Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Một số đặc điểm giao tiếp của sinh viên khoa sư phạm - trường đại học tây nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.03 KB, 81 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giao tiếp là mặt đặc trưng nhất trong hành vi của con người, nó không
những là điều kiện quan trọng bậc nhất của sự hình thành và phát triển tâm lý,
ý thức, nhân cách mà còn đảm bảo cho con người đạt được năng suất, chất
lượng và hiệu quả trong mọi lĩnh vực hoạt động.
Giao tiếp giúp cho con người tiếp thu kinh nghiệm của người khác, áp
dụng cho chính mình, mở mang hiểu biết…Trong quá trình giao tiếp chúng ta
học được cách đánh giá hành vi và thái độ, lĩnh hội những tiêu chuẩn từ cuộc
sống, kiểm tra và vận dụng các tiểu chuẩn đó vào thực tiễn. Qua đó, phát huy
khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân, giúp cho mỗi người ngày càng phát triển.
Sự đánh giá của người khác như tấm gương soi sáng phản ánh khuôn mặt bản
thân.
Đối với nghề dạy học, giao tiếp không những có vai trò quan trọng
trong sự hình thành và phát triển nhân cách người giáo viên mà còn là một bộ
phận cấu thành hoạt động sư phạm, là thành phần chủ đạo trong cấu trúc năng
lực sư phạm của người giáo viên. Giao tiếp là phương thức, công cụ cơ bản
nhất để tổ chức hoạt động dạy học và giáo dục. Do đó, vấn đề đặt ra đối với
nhiệm vụ đào tạo nghề sư phạm là mỗi sinh viên phải được chuẩn bị và chủ
động tự chuẩn bị cho mình về năng lực giao tiếp sư phạm, để khi bước vào
nghề họ nhanh chóng thích ứng với công việc, sẵn sàng giải quyết ngay được
những tình huống trong giao tiếp sư phạm. Nhà trường sư phạm là nơi thực
hiện nhiệm vụ này. Muốn đạt kết quả tốt trong việc chuẩn bị năng lực giao
tiếp sư phạm cho sinh viên sau khi ra trường, trước tiên phải có sự đánh giá
về đặc điểm giao tiếp của họ ở góc độ tâm lí học để làm cơ sở cho việc xác
định chương trình, kế hoạch đào tạo một cách phù hợp.
1
Đại học Tây Nguyên là một trường đào tạo đa ngành nghề, trong đó có
nghề sư phạm. Số lượng sinh viên của trường đông, trong đó có những sinh
viên thuộc các dân tộc ít người, với đặc điểm văn hóa khác nhau, phong cách
sinh hoạt, giao tiếp khác nhau. Để nhà trường có được kế hoạch đào tạo phù


hợp với từng loại hình nghề nghiệp và từng loại sinh viên, nhằm nâng cao kỹ
năng giao tiếp nghề nghiệp cho họ, nhất là sinh viên sư phạm, phải có những
khảo sát về đặc điểm giao tiếp hiện có của sinh viên ở góc độ tâm lý học.
Qua kết quả tiếp xúc sơ bộ cho thấy, nhiều sinh viên của trường còn e
dè, thiếu chủ động, thiếu mạnh dạn trong học tập và các hoạt động khác.
Nguyên nhân của thực trạng trên có nhiều và một trong các nguyên nhân. phải
kể tới đó là năng lực giao tiếp còn hạn chế của sinh viên. Muốn nâng cao
năng lực giao tiếp cho sinh viên sư phạm thì phải nắm được đặc điểm giao
tiếp của họ. Đó là lý do, khiến tôi chọn đề tài nghiên cứu “Một số đặc điểm
giao tiếp của sinh viên khoa sư phạm- Trường Đại học Tây Nguyên” nhằm
góp phần đưa ra cơ sở khoa học để có giải pháp hợp lý nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo của Nhà trường đối với ngành sư phạm.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu một số đặc điểm giao tiếp của sinh viên khoa Sư phạm -
trường đại học Tây Nguyên
Trên cơ sở đó khuyến nghị các biện pháp giúp nhà trường tiến hành
những hoạt động nâng cao khả năng giao tiếp nghề nghiệp của sinh viên sư
phạm.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Một số đặc điểm giao tiếp của sinh viên khoa Sư phạm – Trường Đại
học Tây Nguyên.
2
3.2. Khách thể nghiên cứu
Sinh viên khoa Sư phạm - trường Đại học Tây Nguyên
3.3. Đối tượng khảo sát
300 sinh viên khoa Sư phạm- trường Đại học Tây Nguyên
4. Giả thuyết khoa học
Sinh viên khoa Sư phạm - trường Đại học Tây Nguyên có nhu cầu và
kỹ năng giao tiếp ở mức độ chưa cao. Nguyên nhân chủ yếu là do sinh viên

chưa tích cực rèn luyện và nhà trường chưa tổ chức tốt các hoạt động nhằm
rèn luyện kỹ năng giao tiếp cho sinh viên.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài
- Khảo sát thực trạng một số đặc điểm giao tiếp của sinh viên khoa Sư
phạm- trường Đại học Tây Nguyên.
- Trên cơ sở kết quả khảo sát thực trạng đưa ra một số khuyến nghị để
nhà trường tố chức các hoạt động nhằm nâng cao năng lực giao tiếp của sinh
viên sư phạm
Trong 3 nhiệm vụ trên đề tài tập trung nghiên cứu chủ yếu ở nhiệm vụ
1 và nhiệm vụ 2.
6. Phạm vi nghiên cứu
- Do điều kiện hạn chế, trong phạm vi đề tài này, chúng tôi chỉ nghiên
cứu nhu cầu giao tiếp, kỹ năng giao tiếp của sinh viên năm thứ 1, năm thứ 2,
năm thứ 3 và năm 4 của một số ngành khoa Sư phạm - trường Đại học Tây
Nguyên.
- Thời gian: Học kì II – năm học 2009 - 2010
3
7. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết nhiệm vụ của đề tài, chúng tôi đã sử dụng phối hợp các
phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: để xây dựng hệ thống khái niệm làm
cơ sở lý luận cho đề tàu, chúng tôi sử dụng nhóm phương pháp phân tích,
tổng hợp, khái quát lý thuyết.
- Phương pháp điều tra bằng test: Để kháo sát một số đặc điểm giao
tiếp của sinh viên khoa Sư phạm, Trường Đại học Tây Nguyên, chúng tôi sử
dụng test trắc nghiệm đo nhu cầu giao tiếp và kỹ năng giao tiếp.
- Phương pháp điều tra viết: phương pháp được sử dụng trong việc thu
thập các thông tin liên quan đến nhu cầu giao tiếp và kỹ năng giao tiếp của
sinh viên khoa Sư phạm, Trường Đại học Tây Nguyên.

