Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Chính sách đối ngoại của anh trong thời kì đổi mới và mối quan hệ anh EU từ 1945 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.89 KB, 24 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài.
Quan hệ quốc tế, nghiên cứu học thuật về chính sách đối ngoại đã xuất
hiện từ những năm 50 và đầu những năm 60 của thế kỉ trước. Điều này có
nghĩa là Phân tích chính sách đối ngoại vẫn còn là một lĩnh vực nghiên cứu
chuyên ngành tương đối mới. Tuy nhiên, lượng văn liệu về lĩnh vực này lại đa
dạng và phong phú. Phân tích chính sách đối ngoại là một phạm trù chiết
trung, kết hợp lĩnh vực Quan hệ quốc tế với những ưu thế từ nhiều ngành
khác như tâm lí học. Một trong những đặc điểm quan trọng nhất của Phân tích
chính sách đối ngoại đó là ngành này được nghiên cứu dưới góc độ so sánh.
Sự so sánh đòi hỏi việc tìm kiếm những mẫu hình có thể khái quát hóa được
trong hoạch định chính sách đối ngoại vượt qua phạm vi thời gian, không
gian, và các vấn đề. Như vậy, lĩnh vực này có thể liên quan tới việc so sánh
những lựa chọn chính sách đối ngoại của các nhà lãnh đạo khác nhau trong
cùng một nước, hay những quyết sách của các quốc gia khác nhau liên quan
tới cùng một vấn đề hay các vấn đề tương tự nhau, quan hệ đối ngoại của mỗi
Quốc gia thực sự trở thành một chính sách thiết yếu đối với sự tồn tại và phát
triển của mỗi Quốc gia đó.
Vì vậy việc nghiên cứu chính sách đối ngoại của một số nước lớn đóng
vai trò hết sức quan trọng trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay. Mỗi chính sách
của các nước lớn đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tìm đối sách các
nước khác nói riêng và nền hòa bình thế giới nói chung.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
Chính vì vậy mục đích của bài tiểu luận này là nghiên cứu một cách có
hệ thống chính sách đối ngoại của Anh đối với Mỹ và EU mà cụ thể là hoàn
thiện Chính sách đối ngoại và an ninh chung của EU trong thời kì đổi mới. Bởi
vậy việc chọn nước Anh làm đề tài bao gồm một số vấn đề cấp thiết như sau.
Thứ nhất trong lịch sử nhân loại nói chung và lịch sử Anh nói riêng,
Anh là đế quốc có nhiều thuộc địa nhất Thế giới, hiện nay Anh vẫn là nước
1



đứng đầu khối Thịnh vượng chung và có nhiều ảnh hưởng tới các nước trên
Thế giới. Từ sau chiến tranh Thế giới thứ hai, châu Âu đã trở thành trung tâm
trong chính sách đối ngoại của Anh. Vì vậy mà việc nghiên cứu chính sách
đối ngoại của Anh luôn là một đề tài được cả nhân loại quan tâm.
Thứ hai là sau sự kiện 11-9-2001, Anh là một trong những đồng minh ít
ỏi ở châu Âu tham gia liên quan do Mỹ đứng đầu trong cuộc chiến tranh Irắc.
Anh là thành viên quan trọng của NATO và EU. Quốc gia này đã có quan hệ
với 165 quốc gia trên thế giới. Vai trò của Anh là cường quốc thương mại và
nằm giữa hệ thống các liên minh như EU, NATO, Liên hợp quốc, khối thịnh
vượng chung và G8. Đồng thời Anh chủ trương hợp tác chặt chẽ với hai bờ
Đại Tây Dương nhằm xây dựng một châu Âu ổn định và an toàn. Do đó trong
một trật tự thế giới mới đa cực nhiều trung tâm thì việc nghiên cứu chính sách
đối ngoại của một nước lớn như Anh mang nhiều ý nghĩa.
Thứ ba là Liên hệp Vương quốc Anh và Bắc Ailen cũng đang đẩy
mạnh quan hệ hợp tác với ASEAN và châu Á nhằm củng cố vai trò vị trí của
mình, khi nơi đây còn nhiều Quốc gia còn chịu nhiều ảnh hưởng về chính trị,
kinh tế, văn hóa của Anh. Việc nghiên cứu chính sách đối ngoại của Anh với
EU và Mĩ là cần thiết để hiểu rõ hơn về chính sách của Anh đối với các quốc
gia khác đặc biệt đối với Việt Nam
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Trong chính sách đối ngoại của Anh, ngoài việc coi trọng và ưu tiên
cho quan hệ với EU mà Anh là một thành viên thì quan hệ xuyên Đại Tây
Dương là một chiến lược cho sự ổn định và phát triển không chỉ với Anh mà
còn cho cả EU
Quan hệ xuyên Đại Tây Dương giữa Anh và Mỹ đã trở nên khăng khít,
thể hiện qua sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế, các giá trị dân chủ và những lợi
ích an ninh chung. Mỹ và châu Âu tạo ra hơn 50% xuất khẩu toàn cầu và
chiếm 60% tổng chi phí quân sự của thế giới. Anh chủ trương thúc đẩy châu
Âu trở thành một đối tác đáng tin cậy của Mỹ trong việc giải quyết các thách


