có ý
thức của người được hưởng.
- Fluor hoá nước uống tại các trường học gấp 4 lần Fluor nước máy, sử dụng ở
các trường ngoại ô nơi không có nước máy.
- Muối Fluoride: 250mg/1kg muối.

- Viên Fluor (Sodium Fluoride: NaF hoặc Aci e late, Phosphate, Fluor: APF)

được dùng ở những vùng có nồng độ fluor trong nước thấp hơn 0,3 ppm và
uống từ lúc mới sinh đến 6 tuổi với liều lượng 0,05mg/kg/ngày hoặc: 0-2 tuổi:
0,25 mg/ngày; 3 tuổi: 0,5 mg/ngày; 4 tuổi: 0,75 mg/ngày; 5-6 Tuổi: 1 mg/ngày
Viên fluor được nhai trong vòng 30 giây để cho tiếp xúc với mặt răng rồi nuốt
hoặc ngậm cho tan dần trong miệng.
• Tại chỗ


Fluor dùng tại chỗ có tác dụng hữu hiệu cho người lớn và trẻ em trên răng đã mọc
và có nhiều dạng sử dụng.
- Súc miệng với nước NaF 0,2 % 1 tuần 1 lần.
- Thoa hoặc đeo máng có Gel Fluorie.
- Kem đánh răng có Fluor.
4.1.2. Trám bít hố rãnh
Đây là một phương pháp để dự phòng sâu răng ở hố rãnh, vì Fluor chỉ có tác
dụng ngừa sâu răng ở mặt láng của răng, do đó để làm giảm sâu răng ở hố rãnh, người
ta phủ một loại vật liệu có tính chất bám dính tốt lên các trüng và rãnh của răng để làm
mất đi yếu tố lưu giữ thức ăn. Tốt nhất là cho tất cả trẻ em, nhưng do giá thành cao nên
chúng ta chỉ chọn những em có nguy cơ sâu răng và những răng có trüng, rãnh sâu, chủ
yếu cho các răng cối sữa ở trẻ 3 - 4 tuổi và răng cối lớn thứ 1 ở trẻ 6 - 7 tuổi, răng cối
nhỏ thứ 1, 2 và răng cối lớn thứ 2 ở trẻ 11 - 13 tuổi.
4.3. Kiểm soát mảng bám[4]
Dự phòng và kiểm soát bệnh nha chu chủ yếu dựa vào việc làm sạch mảng bám.
Khi kiểm soát mảng bám định kỳ, bác sĩ có thể chỉ cho bệnh nhân các vùng chải chưa
sạch và hướng dẫn các biện pháp làm sạch hữu hiệu hơn, đồng thời loại trừ cao răng để
điều trị viêm nướu ngay từ giai đoạn đầu.
4.4. Khám răng định kỳ [4]
Hàng năm tổ chức khám rộng rãi cho cộng đồng, hoặc khuyến khích nhân dân

nên đi kiểm tra răng miệng định kỳ, đặc biệt là trẻ em, nhằm phát hiện sớm tổn thương,
đánh giá tình hình bệnh tật, và điều trị sớm hạn chế gây biến chứng.
II.
Thực trạng bệnh răng miệng trên thế giới và Việt Nam
1.
Thực trạng bệnh răng miệng trên thế giới
Trong những năm 1946–1975, hầu hết các nước phát triển, chỉ số sâu răng mất
trám (SRMT) của trẻ lứa tuổi 12 nằm trong khoảng 7,4–10,7 có nghĩa rằng trung bình
mỗi trẻ em sâu từ 7,4–10,7 răng, từ 1979–1982 chỉ số SRMT của trẻ lứa tuổi 12 đã
giảm hẳn xuống còn 1,7–3,0. Ở Singapo năm 1960 trẻ 12 tuổi có chỉ số SRMT > 4 và
hiện nay còn < 0,5 [5].Tại các trường phổ thông Italia: ở lứa tuổi 6 tuổi tỷ lệ sâu răng
chiếm 52,9% lứa tuổi 12 tỷ lệ sâu răng vĩnh viễn chiếm 52% và lứa tuổi 15 có tới
68,8% bị sâu răng vĩnh viễn.Tại Thái Lan, năm 2000 tỷ lệ sâu răng ở lứa tuổi 12 là 58–
80%.Nhìn chung ở các nước này BRM đều có xu hướng tăng rõ rệt so với các nước
phát triển ở thời điểm những năm 1960–1970. Tình hình sâu răng ở các nước đang phát