- Phương pháp phóng vấn: sử dụng phương pháp này chúng tôi nhằm
thu thập thông tin đầy đủ, chính xác hơn về đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp quan sát: nhằm đánh giá độ tin cậy của phiếu điều tra,
chúng tôi sử dụng phương pháp này để đưa ra kết luận đầy đủ hơn cho quá
trình điều tra bằng phương pháp điều tra test.
- Phương pháp thống kê toán học: để xử lý số liệu thu được, nhằm đưa
ra được những kết luận chính xác, khách quan cho đề tài nghiên cứu, chúng
tôi sử dụng phương pháp thống kê trong toán học: tính %, tính trung bình
cộng, sử dụng excel và phần mền SPSS.
Chúng tôi sẽ trình bày hệ thống phương pháp nghiên cứu ở chương 2,
phần 2.3
4
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẦN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Khái quát về lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Vấn đề giao tiếp trong tâm lý học nước ngoài
A.A.Bôdaliôp khi khai mạc Hội nghị khoa học “Giao tiếp với tư cách là
đối tượng của các công trình nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn” đã nói:
“Trong hoạt động giao tiếp có thể tìm thấy sự thể hiện tổng hợp của tất cả các
đặc trưng cơ bản của con người như là một thành viên của xã hội, như là một
chủ thể hoạt động nhận thức và sáng tạo”. Vì vậy giao tiếp thực sự trở thành
đối tượng nghiên cứu của khoa học tâm lý. Cho đến nay trên thế giới việc
nghiên cứu giao tiếp trở thành một hệ thống, một ngành khoa học riêng: đó là
Tâm lý học giao tiếp.
Có nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề giao tiếp: Thời cổ đại như
Xôcơrat, Platon, Aritot sau này đến các nhà tâm lý học hiện đại như: Anna
Frued, E.E.Acquyt, M.Âgin, A.N.Leochiev, M.I.Liirna, B.D.Econhin,
V.X.Mukhina, B.F.Lomov, L.X.Vưgotxki.
Năm 1956 ba tác giả người Mỹ: Johson, Lgrríon, M.Schlekamp đã viết
cuốn sách về “giao tiếp”, đề cập mối quan hệ giữa kỹ năng giao tiếp với sự
tiến bộ trong trường đại học của sinh viên, cách biểu lộ tình cảm, phát triển kỹ

năng bình luận
Năm 1960 Bavelá (pháp) tiến hành nghiên cứu thực nghiệm về cấu trúc
giao tiếp, đưa ra khái niệm “khoảng cách” được xác định như là một mắt xích
giao tiếp cần thiết để một thông điệp tới người khác bằng con đường ngắn
nhất.
Đầu năm 1970 ở Liên Xô cũ một số bài báo về giao tiếp được giới thiệu
trong hội nghị “tâm lý học về giao tiếp” được tổ chức vào thánh 3/1970; tháng
3/1973; 5/1973. Hội nghị này đề cập đến hàng loạt vấn đề; phương pháp luận
5
và phương pháp nghiên cứu giao tiếp; cơ chế giao tiếp; ảnh hưởng của những
đặc điểm tâm lý cá nhân đối với quá trình giao tiếp; giao tiếp và lãnh đạo;
giao tiếp trong quần chúng; mô hình hoá quá trình giao tiếp; sự chênh lệch và
vi phạm loại hình giao tiếp và nhiều công trình nghiên cứu lí luận khác.
Bên cạnh các công trình công bố trong 3 hội nghị trên còn có hàng loạt
các công trình với các mức độ khác nhau được nghiên cứu ở Liên Xô và các
nước Đông Âu.
1.1.2. Nghiên cứu giao tiếp ở Việt Nam
Tại Việt Nam, tâm lý học là khoa học còn non trẻ. Vấn đề giao tiếp
được đi sâu nghiên cứu từ năm 1970 - 1980. Việc nghiên cứu giao tiếp phát
triển mạnh mẽ và đi theo xu hướng khác nhau, thể hiện các công trình nghiên
cứu lí luận và thực tiễn. Có thể khái quát một số hướng nghiên cứu về giao
tiếp và hoạt động giao tiếp trong lĩnh vực như sau:
Nghiên cứu lí luận về giao tiếp: Khái niệm, bản chất, vai trò, quan hệ
giữa giao tiếp và hoạt động. Có thể kể ra một số công trình sau: Đỗ Long:
“Cacmac và phạm trù giao tiếp” (1963); Bùi Văn Huệ “Bàn về phạm trù giao
tiếp” (1981); Ngô Công Hoàn “Giao tiếp sư phạm” (1987) và “Một số vấn đề
về giao tiếp sư phạm”, Nguyễn Văn Lê “Vấn đề giao tiếp” (1992). Trong đó
có nhóm các công trình nghiên cứu kỹ năng giao tiếp sư phạm có thể kể tới là:
Hoàng Anh “Kỹ năng giao tiếp sư phạm của sinh viên”, Nguyễn Thạc -
Hoàng Anh với cuốn “Luyện giao tiếp sư phạm” - Đại học Sư phạm - 1998,

Ngô Công Hoàn - Hoàng Anh “Giao tiếp sư phạm”, Trần Duy Hưng đã bàn
tới kỹ năng giao tiếp sư phạm của sinh viên, Ứng xử sư phạm (Trịnh Trúc
Lâm).
Ngoài ra, còn một số công trình nghiên cứu về đặc điểm giao tiếp như:
“Đặc điểm giao tiếp của sinh viên trường Cao Đẳng sư phạm Quảng Trị” -
Nguyễn Thị Diễm; tác giả Nguyễn Thanh Bình trong tạp chí Nghiên cứu giáo
6
dục 1992 với bài “Nhu cầu giao tiếp của sinh viên sư phạm”; “Ảnh hưởng của
nhu cầu giao tiếp đến việc thiết lập các mối quan hệ giao tiếp sư phạm sinh
viên trường cao đẳng sư phạm Quảng Trị”; “Khả năng giao tiếp của sinh viên
sư phạm tinh Sơn La” - Lò Thị Mai Thoan; Hoàng Đình Châu “Thực trạng kỹ
năng giao tiếp của học viên Sĩ quan”; Trương Quang Học “một số đặc điểm
giao tiếp của học viên tham gia các lớp đào tào giáo viên khoa học xã hội
nhân văn Quân sự cấp Quân đội”; Nguyễn Thị Thanh Tâm “kỹ năng giao tiếp
trong lãnh đạo, quản lý nhằm phát huy trí tuệ tập thể”; Đào Thị Oanh “Nhu
cầu giao tiếp của học sinh cuối bậc tiểu học (khu vực Hà Nội)”; Phạm Thị
Dung “thực trạng kỹ năng giao tiếp của sinh viên trường Đại học Sư phạm Đà
Nẵng” - Thông báo khoa học 2006.
Nhìn chung đã có nhiều đề tài nghiên cứu về đặc điểm giao tiếp của
sinh viên và sinh viên sư phạm chủ yếu về một trong các đặc điểm của giao
tiếp như nhu cầu hay kỹ năng mà chưa có đề tài nào nghiên cứu sâu về nhu
cầu và kỹ năng giao tiếp của sinh viên sư phạm trường Đại học Tây Nguyên.
1.2. Một số vấn đề về giao tiếp
Giao tiếp là vấn đề quan trọng và phức tạp, nó đã được nhiều tác giả
quan tâm nghiên cứu ở những góc khác nhau. Nhìn chung khi định nghĩa về
giao tiếp các tác giả xuất phát từ hai hướng tiếp cận sau:
1.2.1. Hướng tiếp cận thứ nhất: xuất phát từ các chuyên ngành tâm lý
học ứng dụng
Từ các ngành tâm lý học ứng dụng, các liên ngành tâm lý học du lịch,
tâm lý học kinh doanh, tâm lý học trị liệu, tâm lý học tuyên truyền, tâm lý học