2


thức an ninh. Liên minh Anh- Mỹ luôn được các Chính phủ Anh coi là “Liên
minh của các giá trị”.
Với tiêu chí là lấy phát triển kinh tế làm trọng tâm, Anh đang ngày càng
mở rộng chính sách đối ngoại của mình với cả các nước châu Á và ASEAN.
Chính vì vậy mà bài tiểu luận này xoay quanh chính sách đối ngoại của
Anh trong thời kì đổi mới. Và mối quan hệ Anh- Việt từ 1990 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Thủ tướng Anh T.Blair coi “cả hai liên minh với Hoa Kì và EU đều
được thiết lập từ trong lịch sử và ở thời điểm hiện nay vẫn hoàn toàn thích
hợp, là nguồn sống đối với ảnh hưởng và sức mạnh của Anh trong cộng đồng
toàn cầu”.
Có thể nói, nền tảng trong chính sách đối ngoại của Anh là liên minh
chặt chẽ với Hoa Kỳ, củng cố và phát triển liên minh châu Âu để bảo vệ lợi
ích trước mắt cũng như lâu dài cho Anh. Vì vậy để khai thác để tài này, tiểu
luận xoay quanh việc phân tích riêng chính sách đối ngoại của Anh với Mỹ và
Liên minh châu Âu.
Các phương pháp nghiên cứu đề tài “Chính sách đối ngoại của Anh
trong thời kì đổi mới và mối quan hệ Anh- EU từ 1945 đến nay” bao gồm:
- Phương pháp thu thập,xử lý thông tin
- Phương pháp đọc và nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp phân tích tổng hợp
5. Kết cấu đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
gồm 3 chương :
Chương 1: Tổng quan về chính sách đối ngoại của Anh trong thời kỳ
đổi mới.

Chương 2: Chính sách đối ngoại của Anh với các đối tác quan trọng
Chương 3: Chính sách đối ngoại của Anh đối với CFSP.

3


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA ANH
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
1. TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA ANH .
Là một quốc đảo nằm ở tây Bắc châu Âu, gồm 4 vùng lịch sử dân tộc:
Anh, Scotland, Bắc Ireland và Wales. Lịch sử ngoại giao Anh là những cuộc
xâm chiếm thuộc địa mà đã có thời họ ngẩng cao đầu với thế giới và tự hào
rằng: “Mặt trời không bao giờ lặn trên đất nước Anh” (The sun never set upon
on Empire)
Bước vào thập niên cuối cùng của thế kỉ của thế kỉ XX, trước những
biến đổi mạnh mẽ và sâu sắc của tình hình thế giới nói chung, của CNTB nói
riêng và những động thái mới trong một đảng xã hội- dân chủ châu Âu, một
khái niệm được nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới thường xuyên nói đến từ
cuối thập niên 90 trở lại đây.như là một phát kiến mới của CNXH dân chủ
hiện đại, đó là một khái niệm “Con đường thứ ba”. Theo nhiều nhà nghiên
cứu, đây thực chất là sự tìm kiếm một mô hình chính trị được nhiều người tán
thành để các đảng Dân chủ- xã hội chèo lái đất nước vượt qua thế kỉ XXI.
Một trong những người nhiệt thành nhất cổ suý cho tư tưởng Con
đường thứ ba là thủ tương Anh Tonny Blair cùng các cộng sự trong Công
đảng Anh. Con đường thứ ba theo cách hiểu của Tonny Blair hoàn toàn khác
với khái niệm Con đường thứ bao dùng để gọi “con đường trung gian giữa
CNXH và CNTB” mà các đảng xã hội- dân chủ đưa ra tại Đại hội thành lập
Quốc tế xã hội năm 1951. Tonny Blair giải thích: “Con đường thứ ba là con
đường xã hội- dân chủ được khôi phục và đã thành công. Nó hoàn toàn không