triển ở mức thấp hơn nhiều ( SRMT lứa tuổi 12 từ 0,2–2,6) những từ những năm 1970
trở đi chỉ số này lại tăng lên nhanh (từ 1,0–6,3) [6].Theo Who, năm 1978 bình quân
trên thế giới có 80% trẻ em dưới 12 tuổi và 100% trẻ em 14 tuổi bị viêm lợi mãn tính
[7].Theo nghiên cứu của các tác giả ở châu Âu, châu Mỹ, châu Á đều cho thấy tỷ lệ trẻ
em bị bệnh sâu răng và viêm quanh răng cao ở mức trên 90%. Trẻ em bị bệnh quanh
răng có tỷ lệ mắc cao, nhiều nơi trên 90% trẻ em mắc bệnh này. Tuy nhiên bệnh quanh
răng trẻ em thường được biểu hiện là viêm lợi, tỷ lệ viêm lợi khác nhau theo tuổi [8].
Theo WHO năm 1997, các nước trong khu vực có trêm 80% dân số bị sâu răng và
viêm lợi. Chỉ số SRMT lứa tuổi 12 ở mức cao từ 0,7–5,5 (ở Trung Quốc là 0,7, ở Lào
là 2,4, ở Campuchia là 4,9, ở Philippin là 5,5, ở Việt Nam là 0,8) [9].
2.
Thực trạng bệnh răng miệng ở Việt Nam
Cũng như các nước phát triển,Việt Nam cũng mắc các bệnh lý về răng miệng rất

cao, có chiều hướng gia tăng nhất là vùng nông thôn, những nơi chương trình nha học
đường hoạt động chưa hiệu quả. Theo kết quả điểu tra dịch tễ trên thế giới, ở Việt Nam
tỷ lệ mắc bệnh sâu răng chiếm 50-90% dân số [10].
Qua điều tra lần 1 năm 1990, cho thấy tỷ lệ sâu răng ở độ tuổi dưới 12 ở Miền bắc
là 43,33%, chỉ số sâu răng mất trám (SRMT) là 1,15; miền Nam là 76,33%, chỉ số
SRMT là 2,93; trên toàn quốc tỷ lệ sâu răng là 55,7%, chỉ số SRMT là 1,82 [11].
Tại Việt Nam có nhiều nghiên cứu về bệnh quanh răng và đưa ra nhận xét bệnh
quanh răng là phổ biến, tỷ lệ mắc cao. Viện RHM Hà Nội phối hợp với Đại học Nha
khoa Adelaide (Australia) tổ chức điều tra sức khỏe răng miệng quy mô toàn quốc năm
2001, kết quả là học sinh từ 6-8 tuổi sâu răng là 84,9%, lứa tuổi 9-11 sâu răng vĩnh
viễn là 54,6%. Cũng theo thống kê năm 2001, ở lứa tuổi 6-8 thì tỷ lệ sâu răng sữa ở
nông thôn cao hơn thành thị với tỷ lệ 85,1% và 84,4%, độ tuổi từ 9-11 ở nông thôn và
thành thị là 57,6% và 51,8% [12].
Diễn biến BRM nặng theo thời gian, theo điều tra của Viện RHM năm 2001, tỷ lệ
sâu răng sữa giảm dần theo tuổi vì ở hai lứa tuổi 6–8 và 9–11 đang là lứa tuổi thay răng
nên càng lớn số răng thay càng nhiều nên tỷ lệ sâu răng mất trám cũng giảm đi. Ở tuổi
6–8 SMT là 5,84, ở tuổi 9–11 là 2,03. Từ những năm của thập kỷ 60 đến 90 đã có
những nghiên cứu tình trạng răng miệng ở Việt Nam nói chung và trẻ em nói riêng cho
thấy tỷ lệ bệnh sâu răng tăng dần.