y học Hầu hết các nhà tâm lý học ứng dụng khi nhìn nhận khái niệm giao
tiếp đều đề cập tới hai vấn đề sau:
- Nhấn mạnh đến vấn đề thông tin, thông báo trong giao tiếp.
- Tính đến hiệu quả mang tính đặc thù trong lĩnh vực riêng biệt đó.
7
Tâm lý học kinh doanh xem giao tiếp là một quá trình, một kích thích
dưới dạng một thông điệp được một bộ phát truyền đi nhằm tác động và gây
hậu quả khi đi tới bộ thu. [12]
Tâm lý học ứng dụng coi giao tiếp là một tập hợp quá trình truyền đạt
và tri giác các thái độ, niềm tin và ý định, dựa vào bộ máy sinh học, tâm lý
chung của loài người làm sao cho đôi bên đối thoại hiểu được nhau và đạt
được mục tiêu giao tiếp [11]
Tâm lý học y học: xem xét giao tiếp là quan hệ giữa thầy thuốc và bệnh
nhân; thầy thuốc và thầy thuốc; bệnh nhân - bệnh nhân trong bệnh viện nhằm
tạo sự tin tưởng ở khả năng chữa trị cho bệnh nhân [29]
1.2.2. Hướng tiếp cận thứ hai: xem xét các xu hướng cơ bản trong tâm
lý học giao tiếp.
Khi tìm hiểu, khám phá bản chất giao tiếp, các nhà tâm lý học thế giới
dẫn đi theo 3 xu hướng rõ rệt
- Hướng thứ nhất: xác định bản chất giao tiếp qua việc xác định nội
hàm của khái niệm (thu hẹp hoặc mở rộng nội hàm khái niệm giao tiếp).
- Hướng thứ hai: xem xét bản chất giao tiếp qua việc xác định vị trí của
giao tiếp trong hệ thống khái niệm phạm trù tâm lý.
- Hướng thứ ba: xác định chính xác hoá khái niệm giao tiếp bằng việc
phân biệt “giao tiếp” với các thuật ngữ, khái niệm liên quan như “thông tin”,
“ứng xử” hoặc “quan hệ xã hội”.
* Hướng thứ nhất: “Thu hẹp hoặc mở rộng nội hàm khái niệm giao
tiếp”.
+ Xu hướng thu hẹp khái niệm giao tiếp: chỉ nhấn mạnh một khía cạnh
nhất định nào đó trong giao tiếp.

- Nhất mạnh đến khía cạnh thông tin trong giao tiếp giữa người với
người, gồm các tác giả với những quan niệm sau:
8
Theo E.E.Acquyt và M.A.Acgain quan niệm: Giao tiếp là sự tác động,
sự truyền và tiếp nhận thông báo, sự trao đổi thông tin của con người.
K.K.Platonop: “giao tiếp là sự trao đổi thông tin giữa con người với
nhau, sự trao đổi thông tin này gọi là tiếp xúc”
Fischer: “sơ đồ giao tiếp nằm trong một quá trình truyền thông tin, bao
gồm 4 yếu tố khác nhau: Một điểm phát - biến đổi thông tin thành mã, một
kênh thông tin, một điểm thu nhận thông tin, một danh mục tín hiệu”.
- Nhấn mạnh đến khía cạnh cảm xúc của sự giao tiếp như tác giả
L.Stecxon (Pháp) coi giao tiếp lầ sự trao đổi ý nghĩ, tình cảm và cảm xúc giữa
con người với nhau.
- Nhấn mạnh khía cạnh hành động, hành vi của giao tiếp T.Chuccon
(Mỹ) và ba nhà tâm lý học Pháp P.Oaathaanit; D.Giăcson; G.Bivanh: coi giao
tiếp là một tổ hợp hành vi, quá trình này tích hợp nhiều loại hành vi gồm:
ngôn ngữ, hành vi điệu bộ, hành vi cử chỉ.
Xu hướng thu hẹp này đã xác định được chính xác từng mặt trong nội
hàm khái niệm giao tiếp, nhưng chưa đủ vì giao tiếp với tư cách là một hiện
tượng tâm lý con người phải bao gồm cả ba mặt: Nhận thức (thông tin), xúc
cảm và hành động. Mặt khác xu hướng này chỉ dừng lại ở việc mô tả bề ngoài
của quá trình giao tiếp, chưa nêu rõ bản chất bên trong của quá trình này.
- Xu hướng mở rộng nội hàm khái niệm giao tiếp đến mức đồng nhất
giao tiếp với giao lưu chung cho cả ở người và động vật.
Như B.V.Xocolop cho rằng: Giao tiếp là sự tác động lẫn nhau và giữa
những động vật tâm lý với nhau. Nếu thu hẹp hơn thì có thể hiểu “giao tp là
mối quan hệ giữa con người với những động vật nuôi trong nhà”.
Ngoài ra một số nhà khoa học khác đã dùng thuật ngữ: “giao tiếp thính
giác chim”, “giao tiếp ở khỉ” để mô tả khía cạnh thông báo gữa các động vật.
9

Như vậy có thể thấy, xu hướng mở rộng khái niệm giao tiếp đã làm mất
đi bản chất xã hội của giao tiếp.; không thấy được sự khác biệt về bản chất
giữa giao tiếp người và thông báo ở động vật. Về phương tiện giao tiếp ở
người mang tính chất truyền đạt một khối lượng thông tin lớn phức tạp gồm
cả tính chất cụ thể và tính chất trừu tượng, còn động vật chỉ mang tính chất cụ
thể (thông báo về tình huống cụ thể bên ngoài hoặc trạng thái của con vật).
* Hướng thứ hai: nhìn nhận bản chất giao tiếp trong việc xác định vị trí
của nó trong hệ thống các khái niệm phạm trù tâm lí học. Đại diện là hai nhà
tâm lý học A.A.Leeonchiep và B.H.lomop khi bàn về giao tiếp và hoạt động.
A.A.Leeonchiep nghiên cứu trên cơ sở hệ thống hoạt động. Theo ông,
giao tiếp là một dạng đặc biệt của phạm trù hoạt động, nhưng không phải lúc
nào nó cũng là hoạt động hoàn chỉnh ở bậc cao và độc lập. Giao tiếp có thể
tham gia vào một hoạt động không giao tiếp khác, với chức năng như hoạt
động lý thuyết tham gia vào hoạt động thực hành. Và trong trường hợp này
giao tiếp cũng không khác gì so với dạng khác của hoạt động.
Tại sao giao tiếp có thể là một dạng của hoạt động?
Thứ nhất là mối quan hệ giữa chủ thể với môi trường xung quanh do
hoạt động tạo nên đã bao hàm cả giao tiếp. Nghĩa là, mối quan hệ chủ thể -
khách thể hay đúng hơn là chủ thể - hoạt động - đối tượng không phải là mối
quan hệ của một chủ thể cá thể với một đối tượng riêng biệt, mà là mối quan
hệ có tính xã hội trong cả ba thành phần của nó.
Thứ hai là đối tượng có tính xã hội vì nó không phải là một vật thờ ơ,
tồn tại ngoài xã hội loài người, mà là một vật mà những tính khách quan của
nó được phản ánh trong quá trình hoạt động và cấu tạo nên hình ảnh của vật
trong ý thức của con người, có ý thức xã hội nhất định. Như vậy đối tượng
của hoạt động không phải chỉ là những gì tồn tại ở dạng vật chất mà cả ở tinh
thần nữa.
10
Thứ ba là bản chất quá trình hoạt động cũng mang tính xã hội, kể cả khi
nó là hoạt động của cá thể, vì trong trường hợp này có là hoạt động của một