phải là con đường thoả hiệp giữa cách tả và cánh hữu. Cái mà nó tìm kiếm là
quan niệm giá trị giữa phía giữa và phái trung tả. Nó phù hợp với những cải
cách kinh tế và xã hội cơ bản trên toàn thế giới và không chịu sự chi phối quá
mức của ý thức hệ tư tưởng”. Từ cách nói của Tonny Blair có thể dễ dàng
nhận ra, thực chất sự điều chỉnh chiến lược, chính sách của Công đảng Anh từ
4


khi Tonny Blair lên cầm quyền là tư tưởng về con đường thứ ba “đưa CNXHdân chủ hiện đại tới đổi mới và thành công”.
Nước Anh dưới sự lãnh đạo của T. Blair đã có một không khí mới
trong quan hệ với các đối tác thuộc liên minh châu Âu (EU) vốn rất tồi tệ vào
cuối thời kì cầm quyền của Đảng Bảo thủ. Mặc dù T. Blair vẫn giữ thái độ
mập mờ đối với những vấn đề cơ bản (đồng tiền chung Euro, các thể chế, sự
mở rộng EU…), nhưng ông đã từng bước thực hiện sự hoà nhập của nước
Anh vào châu Âu.
Trong bối cảnh 13 nước thuộc Liên minh Châu Âu trong tổng số 25
nước là do các đảng xã hội- dân chủ cầm quyền hoặc liên hiệp nắm quyền, T.
Blair đã đưa ra một khái niệm, đó là, “mô hình xã hội thống nhất của châu
Âu”, nhằm mục đích tạo ra hình ảnh của một CNTB dựa trên nhiều nguyên
tắc bình đẳng và tiến bộ hơn so với CNTB mang tính phân cực và không đáng
tin cậy của Bắc Mỹ. Một trong những nội dung chủ yếu của quan điểm này là
tư tưởng “khả năng cạnh tranh có tính tiến bộ của Châu Âu”, hay còn gọi là
“chủ nghĩa cục bộ mang tính cạnh tranh”. Chủ nghĩa này xuất hiện nhằm để
thích ứng với quá trình liên kết châu Âu. Nó là biện pháp đặc biệt để thúc đẩy
sản xuất, bảo đảm sự thích ứng nhanh hoặc phân phối lại thu nhập một cách
có lợi cho các nhà tư bản nhờ lao động. Nó mang những nét đặc thù về chính
sáh xã hội và sự phân phối kinh tế quốc tế trên cơ sở Cộng đồng châu Âu.
Công đảng Anh ủng hộ một châu Âu mở rộng về phía Đông, một châu
Âu được phân quyền mạnh mẽ để có thể nâng cao hiệu quả trong tất cả các
vấn đề xuyên biên giới, nhưng sự hoà nhập chỉ được tiến hành trong lĩnh vực

cần thiết. T. Blair phản đối việc nhất thể hoá hoàn toàn châu Âu về mặt chính
trị. Ông đã từng nói: “Tôi thích một siêu thị châu Âu hơn là một nhà nước
châu Âu”.
Trên bình diện quốc tế, Công đảng nhấn mạnh, mối đe doạ của chiến
tranh lạnh đã xoá bỏ và các nguy cơ mới như tội phạm có tổ chức, chủ nghĩa
khủng bố, ma tuý và ô nhiễm môi trường đã chuyển sang hướng khó lường.

