Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Một số đặc điểm giao tiếp của sinh viên khoa sư phạm trường đại học tây nguyên (TT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.8 KB, 35 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giao tiếp là mặt đặc trưng nhất trong hành vi của con người, nó không
những là điều kiện quan trọng bậc nhất của sự hình thành và phát triển tâm lý,
ý thức, nhân cách mà còn đảm bảo cho con người đạt được năng suất, chất
lượng và hiệu quả trong mọi lĩnh vực hoạt động.
Giao tiếp giúp cho con người tiếp thu kinh nghiệm của người khác, áp
dụng cho chính mình, mở mang hiểu biết…Trong quá trình giao tiếp chúng ta
học được cách đánh giá hành vi và thái độ, lĩnh hội những tiêu chuẩn từ cuộc
sống, kiểm tra và vận dụng các tiểu chuẩn đó vào thực tiễn. Qua đó, phát huy
khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân, giúp cho mỗi người ngày càng phát triển.
Sự đánh giá của người khác như tấm gương soi sáng phản ánh khuôn mặt bản
thân.
Đối với nghề dạy học, giao tiếp khơng những có vai trị quan trọng
trong sự hình thành và phát triển nhân cách người giáo viên mà còn là một bộ
phận cấu thành hoạt động sư phạm, là thành phần chủ đạo trong cấu trúc năng
lực sư phạm của người giáo viên. Giao tiếp là phương thức, công cụ cơ bản
nhất để tổ chức hoạt động dạy học và giáo dục. Do đó, vấn đề đặt ra đối với
nhiệm vụ đào tạo nghề sư phạm là mỗi sinh viên phải được chuẩn bị và chủ
động tự chuẩn bị cho mình về năng lực giao tiếp sư phạm, để khi bước vào
nghề họ nhanh chóng thích ứng với cơng việc, sẵn sàng giải quyết ngay được
những tình huống trong giao tiếp sư phạm. Nhà trường sư phạm là nơi thực
hiện nhiệm vụ này. Muốn đạt kết quả tốt trong việc chuẩn bị năng lực giao
tiếp sư phạm cho sinh viên sau khi ra trường, trước tiên phải có sự đánh giá
về đặc điểm giao tiếp của họ ở góc độ tâm lí học để làm cơ sở cho việc xác
định chương trình, kế hoạch đào tạo một cách phù hợp.


Đại học Tây Nguyên là một trường đào tạo đa ngành nghề, trong đó có
nghề sư phạm. Số lượng sinh viên của trường đơng, trong đó có những sinh
viên thuộc các dân tộc ít người, với đặc điểm văn hóa khác nhau, phong cách


sinh hoạt, giao tiếp khác nhau. Để nhà trường có được kế hoạch đào tạo phù
hợp với từng loại hình nghề nghiệp và từng loại sinh viên, nhằm nâng cao kỹ
năng giao tiếp nghề nghiệp cho họ, nhất là sinh viên sư phạm, phải có những
khảo sát về đặc điểm giao tiếp hiện có của sinh viên ở góc độ tâm lý học.
Qua kết quả tiếp xúc sơ bộ cho thấy, nhiều sinh viên của trường còn e
dè, thiếu chủ động, thiếu mạnh dạn trong học tập và các hoạt động khác.
Nguyên nhân của thực trạng trên có nhiều và một trong các nguyên nhân. phải
kể tới đó là năng lực giao tiếp cịn hạn chế của sinh viên. Muốn nâng cao
năng lực giao tiếp cho sinh viên sư phạm thì phải nắm được đặc điểm giao
tiếp của họ. Đó là lý do, khiến tơi chọn đề tài nghiên cứu “Một số đặc điểm
giao tiếp của sinh viên khoa sư phạm- Trường Đại học Tây Nguyên” nhằm
góp phần đưa ra cơ sở khoa học để có giải pháp hợp lý nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo của Nhà trường đối với ngành sư phạm.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu một số đặc điểm giao tiếp của sinh viên khoa Sư phạm trường đại học Tây Nguyên
Trên cơ sở đó khuyến nghị các biện pháp giúp nhà trường tiến hành
những hoạt động nâng cao khả năng giao tiếp nghề nghiệp của sinh viên sư
phạm.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Một số đặc điểm giao tiếp của sinh viên khoa Sư phạm – Trường Đại
học Tây Nguyên.


3.2. Khách thể nghiên cứu
Sinh viên khoa Sư phạm - trường Đại học Tây Nguyên
3.3. Đối tượng khảo sát
300 sinh viên khoa Sư phạm- trường Đại học Tây Nguyên
4. Giả thuyết khoa học
Sinh viên khoa Sư phạm - trường Đại học Tây Nguyên có nhu cầu và

kỹ năng giao tiếp ở mức độ chưa cao. Nguyên nhân chủ yếu là do sinh viên
chưa tích cực rèn luyện và nhà trường chưa tổ chức tốt các hoạt động nhằm
rèn luyện kỹ năng giao tiếp cho sinh viên.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài
- Khảo sát thực trạng một số đặc điểm giao tiếp của sinh viên khoa Sư
phạm- trường Đại học Tây Nguyên.
- Trên cơ sở kết quả khảo sát thực trạng đưa ra một số khuyến nghị để
nhà trường tố chức các hoạt động nhằm nâng cao năng lực giao tiếp của sinh
viên sư phạm
Trong 3 nhiệm vụ trên đề tài tập trung nghiên cứu chủ yếu ở nhiệm vụ
1 và nhiệm vụ 2.
6. Phạm vi nghiên cứu
- Do điều kiện hạn chế, trong phạm vi đề tài này, chúng tôi chỉ nghiên
cứu nhu cầu giao tiếp, kỹ năng giao tiếp của sinh viên năm thứ 1, năm thứ 2,
năm thứ 3 và năm 4 của một số ngành khoa Sư phạm - trường Đại học Tây
Nguyên.
- Thời gian: Học kì II – năm học 2009 - 2010
7. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết nhiệm vụ của đề tài, chúng tôi đã sử dụng phối hợp các
phương pháp sau:


- Phương pháp nghiên cứu lý luận.
- Phương pháp điều tra bằng test.
- Phương pháp điều tra viết.
- Phương pháp phóng vấn.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp thống kê tốn học
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẦN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Khái quát về lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Vấn đề giao tiếp trong tâm lý học nước ngồi
A.A.Bơdaliop khi khai mạc Hội nghị khoa học “Giao tiếp với tư cách là
đối tượng của các cơng trình nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn” đã nói:
“Trong hoạt động giao tiếp có thể tìm thấy sự thể hiện tổng hợp của tất cả các
đặc trưng cơ bản của con người như là một thành viên của xã hội, như là một
chủ thể hoạt động nhận thức và sáng tạo”. Vì vậy giao tiếp thực sự trở thành
đối tượng nghiên cứu của khoa học tâm lý. Cho đến nay trên thế giới việc
nghiên cứu giao tiếp trở thành một hệ thống, một ngành khoa học riêng: đó là
Tâm lý học giao tiếp.
Có nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề giao tiếp: Thời cổ đại như
Xôcơrat, Platon, Aritot...sau này đến các nhà tâm lý học hiện đại như: Anna
Frued, E.E.Acquyt, M.Âgin, A.N.Leochiev, M.I.Liirna, B.D.Econhin,
V.X.Mukhina, B.F.Lomov, L.X.Vưgotxki.
Năm 1956 ba tác giả người Mỹ: Johson, Lgrríon, M.Schlekamp đã viết
cuốn sách về “giao tiếp
Năm 1960 Bavelá (pháp) tiến hành nghiên cứu thực nghiệm về cấu trúc
giao tiếp
Đầu năm 1970 ở Liên Xô cũ một số bài báo về giao tiếp được giới thiệu
trong hội nghị “tâm lý học về giao tiếp” được tổ chức vào thánh 3/1970; tháng


3/1973; 5/1973Bên cạnh các cơng trình cơng bố trong 3 hội nghị trên cịn có
hàng loạt các cơng trình với các mức độ khác nhau được nghiên cứu ở Liên
Xô và các nước Đông Âu.
1.1.2. Nghiên cứu giao tiếp ở Việt Nam
Tại Việt Nam, tâm lý học là khoa học còn non trẻ. Vấn đề giao tiếp được
đi sâu nghiên cứu từ năm 1970 - 1980. Việc nghiên cứu giao tiếp phát triển
mạnh mẽ và đi theo xu hướng khác nhau, thể hiện các cơng trình nghiên cứu
lí luận và thực tiễn. Có thể khái quát một số hướng nghiên cứu về giao tiếp và

hoạt động giao tiếp trong lĩnh vực như sau:
Nghiên cứu lí luận về giao tiếp phải kể đến các tác giả: Đỗ Long, Bùi
Văn Huệ; Ngô Cơng Hồn, Nguyễn Văn Lê. Trong đó có nhóm các cơng
trình nghiên cứu kỹ năng giao tiếp sư phạm có thể kể tới là: Hoàng Anh “Kỹ
năng giao tiếp sư phạm của sinh viên”, Nguyễn Thạc - Hoàng Anh với cuốn
“Luyện giao tiếp sư phạm” - Đại học Sư phạm - 1998, Ngơ Cơng Hồn Hồng Anh “Giao tiếp sư phạm”, Trần Duy Hưng đã bàn tới kỹ năng giao
tiếp sư phạm của sinh viên, Ứng xử sư phạm (Trịnh Trúc Lâm).
Ngồi ra, cịn một số cơng trình nghiên cứu về đặc điểm giao tiếp như:
“Đặc điểm giao tiếp của sinh viên trường Cao Đẳng sư phạm Quảng Trị” Nguyễn Thị Diễm; tác giả Nguyễn Thanh Bình trong tạp chí Nghiên cứu giáo
dục 1992 với bài “Nhu cầu giao tiếp của sinh viên sư phạm”; “Ảnh hưởng của
nhu cầu giao tiếp đến việc thiết lập các mối quan hệ giao tiếp sư phạm sinh
viên trường cao đẳng sư phạm Quảng Trị”; “Khả năng giao tiếp của sinh viên
sư phạm tinh Sơn La” - Lị Thị Mai Thoan; Hồng Đình Châu “Thực trạng kỹ
năng giao tiếp của học viên Sĩ quan”; Trương Quang Học “một số đặc điểm
giao tiếp của học viên tham gia các lớp đào tào giáo viên khoa học xã hội
nhân văn Quân sự cấp Quân đội”; Nguyễn Thị Thanh Tâm “kỹ năng giao tiếp
trong lãnh đạo, quản lý nhằm phát huy trí tuệ tập thể”; Đào Thị Oanh “Nhu


cầu giao tiếp của học sinh cuối bậc tiểu học (khu vực Hà Nội)”; Phạm Thị
Dung “thực trạng kỹ năng giao tiếp của sinh viên trường Đại học Sư phạm Đà
Nẵng” - Thơng báo khoa học 2006.
Nhìn chung đã có nhiều đề tài nghiên cứu về đặc điểm giao tiếp của sinh
viên và sinh viên sư phạm, nhưng chưa có đề tài nào nghiên cứu sâu về nhu
cầu và kỹ năng giao tiếp của sinh viên sư phạm trường Đại học Tây Nguyên.
1.2. Một số vấn đề về giao tiếp
Giao tiếp là vấn đề quan trọng và phức tạp, nó đã được nhiều tác giả
quan tâm nghiên cứu ở những góc khác nhau. Nhìn chung khi định nghĩa về
giao tiếp các tác giả xuất phát từ hai hướng tiếp cận sau:
1.2.1. Hướng tiếp cận thứ nhất: xuất phát từ các chuyên ngành tâm lý

học ứng dụng
1.2.2. Hướng tiếp cận thứ hai: xem xét các xu hướng cơ bản trong tâm lý học
giao tiếp.
Khi tìm hiểu, khám phá bản chất giao tiếp, các nhà tâm lý học thế giới dẫ
đi theo 3 xu hướng rõ rệt
- Hướng thứ nhất: các định bản chất giao tiếp qua việc xác định nội hàm
của khái niệm (thu hẹp hoặc mở rộng nội hàm khái niệm giao tiếp).
- Hướng thứ hai: xác định chính xác hoá khái niệm giao tiếp bằng việc
phân biệt “giao tiếp” với các thuật ngữ, khái niệm liên quan như “thông tin”,
“ứng xử” hoặc “quan hệ xã hội”.
- Hướng thứ ba: xem xét bản chất giao tiếp qua việc xác định vị trí của
giao tiếp trong hệ thống khái niệm phạm trù tâm lý.
Theo quan điểm của Leoochiev: Vị trí quan trọng nhất khi phân tích hoạt
động thuộc về động cơ và mục đích. Động cơ có liên quan đến nhu cầu, kích
thích hoạt động, mục đích liên quan đến đối tượng mà hoạt động hướng đến,
đối tượng cần phải ở trong quá trình thực hiện hoạt động và bị biến đổi thành


