Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Phương pháp NCKH trong kinh doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.75 KB, 19 trang )

Tiểu luận: Phương pháp NCKH trong kinh doanh.
Giảng viên: TS. Nguyễn Thị Bích Thủy.

MỤC LỤC

1


Tiểu luận: Phương pháp NCKH trong kinh doanh.
Giảng viên: TS. Nguyễn Thị Bích Thủy.

CHƯƠNG I : MỞ ĐẦU

1.1 Lý do chọn đề tài
Nghiên cứu khoa học (NCKH) là một hoạt động then chốt hàng đầu
trong các ngành khoa học. Kết quả từ NCKH là những phát hiện mới về
kiến thức, về bản chất sự vật, phát triển nhận thức khoa học về thế giới,
sáng tạo phương pháp và phương tiện kỹ thuật mới có giá trị cao. Cùng với
nghiên cứu khoa học hiện đại, mọi người đang chú ý đến phương pháp
nhận thức khoa học, coi đó là nhân tố quan trọng để phát triển khoa học.
Trong phạm vi bài tiểu luận này, em xin trình bày một số vấn đề về
phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh.
1.2 Mục đích của tiểu luận
Trên cơ sở khoa học và phương pháp luận khoa học, tiểu luận trình
bày một cách có hệ thống các phương pháp nghiên cứu khoa học trong
kinh doanh, giúp người đọc hiểu được những nội dung cơ bản của từng
phương pháp.
1.3 Phạm vi nghiên cứu của tiểu luận
Phạm vi nghiên cứu chính của tiểu luận: trình bày các phương pháp
nghiên cứu khoa học trong kinh doanh.
1.4 Những đóng góp của tiểu luận


Từ cơ sở lý thuyết về các phương pháp nghiên cứu khoa học, tiểu
luận trình bày khái quát về nghiên cứu khoa học và hệ thống về nội dung
các phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh. Qua đó, đưa ra
hạn chế và ưu điểm của từng phương pháp và rút ra giá trị bài học thực
tiễn.
1.5 Kết cấu của tiểu luận
Kết cấu của tiểu luận bao gồm 4 chương :
Chương 1 Mở đầu : Nêu lý do, mục đích, những đóng góp của tiểu
luận;
Chương 2: Khái luận về nghiên cứu và Phương pháp nghiên cứu
khoa học;
Chương 3 : Trình bày phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh
doanh;
Chương 4 : Kết luận.

2


Tiểu luận: Phương pháp NCKH trong kinh doanh.
Giảng viên: TS. Nguyễn Thị Bích Thủy.

CHƯƠNG II: KHÁI NIỆM VỀ ĐỀ TẦI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

2.1 Đề tài nghiên cứu khoa học
2.1.1 Khái niệm đề tài nghiên cứu khoa học
Nghiên cứu khoa học là một hoạt động tìm kiếm, xem xét, điều tra
hoặc thử nghiệm. Dựa trên những số liệu, tài liệu, kiến thức đạt được từ
các thí nghiệm nghiên cứu khoa học để phát hiện ra những cái mới về bản
chất sự vật, về thế giới tự nhiên và xã hội và để sáng tạo phương pháp và
phương tiện kỹ thuật mới cao hơn, giá trị hơn. Nghiên cứu khoa học là hoạt

động trí tuệ bằng những phương pháp nhất định để tìm kiếm, vạch ra một
cách chính xác những gì con người chưa biết hoặc biết chưa đầy đủ nhằm
tạo ra sản phẩm mới dước dạng tri thức mới.
Đề tài nghiên cứu khoa học là một hình thức nghiên cứu khoa học do
một người hoặc một nhóm người thực hiện. Đề tài nghiên cứu khoa học
được thực hiện để trả lời những câu hỏi mang tính học thuật, lý luận nền
tảng, có thể chưa để ý đến việc ứng dụng trong hoạt động thực tế. Như vậy,
nghiên cứu khoa học là hoạt động trí tuệ mang tính sáng tạo.
2.1.2 Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: là bản chất của sự vật hay hiện tượng cần xem
xét và làm rõ trong nhiệm vụ nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu: đối tượng nghiên cứu được khảo sát trong phạm
vi nhất định về mặt thời gian, không gian và lãnh vực nghiên cứu.
2.1.3 Mục đích và mục tiêu nghiên cứu
Khi viết đề cương nghiên cứu, một điều rất quan trọng là làm sao thể
hiện được mục tiêu và mục đích nghiên cứu mà không có sự trùng lấp lẫn
nhau. Vì vậy, cần thiết để phân biệt sự khác nhau giữa mục đích và mục
tiêu.
Mục đích: là hướng đến một điều gì hay một công việc nào đó trong
nghiên cứu mong muốn để hoàn thành, nhưng thường thì mục đích khó có
thể đo lường hoặc định lượng. Nói cách khác, mục đích là sự sắp đặt công
việc hay điều gì đó được đưa ra trong nghiên cứu. Mục đích trả lời câu hỏi
“nhằm vào việc gì”, hoặc “để phục vụ cho điều gì” và mang ý nghĩa thực
tiễn của việc nghiên cứu, nhằm đến đối tượng phục vụ sản xuất, nghiên
cứu.
Mục tiêu: là thực hiện điều gì hoặc hoạt động nào đó cụ thể, rõ ràng
mà người nghiên cứu sẽ hoàn thành theo kế hoạch đã đặt ra trong nghiên
cứu. Mục tiêu có thể đo lường hay định lượng được. Nói cách khác, mục
tiêu là nền tảng hoạt động của đề tài và làm cơ sở cho việc đánh giá kế
3



Tiểu luận: Phương pháp NCKH trong kinh doanh.
Giảng viên: TS. Nguyễn Thị Bích Thủy.