5


Điều đó đòi hỏi một khuôn khổ hợp tác quốc tế mới, linh hoạt đẻ có thể đối
phó được với nguy cơ này.
Dựa trên quan điểm của “Chủ nghĩa can thiệp mới”, T. Blair chủ
trương đẩy mạnh “chính sách ngoại giao toàn cầu” nhằm bảo vệ an ninh, phồn
vinh và môi trường của tất cả các nước. T. Blair yêu cầu chính sách đối ngoại
của Anh cần phải được quán triệt trong một “bộ khung lý luận”, trong đó
“Luân lí và quan niệm giá trị” giữ một vai trò quan trọng. Đây thực sự là một
bước tiến mới, vì trong suốt mấy thập niên trước đó, chưa bao giờ trong
đường lối đối ngoại của Anh lại có một khái niệm có mục đích rõ ràng đến
như vậy. Tuy nhiên, những lí luận đó còn mang nhiều mầu sắc lí tưởng và tự
biện.
Không dừng lại ở đó, trong quan điểm đối với tình hình quốc tế, đặc
biệt là sau sự kiện Kosovo, T. Blair lại tiếp tục nhấn mạnh lý luận “sứ mệnh
ngoại giao” của Anh. Ngày 26/4/1999, tại cuộc gặp cấp cao của các nhà lãnh
đạo NATO ở Whington, T. Blair đã có bài phát biểu khá nổi tiếng với đầu đề
“Chủ nghĩa cộng đồng quốc tế” (Doctrine of International Community). Nội
dung quan điểm mà T. Blair nêu ra trong bài phát biểu này tựu trung là: Xu
thế toàn cầu hoá đã làm thay đổi cơ bản tình hình thế giới, dẫn tới một sự phụ
thuộc lẫn nhau, dựa vào nhau sâu sắc cả về chính trị, kinh tế và anh ninh giữa
các quốc gia.

Công việc của một nước có ảnh hưởng đến quốc tế vì nó gắn chặt đến
cơ chế thị trường. Do vậy toàn cầu hoá dẫn tới quốc tế hoá công việc nội bộ
của một nước là lẽ tất nhiên. Điều này có nghĩa là, lợi ích quốc gia chỉ được
thực hiện bằng cách thông qua hợp tác quốc tế và do biên giới giữa các quốc
gia có xu hướng lỏng lẻo nên công việc nội bộ của một nước hay một khu vực
tất nhiên sẽ có “hiệu ứng rò rỉ” lan toả sang các nước khu vực và lân cận. Vì
lẽ đó, Anh và các nước phương Tây cần phải hành động để đối phó với những
thách thức của toàn cầu hoá. T. Blair cho rằng, nguyên tắc “không can thiệp
vào công việc nội bộ’ là một thứchủ nghĩa biệt lập đã lỗi thời, cần phải thay
đổi bằng việc duy trì một sự can thiệp quốc tế trong những tiêu chí phổ biến
6


nào đó, phải cải cách những cơ chế, những tổ chức quốc tế không còn phù
hơp, trên cơ sở xây dựng lại một trật tự anh ninh- chính trị toàn cầu mới. Theo
quan điểm đó thì hành động quân sự của NATO ở Kosovo được T. Blair biện
minh là một sự cần thiết.
Vậy “Con đường thứ ba” có thành công hay không? T. Blair đã có
những chính sách đối ngoại như thế nào và quan điểm của Anh ra sao đối với
các tổ chức liên quân quốc tế? Có thể thấy, xét về thực chất, chính sách đối
ngoại của T. Blair là tìm kiếm một sự “hợp tác quốc tế” với Mỹ để chi phối
đời sống chính trị quốc tế. T. Blair kỳ vọng vào một trật tự quốc tế mới, trong
đó những quan niệm và kinh nghiệm của phương Tây được tuyên truyền rộng
rãi nhằm xây dựng một xã hội thị dân toàn cầu nằm trong quỹ đạo của CNTB.
Điều này lí giải vì sao, nước Anh tích cực ủng hộ Mỹ trong cuộc chiến chống
khủng bố ở Afghanistan và cuộc chiến ở Iraq.
2. QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI CHUNG CỦA ANH VỚI MỸ VÀ EU.
Chính phủ Anh đã nhận định mình sẽ không có triển vọng phát triển
trên thế giới như hiện nay, nếu cứ theo đuổi lợi ích quốc gia của mình mà
không có sự phối hợp chặt chẽ với những nước khác, trước hết là với Hoa Kỳ