sản phẩm. Động cơ của giao tiếp xuất phát từ nhu cầu tiếp xúc với người
khác. Mỗi con người ai cũng có nhu cầu giao tiếp lẫn nhau để chiếm lĩnh đối
tượng.
Hoạt động thường được thực hiện như là hệ thống các hành động triển
khai liên tục, mỗi hành động giải quyết một phần nhiệm vụ và có thể xem như
là một “bước” hướng đến mục đích. Hành động triển khai trong thực tiễn là
nhờ vào kỹ năng. Việc hình thành kỹ năng hành động là hình thành ở con
người khả năng triển khai thao tác theo đúng logic phù hợp với mục đích
khách quan.
Theo các nhà tâm lý học hoạt động coi giao tiếp như một dạng hoạt
động hay là hoạt động giao tiếp. Giao tiếp xuất phát từ nhu cầu của cá nhân và
cách thức thực hiện giao tiếp thơng qua kỹ năng hành động.

Tóm lại qua việc phân tích ở trên cho thấy rằng, khái niệm giao tiếp
đến nay chưa có sự thống nhất rõ ràng, dựa trên những quan điểm của các tác
giả, chúng tôi rút ra khái niệm về giao tiếp làm công cụ cho đề tài mình
nghiên cứu như sau.
1.3. Nhu cầu và nhu cầu giao tiếp
1.3.1. Một số vấn đề về nhu cầu
1.3.1.1. Khái niệm nhu cầu
Nhu cầu là một khái niệm được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và đã có
rất nhiều định nghĩa. khác nhau về nhu cầu.
Trên cơ sở tìm hiểu, thu thập phân tích các khái niệm khác nhau về nhu
cầu và trong khuôn khổ của đề tài chúng tôi sử dụng định nghĩa của GS.TS.
Nguyễn Quang Uẩn “Nhu cầu là sự biểu hiện mối quan hệ tích cực của cá
nhân với hồn cảnh, là sự địi hỏi tất yếu mà con người thấy được thoả mãn
để tồn tại và phát triển”.


1.3.1.2. Đặc điểm của nhu cầu
- Nhu cầu bao giờ cũng có tính đối tượng
- Nhu cầu có tính ổn định
- Phương thức thoả mãn nhu cầu
- Trạng thái ý chí - cảm xúc
1.3.1.3. Các loại nhu cầu
A.Maslow (1908 - 1970) chia nhu cầu thành 5 loại bao gồm: nhu cầu vật
chất, nhu cầu an toàn, nhu cầu được thừa nhận, nhu cầu được tôn trọng, nhu
cầu về phát triển cá nhân.
- Dựa vào cách phân chia của tác giả Lê Thị Bừng trong cuốn “những
thuộc tính tâm lý điển hình của nhân cách” thì chia nhu cầu thành các loại cơ
bản.
+ Nhu cầu vật chất
+ Nhu cầu tinh thần

+ Nhu cầu xã hội
1.3.1.4. Các mức độ của nhu cầu
Mức độ nhu cầu là độ gay gắt đòi hỏi về một đối tượng nào đó thể hiện ở
việc thể hiện ý thức được trạng thái thiếu thốn của chủ thể, đối tượng và
phương thức thoả mãn nó.
Nhu cầu có thể tồn tại ở nhiều mức độ khác nhau, mỗi tác giả lại có
những cách phân chia mức độ nhu cầu khác nhau.
- Theo X.L. Rubinstein căn cứ vào mức độ của ý thức thì nhu cầu trải
qua 3 mức độ: ý hướng, ý muốn, ý định.
+ Ý hướng
+ Ý muốn
+ Ý định


- Căn cứ vào tính tích cực, nhu cầu biểu hịên ở 3 mức độ: Lòng ham
muốn, lòng say mê, đam mê.
+ Long ham muốn
+ Lòng say mê.
+ Đam mê
- Một số tác giả Việt Nam (Ngơ Cơng Hồn, Nguyễn Thanh Bình,
Nguyễn Kim quý) chia nhu cầu thành 5 mức độ : Thấp, trung bình thấp, trung
bình, trung bình cao, cao.
1.4. Nhu cầu giao tiếp
1.4.1. Khái niệm nhu cầu giao tiếp
Các quan niệm trong tâm lý học Macxit đều thống nhất coi nhu cầu là sự
đòi hỏi của con người về một đối tượng nào đó. Sự địi hỏi đó phải được thoả
mãn để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của con người.
Nhu cầu giao tiếp là một nhu cầu đặc trưng của con người, vì nó có vai
trị quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của cá nhân, nó trở thành nhu
cầu khơng thể thiếu trong đời sống của mỗi con người. Trong đề tài này,

chúng tôi dựa vào quan niệm nhu cầu giao tiếp của PTS Ngơ Cơng Hồn như
sau:
Nhu cầu giao tiếp là sự đòi hỏi tất yếu của cơ thể được tiếp xúc với con
người để tồn tại và phát triển theo hướng của con người trong các giai đoạn
lứa tuổi ở những điều kiện phát triển xã hội nhất định.
1.4.2. Đặc điểm của nhu cầu giao tiếp
Nhu cầu giao tiếp được thể hiện qua các đặc điểm sau:
- Tính đối tượng của nhu cầu giao tiếp: các quan hệ người - người được
thể hiện trong sự giao tiếp.