hoạch nghiên cứu đã đưa ra, và là điều mà kết quả phải đạt được. Mục tiêu
trả lời câu hỏi “làm cái gì ?”.
2.1.4 Lựa chọn vấn đề nghiên cứu
Việc lựa chọn vấn đề nghiên cứu là một việc làm hết sức công phu,
đòi hỏi người nghiên cứu phải sử dụng tối đa sự hiểu biết và kim nghiệm
để tìm ra được một lĩnh vực nghiên cứu trong đó tài năng và kiến thức của
mình có thể được đem ra đóng góp với hiệu quả nhiều nhất. Sau khi đã lựa
chọn được vấn đề tổng quát hay lĩnh vực tổng quát để nghiên cứu, phải
phân tích kỹ vấn đề bằng cách tìm ra các biến số và các mối tương quan
giữa chúng với nhau. Lĩnh vực hay một vấn đề nghiên cứu đã được học hỏi
hoặc có nhiều kinh nghiệm nhất. Như vậy sẽ giúp cho người nghiên cứu
biết những vấn đề nào là quan trọng, vấn đề nào là then chốt trong một lĩnh
vực, đồng thời là dễ dàng hơn công việc tham khảo các tài liệu lien hệ. Sau
khi đã quyết định về lĩnh vực nghiên cứu tổng quát, người nghiên cứu sẵn
sàng vạch ra cho mình một chương trình tham khảo tài liệu liên quan đến
lĩnh vực ấy, để có thể từ đó tìm ra một vấn đề chuyên biệt làm căn bản cho
việc nghiên cứu của mình.
2.2 Thu thập tài liệu và giả thuyết nghiên cứu khoa học
2.2.1 Thu thập tài liệu
2.2.1.1 Mục đích thu thập tài liệu
Thu thập và nghiên cứu tài liệu là một công việc quan trọng cần thiết
cho bất kỳ hoạt động nghiên cứu khoa học nào. Các nhà nghiên cứu khoa
học luôn đọc và tra cứu tài liệu có trước để làm nền tảng cho nghiên cứu
khoa học. Đây là nguồn kiến thức quý giá được tích lũy qua quá trình
nghiên cứu mang tính lịch sử lâu dài. Giúp người nghiên cứu nắm được

phương pháp của các nghiên cứu trước đây, đồng thời là rõ hơn đề tài
nghiên cứu của mình hàm lượng kiến thức rộng, sâu về lĩnh vực đang
nghiên cứu. Tránh trùng lặp với các nghiên cứu trước đây, vì vậy đỡ mất
thời gian, công sức và tài chính. Giúp người nghiên cứu xây dựng luận cứ
để chứng minh giả thuyết nghiên cứu khoa học.
2.2.1.2 Phân loại tài liệu nghiên cứu
Phân loại tài liệu để giúp cho người nghiên cứu chọn lọc, đánh giá và
sử dụng tài liệu đúng với lĩnh vực chuyên môn hay đối tượng muốn nghiên
cứu. Có thể chia ra loại tài liệu sơ cấp và tài liệu thứ cấp.
Tài liệu sơ cấp: là tài liệu mà người nghiên cứu tự thu thập, phỏng
vấn trực tiếp, hoặc nguồn tài liệu cơ bản, còn ít hoặc chưa được chú giải.
Một số vấn đề nghiên cứu có rất ít tài liệu, vì vậy cần phải điều tra để tìm
4


Tiểu luận: Phương pháp NCKH trong kinh doanh.
Giảng viên: TS. Nguyễn Thị Bích Thủy.

và khám phá ra các nguồn tài liệu chưa được biết. Người nghiên cứu cần
phải tổ chức, thiết lập phương pháp để ghi chép, thu thập số liệu.
Tài liệu thứ cấp: là các tài liệu như luận cứ khoa học, định lý, định
luật, quy luật, khái niệm; các số liệu, tài liệu đã công bố được tham khảo từ
các bài báo trong tạp chí khoa học, tập san, báo cáo chuyên đề khoa học; số
liệu niên giám thống kê, tài liệu lưu trữ, văn kiện, hồ sơ, văn bản về luật,
chính sách; thu thập thông tin trên truyền hình, truyền thanh, báo chí,…
mang tính đại chúng cũng được thu thập, và được xử lý để làm luận cứ
khoa học chứng minh cho vấn đề khoa học.
2.2.2 Giả thuyết nghiên cứu khoa học
2.2.2.1 Định nghĩa
Giả thuyết là câu trả lời ướm thử hoặc là sự tiên đoán để trả lời cho

câu hỏi hay “vấn đề” nghiên cứu. Chú ý: giả thuyết không phải là sự quan
sát, mô tả hiện tượng sự vật, mà phải được kiểm chứng bằng các cơ sở lý
luận hoặc thực nghiệm.
2.2.2.2 Các đặc tính
Giả thuyết có những đặc tính tuân theo nghiên lý chung và không đổi
trong suốt quá trình nghiên cứu, phù hợp với điều kiện thực tế và cơ sở lý
thuyết, đồng thời giả thuyết có thể được kiểm nghiệm và tính khả thi cao.
Một giả thuyết tốt phải thỏa mãn các yêu cầu về tài liệu tham khảo, khả
năng thu thập thông tin, cúng như khả năng thực nghiệm để thu thập số
liệu…
2.2.2.3 Mối quan hệ giữa giả thuyết và vấn đề khoa học
Sau khi xác định câu hỏi hay “vấn đề” nghiển cứu khoa học, người
nghiên cứu hình thành ý tưởng khoa học, tìm ra câu trả lời hoặc sự giải
thích tới vấn đề chưa biết (đặt giả thuyết). Ý tưởng khoa học này còn gọi là
sự tiên đoán khoa học hay giả thuyết giúp cho người nghiên cứu có động
cơ, hướng đi đúng hay tiếp cận tới mục tiêu cần nghiên cứu.
2.3 Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh
2.3.1 Khái niệm
Phương pháp nghiên cứu khoa học chính là việc con người sử dụng
một cách có ý thức các quy luật vận động của đối tượng, như một phương
tiện để khám phá chính đối tượng đó, đây là con đường dẫn nhà khoa học
đạt tới mục đích sang tạo. Phương pháp nghiên cứu khoa học là cách thức
nhận thức các hoạt động của thế giới tự nhiên, xã hội, kinh tế… bao gồm
những quan điểm tiếp cận, những quy trình, các thao tác cụ thể tác động
vào đối tượng kinh doanh để làm bộc lộ bản chất của đối tượng kinh doanh
đó.
5


Tiểu luận: Phương pháp NCKH trong kinh doanh.

Giảng viên: TS. Nguyễn Thị Bích Thủy.