và EU. Đó là lý do tại sao dù có khó khăn đến đâu, trong những năm qua ( kể
từ sau sự kiện 11-9-2001), liên minh chặt chẽ với Hoa Kỳ và trong phạm vi
châu Âu đã trở thành “hòn đá tảng” trong chính sách đối ngoại của Anh.
Quan hệ đặc biệt giữa Anh với Hoa Kỳ kéo dài nhiều thập niên qua. Nó
khở nguồn từ quan hệ đồng minh chống phát xít trong thời kỳ Chiến tranh thế
giới lần thứ II và tiếp tục được củng cố trong thời kỳ Chiến tranh lạnh. Chính
phủ Anh nhận thức sâu sắc rằng quan hệ chặt chẽ với Hoa Kì là công cụ tốt
nhất để duy trì vai trò cường quốc trong hệ thống quốc tế. Thực tế cho thấy
với việc kết thúc Chiến tranh Lạnh và Washington tăng cường sự chú ý vào
một nước Đức thống nhất, Luân Đôn lo ngại về khả năng để mất “xung đột
đòn bẩy” từ Hoa Kỳ trong các vấn đề quốc tế. Cụ thể là vào đầu thập niên 90,
Anh đã rơi vào một cuộc “khủng hoảng vị thế quốc tế” khi gặp phải những
khó khăn về tình hình chính trị trong nước. Đảng Bảo thủ đánh mất “ảnh
7


hưởng” thông qua đồng minh bên kia bờ Đại dương, và đó là lý do giải thích
tại sao ông Blair giành được quyền lực.
Bên cạnh đó, Chính phủ Anh không chỉ dựa vào việc cải thiên quan hệ
với Hoa Kỳ mà còn đóng vai trò là cầu nối giữa Hoa Kỳ và châu Âu. Chủ
trương này được xem là cách thức tốt nhất nhằm đề cao những lợi ích riêng
của Anh trong EU.
Nhìn chung, Chính phủ Anh luôn coi quan hệ đối tác với Mỹ và EU là
rất phù hợp với tình hình đất nước và thế giới. Chính sách đối ngoại của Anh
và quan hệ thân thiết của nước này với Mỹ vẫn không thay đổi ngay cả khi
Thủ tướng mới ông G.Brown lên nắm quyền. Quan hệ đồng minh Anh – Mỹ
là công cụ của chính quyền Anh để duy trì ảnh hưởng trong hệ thống quốc tế.
Chính sách này là nền tảng trong chính sách đối ngoại của Anh từ sau Chiến
tranh thế giới lần thứ II.


8


CHƯƠNG 2
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA ANH VỚI CÁC
ĐỐI TÁC QUAN TRỌNG
1. Quan hệ đối ngoại Anh - Mỹ

Mối quan hệ về chính trị: Từ trong lịch sử Anh và Mỹ đã có những
mối quan hệ đặc biệt, đó là mối quan hệ giữa chính quốc và thuộc địa. Sau
này, khi những khái niệm về thuộc địa đã dần bị lãng quên thì người Mỹ vẫn
luôn tự hào về nguồn gốc của mình và công lao to lớn mà họ đã là nên ở Tân
thế giới. Trong cuộc chiến thế giới thứ hai, Mỹ và An luôn đứng trên một
chiến tuyến. Mỹ trên danh nghĩa chỉ là một nước có chức năng buôn bán vũ
khí cho các nước nhưng trên thực tế Mỹ luôn có những chính sách và hoạt
động bí mật cung cấp vũ khí cho Anh chống lại trục Fatxit.
Ngày nay, chúng ta không thể phủ nhận mối quan hệ ngày một vững
chắc hơn giữa Anh và Mỹ, đặc biệt là từ khi ông Tonny Blair lên cầm quyền.
Anh đã ủng hộ và theo sau tất cả những kế hoạch quân sự của Anh, và càng
ngày Anh càng tỏ rõ là một cánh tay phải đắc lực của chính quyền Bush.
9


Chiến sự Iraq bùng nổ, cả thế giới đứng lên đấu tranh cho hoà bình và cuộc
sống của những người dân vô tôi Iraq, nhưng Anh không những không phản
đối mà còn gửi 4000 quân lính trợ giúp Mỹ trong công cuộc tái thiết. Trái
ngược rất nhiều với các thành viên trong EU, Anh Quốc đang vấp phải tình
trạng tiến thoái lưỡng nan, lựa chọn EU hay là Mỹ.
Trở lại cuộc chiến Vụng Vịnh năm 1991, Anh đã tích cực hành động để
cung cấp vũ khí, nguyên liệu phục vụ cho cuộc chiến của Mỹ hơn là những gì