Đối với sinh viên, đối tượng giao lưu chủ yếu là bạn bè nơi ở và các mối
quan hệ xã hội nảy sinh. Qua các mối quan hệ này góp phần nâng cao khả
năng giao tiếp, phục vụ cho nghề nghiệp sau này.
Đối với giảng viên, đối tượng thầy cô hướng tới đó là sinh viên, những
người đồng nghiệp, cán bộ quản lý lãng đạo, người thân trong gia đình và
nhiều mối quan hệ xung quanh. Qua các mối quan hệ nhằm mở rộng sự hiểu
biết, xây dựng mối quan hệ cần thiết cho cuộc sống.
- Nội dung của nhu cầu giao tiếp: Giao tiếp bao giờ cũng được cá nhân
thực hiện với nội dung cụ thể, trong khung cảnh thời gian và không gian nhất
định.
Nội dung giao tiếp thường được các bạn sinh viên quan tâm đó là tri
thức chun mơn; tri thức chính trị - xã hội, văn hoá, tri thức đời sống; cách
thức thực hiện (như cách ứng xử, cách học). Để thoã mãn những nhu cầu sinh
viên bắt buộc tham gia vào các hoạt động không chỉ là hoạt động học tập mà
còn muốn tham gia các khác như: hoạt động lao động, hoạt động xã hội…
Thơng qua các hình thức hoạt động rèn luyện tại trường, tham quan, đi thực
tế, xuống cơ sở thực tập, làm thêm bán thời gian…Những hoạt động này, sinh
viên muốn trực tiếp tiến hành nhằm trao đổi, tiếp thu kinh nghiệm, để nâng
cao kỹ năng làm việc, kỹ năng giao tiếp và được tự mình trải nghiệm cuộc

sống.
1.4.3. Mức độ của nhu cầu giao tiếp
Theo cách phân loại của tác giả Ngơ Cơng Hồn để đo mức độ nhu cầu
giao tiếp của sinh viên gồm 5 mức độ: thấp, trung bình thấp, trung binh, trung
bình cao, cao.
+Mức độ thấp: khơng phải là khơng có giao tiếp, nhưng chỉ dừng lại ở
những giao tiếp tối thiểu, bắt buộc cần có của cuộc sống.


+ Mức độ trung bình thấp: có sự mở rộng hơn trong quan hệ giao tiếp
nhưng vẫn ở mức độ thấp.
+ Mức độ trung bình : các mối quan hệ đều ở mức vừa phải, không thực
sự thấy hào hứng khi tham gia giao tiếp nhưng vẫn tham gia vì nguyên nhân
khách quan thúc đẩy.
+ Mức độ trung bình cao: đã có sự tích cực và chủ động khi tham gia
giao tiếp nhưng chưa ở mức thường xuyên.
+ Mức độ cao: thấy được những lợi ích của việc giao tiếp mang lại, nhiệt
tình và hăng hái tạo dựng các mối quan hệ giao tiếp, tham gia thường xuyên
các hoạt động do lớp, khoa trường tổ chức và nhiều khi là người khởi xướng
các hoạt động.
Với cách phân loại trên, đây là cơ sở khoa học để đo nhu cầu giao tiếp
của sinh viên. Vì vậy chúng tơi chọn mức độ phân loại này làm công cụ
nghiên cứu cho đề tài.
1.4.4. Vai trò của nhu cầu giao tiếp
Nhu cầu giao tiếp là điều kiện thiết yếu của mọi hoạt động, cùng với hoạt
động giao tiếp đã trở thành một phương thức tồn tại của xã hội lồi người.
Thơng qua giao tiếp chẳng những con người nhận thức được người khác mà
còn nhận thức được chính mình. Nhu cầu giao tiếp cịn tạo điều kiện để hình
thành những mối liên hệ mn màu, muôn vẻ giữa người với người “Giao
tiếp gắn con người với con người.

Như vậy, nhu cầu giao tiếp là nhu cầu cơ bản không thể thiếu của con
người. Qua giao tiếp, con người biết được các giá trị xã hội của người khác và
của bản thân. Trên cơ sở đó, cá nhân tự điều khiển, điều chỉnh bản thân theo
các chuẩn mực xã hội, nhân cách cá nhân ngày càng hoàn thiện.


1.4.5. Sự hình thành nhu cầu giao tiếp
Về vấn đề này có sự khác nhau trong quan điểm giữa các nhà tâm lý học
phương Tây và các nhà tâm lý học Mác xít.
Quan điểm của các nhà tâm lý học phương Tây cho rằng nhu cầu sinh vật
sẽ quyết định đến nhu cầu xã hội
A.N.Lêonchiev và các nhà tâm lý học Mác xít khẳng định mối quan hệ
chặt chẽ giữa nhu cầu và hoạt động. “ Nhu cầu là nguồn gốc của tính tích cực
của hoạt động, nhưng bản thân nhu cầu lại được nảy sinh, hình thành và phát
triển trong hoạt động”.
Vì vậy muốn hình thành nhu cầu giao tiếp thì bản thân đối tượng cần rèn
lun tích cực thơng qua các hoạt động, từ đó phát huy được các mặt của bản
thân, hình thành những địi hỏi được tiếp xúc với người khác tới mức không
thể thiếu được thì chủ thể đã có nhu cầu giao tiếp với đối tượng.
1.4. Kỹ năng
1.4.1. Khái niệm về kỹ năng và kỹ năng giao tiếp
Có nhiều quan điểm khác nhau về kỹ năng
Trong tâm lý học tồn tại hai khái niệm khác nhau về kỹ năng
- Quan niệm thứ nhất: coi kỹ năng là mặt kỹ thuật của thao tác hành động
hay hoạt động
- Quan niện thứ hai: coi kỹ năng không đơn thuần là mặt kỹ thuật của
hành động mà nó cịn là một biểu hiện là năng lực của con người. Kỹ năng
theo quan niệm này thường có tính ổn định, vừa có mềm dẻo, tính linh hoạt
vừa có tính mục đích.
Trên cơ sở tìm hiểu, thu thập phân tích các khái niệm khác nhau về kỹ

năng và trong khuôn khổ của đề tài chúng tôi đưa ra khái niệm kỹ năng giao
tiếp như sau:


Kỹ năng giao tiếp là khả năng nhận biết mau lẹ những biểu hiện bên
ngồi và đốn biết diễn biết tâm lý bên trong của con người (với tư cách là
đối tượng giao tiếp); đồng thời biết sử dụng phương tiện ngôn ngữ, phi ngôn
ngữ, biết cách định hướng để điều chỉnh và điều khiển quá trình giao tiếp đạt
tới một mục đích đã định.
1.4.2. Các nhóm kỹ năng giao tiếp.
+ Nhóm kỹ năng định hướng giao tiếp.
+ Nhóm kỹ năng định vị.
+ Nhóm kỹ năng điều chỉnh, điều khiển.
Mỗi tác giả chia kỹ năng giao tiếp theo một cách khác nhau, nhưng
trong đề tài này, để đo những khả năng tiềm tàng của sinh viên một cách cụ
thể nhất, chúng tôi đã chọn cách phân loại của V.P.Dakharov.
V.P.Dakharov dựa vào trật tự các bước tiến hành một pha giao tiếp cho
rằng để có năng lực giao tiếp, cần có các kĩ năng sau:
- Khả năng tiếp xúc, thiếp lập mối quan hệ: khả năng tiếp xúc, cách
thức trao đổi mạnh dạn, quan hệ dễ dàng và tự nhiên với đối tượng tiếp xúc
- Biết cân bằng nhu cầu cá nhân và đối tượng trong khi tiếp xúc: trong
quá trình giao tiếp biết kết hợp hài hoà nhu cầu, sơvới người khác
- Kỹ năng nghe đối tượng giao tiếp: ít chú ý nghe khi tiếp xúc giao tiếp,
cần nhiều thời gian để thích nghi tổ chức mới.
- Năng lực tự chủ cảm xúc, hành vi: : khó kiềm chế, giữ bình tĩnh khi
người khác trêu chọc, khích bác, nói xấu.
- Năng lực tự kiếm chế, kiểm tra người khác: thường chỉ dẫn, khuyên
bảo người khác cách làm cho đúng. Làm hạn chế sự hung hăng của đối tượng
khác trong khi tranh luận. Biết an ui người khác lúc buồn
- Kỹ năng diễn đạt dễ hiểu, dễ chịu: Nói có duyên, hấp dẫn, diễn đạt

ngắn gọn.


- Kỹ năng linh hoạt, mềm dẻo trong giao tiếp: gặp khó khăn khi phải
tiếp thu ý kiến, quan điểm của người khác. Không quá nên giữ khư khu ý kiến
của mình.
- Năng lực thuyết phục đối tượng giao tiếp: trong khi nói chuyện sử
dụng tình cảm để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của người khác. Khả năng
thuyết phục người khác.
- Khả năng chủ động, điều khiển quá trình giao tiếp: thường chủ động
đề sướng các hoạt động tập thể, nhóm bạn bè. Giữ vai trị tích cực, sơi nổi
trong nhóm nói chuyện.
- Sự nhảy cảm trong giao tiếp:cảm thấy áy náy khi xem câu chuyện
của người khác, nhảy cảm với nỗi đau của ban bè, dễ động lịng với tâm trạng
của bạn.
1.4.3. Con đường hình thành kỹ năng giao tiếp
Khi xem xét giao tiếp dưới dạng hoạt động giao tiếp thì việc hình thành
kỹ năng giao tiếp sẽ chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như: đặc điểm khí chất
với chức năng của hệ thần kinh não bộ; sự hoạt động tích cực của cá nhân và
mơi trường, trong đó mơi trường nhà trường có vai trị kích thích sự hứng thú
sinh viên tích cực tham gia các hình thức hoạt động khác nhau nhằm phát huy
và hình thành kỹ năng giao tiếp. Những yếu tố này tác động qua lại đến việc
hình thành kỹ năng giao tiếp tốt hơn.
Để có kỹ năng giao tiếp thì chủ thể phải có những hành động giao tiếp.
Trong q trình hành động, chủ thể tham gia các quá trình giao tiếp, các mối
quan hệ, thực hiện những hành động nhằm giải quyết các vấn đề của mình.


1.5. Đặc điểm nghề thầy giáo
1.6. Một số đặc điểm tâm lí của sinh viên

1.6.1 Khái niệm sinh viên
Từ sinh viên được dùng để chỉ những người đang theo học ở bậc đại
học và cao đẳng để phân biệt với học sinh trung học phổ thông. Sinh viên
hiện đại thường có độ tuổi từ 18 đến 25. Đây là giai đoạn chuyển từ sự chín
muồi về chất sang trưởng thành về phương diện xã hội. Sinh viên là đại biểu
của nhóm xã hội đặc biệt đang chuẩn bị cho hoạt động sản xuất vật chất hay
tinh thần của xã hội. Nhóm xã hội đặc biệt là nguồn bổ sung cho đội ngũ tri
thức
1.6.2. Khái niệm sinh viên sư phạm
Sinh viên sư phạm là những người đang học tập, rèn luyện trong các
trường đại học và cao đẳng sư phạm. Họ mang đầy đủ những đặc điểm chung
của sinh viên, song họ có những đặc điểm riêng về nhân cách, nghề nghiệp.
Họ học tập và rèn luyện để trở thành những “kỹ sư tâm hồn” với nghề trồng
người.
1.6.3. Những đặc điểm tâm lý của sinh viên
* Về nhận thức
* Tự ý thức của sinh viên
* Đặc điểm của đời sống tình cảm
* Về nhân cách
1.7. Đặc điểm giao tiếp của sinh viên
Ở giai đoạn lứa tuổi này, sinh viên giữ vai trị, vị trí xã hội rõ rệt, là
nhóm người có vị trí chuyển tiếp, chuẩn bị cho một đội ngũ tri thức có trình
độ và nghề nghiệp tương đối cao của xã hội.
Cũng như ngành khác, sinh viên sư phạm luôn phải biết tự rèn luyện
bản thân và kỹ năng giao tiếp sư phạm, bởi sự đòi hỏi của nghề thầy giáo đối


với khả năng này là rất cao. Vì vậy trong giao tiếp, họ ln có xu hướng mang
dấu ấn đặc trưng của nghề nghiệp, phong cách giao tiếp này luôn nhận được
sự tơn trọng của xã hội.

Trong q trình giao tiếp, SV thường trao đổi với nhau về nội dung và
phương pháp học tập, bởi hoạt động chủ yếu của SV là học tập và rèn luyện.
Bên cạnh đó, SV theo học đại học sẽ khác với cách học ở cấp dưới, SV phải
chủ động hơn, phải tự tìm tịi tài liệu, trao đổi thông tin với bạn bè giúp bản
thân họ tiếp thu được nhiều tri thức.
Hoạt động giao tiếp diễn ra trên tất cả các mặt của SV thông qua những
hoạt động khác nhau. Những hoạt động mang tính phức tạp giữa các cá nhân
sinh viên với bạn bè cùng lứa, cùng giới, các tổ chức, các nhóm xã hội...Các
hoạt động này chiếm vị trí quan trọng trong sự phát triển nhân cách sinh viên.
Kết luận chương 1
Giao tiếp giữ vai trò là điều kiện tiên quyết trong quá trình hình thành
và phát triển của con người.
Phạm trù giao tiếp được nghiên cứu theo nhiều chiều hướng khác nhau,
mỗi hướng nghiên cứu có những mặt hợp lý riêng, trong đề tài này chúng tôi
nghiên cứu giao tiếp như một dạng hoạt động hay là hoạt động giao tiếp.
Giao tiếp xuất phát từ nhu cầu của cá nhân và cách thức thực hiện giao tiếp
thông qua kỹ năng hành động.
Nhu cầu giao tiếp là nhu cầu cơ bản không thể thiếu của con người.
Đối với sinh viên, kỹ năng giao tiếp bộc lộ nhằm tạo lập, xây dựng mối
quan hệ giữa bạn bè và những người khác trong xã hội, đồng thời thực hành
những kỹ năng đã học được vào cuộc sống nhằm phục vụ cho nghề nghiệp
tương lai.