2.3.2 Một số đặc điểm của phương pháp nghiên cứu khoa học
Phương pháp bao giờ cũng là cách làm việc của chủ thể, nhằm vào
các đối tượng cụ thể, ở đây có hai chú ý là: chủ thể và đối tượng.
Phương pháp là cách làm việc của chủ thể, cho nên nó gắn chặt với
chủ thể và như vậy phương pháp có mặt chủ quan. Mặt chủ quan của
phương pháp chính là năng lực nhận thức, kinh nghiệm hoạt động sáng tạo
của chủ thể, thể hiện trong việc ý thức được các quy luật vận động của đối
tượng và sử dụng chúng để khám phá đối tượng.
Phương pháp là cách làm việc của chủ thể và bao giờ cũng xuất phát
từ đặc điểm của đối tượng, phương pháp gắn chặt với đối tượng, và như
vậy phương pháp có mặt khách quan. Mặt khách quan quy định việc chọn
cách này hay cách kia trong hoạt động của chủ thể. Đặc điểm của đối
tượng chỉ dẫn cách chọn phương pháp làm việc, trong nghiên cứu khoa học
cái chủ quan phải tuân thủ cái khách quan. Các quy luật khách quan tự
chúng chưa phải là phương pháp, nhưng nhờ có chúng mà ta phát hiện ra
phương pháp. Ý thức về sự sáng tạo của con người phải tiếp cận được các
quy luật khách quan của thế giới.
Phương pháp có tính mục đích, vì hoạt động của con người đều có
mục đích, mục đích nghiên cứu các đề tài nghiên cứu khoa học chỉ đạo
việc tìm tòi và lựa chọn phương pháp nghiên cứu và ngược lại nếu lựa
chọn phương pháp chính xác, phù hợp sẽ làm cho mục đích nghiên cứu đạt
tới nhanh hơn, và đôi khi vượt qua cả yêu cầu mà mục đích ban đầu đặt ra.
Phương pháp nghiên cứu gắn chặt với nội dung các vấn đề nghiên
cứu. Phương pháp là hình thức vận động của nội dung. Nội dung công việc
quy định phương pháp làm việc. Trong mỗi đề tài khoa học đều có phương
pháp cụ thể, trong mỗi ngành khoa học có một hệ thống phương pháp đặc
trưng.
Phương pháp nghiên cứu khoa học có một cấu trúc đặc biệt, đó là

một hệ thống các thao tác được sắp xếp theo một chương trình tối ưu. Sự
thành công nhanh hay chậm của một hoạt động nghiên cứu khoa học, chính
là phát hiện được hay không logic tối ưu của các thao tác hoạt động và sử
dụng nó một cách có ý thức. Phương pháp nghiên cứu khoa học luôn cần
có các công cụ hỗ trợ, cần có các phương tiện kỹ thuật hiện đại với độ
chính xác cao. Phương tiện và phương pháp là hai phạm trù khác nhau,
nhưng chúng lại gắn bó chặt chẽ với nhau, căn cứ vào đối tượng nghiên
cứu mà ta chọn phương pháp nghiên cứu, theo yêu cầu của phương pháp
nghiên cứu mà chọn các phương tiện phù hợp, nhiều khi còn cần phải tạo
ra các công cụ đặ biệt để nghiên cứu một đối tượng nào đó. Chính các
6


Tiểu luận: Phương pháp NCKH trong kinh doanh.
Giảng viên: TS. Nguyễn Thị Bích Thủy.

phương tiện kỹ thuật hiện đại đảm bảo cho quá trình nghiên cứu đạt độ
chính xác cao.
Tóm lại, nghiên cứu khoa học có những đặc điểm: Tính mới; tính tin
cậy; tính thông tin; tính khách quan – trung thực; tính kế thừa; tính phi
kinh tế; tính mạo hiểm trong nghiên cứu khoa học; tính chuyên sâu của đội
ngũ những người nghiên cứu.
2.3.3 Phương pháp luận nghiên cứu khoa học
Trong nghiên cứu khoa học, phương pháp và phương pháp luận là
hai khái niệm gần nhau nhưng không đồng nhất. Phương pháp luận là hệ
thống các nguyên lý, quan điểm là cơ sở, có tác dụng chỉ đạo, xây dựng các
phương pháp, xác định phạm vi, khả năng áp dụng các phương pháp và
định hướng cho việc nghiên cứu tìm tòi cũng như việc lựa chọn, vận dụng
phương pháp. Nói cách khác thì phương pháp luận chính là lý luận về
phương pháp bao hàm hệ thống các phương pháp, thế giới quan và nhân

sinh quan của người sử dụng phương pháp và các nguyên tắc để giải quyết
các vấn đề đặt ra.
Các quan điểm phương pháp luận nghiên cứu khoa học có tính lý
luận, cho nên thường mang tính triết học, tuy nhiên nó không đồng nhất
với triết học (như thế giới quan) để tiếp cận và nhận thức thế giới.
Phương pháp luận được chia thành phương pháp bộ môn – lý luận về
phương pháp được sử dụng trong một bộ môn khoa học và phương pháp
luận chung cho các khoa học. Phương pháp luận chung nhất, phổ biến cho
hoạt động nghiên cứu khoa học là triết học. Triết học Mác – Lênin là
phương pháp luận đáp ứng những đòi hỏi của nhận thức khoa học hiện đại,
cũng như hoạt động cải tại và xây dựng thế giới mới.
Những phương pháp nghiên cứu khoa học riêng gắn liền với từng bộ
môn khoa học (toán học, vật lý học, sinh vật học, kinh tế học…). Do vậy,
những phương pháp riêng này sẽ được làm sang tỏ khi nghiên cứu những
môn học tương ứng.
2.4 Phân loại phương pháp nghiên cứu
Có nhiều quan điểm tiếp cận phân loại, tuy nhiên căn cứ vào cách
tiếp cận đối tượng nghiên cứu, sự khác nhau của những lao động cụ thể
trong nghiên cứu khoa học, người ta chia thành phương pháp nghiên cứu
thực nghiệm và phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
2.4.1 Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm
Bao gồm các phương pháp quan sát, thí nghiệm, thực nghiệm. Quan
sát là phương pháp nghiên cứu để xác định các thuộc tính và quan hệ của
sự vật, hiện tượng riêng lẻ xét trong điều kiện tự nhiên vốn có của nó nhờ
7


Tiểu luận: Phương pháp NCKH trong kinh doanh.
Giảng viên: TS. Nguyễn Thị Bích Thủy.