Anh đã làm cho EU.
Đối với hầu hết công chúng, đây vẫn là một mối quan hệ mập mờ. Ở
bình diện này thì những hoạt động trên chính là cách Anh đang tái khẳng định
mối quan hệ ngoại giao mật thiết với một cường quốc mạnh nhất thế giới và
điều này khiến mọi người hiểu hơn về tình anh em với nước Mỹ ruột thịt. Thế
nhưng, kể từ khi Anh gia nhập EU, Anh đã phải đối mặt với nhiều thách thức
lớn, một sự suy giảm rõ rệt đang xảy ra trong mối quan hệ này. Trong các
cuộc đàm phán thương mại thế giới đầu thập niên của những năm 90, không
có sự khác biệt nào giữa Anh và Mỹ. Và đây cũng chính là một phần trong kế
hoạch của khối thương mại EU. Đến 1994, các cuộc họp được mở ra càng
nhấn mạnh hơn nữa mối liên kết chính của Anh đều la EU.
Đến năm 2001, khủng bố đã diễn ra trên đất Mỹ buộc Mỹ phải lôi kéo
đồng minh cùng các nước trên thế giới hỗ trợ về mọi mặt để khôi phục đất
nước sau thảm hoạ kinh hoàng này. Và Anh là quốc gia đứng bên Mỹ mạnh
nhất, là trợ thủ đắc lực nhất giúp Mỹ thoát khỏi khủng hoảng này. Có thể nói
mối quan hệ Anh- Mỹ đang được hâm nóng trở lại sau khi thủ tướng Anh
Tonny Blair lên cầm quyền.
Mối quan hệ về kinh tế: Thị trường xuất khẩu lớn nhất của Anh trên
thế giới là Mỹ; chiếm 15,7% trong tổng số mặt hàng xuất khẩu của sang các
nước. Tiếp theo đó là Đức 10,5%, Pháp 9,5%, Hà Lan 6,9%, Ireland 6,5%, Bỉ
5,6%, Tây Ban Nha 4,4% và Italia cũng là 4.4% (năm 2003). Anh cũng nhập
khẩu từ Mỹ với số lượng lớn chỉ sau Đức với 10,2%.

10


Ngược lại Mỹ cũng coi Anh là thị trường xuất khẩu lớn của mình. Hai bên
đã dành cho nhau những chế độ ưu đãi, thu hút đầu tư để thúc đẩy hơn nữa
không những là những mối quan hệ về chính trị mà còn về kinh tế và văn hoá.
Mối quan hệ về văn hoá: Vào thế kỉ XV, Christoph Colombo đã đặt

bước chân đầu tiên lên miền đất nằm ở phía bên kia Thái Bình Dương, đánh
dấu một bước ngoặt lịch sử về những phát kiến địa lí. Cũng trong thời điểm
này mâu thuẫn giữa những tầng lớp nhân dân với chế độ phong kiến đã lên tới
đỉnh điểm và Châu Mĩ là mảnh đất dừng chân của những người chống lại
chính quyền Anh và họ đã tạo nên một vùng kinh tế mới. Khi họ sang đây, họ
đã mang theo cả bản sắc văn hoá và phog tục tập quan, rất nhiều người Mỹ
sau này đã quay trở về An để thăm lại cội nguồn của mình. Điều này đac
khẳng định hơn nữa mối quan hệ đặc biệt và lâu đời đã tồn tại từ trong lịch sử
cho tới ngày nay.
2. Quan hệ đối ngoại Anh - Canada
Cũng tương tự như Mỹ, Anh cũng ó mối quan hệ bền chật với Canada
từ trong lịch sử. Mối quan hệ này không chỉ đơn thuần ở trong lĩnh vực chính
trị mà còn cả ở kinh tê và trên mặt trận an ninh.
Về mặt chính trị: Từ những ngày đầu của năm 1497, khi Jonh Cabot
đặt chân lên vùng đất Newfoundland thì giữa Anh và Canada đã có những
mối quan hệ như mẫu quốc với thuộc địa. Tới năm 1867, người Anh đã thiết
lập ở Bắc Mỹ một vùng đất có tên Canada và coi đây là liên bang đầu tiên
của đế chế Anh.
Cho tới ngày nay cả hai nước vẫn đang thúc đẩy mối quan hệ ngày
càng vững mạnh hơn và họ đã đạt được những tiến triển tích cực. Anh và
Canada cũng tiếp tục chia sẻ chủ quyền và những truyền thống trong dân chủ
nghị viện. Anh đã thiết lập ở Canada chế độ toàn quyền. Vậy toàn quyền của
Anh ở Canada là gì?
Toàn quyền của Anh ở Canada là người đại diện cho nữ hoàng Anh tạ
Canada. Toàn quyền Anh do thủ tướng Canada lựa chọn và được bổ nhiệm
làm Nữ hoàng. Tuy nhiên, vai trò chỉ mang tính chất nghi thức.
11