cá thể, chứ không phải là hoạt động mang tính cá thể. Cuối cùng, chủ thể của
hoạt động cũng có tính xã hội. Chính tính xã hội của toàn bộ mối quan hệ chủ
thể - khách thể và của từng thành phần của nó đã dẫn A.A.Leeonchiep đến kết
luận rằng mối quan hệ chủ thể - hoạt động và đối tượng bao hàm cả mối quan
hệ chủ thể - chủ thể, tức phạm trù hoạt động bao hàm cả phạm trù giao tiếp.
Mặc khác, nếu xét theo định nghĩa hoạt động của A.A.leeonchiep thì
trong giao tiếp cũng vậy có đầy đủ các thành phần của chủ thể hoạt động của
hoạt động giao tiếp. Và theo ông thì chủ thể hoạt động của hoạt động giao
tiếp là một nhóm người đồng nhất hay một nhóm người giao tiếp. Còn đối
tượng của giao tiếp là sự tác động lẫn nhau đó cũng là động cơ của giao tiếp.
Giao tiếp được quyết định bởi mối quan hệ lẫn nhau, cũng như hoạt động
được quyết định bởi động cơ của mình, giao tiếp là một hệ thống những quá
trình có mục đích và động cơ đảm bảo sự tương tác giữa người này với người
khác trong hoạt động tập thể, thực hiện các quan hệ xã hội và nhân cách, các
quan hệ tâm lý và xử dụng các phương tiện đặc thù, mà trước hết là ngôn ngữ.
Từ tất cả những vấn đề đã nêu trên, A.A.Leonchiep cho rằng, không
nêu đưa “giao tiếp” thành một phạm trù trong tâm lý học.
Khác với A.A.Leonchiep, B.Ph.Lomop cho rằng giao tiếp không phải
là một dạng đặc biệt của hoạt động mà là một phạm trù độc lập vì:
+ Sự khác nhau cơ bản để phân chia hoạt động và giao tiếp là trong
hoạt động thể hiện mối quan hệ chủ thể - khách thể, còn trong giao tiếp thể
hiện mối quan hệ chủ thể - chủ thể, “hoạt động” - đây là sự tác động cá thể lên
đối tượng: còn “giao tiếp” là một quá trình.
+ Mặt khác nếu coi giao tiếp là một dạng của hoạt động thì gặp những
khó khăn sau:
11
- Thứ nhất không tìm thấy được vị trí của giao tiếp trong hệ thống các
dạng hoạt động như đã được phân loại trước đây.
- Thứ hai khó xác định động cơ giao tiếp vì mỗi thành viên của giao
tiếp có động cơ riêng của mình. Trong quá trình giao tiếp chúng có thể xích

lại gần nhau, vì vậy không thể dùng phương pháp nghiên cứu của hoạt động
để áp dụng vào nghiên cứu giao tiếp
- Thứ ba khó xác định được đối tượng giao tiếp.
Nếu kết quả của hoạt động thực tiễn ở dạng hoạt động vật chất thì kết
quả của giao tiếp là sự thay đổi ý thức, hành vi và tính chất của các thành
viên. Vì vậy giao tiếp gần với hoạt động trí tuệ hơn, nhưng khác với hoạt
động này ở chỗ là giao tiếp không chỉ thay đổi hình ảnh tư tưởng về đối
tượng, mà còn thay đổi chức năng tâm lý và thuộc tính của các thành viên.
+ Lomop cho rằng, không nên tuyệt đối hoá một phạm trù nào đó, dù
phạm trù đó mạnh đến đâu đi nữa thì nó cũng chỉ thể hiện một mặt nhất định
nào đó của cuộc sống con người, hoạt động và giao tiếp - hai mặt của sự tồn
tại xã hội con người của lối sống. Hai mặt này luôn gắn nhiều với nhau trong
một lối sống thống nhất. Hơn nữa giữa chúng luôn tồn tại sự chuyển biến từ
cái này sang cái kia
Tóm lại, B.Ph lomop cho rằng hoạt động và giao tiếp là hai mặt của sự
tồn tại xã hội con người. Hai mặt này gắn liền với nhau trong lối thống nhất.
Giữa chúng luôn có sự chuyển hoá lẫn nhau và nhiều khi giao tiếp để hoạt
động và hoạt động giao tiếp, giao tiếp được thực hiện bằng phương thức của
hoạt động, hoạt động được tiến hành bằng phương thức của giao tiếp, giữa
chúng luôn có chuyển hoá giữa cái này sang cái kia.
Đứng trước hai quan niệm này, đa số các nhà tâm lý học như:
K.K.Ptamop, A.A.Bodaliop, D.B.Econhin, G.M.Andreeva cho rằng: cả hai
nhà tâm lý trên đều có điểm hợp lý và có điểm chưa hợp lý. Như A.Leonchiep
12
thì chưa giải quyết thoã đáng về đối tượng động cơ chủ thể của hoạt động
này, chủ thể của hoạt động này. B.Ph.Lomop quá nhấn mạnh phạm trù giao
tiếp nên khó giải thích khi giao tiếp có cơ chế như là một hoạt động và khi
giao tiếp tham gia vào hoạt động có đối tượng như là điều kiện thiết yếu của
hoạt động. Các nhà tâm lý học đã khẳng định: “Hoạt động là quy luật chung
nhất của tâm lý học”.