khả năng cảm thụ của các giác quan, khả năng phân tích tổng hợp, khái
quát hóa.
Thực nghiệm, thí nghiệm là việc người nghiên cứu khoa học sử dụng
các phương tiện vật chất tác động lên đối tượng nghiên cứu nhằm kiểm
chứng các giả thuyết, lý thuyết khoa học, chính xác hóa, bổ sung chỉnh lý
các phỏng đoán giả thiết ban đầu tức là để xây dựng các giả thuyết, lý
thuyết khoa học mới.
Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm được áp dụng khá phổ biến
trong các ngành khoa học tự nhiên, là những ngành khoa học có khả năng
định lượng chính xác. Trong những lĩnh vực này, còn cho phép tạo ra
những môi trường nhân tạo, khác với môi trường bình thường để nghiên
cứu sự vận động của đối tượng.
2.4.2 Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết bao gồm các phương pháp khái
quát, trừu tượng hóa, diễn dịch, quy nạp, phân tích, tổng hợp, hệ thống
hóa… được dùng cho tất cả các ngành khoa học. Khác với nghiên cứu thực
nghiệm phải sử dụng các yếu tố, điều kiện vật chất tác động vào đối tượng
nghiên cứu, trong nmghieen cứu lý thuyết qua trình tìm kiếm phát hiện
diễn ra thông qua tư duy trừu tượng, sử dụng các phương tiện ngôn ngữ,
chữ viết…
Điểm xuất phát của nghiên cứu thực nghiệm là quan sát thực tiễn,
quan sat sự vận động của đối tượng nghiên cứu. Trong lý thuyết nghiên
cứu, nền tảng và điểm xuất phát của quá trình nghiên cứu là tri thức lý
luận. Do vậy việc nắm vững hệ thống lý luận nền tảng đóng vai trò quyết
định trong loại phương pháp này.
Phương pháp lý thuyết do đặc tính của quá trình sang tạo khoa học
diễn ra thông qua tư duy trừu tượng, suy luận, khái quát hóa, lại chưa được
được trực tiếp kiểm chứng, mà qua thời gian, đúng sai mới sang tỏ. Điều đó
dễ dẫn người làm khoa học phạm vào sai lầm chủ quan duy ý chí, tự biện.
2.5 Phương pháp lịch sử và phương pháp logic

2.5.1 Phương pháp lịch sử
Các đối tượng nghiên cứu (sự vật, hiện tượng) đều luôn biến đổi,
phát triển theo những hoàn cảnh cụ thể của nó, tạo thành lịch sử liên tục
8


Tiểu luận: Phương pháp NCKH trong kinh doanh.
Giảng viên: TS. Nguyễn Thị Bích Thủy.

được biểu hiện ra trong sự đa dạng, phức tạp, có cả tính tất nhiên và ngẫu
nhiên. Phương pháp lịch sử là phương pháp thông qua miêu tả tái hiện thực
với sự hỗn độn, bề ngoài của các sự kiện kế tiếp nhau, để nêu bật lên tính
quy luật của sự phát triển, bằng cách đi tìm nguồn gốc phát sinh, quá trình
phát triển và biến hóa của đối tượng, để phát hiện ra bản chất và quy luật
của đối tượng. Quy trình phát triển lịch sử biểu hiện toàn bộ tính cụ thể của
nó, với mọi sự thay đổi, tất yếu trong điều kiện khác nhau và theo thời gian
nhất định.
2.5.2 Phương pháp lôgic
Phương pháp lôgic nghiên cứu quá trình phát triển của lịch sử,
nghiên cứu các hiện tượng lịch sử trong hình thức tổng quát, nhằm mục
đích vạch ra bản chất quy luật, bản chất, cái phổ biến, khuynh hướng vận
động của các hiện tượng, Anghen đã nói: lôgic không phải là sự phản ánh
lịch sử một cách đơn thuần, mà là phản ánh đã uốn nắn theo quy luật mà
bản thân quá trình lịch sử đem lại.
Phương pháp lôgic giúp chúng ta nhìn nhận ra bản chất, cái phổ
biến, cái mới nảy sinh và phát triển như thế nào về bản chất so với cái cũ,
mặc dù là hình thức thì chưa thay đổi, nhưng chất mới đã nảy sinh. Giúp
chúng ta tác động tích cực vào hiện thực, nhằm tái sản sinh ra lịch sử ở một
trình độ cao hơn, nghĩa là chủ động cải tạo, cải biến lịch sử, nhờ đó nắm
được những quy luật khách quan đó.

2.5.3 Tính thống nhất giữa phương pháp lịch sử và phương pháp
lôgic
Trên thực tế công tác nghiên cứu theo phương pháp biện chứng
lôgic, không bao giờ có phương pháp lịch sử hay phương pháp lôgic thuần
túy tách rời nhau, mà là trong cái này có cái kia, hai cái thâm nhập vào
nhau, ảnh hưởng lẫn nhau. Giới hạn giữa chúng chỉ là tương đối. Cụ thể,
phương pháp lịch sử tuy phải theo sát tiến trình phát triển của lịch sử của
9


Tiểu luận: Phương pháp NCKH trong kinh doanh.
Giảng viên: TS. Nguyễn Thị Bích Thủy.

sự vật hiện tượng, diễn lại những bước quanh co, ngẫu nhiên, thụt lùi tạm
thời của quá trình phát triển hiện thực, nhưng không phải là miêu tả lịch sử
đó một cách kinh nghiệm chủ nghĩa, mà là mô tả theo một sợi dây logic
nhất định của sự phát triển lịch sử; không phải miêu tả lịch sử một cách mù
quáng, mà là phát triển một cách có quy luật.
Phương pháp lôgic tuy không nói đến những chi tiết lịch sử, những
bước quanh co ngẫu nhiên của lịch sử đối tượng, nhưng không phải vì thế
mà nó bỏ qua việc nghiên cứu lịch sử cụ thể của đối tượng. Phương pháp
logic là sự phản ánh cái chủ yếu được rút ra từ trọng lịch sử sự vật, và làm
cho cái chủ yếu ấy thể hiện được bản chất của quá trình lịch sử.
Tóm lại, phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic có tính thống
nhất và cũng có mục đích thống nhất là cùng nhằm phơi bày rõ chân lý
khách quan của sự phát triển lịch sử, nên trong công tác nghiên cứu, tổng
kết khoa học, chúng ta không chỉ vận dụng một phương pháp riêng rẽ nào,
vì thực ra chúng chỉ là hai mặt biểu hiện khác nhau của phương pháp biện
cứng macxit mà thôi. Tuy nhiên, trong công tác nghiên cứu chúng ta vẫn
cần chú ý đến tính độc lập tương đối của hai phương pháp này.