Chương 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vài nét về khách thể nghiên cứu
2.2. Tiến trình nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Nhằm hệ thống lại các vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài: giao tiếp,
nhu cầu.

2.3.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu điều tra
2.3.2.1. Phương pháp trắc nghiệm nhu cầu giao tiếp
Dựa vào cơ sở lý luận của đề tài, chúng tôi sử dụng trắc nghiệm nhu
cầu giao tiếp.
- Mục đích của phương pháp: Nhằm đo mức độ nhu cầu giao tiếp của
sinh viên.
- Nội dung của trắc nghiệm: Trắc nghiệm P.O do trường Đại học sư
phạm Lênin (Liên Xô cũ) soạn thảo, trong cuốn “những trắc nghiệm tâm lý”,
tậpII, trắc nghiệm về nhân cách, của Ngơ Cơng Hồn, (1997). NXB ĐHQG
Hà Nội. Gồm 32 item
2.3.2.2. Phương pháp trắc nghiệm khả năng giao tiếp
- Mục đích trắc nghiệm: Nhằm đánh giá thực trạng khả năng giao tiếp
của sinh viên
- Nội dung trắc nghiệm: Chúng tôi sử dụng trắc nghiệm khả năng giao
tiếp của V.P. Da-Kha-Rốp, trong cuốn “những trắc nghiệm tâm lý”, tập II,
trắc nghiệm về nhân cách, của Ngơ Cơng Hồn, (1997). NXB ĐHQG Hà Nội.
Gồm 80 item
- Cách xử lý, phân tích số liệu
- Mỗi kỹ năng được tính điểm theo 8 câu hỏi trong 80 câu hỏi của nang
trắc nghiệm.


- Tình điểm của từng kỹ năng sau đó xếp theo mức độ. Dựa trên qui
định của việc xử lý kết quả như qui định trong test, chúng tôi qui ước xếp
loại mỗi kỹ năng giao tiếp của sinh viên thành 4 mức độ.
Mức độ giỏi : 14 – 16
Mức độ khá: 11 – 13
Mức độ trung bình: 8 – 10
Mức độ yếu: 0 – 7
- Xếp mức độ cho từng kỹ năng của từng phiếu, sau đó đếm mỗi phiếu

thuộc mức độ nào, rồi tính tổng mỗi mức độ.
- Tính điểm trung bình:
Quy ước:

Giỏi: 3 điểm
Khá : 2 điểm
Trung bình :1 điểm
Yếu : 0 điểm

Thang điểm: Giỏi: 2.25 - 3
Khá : 1.5 – 2.25
Trung bình :0.75 – 1. 5
Yếu : 0 – 0.75
Sau khi trả lời và xử lý kết quả cho phép ta đánh giá:
- Đo nhóm kỹ năng giao tiếp nào cao hơn, nhóm nào thấp hơn để đề ra
khuyến nghị phù hợp.
- Ta có thể biết từng kỹ năng trong mỗi nhóm mà sinh viên đã có theo
mức độ nào từ đó có biện pháp rèn luyện phù hợp
2.3.3. Phương pháp quan sát
Để có đủ tin cậy cho kết luận của vấn đề nghiên cứu, chúng tôi đã sử
dụng kết hợp với phương pháp quan sát.
2.3.4. Phương pháp phỏng vấn


Ngồi các phương pháp trên, chúng tơi sử dụng thêm phương pháp
phỏng vấn nhằm tìm hiểu thơng tin biểu hiện về nhu cầu giao tiếp của sinh
viên. Phương pháp gồm hai hình thức:
* Phỏng vấn bằng Anket
* Phỏng vấn trực tiếp
2.3.5. Phương pháp tổng hợp và xử lý số liệu

Sau khi thu được kết quả nghiên cứu thực tiễn chúng tôi sử dụng
phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học để rút ra được kết quả
nghiên cứu một cách chính xác và khách quan, sử dụng phần mền SPSS 16.0
để so sánh số liệu từ đó đưa ra những kêt luận cuối cùng cho đề tài
Kết luận chương 2
Để thu thập được kết quả chính xác về một số đặc điểm giao tiếp của
sinh viên khoa Sư phạm – Trường Đại học Tây Nguyên, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu thực tiễn trong thời gian từ tháng 2 đến tháng 4 năm 2010 với mẫu
khảo sát 300 đối tượng.
Quá trình nghiên cứu được thực hiện một cách khách quan thông qua
việc sử dụng phối hợp hệ thống các phương pháp, đó là phương pháp điều tra
bằng trắc nghiệm, phiếu trưng cầu ý kiến, phương pháp phỏng vấn, phương
pháp quan sát và phương pháp xử lý bằng thống kê toán học.


X Chương 3. THỰC TRẠNG MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM GIAO TIẾP CỦA

SINH VIÊN KHOA SƯ PHẠM– TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN
Sau khi tổng kết và xử lý số liệu, chúng tơi đã có kết quả về nhu cầu
giao tiếp của sinh viên, kết quả này được chúng tơi trình bày cụ thể dưới các
biểu bảng
3.1. Thực trạng một số đặc điểm giao tiếp của SV khoa SP – Trường
ĐHTN
3.1.1. Mức độ nhu cầu giao tiếp của sinh viên khoa Sp -Trường ĐHTN
* Mức độ nhu cầu giao tiếp (xét theo tổng số).
Kết quả nhu cầu giao tiếp tại bảng 1 cho thấy, trong tổng số 300 SV
được điều tra biểu hiện cụ thể như sau:
Như vậy, SV có nhu cầu giao tiếp ở mức độ dưới trung bình chiếm
75.33%. Cho thấy số lượng SV khoa SP có mức độ nhu cầu giao tiếp không
cao. Qua quan sát trong lớp học và hoạt động Đoàn tổ chức, nhận thấy các