- Toàn quyền là người đại diện cho triều đình Anh ở Canada

- Toàn quyền là người thúc đẩy chủ quyền Anh ở Canada
Đối với vấn đề quân sự và an ninh quốc gia, Anh gửi rất nhiêù quân
sang Canada học tập và rèn luyện. Trong đó có đội bay từ RAF đang tiến
hành một cuộc tập rượt nhỏ ở Goose Bay, Labrador và trung tâm đào tạo quân
đội Anh ở Canada (BATIC). Những bài tập này là vô cùng cần thiết và cấp
bách nhằm duy trì thế trận của quân đội Anh.
Vào tháng 6 năm 1997, thủ tướng Canada- Chretien và Blair đã kí bản
tuyên bố Joint nhằm tái khẳng định lại sức mạnh của mối quan hệ song
phương và hướng tới một tương lai tốt đẹp, hợp tác trên mọi lĩnh vực. Đặc
biệt hơn nữa, mối dàng buộc giữa hai quốc gia càng được thắt chặt hơn nữa
khi tham gia vào các tổ chức quốc tế cũng như khu vực: Khối thịnh vượng
chung (Common Wealth), G-8, Liên hợp quốc, NATO…
Về kinh tế: Anh và Canada giống như hai thành viên trong một gia
đình hoà thuận với những điểm tương đồng về văn hoá và sự chia sẻ về quyền
lực chính trị dân chủ là một điều vô cùng quan trọng trong quan hệ giữa hai
nước nhằm phát triển thương mại và đầu tư. Canada là đối tác quan trọng
đứng thứ hai trên thế giới chỉ sau Mỹ. Anh là điểm đến an toàn của các nhà
đầu tư Canada. Anh cũng là thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 thế giới của
Canada chỉ sau Mỹ và Nhật Bản. Anh và Canada- những thành viên của
NAFTA và EU. ngày càng hợp tác và phát triển mạnh mẽ hơn.
Năm 2003, hàng hoá Canada xuất khẩu sang Anh đạt 5,7 tỉ USD, tăng 30%
so với cùng kì năm 2002. Xuất khẩu Canada đang tăng dần trên đất nước này.
Hiện nay có khoảng 650 công ty lớn nhỏ của Anh đang hoạt động tại
Canada. Năm 2003, Anh đầu tư vào Canada đứng thứ 3 thế giới sau Mỹ và
Pháp. Còn đầu tư trực tiếp của Canada vào Anh ước tính đạt 40,7 tỉ $ Canada,
tăng 1,2% so với cùng kì năm 2002, và có hơn 500 công ty Canada đang hoạt
động tại đây.
Về văn hoá: Hợp tác văn hoá là một phương tiện hữu ích để thắt chặt
thêm tình hữu nghị và hiểu biết lẫn nhau. Anh Quốc là thị trường xuất khẩu
12