10


Tiểu luận: Phương pháp NCKH trong kinh doanh.
Giảng viên: TS. Nguyễn Thị Bích Thủy.

CHƯƠNG III: MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TRONG KINH DOANH
3.1. Phương pháp Quan sát
3.1.1 Phương pháp quan sát :
Quan sát/thăm hiện trường là một phương pháp định tính quan trọng trong
quá trình tự đánh giá trong nghiên cứu khoa học. Đó là qui trình tri giác (mắt
thấy, tai nghe) và ghi chép lại mọi yếu tố liên quan đến đối tượng nghiên cứu,
phù hợp với mục tiêu nghiên cứu…nhằm mô tả, phân tích, nhận định, đánh giá.
Quan sát cung cấp thông tin định tính để bổ sung cho các thông tin định lượng
trong điều tra thu thập minh chứng để đánh giá các tiêu chí.
Về phân loại quan sát, ta có hai loại quan sát trực tiếp và quan sát gián
tiếp. Quan sát trực tiếp là quan sát và ghi chép hành vi của con người ngay tại
bối cảnh và thời gian thực tế diễn ra. Quan sát gián tiếp là không quan sát trực
tiếp hành vi mà đi thu thập các dấu vết của hành vi còn sót lại.
3.1.2 Một vài giá trị thực tiễn của phương pháp quan sát :
Với phương pháp Quan sát : Nhờ có các giác quan như : thị giác, thính giác, xúc
giác, khướu giác và vị giác, mà chúng ta cảm nhận và phát hiện các vấn đề đang
nảy sinh khách quan trong kinh doanh cần nghiên cứu để giải quyết. Bản chất
quan sát là trực quan sinh động thế giới khách quan để nhận biết chính xác về
chúng.
Chúng ta có thể sử dụng phương pháp quan sát như khảo sát (quan sát)
sức mua của người tiêu dùng trên thị trường hàng hóa tiêu dùng…qua đó, sẽ
nhận xét được sức mua tăng hay giảm, từ đó, gợi mở các chính sách có liên

quan,… Qua quan sát các biểu hiện của khách hàng khi sử dụng sản phẩm, dịch
vụ của một công ty, chúng ta biết mức độ hài lòng của họ. Hay quan sát thái độ
của khách hàng khi đến giao dịch tại một chi nhánh ngân hàng biết mức độ hài
lòng của họ về sản phẩm, dịch vụ và kỹ năng giao tiếp của nhân viên.
3.2 Phương pháp phán đoán
3.2.1 Phương pháp phán đoán
Phán đoán là vận dụng các khái niệm để phân biệt, so sánh những đặc
tính, bản chất sự vật và tìm mối liên hệ giữa đặc tính chung và đặc tính riêng của
các sự vật đó. Phán đoán là một hình thức của tư duy, trong đó, các khái niệm
được liên kết để khẳng định hay phủ định về thuộc tính hoặc quan hệ nào đó của
bản thân sự vật, hiện tượng.
Phán đoán có thể là phán đoán khẳng định hay phán đoán phủ định một
mệnh đề, giả thuyết nào đó. Phán đoán có thể được hình thành từ những phán
đoán đơn lẻ và các liên từ logic để tạo thành phán đoán phức.

11


Tiểu luận: Phương pháp NCKH trong kinh doanh.
Giảng viên: TS. Nguyễn Thị Bích Thủy.

3.2.2 Một vài giá trị thực tiễn của phương pháp phán đoán
Trong nghiên cứu, người ta thường vận dụng các khái niệm để phán đoán
hay tiên đoán. Những tiên đoán, phán đoán làm nảy sinh những giả thuyết mới
cho nghiên cứu; tuy nhiên, quá trình phán đoán có thể đúng, có thể sai, vì nó lệ
thuộc nhiều yếu tố ảnh hưởng như môi trương bên ngoài, môi trường bên
trong…
3.3 Phương pháp khái niệm
3.3.1 Phương pháp khái niệm
Khái niệm “Khái niệm” là quá trình nhận thức hay tư duy của con người

bắt đầu từ những tri giác hay bằng những quan sát sự vật hiện thực tác động vào
giác quan. Như vậy, “Khái niệm” có thể hiểu là hình thức tư duy của con người
về những thuộc tính, bản chất của sự vật và mối liên hệ của những đặc tính đó
với nhau. Người nghiên cứu khoa học hình thành các “Khái niệm” để tìm hiểu
mối quan hệ giữa các khái niệm với nhau, để phân biệt sự vật này với sự vật
khác và để đo lường thuộc tính bản chất của sự vật hay hình thành khái niệm
nhằm mục đích xây dựng cơ sở lý luận.
Khái niệm là thao tác logic dung để tách một khái niệm cần định nghĩa ra
khỏi những khái niệm tiếp cận với nó và chỉ rõ những thuộc tính bản chất thực
nội hàm của nó. Khái niệm là một hình thức cơ bản của tư duy, phản ánh những
thuộc tính bản chất của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.
Đặc điểm cơ bản của khái niệm:
- Khái niệm là sự phản ánh tương đối toàn diện về đối tượng
- Khái niệm là sự phản ánh tương đối chính xác về đối tượng
- Khái niệm là sự phản ánh tương đối có hệ thống về đối tượng
- Khái niệm là sự phản ánh đối tượng trong hiện thực, nhưng nó góp
phần chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người trong quan hệ đối
tượng.
Là một bộ phận cấu thành của tư duy, khái niệm không thể định hình, tồn
tại và thể hiện nếu thiếu các phương tiện ngôn ngữ. Từ, cụm từ là những phương
tiện ngôn ngữ được con người sử dụng để định hình và thể hiện khái niệm. Kết
cấu logic của khái niệm. Về mặt cấu tạo, mỗi khái niệm đều do hai bộ phận cấu
thành là nội hàm và ngoại diện.
Nội hàm của khái niệm là toàn bộ những thuộc tính bản chất của sự vật,
hiện tượng được phản ánh trong khái niệm. Ngoại diện của khái niệm là tập hợp
những sự vật hiện tượng có chứa những thuộc tính bản chất được phản ánh trong
khái niệm.
3.3.2 Một vài giá trị thực tiễn của phương pháp khái niệm
Người nghiên cứu khoa học cần thiết phải hình thành các “khái niệm” để
tìm hiểu mối quan hệ giữa các khái niệm cụ thể với nhau, để phân biệt sự vật