Giao tiếp là hoạt động phản ánh mối quan hệ giao tiếp giữa chủ thể -
chủ thể. Còn hoạt động có đối tượng phản ánh mối quan hệ chủ thể - khách
thể. Hai khái niệm ngang bằng nhau và có mối quan hệ gắn bó khăng khít với
nhau trong phạm trù hoạt động, và hai mặt thống nhất của con người, của sự
phát triển tâm lý.
Điều đó có thể biễu diễn bằng sơ đồ sau
Hoạt động có đối tượng
Hoạt động
Hoạt động giao tiếp
* Trong quá trình giao tiếp, để giao tiếp phát huy khả năng của mình thì
giao tiếp chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau.
- Chủ thể giao tiếp: Là người tham gia quá trình giao tiếp. Đó là những
người có đặc điểm sinh lý, tâm lý và xã hội, tri thức, trình độ hiểu biết.
Giao tiếp người - người thì cả hai đều là chủ thể giao tiếp và đều là đối
tượng giao tiếp, vai trò này được chuyển đổi linh hoạt thường xuyên trong
quá trình giao tiếp. Họ không chỉ là người nói và người nghe vì mọi giác quan
đều tham gia vào quá trình này, từ dáng điệu, cử chỉ, ánh mắt, vẻ mặt, trang
phục, thậm chỉ cả mùi nước hoa…
13
- Mục đích giao tiếp: Dựa trên mục đích cụ thể chủ thể nhằm đạt được:
nhu cầu trao đổi thông tin, nhu cầu chia sẻ tình cảm, nhu cầu tiếp xúc giải
trí,nhu cầu được khẳng định trước người khác…
- Nội dung giao tiếp: Là những vấn đề chủ thể muốn đề cập khi giao tiếp
với người khác. Đây là yếu tố quan trọng nhất trong quá trình giao tiếp thể
hiện ở thông tin cần truyền đạt. Thông tin được cấu trúc như thế nào thể hiện
ở nội dung cần truyền đạt, cũng như đến được người thu với kết quả cao nhất.
Trong nội dung giao tiếp có thể chia làm hai loại: nội dung tâm lý và nội
dung công việc. Nội dung tâm lý bao gồm các thành phần cơ bản là nhận
thức, thái độ cảm xúc và hành vi. Nội dung công việc thể hiện ở bất kỳ quá
trình giao tiếp nào, nó là đặc trưng của giao tiếp.

Nội dung giao tiếp chịu ảnh hưởng ở lứa tuổi, nghề nghiệp, giới tính…
của chủ thể giao tiếp. Ngoài ra còn chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh, điều kiện,
mối quan hệ của chủ thể và đối tượng giao tiếp cũng như trạng thái tâm lý của
chủ thể.
- Phương tiện giao tiếp: để thực hiện thông qua hệ thống tín hiệu giao
tiếp ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) và giao tiếp phi ngôn ngữ (nét mặt,
giọng nói, cử chỉ, tư thế…).
- Đối tượng giao tiếp sẽ tiếp nhận thông tin qua lăng kính chủ quan riêng
của họ. Để giao tiếp thành công thì phải hiểu rõ đối tượng mà chủ thể muốn
giao tiếp từ trước khi giao tiếp và cả trong quá trình giao tiếp thông qua việc
quan sát đối tượng, nắm bắt sự đáp ứng của họ và điều chỉnh kịp thời cho phù
hợp. Bên cạnh đó kết quả giao tiếp sẽ tốt hơn nếu chủ thể giao tiếp xác định
đúng đôi tượng, đúng nội dung, đúng mức độ, phạm vi thông tin sẽ truyền đạt,
đúng thời điểm, đúng nơi đúng chổ.
Trong đề tài này chúng tôi xem xét giao tiếp theo mặt nhân cách, trong
đó dựa trên quan điểm của Leoochiev.
14
Theo quan điểm của Leoochiev: Vị trí quan trọng nhất khi phân tích
hoạt động thuộc về động cơ và mục đích. Động cơ có liên quan đến nhu cầu,
kích thích hoạt động, mục đích liên quan đến đối tượng mà hoạt động hướng
đến, đối tượng cần phải ở trong quá trình thực hiện hoạt động và bị biến đổi
thành sản phẩm. Động cơ của giao tiếp xuất phát từ nhu cầu tiếp xúc với
người khác. Mỗi con người ai cũng có nhu cầu giao tiếp lẫn nhau để chiếm
lĩnh đối tượng.
Hoạt động thường được thực hiện như là hệ thống các hành động triển
khai liên tục, mỗi hành động giải quyết một phần nhiệm vụ và có thể xem như
là một “bước” hướng đến mục đích. Hành động triển khai trong thực tiễn là
nhờ vào kỹ năng. Việc hình thành kỹ năng hành động là hình thành ở con
người khả năng triển khai thao tác theo đúng logic phù hợp với mục đích
khách quan.

Theo các nhà tâm lý học hoạt động coi giao tiếp như một dạng hoạt
động hay là hoạt động giao tiếp. Giao tiếp xuất phát từ nhu cầu của cá nhân và
cách thức thực hiện giao tiếp thông qua kỹ năng hành động. Chính tầm quan
trọng như vậy nên đề tài chúng tôi chọn nghiên cứu về nhu cầu, kỹ năng giao
tiếp.
1.3. Nhu cầu và nhu cầu giao tiếp
1.3.1. Một số vấn đề về nhu cầu
1.3.1.1. Khái niệm nhu cầu
Nhu cầu là một khái niệm được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và đã
có rất nhiều định nghĩa khác nhau về nhu cầu.
Theo Henry Murray thì nhu cầu được hiểu là một tổ chức động cơ, nó
tổ chức và hướng dẫn các quá trình nhận thức, tưởng tượng, hành vi. Nhờ nhu
cầu mà hoạt động của con người mang tính chất có mục đích. Do đó hoặc là
15
đạt được sự thoả mãn nhu cầu, hoặc là ngăn ngừa sự đụng độ khó chịu với
môi trường.
Theo A.N.Lêonchiev thì nhu cầu là một trạng thái của con người, cần
một cái gì đó cho cơ thể nói riêng, con người nói chung sống và hoạt động.
Nhu cầu luôn có đối tượng, đối tượng của nhu cầu là vật chất hoặc tinh thần,
chứa đựng khả năng thoả mãn nhu cầu. Nhu cầu có vai trò định hướng đồng
thời là động lực bên trong kích thích hoạt động của con người.
Theo Nguyễn Khắc Viện, nhu cầu là “Điều cần thiết để đảm bảo cho sự
tồn tại và phát triển của con người. Được thoải mái thì dễ chịu, thiếu hụt thì
căng thẳng ấm ức. Có nhu cầu của con người, có nhu cầu chung của tập thể,
khi hoà nhập, khi mâu thuẫn, có nhu cầu cơ bản, thiết yếu, có nhu cầu thứ
yếu, giả tạo. Nhu cầu do trình độ phát triển của xã hội mà biến đổi” [2].
Trên cơ sở tìm hiểu, thu thập phân tích các khái niệm khác nhau về nhu
cầu và trong khuôn khổ của đề tài chúng tôi sử dụng định nghĩa của GS.TS.
Nguyễn Quang Uẩn “Nhu cầu là sự biểu hiện mối quan hệ tích cực của cá
nhân với hoàn cảnh, là sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy được thoả mãn