Theo Trần Văn Tường, năm 1999, điều tra sức khoẻ răng miệng trên quy mô toàn
quốc và cho thấy tỷ lệ bệnh quanh răng cũng tăng dần theo thời gian. Bệnh viêm lợi
cũng tăng theo lứa tuổi, 6–8 tuổi là 50,5%, 9–11 tuổi là 81,7%, như vậy phù hợp với
thời gian phơi nhiễm với các yếu tố nguy cơ càng dài thì tỷ lệ bệnh viêm lợi càng cao
[13].Năm 2003, theo số liệu của sở Y tế Hà Nội tỷ lệ BRM của học sinh tiểu học, phổ
thông cơ sở và phổ thống trung học là 36%, năm 2004 là 36,66%, như vậy tỷ lệ BRM
của học sinh tiểu học, trung học cơ sở và phổ thông trung học vẫn tăng theo thời gian
[14].
III. Thực trang chăm sóc và phòng bệnh răng miệng trên thế giới và Việt Nam

1.
Trên thế giới
Trước đây bệnh sâu răng rất phổ biến ở những nước phát triển do chế độ ăn nhiều
chất đạm, đường. Nhưng khoảng 20 năm trở lại đây, có sự thay đổi về tình trạng sâu
răng ở hai nhóm quốc gia. Ở những nước nghèo tỷ lệ sâu răng ngày càng tăng do
không được fluor hóa nước uống, thiếu sự giáo dục chăm sóc răng miệng và có sự thay
đổi về hành vi sinh hoạt ăn uống (đặc biệt là ăn nhiều bánh kẹo và uống nhiều nước
ngọt). Những nước giàu, tỷ lệ sâu răng ngày càng giảm do được Nhà nước coi trọng
chương trình fluor hóa nước uống, kem đánh răng có fluor, trám bít hố rãnh và coi
trọng giáo dục nha khoa. Trong vài thập kỷ gần đây, các nước đã dành 5–11% ngân
sách của y tế cho phòng BRM [15].
Từ 1908, Liên đoàn Nha khoa Quốc tế (FDI) đã quan tâm đếndự phòng sâu răng
và tìm kiếm các biện pháp phòng ngừa. Tại các hội nghị của FDI năm 1951, 1960 và
1966 đều kết luận việc fluor hoá nước uống là biện pháp phòng bệnh có hiệu quả và ít
tốn kém nhất. Tuy nhiên vào những năm 60-70 ngành Nha khoa của hầu hết các nước
đều tập trung vào chữa, phục hồi sâu răng và viêm quanh răng, công việc tốn kém, ít
hiệu quả. Vì vậy năm 1958, WHO đã thành lập Ủy ban nghiên cứu về fluor và chăm
sóc răng miệng [16].
Theo báo cáo của WHO năm 1978 hàng năm Mỹ tốn 100 triệu giờ công lao động,
9 tỷ USD cho việc chữa răng, phí tổn điều trị hơn 10 USD cho một răng ở trẻ em. Chi
phí cho điều trị răng một năm ở Anh là 180 triệu bảng Anh, còn ở Pháp là 8 tỷ france
và 25 triệu giờ công lao động.Sau đó các nước phát triển tập trung vào phòng bệnh, coi


như một chính sách lớn của Nhà nước và của ngành Y tế. Kết quả là 20 năm trở lại đây,
tỷ lệ sâu răng ở các nước Bắc Âu, Anh, Mỹ… đã giảm đi một nửa. Đây là một thành
tựu lớn từ đó WHO đã kêu gọi các nước chậm phát triển đẩy mạnh công tác phòng
BRM như các nước phát triển đã làm [17]. Như vậy vai trò của công tác chăm sóc
răng miệng tại cộng đồng rất lớn.
Tại Australia 50% thời gian của bác sỹ nha khoa là làm công tác phòng bệnh.

Kem đánh răng có fluor là biện pháp cá nhân hàng đầu, fluor hoá nước là biện pháp
cộng đồng tốt nhất, có tác dụng ở mọi giai đoạn của sâu răng. Cả hai biện pháp trên là
nguyên nhân chính làm giảm tỷ lệ sâu răng ở Australia [18].
Hiệnnay fluor được công nhận là có hiệu quả đối với mọi lứa tuổi và ngày càng
trở nên quan trọng trong cộng đồng và đối với các lứa tuổi.Nhưng việc sử dụng fluor
để phòng sâu răng như thế nào là thích hợp cũng cần phải đặt ra. Hơn hai thập niên
qua, tỷ lệ toàn bộ và tỷ lệ mắc mới bệnh sâu răng giảm ở các nước phát triển, phần lớn
là do sử dụng fluor rộng rãi. Song song với tỷ lệ sâu răng giảm là tỷ lệ răng nhiễm fluor
tăng. Các nghiên cứu về nhiễm fluor được thực hiện trong những vùng có và không có
fluor hoá, đã nhận dạng được 4 yếu tố nguy cơ chính gây nhiễm fluor là: sử dụng nước
uống có fluor, viên fluor, kem đánh răng có fluor, và sữa đóng hộp có fluor trước 8
tuổi. Hiện nay, tại Singapore 100% dân số được fluor hoá nước uống và giáo dục nha
khoa, 100% học sinh tiểu học và trung học cơ sở được chăm sóc sức khoẻ răng miệng
thường xuyên tại trường trong chương trình NHĐ [19].
2.