12


Tiểu luận: Phương pháp NCKH trong kinh doanh.
Giảng viên: TS. Nguyễn Thị Bích Thủy.

này với sự vật khác và để đo lường thuộc tính bản chất của sự vật này hay hình
thành khái niệm nhằm mục đích xây dựng cơ sở lý luận.
3.4 Phương pháp suy luận (diễn dịch, quy nạp)
3.4.1 Phương pháp quy nạp
Phương pháp quy nạp là phương pháp đi từ những hiện tượng riêng lẻ, rời
rạc, độc lập ngẫu nhiên rồi liên kết các hiện tượng ấy với nhau để tìm ra bản chất
của một đối tượng nào đó.
Từ những kinh nghiệm, hiểu biết các sự vật riêng lẻ người ta tổng kết quy
nạp thành những nguyên lý chung. Cơ sở khách quan của phương pháp quy nạp
là sự lặp lại của một số hiện tượng này hay hiện tượng khác do chỗ cái chung
tồn tại, biểu hiện thông qua cái riêng. Nếu như phương pháp phân tích, tổng hợp
đi tìm mối quan hệ giữa hình thức và nội dung thì phương pháp quy nạp đi sâu
vào mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng.
3.4.2 Phương pháp diễn dịch
Phương pháp diễn dịch ngược lại với phương pháp quy nạp. Suy luận diễn
dịch là lối suy luận đi từ nguyên lý chung, phổ biến đến từng trường hợp riêng lẻ
cá biệt (lối tư duy đi từ nguyên lý). Hay nói cách khác, là phương pháp đi từ cái
bản chất, nguyên tắc, nguyên lý đã được thừa nhận để tìm ra các hiện tượng, các
biểu hiện, cái trùng hợp cụ thể trong sự vận động của đối tượng.
Suy luận diễn dịch trực tiếp: Suy luận diễn dịch trực tiếp là kiểu suy luận
trong đó kết luận được rút ra trực tiếp từ một tiền đề.
Suy luận diễn dịch gián tiếp: Suy luận diễn dịch gián tiếp là suy luận diễn
dịch trong đó kết luận là phán đoán mới được rút ra trên cơ sở mối liên hệ logic
giữa hai hay nhiều phán đoán tiền đề.

Trên cơ sở các tài liệu được tích lũy, người ta đưa ra một giả thuyết biểu
thị với tư cách là tiền đề của lý thuyết mới, sau đó từ tiền đề rút ra tất cả các
khẳng định còn lại của lý thuyết nhờ diễn dịch logic.
3.4.3 Quan hệ giữa phương pháp diễn dịch và phương pháp quy nạp
3.4.4 Một vài giá trị thực tiễn phương pháp suy luận
Phương pháp diễn dịch :
Phương pháp diễn dịch có ý nghĩa rất quan trọng trong những bộ môn
khoa học thiên về nghiên cứu lý thuyết, ở đây người ta đưa ra những tiền đề, giả
thuyết, và bằng những suy diễn lôgic để rút ra những kết luận, định lý, công
thức.
Có thể áp dụng phương pháp diễn dịch vào nghiên cứu khoa học theo
trình tự qua 4 bước như sau:
1. Phát triển lý thuyết
2. Đưa ra giả thuyết
13


Tiểu luận: Phương pháp NCKH trong kinh doanh.
Giảng viên: TS. Nguyễn Thị Bích Thủy.

3. Thu thập và phân tích dữ liệu
4. Xác nhân, bác bỏ giả thuyết
Trên cơ sở các sự kiện mới được tích lũy, người ta đưa ra những giả
thuyết để giải thích, sau đó nhờ phương pháp diễn dịch rút ra giải thuyết các hệ
quả và so sánh các hệ quả này với nhau, với thực tiễn để kiểm tra tính chân lý
của giải thuyết.
Phương pháp quy nạp có thể được thực hiện thông qua 3 bước ;
1. Quan sát thế giới thực.
2. Tìm kiếm một mẫu hình để quan sát
3. Tổng quát hóa về những vấn đề đang xảy ra

Để tìm hiểu, nhận định, đánh giá tổng quát đối tượng hoạt động kinh tế
chẳng hạn (quan sát thế giới thực), người nghiên cứu đi tìm hiểu nhiều yếu tố
kinh tế riêng lẻ, từng thành phần cụ thể mang những thuộc tính nào đó mà người
nghiên cứu có thể tìm hiểu, đánh giá, nhận định được (tìm kiếm một mẫu hình
quan sát), sau đó tìm thấy mối liên hệ chung của chúng, một kết luận chung có
thể thâu tóm được những cái riêng lẻ sẽ được đề xuất bởi người nghiên cứu.
Với Phương pháp Quy nạp và Diễn dịch là hai phương pháp nghiên cứu
theo chiều ngược nhau song liên hệ chặt chẽ và bổ sung cho nhau trong mối
quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Nhờ có những kết quả nghiên cứu theo
phương pháp quy nạp trước đó mà việc nghiên cứu có thể tiếp tục, phát triển
theo phương pháp diễn giải. Phương pháp diễn giải, do vậy mở rộng giá trị của
những kết luận quy nạp vào việc nghiên cứu đối tượng.
3.5. Phương pháp hệ thống
3.5.1 Phương pháp Hệ thống
Hệ thống là tập hợp tất cả các bộ phận có quan hệ với nhau tạo ra cái mới.
Hệ thống có chiều : chiều cơ cấu, chiều cội nguồn và chiều khu vực.
Chiều cơ cấu là một sự cấu thành nào đó của đối tượng đang phát triển, là
phương thức nhất định về cách sắp xếp và tác động qua lại của các thành phần
của đối tượng đó. Bản thân các thành phần cũng là một cơ cấu phức tạp, trong
đó có một phân hệ là cơ bản, quyết định.
Chiều cội nguồn : là thể hiện những biến đổi về lượng và chất của hệ
thống trong thời gian. Những biến đổi liên tục về chất tạo thành khái niệm giai
đoạn, tức tạo ra phân hệ cội nguồn. Mỗi giai đoạn phân hệ của hệ thống về thực
chất là một hệ thống tương đối độc lập.
Chiều khu vực : chỉ sự sắp xếp trong không gian của hệ thống và sự khác
nhau giữa các khu vực riêng biệt của hệ thống. Nó tạo ra phân hệ về mặt không
gian.
Ba chiều trên của hệ thống vừa có sự thống nhất, vừa có sự khác biệt,
chúng phải dựa vào nhau để tồn tại, đồng thời mỗi chiều lại có tính độc lập
14