để tồn tại và phát triển”.
1.3.1.2. Đặc điểm của nhu cầu
- Nhu cầu bao giờ cũng có tính đối tượng: khi chủ thể gặp đối tượng
được ý thức là có giá trị để thoã mãn nhu cầu của mình và có điều kiện thực
hiện phương thức thoả mãn thì nhu cầu đó trở thành động cơ thúc đẩy chủ thể
hoạt động nhằm vào đối tượng. Đối tượng của nhu cầu càng được xác định cụ
thể, ý nghĩa của nhu cầu đối với đời sống cá nhân và đời sống xã hội càng
được nhận thức sâu sắc thì nhu cầu càng nhanh chóng được nảy sinh, củng cố
và phát triển. Đối tượng của nhu cầu nằm ngoài chủ thể, đồng thời là cái chứa
đựng khả năng thoả mãn nhu cầu. Bản thân đối tượng đáp ứng nhu cầu luôn
tồn tại một cách khách quan và không tự bộc lộ ra khi chủ thể tiến hành hoạt
16
động. Khi đối tượng của nhu cầu được chủ thể ý thức thì nhu cầu thực sự là
sức mạnh nội tại, sức mạnh tâm lý kích thích và hướng dẫn hoạt động.
Tính đối tượng của nhu cầu được xuất hiện trong hoạt động có đối
tượng của chủ thể. Nhu cầu với tư cách là một năng lực hướng dẫn, điều
chỉnh hoạt động khi được “đối tượng hóa” là điều kiện nảy sinh tâm thế. Với
ý nghĩa đó, nhu cầu thực sự là một cấp độ của phản ánh tâm lý, ở cấp độ này,
nhu cầu được phát triển thông qua sự phát triển nội dung đối tượng của nhu
cầu. Đây chính là đặc điểm đặc trưng của nhu cầu ở con người.
Quá trình phát triển của con người thực chất là quá trình phát triển nội
dung đối tượng của các nhu cầu và ở mức độ cao hơn của thế giới đối tượng,
là sự phát triển của các động cơ hoạt động cụ thể của con người. Như vậy, sự
phát triển của nhu cầu diễn ra theo con đường phát triển các hoạt động tương
ứng với một phạm vi đối tượng ngày càng phong phú và đa dạng.
- Nhu cầu có tính ổn định: Trong xu thế vận động, nhu cầu có thể xuất
hiện lặp đi lặp lại (thông thường ở mức độ cao hơn). Tính ổn định của nhu
cầu thể hiện bởi tần số xuất hiện một cách thường xuyên, liên tục. Nhu cầu
càng phát triển ở mức độ càng cao thì càng ổn định, càng bền vững.
- Phương thức thoả mãn nhu cầu: Nhu cầu được thoả mãn thông qua

hoạt động. Chỉ có thông qua hoạt động thì đối tượng của nhu cầu mới được
bộc lộ và đáp ứng sự đòi hỏi của nhu cầu. Phương thức thoả mãn nhu cầu của
chủ thể phụ thuộc vào sự phát triển, phong tục, truyền thống của mỗi xã hội
nà chủ thể sống, phụ thuộc vào trạng thái tâm lý riêng như khả năng hoạt
động của chủ thể. Mỗi loại nhu cầu cụ thể được thoả mãn trong quá trình chủ
thể tiến hành hoạt động tương ứng.
Nhu cầu và hoạt động có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nhu cầu là
điều kiện bên trong hoạt động: nhu cầu luôn gắn liền với hoạt động có đối
tượng của chủ thể. Thông qua hoạt động, nhu cầu được hình thành, phát triển
17
và được thoả mãn, đồng thời lại nảy sinh nhu cầu mới ở cấp độ cao hơn. Đặc
biệt thông qua hoạt động cụ thể làm xuất hiện các nhu cầu chức năng như:
nhu cầu lao động, nhu cầu sáng tạo nghệ thuật, nhu cầu học tập.
- Trạng thái ý chí - cảm xúc: Nhu cầu thường đi kèm với các trạng thái
ý chí cảm xúc, đặc biệt khi nhu cầu ở mức độ cao. Những trạng thái cảm xúc
tiêu biểu như tính hấp dẫn của một đối tượng có liên quan đến một nhu cầu
nhất định, sự không hài lòng hoặc thậm chí đau khổ khi nhu cầu không được
thoả mãn. Trạng thái ý chí - cảm xúc thúc đẩy hoạt động tìm kiếm cách thức
cần thiết nhằm thoả mãn nó. Chính vì vậy, nhu cầu trở thành một trong những
động cơ mạnh mẽ thúc đẩy chủ thể hoạt động nói chung và thực hiện các
hành vi ý chí nói riêng. Trạng thái ý chí - xúc cảm sẽ bị giảm, thậm chí có lúc
hoàn toàn biến mất hoặc chuyển sang trạng thái ngược lại thì nhu cầu đã được
thoả mãn.
1.3.1.3. Các loại nhu cầu
A.Maslow (1908 - 1970) chia nhu cầu thành 5 loại bao gồm: nhu cầu
vật chất, nhu cầu an toàn, nhu cầu được thừa nhận, nhu cầu được tôn trọng,
nhu cầu về phát triển cá nhân.
+ Nhu cầu vật chất (sự sinh tồn cơ bản). Thứ bậc đầu tiên này rất cơ
bản và đặc biệt quan trọng. Nói cách khác, nếu thiếu những nhu cầu cơ bản,
nhất là nhu cầu cơ bản về thức ăn, nước uống, con người sẽ không thể tồn tại

được.
+ Nhu cầu về sự an ninh, an toàn. Con người sống trong môi trường an
toàn là môi trường mà ở đó không có mối đe doạ nguy hiểm, rình rập và thực
sự có lợi cho sự phát triển liên tục, lành mạnh cho mỗi cá nhân, điều này liên
quan đến môi trường xã hội, môi trường tự nhiên, môi trường gia đình tốt đẹp,
thuận lợi cho việc tiếp cận các dịch vụ, y tế, giáo dục, vui chơi giải trí và sự
an toàn trong nghề nghiệp, bảo vệ thân thể.
18
+ Nhu cầu được thừa nhận. Con người, về bản chất luôn mong muốn
tìm kiếm, thiết lập các mối quan hệ xã hội, bạn bè, tình yêu thương và sự thừa
nhận từ người khác. Nếu không cảm thấy được giao tiếp, quan hệ xã hội và sự
thừa nhận từ người khác thì con người sẽ khó tồn tại và phát triển một cách
lành mạnh. Con người sẽ cảm thấy bị cô lập, tự ti, yếu đuối và không thiết
sống nữa, rất dễ có sự lập dị, thu mình hoặc có hành động tiêu cực
Trong nhu cầu này, con người sống trong môi trường xã hội, là thành
viên của xã hội nên có nhu cầu giao lưu với người khác và được người khác
thừa nhận - thể hiện qua nhu cầu giao tiếp với mọi người.
+ Nhu cầu về sự tự trọng. Tự trọng của mỗi người chính là việc người
đó có ý thức về nhân phẩm và danh dự của họ. Như vậy, tự trọng là sự cảm
thấy hài lòng về bản thân, trải nghiệm những ý nghĩa về giá trị của bản thân
và tự hào về các thành quả cá nhân.
+ Nhu cầu về phát triển cá nhân. Bậc cao nhất trong thang bậc hệ thống
nhu cầu là nhu cầu của con người về sự phát triển cá nhân. Đây là bước phát
triển nhất về tâm lý và phức tạp nhất trong tâm lý con người. Mỗi nhu cầu con
người trong “hệ thống thứ bậc” phải được thoả mãn trong mối tương quan với
môi trường để có thể phát triển cao nhất của mình.
- Dựa vào cách phân chia của tác giả Lê Thị Bừng trong cuốn “những
thuộc tính tâm lý điển hình của nhân cách” thì chia nhu cầu thành các loại cơ
bản.
+ Nhu cầu vật chất: là cơ sở cho sự sống, tồn tại, phát triển của con