Ở Việt Nam
Trong những năm gần đây, do đời sống được nâng cao, người dân sử dụng nhiều

đường, nước ngọt, công tác phòng bệnh chưa tốt nên tỷ lệ sâu răng cao. Do đó làm tốt
công tác phòng bệnh để giảm tỷ lệ bệnh răng miệng là rất cần thiết. Việt nam chưa có
điều kiện để fluor hóa nước sinh hoạt toàn quốc (cả nước duy nhất chỉ có thành phố Hồ
Chí Minh) và có tới 80% dân số sống ở nông thôn, miền núi không có nước máy. Theo
nghiên cứu của Viện răng hàm mặt thì lượng fluor trong nước tự nhiên thấp [20], vì
vậy cần cho học sinh súc miệng fluor tại trường.Hiện nay tỷ lệ bệnh răng miệng cao
nhưng chưa được mua sắm trang thiết bị (thường là đắt và phải nhập ngoại), thiếu cán


bộ chuyên khoa. So với tỷ lệ bác sĩ răng hàm mặt trên dân số thì nước ta thiếu cán bộ
nghiêm trọng, cứ 1 bác sĩ nha khoa phục vụ cho 25.000–30.000 dân. Trong khi đó tỷ lệ

này trên thế giới và khu vực là 2.000–5.000, thấp hơn 10 lần so với thế giới [21]. Bên
cạnh đó, sự phân bố cán bộ răng hàm mặt lại không đồng đều.
Giáo dục chăm sóc răng miệng mới chỉ được đưa vào chương trình sách giáo
khoa của học sinh tiểu học. Giáo dục chăm sóc sức khoẻ răng miệng chưa được chú
trọng trong toàn dân nên hiểu biết về tự chăm sóc răng miệng, cách đánh răng đúng,
thức ăn nào tốt hoặc có hại cho răng, sự cần thiết phải đi khám răng định kỳ… của
người dân còn hạn chế.
Hiện nay tại một số trường tiểu học đã áp dụng kỹ thuật ART, đang là một kỹ
thuật chữa răng đơn giản, ít tốn kém và hiệu quả cao, thích hợp điều trị cho trẻ từ 6–9
tuổi, cho phép áp dụng rộng rãi từ thành thị đến nông thôn. Hiện nay phương pháp này
đã được áp dụng nhanh chóng ở các tỉnh thành phía Nam trong chương trình NHĐ
[22]. Kỹ thuật này nên được áp dụng rộng rãi trong cộng đồng, nhất là chương trình
NHĐ trong cả nước.
III.
1.

Một số nghiên cứu về dự phòng bệnh răng miệng trên thế giới và Việt Nam
Trên thế giới
Sức khỏe răng miệng tốt có liên quan đến khu vực sinh sống, điều kiện kinh tế,

trình độ học vấn của bố mẹ. Những phát hiện này có thể chỉ ra sự khác biệt trong việc
tiếp cận dịch vụ y tế và cấp độ khác nhau của giáo dục về sức khỏe răng miệng.Một
nghiên cứu ở Trung Quốc cho thấy rất ít trẻ em (4%) đã được cha mẹ hỗ trợ trong việc
vệ sinh răng miệng hàng ngày do kiến thức của cha mẹ [23].
Theo kết quả một nghiên cứu ở Burkina Faso, châu Phicủa Varenne B, Petersen
PE và Ouattara Svề hành vi sức khỏe răng miệng của trẻ em và người lớn trong khu
vực đô thị, nông thôn. Đối với cả trẻ em và người lớn, mức độ kiến thức, thái độ về
chăm sóc sức khoẻ răng miệng là rất thấp, 36% trẻ em dưới 12 tuổi và 57% người ở độ
tuổi 35-44có thực hiện vệ sinh răng miệng hàng ngày.Làm sạch răng miệng được thực
hiện chủ yếu bằng cách sử dụng tăm que. Sử dụng kem đánh răng đã hiếm, kem đánh