Tiểu luận: Phương pháp NCKH trong kinh doanh.
Giảng viên: TS. Nguyễn Thị Bích Thủy.

tương đối. Cấu trúc là cách sắp xếp theo một trật tự nhất định của các bộ phận
trong một hệ thống, quyết định sự ra đời của hệ thống và tạo cho hệ thống một ý
nghĩa mới nào đó.
Cấu trúc là mặt tương đối ổn định của hệ thống, là linh hồn của hệ thống.
Không thể nói đến hệ thống mà không có cấu trúc và ngược lại, cấu trúc bao giờ
cũng là cấu trúc của một hệ thống.
3.5.2 Một vài giá trị thực tiễn của phương pháp hệ thống
Người nghiên cứu khoa học khi tiến hành nghiên cứu một vấn đề cụ thể
nào đó cần am hiểm rỏ phương pháp hệ thống. Qua đó, đưa vấn đề nghiên cứu
đi từ tổng quát đến vấn đề cụ thể nào đó và luôn đặt nó trong bối cảnh không
gian cụ thể (chiều khu vực), cần phân tích, đánh giá một cách chính xác khoa
học các yếu tố thành phần của vấn đề nghiên cứu (chiều hệ thống), ứng với mỗi
giai đoạn định rõ bởi cơ cấu riêng và bởi giai đoạn chất lượng (chiều cội nguồn),
và có thể phân chia sự phát triển của một sự vật thành từng gia đoạn, thời kỳ hay
thời đại cụ thể nào đó chẳng hạn.
3.6. Phương pháp nghiên cứu Định tính và nghiên cứu Định lượng
3.6.1 Phương pháp nghiên cứu định tính
Thu thập và phân tích thông tin định tính bằng các phương pháp chuyên
gia, tham vấn quan điểm của nhà nghiên cứu/chuyên gia liên quan đến lĩnh vực
nghiên cứu. Nhận dạng việc thể hiện các mối quan hệ lý thuyết rõ hơn trong
thực tế thông qua các biến đại diện.
3.6.2 Phương pháp nghiên cứu định lượng
Lượng hóa các mối quan hệ/sự thay đổi trong hiện tượng, tình huống, vấn đề,…
các biến số sử dụng là biến số định lượng.
3.6.3 So sánh giữa phương pháp nghiên cứu định lượng và nghiên cứu

định tính
3.6.3.1 Định nghĩa:
Phương pháp Nghiên cứu định tính

Phương pháp Nghiên cứu định lượng

- Giải thích, mô tả

- Giải thích, dự báo

- Xây dựng lý thuyết

- Kiểm chứng lý thuyết

- Biến số không xác định

- Đã xác định biến số

- Kích thước mẫu nhỏ

- Kích thước mẫu lớn

- Công cụ phân tích : quan sát, phỏng - Công cụ phân tích: đã được chuẩn
vấn,…
hóa
- Quy nạp.

- Diễn dịch

15



Tiểu luận: Phương pháp NCKH trong kinh doanh.
Giảng viên: TS. Nguyễn Thị Bích Thủy.

3.6.4 Một số giá trị thực tiễn của phương pháp định tính và định lượng
Phương pháp định tính: Phương pháp này thường sử dụng trong các
nghiên cứu liên quan đến xã hội.
Phương pháp định lượng: Thường sử dụng trong các khoa học về kinh tế,
giáo dục, vật lý, dịch tễ học…
Có một nghiên cứu cụ thể có thể kết hợp cả hai phương pháp định tính và
định lượng nhằm bổ sung và khắc phục những hạn chế của nhau.
3.7 Phương pháp đối chiếu
3.7.1 Phương pháp đối chiếu
Mục tiêu là để so sánh sự vật này với sự vật khác, hiện tượng này với hiện
tượng khác để tìm ra sự giống nhau và khác nhau, tìm nguyên nhân và đề xuất
giải pháp.
Trên đại thể, ta có thể thấy 3 xu hướng đối chiếu:
- Chủ trương tìm những nét khác biệt do vậy chúng cần phải được so
sánh đối chiếu.
- Xu hướng thứa hai cho rằng cần phải tìm hiểu các nét khác biệt quan
trọng nhất.
- Xu hướng thứ ba chủ trương nghiên cứu tất cả những cái giống nhau.
Ngoài ra, còn có thể kể đến một loại ý kiến nữa là cần phải quan tâm
cả những sự tương ứng và không tương ứng.
3.7.2 Một vài giá trị thực tiễn của phương pháp đối chiếu
Trong kinh doanh, phương pháp này được sử dụng nhiều nhằm giúp tìm
kiếm các giải pháp tối ưu. Các bước thực hiện phương pháp này hiệu quả.
- Thiết lập tiêu chí về một vấn đề nghiên cứu
- Định lượng

- Lấy kết quả so sánh, đối chiếu
- Phát hiện vấn đề
Ta có thể nghiên cứu vài tiêu chí kinh tế cụ thể như GDP của quốc gia,
thu nhập của người dân nhằm tìm mức độ tăng trưởng, cũng như giá trị tăng
trưởng của các chỉ số này trong những năm qua, để đưa ra nhận định.
3.8 Phương pháp thống kê – Mô tả
Phương pháp thống kê – Mô tả được sử dụng để mô tả những đặc tính cơ
bản của dữ liệu thu thập được từ nghiên cứu thực nghiệm qua các cách thức
khác nhau. Phương pháp này cung cấp những tóm tắt đơn giản về mẫu thu được
với các thước đo, cùng với phân tích, chungts tạo ra nedefn tảng của mọi phân
tích định lượng về số liệu. Giúp người nghiên cứu khoa học hiểu được các hiện
tượng và ra quyết định đúng đắn.
16


Tiểu luận: Phương pháp NCKH trong kinh doanh.
Giảng viên: TS. Nguyễn Thị Bích Thủy.