bạn SV chưa tích cực tham gia các nhóm sinh hoạt, câu lạc bộ, hoạt động của
tập thể, của liên chi Đoàn. Số lượng SV tham gia không nhiều, kết quả hoạt
động diễn ra không cao. Điều này sẽ làm ảnh hưởng lớn ltới kết quả học tập
và rèn luyện của SV
* Mức độ nhu cầu giao tiếp (xét theo giới tính)
Qua bảng số liệu số 2 cho thấy cả nam và nữ có nhu cầu giao tiếp ở
mức độ trung bình thấp chiếm (40.41%; 37.66%). Mức độ nhu cầu giao tiếp
giữa nam và nữ SV khoa sư phạm có sự chênh lệch nhau ở các mức độ
(P<0.05):
Sự khác biệt này là do đặc điểm khí chất của giới tính. Nhiều bạn SV
nam thường mạnh mẽ, cởi mở, thích sơi động, thích tham gia vào các hoạt
động giao lưu. Quan sát thực tế chúng tôi thấy số này ở nữ biểu hiện rất ít. Đa
phần những em nữ thường e dè, ngại ngùng....


Nhìn chung nhu cầu giao tiếp của nam và nữ đều từ mức dưới trung
bình trở xuống, với nam chiếm 69.86%, nữ chiếm tỷ lệ 80.52%.
* Mức độ nhu cầu giao tiếp(xét theo khóa học)
Qua bảng số liệu số 3 cho ta thấy:
Khi so sánh các năm học thì ở mức độ trung bình thấp, thấp có chênh
lệch nhau ở năm I và năm IV, trong đó năm IV cao hơn năm I.
Nhận thấy: Nhu cầu giao tiếp của sinh viên không hề được thay đổi
theo hướng phát triển qua quá trình học tập rèn luyện ở nhà trường. Điều đó
chứng tỏ việc tổ chức các hoạt động rèn luyện của nhà trường không hề phát
triển được nhu cầu giao tiếp cho sinh viên.
Lý giải về mức độ nhu cầu giao tiếp của sinh viên giảm nhiều ở những
lớp cuối khóa, chúng tơi dùng phương pháp quan sát và phỏng vấn trực tiếp
sinh viên. Kết quả nghiên cứu cho thấy phần lớn sinh viên cuối khóa tập trung
cho việc ơn tập các mơn thi tốt nghiệp hoặc làm khóa luận nên khơng có nhu
cầu tham gia vào các hoạt động khác.

* Mức độ nhu cầu giao tiếp theo ngành học:
Khi xét theo ngành học thì nhận thấy các ngành SV đều có nhu cầu
giao tiếp ở mức độ trung bình thấp: tiểu học là 34.07%; ngữ văn là 40.21%;
GDTC chiếm 41.88%.
- Ở mức độ thấp: ngành tiểu học chiếm 13.18% và GDTC là 6.84% có
sự chêch lệch nhau về nhu cầu giao tiếp (P=0.022).
- Ở các mức độ khác, giữa các ngành học khơng có chênh lệch nhau
(P>0.05.)
Tóm lại, nhu cầu giao tiếp của SVSP trường ĐHTN là chưa cao, phần
lớn ở mức độ trung bình và trung bình thấp. Mức độ này khơng được phát
triển qua q trình đào tạo của nhà trường. Xét theo giới tính và chuyên ngành


đào tạo, nhu cầu giao tiếp có sự khác nhau giữa nam và nữ và khơng có sự
khác biệt nhiều giữa các chuyên ngành đào tạo.
3.1.2. Nội dung giao tiếp của SV khoa SP - Trường ĐHTN
Khi nghiên cứu nội dung giao tiếp của SV, chúng tơi tìm hiểu trong quá
trình giao tiếp họ thường trao đổi với nhau về chủ đề gì. Kết quả nghiên cứu
cho thấy nội dung giao tiếp của SV rất đa dạng và phong phú: chúng tơi tiến
hành tính điểm trung bình và xếp thứ tự nội dung giao tiếp. Chúng tôi lý giải
vấn đề thông qua phương pháp quan sát và phỏng vấn theo từng nội dung.
+ Trong đó về nội dung, phương pháp học tập được SV xếp thứ bậc I
X =1.7, thuộc mức độ thường xuyên, chiếm tỷ lệ cao nhất . Có thể thấy đây là

nội dung giao tiếp rất được quan tâm, vì hoạt động chủ đạo của SV là học tập
và rèn luyện để phục vụ cho nghề nghiệp của bản thân.
Cùng với nội dung học tập thì phương pháp học tập cũng thường xuyên
được SV trao đổi giao tiếp. Do tính chất của bậc học đại học khác với bậc đào
tạo dưới (trường phổ thông), nên để học tốt, nắm chắc nội dung thì việc hình
thành phương pháp, cách thức học cũng rất quan trọng sao cho phù hợp với

từng môn và khả năng nhận thức của từng SV
+ Nội dung quan hệ ứng xử hằng ngày tỷ lệ đề cập trong giao tiếp xếp
hạng thứ hai với X =1.57 ở mức độ thường xuyên, đặc điểm này phản ánh
tính chất đặc thù của SV SP là nghề cao quý nhất trong tất cả các nghề.
+ Nội dung rèn luyện tay nghề sư phạm của SV xếp vị trí thứ ba X
=1.47, ở mức độ thường xuyên. Chỉ có 149 SV chiếm 49,67% thường xuyên
rèn luyện. Trong đó chủ yếu thuộc sinh viên năm thứ 3 và thức tư. Đây là nội
dung rất quan trọng và mang tính đặc thù của nghề nghiệp sư phạm lại có số
SV hướng tới trong quá trình rèn luyện chưa nhiều mặc dù hơn 80% số SV
được hỏi cho rằng : Muốn dạy tốt sau khi ra trường sinh viên sư phạm vừa
phải học tốt chun mơn, vừa phải tích cực rèn luyện tay nghề sư phạm. Kết