răng có chất fluoride đặc biệt là hiếm khi, 9% trẻ em dưới 12 tuổi và 18% 35-44 tuổi
được sử dụng kem đánh răng fluoride [24].
Một yếu tố nguy cơ thông thường có thể là mối liên quan giữa BMI và mức độ
sâu răng và các giả định này đã được nghiên cứu trong một số nghiên cứu của
Kantovitz KR và cộng sự; Macek MD và cộng sự. Kết quả nghiên cứu củaMacek MD
và Mitola DJ ở Mỹ, khoảng 36% trẻ em thừa cân từ 2-6 tuổi và 39% trẻ em thừa cân từ
6-17 tuổi có sâu răng . Trong số những trẻ em có tiền sử sâu răng, chỉ số BMI theo tuổi
liên quan đáng kể với sâu răng [25].
2.

Ở Việt Nam
Nghiên cứu của Đỗ Văn Chiến 2008 về thực trạng bệnh sâu răng của học sinh

trường tiểu học Bình Minh, Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên cho thấy số học sinh bị sâu
răng sữa còn khá cao ở khối tiểu học (khối lớp 1 và lớp 2) và tăng dần theo khối lớp, tỷ
lệ sâu răng vĩnh viễn là 24,5% trong đó thấp nhất ở khối lớp 1 (10,1%) và cao nhất ở
khối lớp 5 (36,7%), chỉ số SRMT là 3,3. Nghiên cứu cho thấy rằng, tỷ lệ sâu răng ở lứa
tuổi học sinh khá cao.Nguyên nhân chủ yếu do đa số học sinh trải răng không đúng
cách (92,9% chải ngang chân răng), chỉ có 7,1% chải dọc chân răng. 100% các em khi
đánh răng đều trải mặt ngoài, chỉ có 40,9% chải mặt nhai và 25,3% chải mặt trong
răng. Trong nghiên cứu của Đỗ Văn Chiến cũng cho thấy tỷ lệ chải răng không đúng
phương pháp rất cao chiếm 83,2%, trong khi đó 16,8% số học sinh chải răng không
đúng cách. Như vậy cần có những can thiệp nhằm nâng cao tỷ lệ chải răng đúng cách,
đặc biệt là các trường tiểu học vì giai đoạn này, các em mới chuyển từ răng sữa sang
mọc răng vĩnh viễn.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Hữu Tước năm 2008, thời gian chải răng cũng là
một yếu tố gây nên các bệnh về RM, đa số các em chải răng trong khoảng từ 1-2 phút
chiếm 57,1%, 36,4% các em chải răng dưới 1 phút, chỉ có tỷ lệ ít các em chải răng từ

2-3 phút, đáng chú ý là không có học sinh nào chải răng từ 3 phút trở lên. Ở nghiên cứu
của Đỗ Văn Chiến 2008 cũng cho thấy đa số học sinh thời gian chải răng dưới 3 phút
một lần. Kết quả cho thấy có mối liên quan giữa sâu răng với số lần chải răng, tỷ lệ sâu


răng cao nhất ở nhóm chải răng dưới 3 lần (87,8%), điều đó cũng nói nên tác dụng của
đánh răng nhiều lần trong ngày và thời gian của mỗi lần đánh răng [26].
Đa số học sinh biết dự phòng sâu răng băng cách trải răng hàng ngày chiếm
72,7%, cho rằng cần ăn hạn chế chất đường chiếm 53,9%. Chỉ có tỷ lệ rất ít học sinh
(1,9%) biết biện pháp phòng sâu răng bằng cách xúc miệng bằng nước fluor. Qua kết
quả trên cho thấy rằng, vấn đề dự phòng răng miệng trong chương trình NHĐ chưa
thực sự phổ biến rộng rãi, nguồn cung cấp kiến thức về bệnh sâu răng chủ yếu là do
cha mẹ dạy bảo chiếm tới 59,7%, có tỷ lệ rất thấp (5,9%) các em học sinh cho rằng
kiến thức do thầy cô giáo cung cấp. Cha mẹ chiếm phần lớn trong việc hướng dẫn
chăm sóc cho trẻ (75,3%), từ các nguồn khác chiếm 24,7%[26][27].




×