3.8.1 Một vài giá trị thực tiến của phương pháp thống kê – Mô tả
Phương pháp thống kê – Mô tả có giá trị thực tiễn rất lớn, khi thực hiện
các nghiên cứu khoa học đặc biệt trong nghiên cứu bằng phương pháp định
lượng. Với phương pháp này, quá trình thu thập và xử lý mẫu thu được có thể
thực hiện bằng kỹ thuật mô tả dữ liệu như sau:
- Biểu diễn dữ liệu bằng đồ họa trong đó các đồ thị mô tả dữ liệu hoặc
giúp so sánh dữ liệu.
- Biểu diễn dự liệu thành các bảng số liệu tóm tắt về dữ liệu.
- Thống kê tóm tắt (dưới dang các giá trị thống kê) mô tả dữ liệu.
3.9 Phương pháp kế thừa – Phê phán
3.9.1 Phương pháp kế thừa - Phê phán
Là phương pháp cho phép người nghiên cứu khoa học có thể đề xuất giải

pháp trên cơ sơ kế thừa những giá trị đã có, hiện có bởi những nhà nghiên cứu
trước, đánh giá, nhận định, phân tích sâu hơn các vấn đề nảy sinh trong thực tại;
đồng thời, phê phán những giá trị lạc hậu lỗi thời, có thể khắc phục nhanh chóng
những hạn chế đã nhận thấy trước.
3.9.2 Một vài giá trị thực tiễn của phương pháp kế thừa – Phê phán
Phương pháp kế thừa – Phê phán được ứng dụng nhiều trong các lĩnh vực
nghiên cứu khoa học của con người. Phê phán chính là chỉ ra những yếu tố,
thành phần mang tính cũ, lạc hậu, tiêu cực hay tình “ì” trong hệ thống. Như vậy,
nó là một bước trong giai đoạn nhân thức vấn đề khi ta muốn giải quyết một vấn
đề nào đó. Nedesu ta coi vấn đề như một hệ thống thì, phê phán chính là cái nhìn
giúp chỉ ra đâu là thành phần gây bất ổn, đâu là cái làm cho chúng ta không đạt
được mục đích đề ra. Khi đã phân biệt được từng yếu tố, đâu là giả thiết, đâu là
kết luận, chúng ta sẽ nhìn thấy ngay đâu là yếu tố gây mất ổn định trong hệ
thống, để từ đó tìm cách giải quyết vấn đề. Nghĩa là, phê phán phải mang tính kế
thừa; chúng ta không đơn thuần loại bỏ cái cũ mà còn học tập, phát huy những
gì hay, tiến bộ trong hệ thống, thậm chí trong chính yếu tố gây cản trở hệ thống
mà ta đang xem xét.

17


Tiểu luận: Phương pháp NCKH trong kinh doanh.
Giảng viên: TS. Nguyễn Thị Bích Thủy.

CHƯƠNG IV : KẾT LUẬN
Sự phát triển như vũ bảo của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, đã
góp phần thúc đẩy công tác nghiên cứu khoa học ngày càng trở nên sôi động
hơn và cấp thiết hơn trên toàn cầu. Việc xuất hiện ngày càng nhiều phương pháp
nghiên cứu khoa học, đã chứng tỏ con người ngày càng có khả năng nhận thức
về thế giới khách quan. Khoa học và công nghệ đã trở thành động lực thúc đẩy

sự tiến bộ của nhân loại. Cùng với nghiên cứu khoa học hiện đại, càng ngày
phương pháp và phương pháp luận nghiên cứu khoa học càng được chú ý đến,
và nó còn được coi là một trong những nhân tố quan trọng để phát triển khoa
học.
Trên thực tế cho thấy, khoa học càng phát triển bao nhiêu thì phương
pháp, cách thức nghiên cứu khoa học càng đa dang phong phú bấy nhiêu. Càng
có nhiều phương pháp càng tăng khả năng lựa chọn phương pháp của người
nghiên cứu, càng làm cho việc lựa chọn phương pháp có ý nghĩa quan trọng hơn
cả về mặt nhận thức khoa học lẫn hiệu quả kinh tế.
Phương pháp nói chung đóng vai trò chủ đạo trong nghiên cứu khoa học
công nghệ. Phương pháp cụ thể gắn với các môn, lĩnh vực nghiên cứu cụ thể.
CXhinhs sự phát triển của khoa học, kỹ thuật ngày càng nảy sinh nhiều phương
pháp cụ thể khác nhau để nghiên cứu cùng một đối tượng. Do vậy sẽ là sai lầm
nếu quá nhấn mạnh một phương pháp đặc thù, cụ thể nào đó trong nghiên cứu.
Do đó chúng ta phải có một cái nhìn khách quan về các nghiên cứu khoa học,
cũng như phải có một phương pháp luận đúng đắn, để từ đó biết áp dụng một
cách khoa học và chính xác các phương pháp nghiên cứu khoa học vào mỗi đối
tượng khác nhau và để phục vụ cho các mục tiêu nghiên cứu khoa học khác
nhau.
Tóm lại, có nhiều phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu khoa học,
trong đó có các phương pháp cơ bản để nghiên cứu về kinh tế, quản trị kinh
doanh. Việc sử dụng phương pháp nào là do cụ thể của rừng đề tài khoa học đòi
hỏi. Người nghiên cứu cần linh hoạt khi sử dụng các phương pháp, có thể kết
hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau trọng đề tài nghiên cứ khoa học
cụ thể.

18


Tiểu luận: Phương pháp NCKH trong kinh doanh.

Giảng viên: TS. Nguyễn Thị Bích Thủy.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Nguyễn Thị Bích Thủy (2011), Giáo trình Phương pháp luận nghiên cứu
khoa học.
2. PGS, TS. Đào Huy Huân (2013), Các phương pháp nghiên cứu khoa học sử
dụng trong nghiên cứu kinh doanh.

19



×