người và con vật. Nhu cầu vật chất có trước nhất, nó là cơ sở cho hoạt động
sinh sống của con người. Nhu cầu này được hình thành trong quá trình phát
triển giống loài và phát triển xã hội lịch sử của con người.
+ Nhu cầu tinh thần: là những cấu tạo đặc biệt chỉ con người mới có và
nó chứng tỏ một trình độ cao của nhân cách.
19
+ Nhu cầu xã hội là nhu cầu liên quan đến mối quan hệ giữa lợi ích cá
nhân và lợi ích cộng đồng, xã hội. Nhu cầu của con người là do xã hội quy
định, mức độ phát triển của nhu cầu do tính chất của sản xuất xã hội và phân
phối sản phẩm quyết định. Một trong những nhu cầu xã hội là nhu cầu giao
tiếp. Nhu cầu giao tiếp tạo điều kiện để hình thành những mối liên hệ giữa
người này và người khác. Nó thúc đẩy sự trao đổi kinh nghiệm, quan niệm,
tình cảm.
1.3.1.4. Các mức độ của nhu cầu
Mức độ nhu cầu là độ gay gắt đòi hỏi về một đối tượng nào đó thể hiện
ở việc thể hiện ý thức được trạng thái thiếu thốn của chủ thể, đối tượng và
phương thức thoả mãn nó.
Nhu cầu có thể tồn tại ở nhiều mức độ khác nhau, mỗi tác giả lại có
những cách phân chia mức độ nhu cầu khác nhau.
- Theo X.L. Rubinstein căn cứ vào mức độ của ý thức thì nhu cầu trải
qua 3 mức độ: ý hướng, ý muốn, ý định.
+ Ý hướng: là bước khởi đầu của nhu cầu. Ở mức độ này nhu cầu chưa
được phản ánh đầy đủ, rõ ràng vào trong ý thức của con người. Nói cách khác
lúc này, chủ thể đang trải nghiệm sự thiếu hụt nhưng chưa xác định được đối
tượng gây ra sự thiếu hụt đó.
Khi chủ thể đã ý thức được đối tượng nhu cầu, nghĩa là sự trả lời được
câu hỏi “thiếu hụt cái gì” thì nhu cầu chuyển sang mức độ cao hơn đó là ý
muốn.
+ Ý muốn: Ở mức độ ý muốn chủ thể đã ý thức được đối tượng chứa
đựng khả năng thoả mãn nhu cầu. Tuy nhiên chủ thể vẫn cần phải tiếp tục tìm

kiếm cách thức và các điều kiện để thoả mãn nhu cầu. Ở mức độ này chủ thể
xuất hiện những trạng thái rung cảm khác nhau biểu hiện sự mong muốn.
20
+ Ý định: Là mức độ cao nhất của nhu cầu. Lúc này chủ thể đã ý thức
đầy đủ cả về đối tượng cũng như cách thức điều kiện nhằm thoả mãn nhu cầu,
xác định rõ khuynh hướng của nhu cầu và sẵn sàng hành động. Lúc này nhu
cầu trở thành sức mạnh nội tại thúc đẩy mạnh mẽ chủ thể hoạt động nhằm
thoả mãn nó. Đồng thời, chủ thể cũng có khả năng hình dung về kết quả của
hoạt động. Ở mức độ cao nhất của nhu cầu, chủ thể không chỉ ý thức rõ về
mục đích động cơ mà còn cả về những phương thức để đạt tới mục đích đó.
- Căn cứ vào tính tích cực, nhu cầu biểu hịên ở 3 mức độ: Lòng ham
muốn, lòng say mê, đam mê.
+ Long ham muốn: Đây là mức độ thấp nhất mức độ này nhu cầu có
cường độ rất yếu ớt, chưa đủ sức mạnh để thúc đẩy con người hoạt động, hoặc
có thì rất mờ nhạt dễ bỏ cuộc nửa chừng.
+ Lòng say mê: Ở mức độ này nhu cầu có cường độ khá mạnh liệt nó
có sức mạnh lớn lao thúc đẩy con người chuyển hoá thành tình cảm khá mãnh
liệt khiến cá nhân yêu thích say sưa với đối tượng của nhu cầu. Ở mức độ này
hoạt động chịu sự chỉ huy sáng suốt của tư duy và lý trí thắng tình cảm.
+ Đam mê: Là nhu cầu ở mức quá cao ngưỡng làm cho con người u
mê, mất đi sự sáng suốt. Lúc này con người hoạt động theo bản năng của thú
tính nên vừa ngu si, vừa độc ác, tàn bạo, thô lỗ. Cần ngăn chặn sự đam mê
ngay từ mức độ say mê vì từ say mê chuyển sang đam mê chỉ trong gang tấc .
- Một số tác giả Việt Nam (Ngô Công Hoàn, Nguyễn Thanh Bình,
Nguyễn Kim quý) chia nhu cầu thành 5 mức độ : Thấp, trung bình thấp, trung
bình, trung bình cao, cao.
21
1.3.2. Nhu cầu giao tiếp
1.3.2.1. Khái niệm nhu cầu giao tiếp
Các quan niệm trong tâm lý học Macxit đều thống nhất coi nhu cầu là

sự đòi hỏi của con người về một đối tượng nào đó. Sự đòi hỏi đó phải được
thoả mãn để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của con người.
Cá nhân ấy trở nên cô đơn, thậm chí mắc các loại bệnh tất. Ngay từ khi
sinh ra con người đã có nhu cầu được tiếp xúc với người khác, mong muốn
được trao đổi thông tin, sự hiểu biết, tâm tư tình cảm của mình với người
khác. Để thoả mãn nhu cầu giao tiếp, con người sử dụng rất nhiều hình thức
khác nhau. Phương thức thỏa mãn theo từng đối tượng giao tiếp khác nhau.
Chính vì vậy, nhiều tác giả luôn đề cao vai trò của nhu cầu giao tiếp trong quá
trình hình thành và phát triển con người.
Nhu cầu giao tiếp là một nhu cầu đặc trưng của con người, vì nó có vai
trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của cá nhân, nó trở thành nhu
cầu không thể thiếu trong đời sống của mỗi con người. Trong đề tài này,
chúng tôi dựa vào quan niệm nhu cầu giao tiếp của PTS Ngô Công Hoàn như
sau:
Nhu cầu giao tiếp là sự đòi hỏi tất yếu của cơ thể được tiếp xúc với con
người để tồn tại và phát triển theo hướng của con người trong các giai đoạn
lứa tuổi ở những điều kiện phát triển xã hội nhất định.
1.3.2.2. Đặc điểm của nhu cầu giao tiếp
Nhu cầu giao tiếp được thể hiện qua các đặc điểm sau:
- Tính đối tượng của nhu cầu giao tiếp: các quan hệ người - người được
thể hiện trong sự giao tiếp. Con người mong muốn tiếp xúc với mọi người
xung quanh, nhằm mục đích trao đổi thông tin, tư tưởng, tình cảm, thế giới
quan và nhân sinh quan… Nhờ đặc trưng này mà mỗi người tự hoàn thiện
22
mình theo yêu cầu của nghề nghiệp, của các mối quan hệ xã hội mà họ là
thành viên tích cực.
Đối với sinh viên, đối tượng giao lưu chủ yếu là bạn bè nơi ở và các
mối quan hệ xã hội nảy sinh. Qua các mối quan hệ này góp phần nâng cao khả
năng giao tiếp, phục vụ cho nghề nghiệp sau này.
Đối với giảng viên, đối tượng thầy cô hướng tới đó là sinh viên, những