quả này một lần nữa chứng minh cho việc tuyên truyền và tổ chức các hoạt
động để nâng cao tay nghề cho SVSP cần được tăng cường hơn nữa.
+ Nội dung tình bạn, tình yêu mức độ trung bình là 1.29, ở mức độ đơi
khi.
+ Tình hình kinh tế-chính trị, văn hố -xã hội và hoạt động giải trí đều
được SV đề cập đôi khi.
3.1.3. Kỹ năng giao tiếp của SV khoa SP-Trường ĐHTN
Để tìm hiểu về kỹ năng giao tiếp (KNGT) của sinh viên khoa SP –
Trường ĐHTN, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu trên 300 mẫu SV và thu
được kết quả như sau:
3.1.3.1. Mức độ kỹ năng giao tiếp của SV khoa SP - Trường Đại học
Tây Nguyên.
* Xét theo tổng thể :
Qua bảng số liệu số 6 cho thấy: Trong tổng số 300 SV được khảo sát,
xếp theo mức độ thì khơng có SV nào xếp loại giỏi, SV xếp loại trung bình
chiếm phần lớn: 81%, loại khá 7% và yếu là 12%. Điều này cho thấy kỹ năng
giao tiếp của SV chưa cao, tương đồng với mức độ nhu cầu giao tiếp. SV loại

yếu còn chiếm tỷ lệ nhiều sẽ ảnh hưởng không tốt đến việc rèn luyện kỹ năng
cho bản thân, nhất là SV SP.
* Xét theo giới tính thì cho thấy: ở nam và nữ đều có khả năng giao tiếp
ở mức trung bình (nam 80.14% ;nữ 81.82%), ở các mức độ KNGT có sự
chênh lêch ở nam và nữ, tuy nhiên sự chênh lêch này không quá lớn.
(P>0.05).
* Xét theo ngành học, bảng số liệu 3.7 cho thấy: ở các ngành học khác
nhau, SV có sự khác nhau trong mức độ kỹ năng giao tiếp.
- Loại khá: cả ba ngành học không có sự chênh lệch nhau về kỹ năng
giao tiếp (P>0.05)


- Loại trung bình: ngữ văn cao hơn tiểu học (5.67%) (P=0.03)
- Loại yếu: tiểu học cao hơn ngữ văn (7.78%) (P=0.044)
Sự khác nhau trên đây giữa hai chuyên ngành là điều dễ hiểu, bởi lẽ
những SV chuyên ngành ngữ văn có ưu thế về mặt ngơn ngữ hơn rất nhiều
hơn những sinh viên chuyên ngành khác
* Xét theo khoá học, qua bảng số liệu 8 nhận thấy: giữa các năm học ít
có sự khác nhau, mức độ kỹ năng giao tiếp của SV cũng có sự chênh lệch, cụ
thể:
- Ở mức độ khá: SV năm IV có sự khác nhau với SV năm I: SV năm IV
mức độ cao hơn năm I 6.96% (P=0.01), Trải qua bốn năm học, thông qua việc
học tập và rèn luyện tại trường, đã có nhiều bạn SV hình thành cho mình
KNGT tốt hơn SV năm I, đây cũng là điều hiển nhiên. Đặc biệt là SV năm III
và năm IV khi họ nhận thức và hiểu biết về nghề nghiệp tốt hơn nên thường
xuyên trau dồi nhằm xây dựng những pẩm chất của năng lực và phẩm chất
cần có của người giáo viên, bởi đây là những SV tham gia vào hoạt động rèn
luyện qua đợt kiến tập và thực tập. Qua các hoạt động thực tiễn, SV có cơ hội
được bộc lộ, thể hiện KNGT của mình, từ đó nâng cao và phát huy KNGT tốt
hơn.

- Ở mức độ trung bình và yếu qua các ngành học khơng có sự khác
nhau (P>0.05)
3.1.3.2. Mức độ của từng kỹ năng giao tiếp
* Mức độ từng kỹ năng giao tiếp (xử lý theo tổng số)
Theo số liệu thu thập được thì các KNGT chung của SV đạt mức trung
bình, khơng có KNGT nào đạt loại giỏi, khơng có ai đạt điểm “lý tưởng”
(16điểm). Chúng tơi tính mức độ của từng cá nhân, sau đó xếp theo mức độ
của mỗi kỹ năng. Trong bảng tóm tắt này, em xin trình bày khái quát về từng
kỹ năng.


- Nhóm kỹ năng có điểm trung bình cao nhất trong 10 nhóm KNGT của
SV là sự nhảy cảm trong giao tiếp với, điểm trung bình X=1.65, đạt mức khá.
Chỉ số này chứng tỏ khả năng nắm bắt trạng thái tâm lý người khác ở SV cao,
SV có khả năng “đọc” trên nét mặt, cử chỉ, hành vi, lời nói để phát hiện chính
xác đầy đủ thái độ, cảm xúc của đối tượng giao tiếp, từ đó đốn đúng nội tâm
của đối tượng.
- Nhóm xếp thứ bậc 2 là nhóm kỹ năng diễn đạt dễ hiểu, dễ chịu và
năng lực tự kiềm chế, kiểm tra người khác, X =1.4, ở mức trung bình. Theo
đánh giá của SV thì khả năng ngôn ngữ của các bạn đã phù hợp với yêu cầu
của nghề sư phạm. Bên cạnh đó SV nhận thấy bản thân đã biết cách giữ bình
tĩnh trong những tình huống xảy ra.
- Xếp thứ 4 là các kỹ năng linh hoạt, mềm dẻo trong giao tiếp, điểm
trung bình X =1.27, đạt mức trung bình.
- Nhóm năng lực thuyết phục đối tượng giao tiếp xếp thứ bậc 5, điểm
trung bình 1.04, đạt mức trung bình
- Nhóm khả năng chủ động, điều khiển quá trình giao tiếp xếp thứ bậc
6, điểm trung bình 0.92, đạt mức trung bình.
- Xếp thứ bậc 7 là nhóm kỹ năng tự chủ cảm xúc, hành vi, điểm trung
bình 0.84, đạt mức trung bình.

- Nhóm kỹ năng nghe đối tượng giao tiếp xết thứ bậc 8, điểm trung
bình 0.85. SV chỉ biết đưa ra các thơng tin mà chưa biết lắng nghe để nhận
thơng tin.
- Nhóm kỹ năng tiếp xúc, thiếp lập mối quan hệ với đối tượng giao tiếp
xếp thứ bậc 9, điểm trung bình X =0.77 đạt mức trung bình.
- Xếp thứ bậc thấp nhất là nhóm biết cân bằng nhu cầu cá nhân và đối
tượng trong khi tiếp xúc với điểm trung bình là 0.69, đạt mức trung bình. SV
chưa biết cần bằng giữa nhu cầu của mình và nhu cầu của đối tượng giao tiếp.


×