người đồng nghiệp, cán bộ quản lý lãng đạo, người thân trong gia đình và
nhiều mối quan hệ xung quanh. Qua các mối quan hệ nhằm mở rộng sự hiểu
biết, xây dựng mối quan hệ cần thiết cho cuộc sống.
- Nội dung của nhu cầu giao tiếp: Giao tiếp bao giờ cũng được cá nhân
thực hiện với nội dung cụ thể, trong khung cảnh thời gian và không gian nhất
định. Tuỳ theo đối tượng giao tiếp mà cá nhân trao đổi về các vấn đề khác
nhau. Cá nhân tiếp xúc với người khác trong nhóm tập thể, từ đó có hứng thú
chung với các hoạt động của nhóm đó. Nội dung giao tiếp chịu ảnh hưởng ở
lứa tuổi, nghề nghiệp, giới tính…của chủ thể giao tiếp. Ngoài ra còn chịu ảnh
hưởng của hoàn cảnh, điều kiện, mối quan hệ của chủ thể và đối tượng giao
tiếp cũng như trạng thái tâm lý của chủ thể.
Nên nội dung giao tiếp thường được các bạn sinh viên quan tâm đó là
tri thức chuyên môn; tri thức chính trị - xã hội, văn hoá, tri thức đời sống;
cách thức thực hiện (như cách ứng xử, cách học). Để thoã mãn những nhu cầu
sinh viên bắt buộc tham gia vào các hoạt động không chỉ là hoạt động học tập
mà còn muốn tham gia các khác như: hoạt động lao động, hoạt động xã hội…
Thông qua các hình thức hoạt động rèn luyện tại trường, tham quan, đi thực
tế, xuống cơ sở thực tập, làm thêm bán thời gian…Những hoạt động này, sinh
viên muốn trực tiếp tiến hành nhằm trao đổi, tiếp thu kinh nghiệm, để nâng
cao kỹ năng làm việc, kỹ năng giao tiếp và được tự mình trải nghiệm cuộc
sống.
23
1.3.2.3. Mức độ của nhu cầu giao tiếp
Theo cách phân loại của tác giả Ngô Công Hoàn nhu cầu giao tiếp gồm
5 mức độ: thấp, trung bình thấp, trung binh, trung bình cao, cao.
+Mức độ thấp: không phải là không có giao tiếp, nhưng chỉ dừng lại ở
những giao tiếp tối thiểu, bắt buộc cần có của cuộc sống.
+ Mức độ trung bình thấp: có sự mở rộng hơn trong quan hệ giao tiếp
nhưng vẫn ở mức độ thấp.
+ Mức độ trung bình : các mối quan hệ đều ở mức vừa phải, không

thực sự thấy hào hứng khi tham gia giao tiếp nhưng vẫn tham gia vì nguyên
nhân khách quan thúc đẩy.
+ Mức độ trung bình cao: đã có sự tích cực và chủ động khi tham gia
giao tiếp nhưng chưa ở mức thường xuyên.
+ Mức độ cao: thấy được những lợi ích của việc giao tiếp mang lại,
nhiệt tình và hăng hái tạo dựng các mối quan hệ giao tiếp, tham gia thường
xuyên các hoạt động do lớp, khoa trường tổ chức và nhiều khi là người khởi
xướng các hoạt động.
Trong phạm vi nghiên cứu của mình, chúng tôi chọn cách phân loại
mức độ nhu cầu trên đây làm khái niệm công cụ để đo mức độ nhu cầu giao
tiếp của sinh viên khoa Sư phạm, Trường đại học Tây Nguyên.
1.3.2.4. Vai trò của nhu cầu giao tiếp
Nhu cầu giao tiếp là một trong những nhu cầu đặc trưng, xuất hiện sớm
nhất ở con người. Cac mác đã chỉ ra rằng “Sự phát triển mỗi cá nhân được
quy định bởi sự phát triển của tất cả các cá nhân khác mà nó giao lưu một
cách trực tiếp”. Có thể nói, ở đâu có sự tồn tại của con người thì ở đó có sự
giao tiếp giữa con người với con người.
Nhu cầu giao tiếp là điều kiện thiết yếu của mọi hoạt động, cùng với
hoạt động giao tiếp đã trở thành một phương thức tồn tại của xã hội loài
24
người. Thông qua giao tiếp chẳng những con người nhận thức được người
khác mà còn nhận thức được chính mình. Nhu cầu giao tiếp còn tạo điều kiện
để hình thành những mối liên hệ muôn màu, muôn vẻ giữa người với người.
Giao tiếp gắn con người với con người. Thông qua giao tiếp quan hệ của con
người được bộc lộ. Giao tiếp là đặc trưng, nòng cốt của hoạt động tập thể của
con người, của nhân cách trong tập thể. Giao tiếp trở thành nhân tố quan trọng
trong việc giáo dục nhân cách. Khi con người có nhu cầu giao tiếp sẽ kích
thích, tác động đến chính cá nhân ấy, hướng con người tiếp xúc với xã hội,
tiếp thu, lĩnh hội những tri thức đời thường, nền văn hoá xã hội, kinh nghiệm
lịch sử xã hội, biến những kinh nghiệm đó thành vốn sống, kinh nghiệm của

bản thân.
Khi không được giao tiếp thì cá nhân dễ mắc các chứng bệnh, trí tuệ
chậm phát triển …đó là biểu hiện của hiện tượng “đói giao tiếp”.
Như vậy, nhu cầu giao tiếp là nhu cầu cơ bản không thể thiếu của con
người. Qua giao tiếp, con người biết được các giá trị xã hội của người khác và
của bản thân. Trên cơ sở đó, cá nhân tự điều khiển, điều chỉnh bản thân theo
các chuẩn mực xã hội, nhân cách cá nhân ngày càng hoàn thiện.
1.3.2.5. Sự hình thành nhu cầu giao tiếp
Về vấn đề này có sự khác nhau trong quan điểm giữa các nhà tâm lý
học phương Tây và các nhà tâm lý học Mác xít.
Quan điểm của các nhà tâm lý học phương Tây cho rằng nhu cầu sinh
vật sẽ quyết định đến nhu cầu xã hội. Nhu cầu sinh vật là cơ bản và có nguồn
gốc bẩm sinh, con người không thể ý thức và can thiệp được bằng ý chí.
A.N.Lêonchiev và các nhà tâm lý học Mác xít khẳng định mối quan hệ
chặt chẽ giữa nhu cầu và hoạt động. “ Nhu cầu là nguồn gốc của tính tích cực
của hoạt động, nhưng bản thân nhu cầu lại được nảy sinh, hình thành và phát
triển trong hoạt động”.
25

×