các ấn phẩm văn hoá quan trọng nhất của Canada và thị trường này cũng chỉ
đứng thứ hai sau Mỹ. Các nghệ sĩ Canada và nghành công nghiêp văn hoá
phẩm của đất nước này đang tạo nên những tác động đầy ý nghĩa tới Anh.
Như: các ấn phẩm về sách, âm nhạc, phim ảnh và công nghiệp thiết kế. Năm
2002, Anh đã trở thành đối tác thương mại quan trọng thứ hai của Canada về
việc xuất khẩu các ấn phẩm văn hoá với trị giá 14,5 triệu $ Canada. Giá trị
xuất khẩu sách sang Anh lên tới 6.3 triệu $ Canada.
Ngoài ra hai nước này còn có những hợp tác về giáo dục, y tế, khoa học
kĩ thuật…
3. Quan hệ với Việt Nam
Ngoài các mối quan hệ mật thiết trong liên minh châu Âu và các mối
quan hệ trong lịch sử Anh còn thiết lập mối quan hệ với rất nhiều nước trên
thế giới trong đó có Việt Nam. Sau 30 năm kể từ ngày thiết lập quan hệ ngoại
giao chính thức (11/6/1973), mối quan hệ hợp tác hữu nghị giữa Việt NamAnh quốc tuy cũng có lúc chìm lắng bởi các yếu tố lịch sử, song sự hợp tác
phát triển mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội giữa hai nước
rtong thời gian gần đây càng khẳng định đường lối đổi mới tiến tới hội nhập
với các khu vực và trên thế giới của cả hai quốc gia, Việt Nam và Anh quốc.
Mối quan hệ về chính trị ngoại giao: Kể từ ngày quan hệ ngoại giao
chính thức giữa hai nước được thiết lập đến nay, đặc biệt ngày 22/11/1990,
khi vai trò và vị thế của Việt Nam do liên minh châu Âu chính thức nối lịa
quan hệ thì quan hệ ngoại giao, chính trị, các hoạt động hợp tác kinh tế giữa
hai nước ngày càng phát triển. Các cuộc viếng thăm chính thức cấp cao giữa
hai chính phủ ngày càng gia tăng mạnh mẽ. Sự kiện có ý nghĩa quan trọng,
đánh một mốc son trong lịch sử quan hệ phát triển Việt Nam- Anh quốc vào
những năm đầu thập kỉ 90 là chuyến thăm chính thức đầu tiên của thủ tướng
Việt Nam Võ Văn Kiệt tới Anh tháng 7/1993, tiếp đó Ngoại trưởng Anh
Doglas Hurd cũng đã tới Việt Nam vào ngày 15/4/1994. Các cuộc viếng thăm
của các nhà lãnh đạo cao nhất giữa hai nước trong thời kỳ đầu của công cuộc


13


công nghiệp hoá tại Việt Nam đã phần nào cho thấy một chương mới đã mở
ra trong quan hệ hợp tác song phương giữa hai nước.
Việt Nam là một trong những nước ít ỏi trên thế giới thuộc phe xã hội
chủ nghĩa, còn Anh vốn là một đồng minh rất thân cận của Mỹ. Nhưng do quá
trình hội nhập của toàn cầu hoá và do những chuyển đổi trong chính sách đối
ngoại của Anh- “Con đường thứ ba” và CNXH không còn là một mối nguy
hiểm trong quan điểm cổ hủ của Anh nữa mà “Con đường thứ ba” là con
đường đưa CNXH- dân chủ hiện đại tới đổi mới và thành công”. Phía Anh đã
kí kết rất nhiều các khoản viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam như: Ký với
bộ trưởng giáo dục và đào tạo Nguyễn Minh Hiển về khoản viện trợ không
hoàn lại trị giá 11 triệu USD, dự án xoá đói giảm nghèo với thứ trưởng Bộ kế
hoạch và đầu tư Võ Hồng Phúc…
Có thể thấy vào thời điểm đầu thế kỉ XXI, quan hệ Việt Nam- Anh
quốc đã bắt đầu dần chuyển từ hình thái mang tính chất chính trị ngoại giao,
viện trợ phát triển sang hình thái hợp tác kinh tế thương mại đôi bên cùng có
lợi, đáp ứng lợi ích của hai dân tộc… Mô hình chuyển biến này thấy rõ trong
các chuyến công cán của các cấp bộ trưởng của hai nước như: Chuyến sang
thăm Việt Nam ngày 1/7/2002 của Bộ trưởng công thương Anh Alan Johnson
cũng như chuyến thăm Anh của Bộ trưởng Bộ kế hoạch và đầu tư Trần Xuân
Giá ký thành công hiệp định Khuyến khích và bảo trợ đầu tư song phương.
Hiệp định này nhằm thúc đẩy các nguồn đầu tư và củng cố niềm tin của các
nhà đầu tư. Với thành công này Việt Nam trở thành quốc gia thứ 95 mà chính
phủ Anh có thoả thuận về bảo hộ và đầu tư, là cơ sở bảo hộ quyền lợi của các
nhà đầu tư Anh quốc cũng như Việt Nam khi đầu tư vào thị trường của nhau.
Lĩnh vực hoạt động ngoại giao giữa hai nước càng khởi sắc khi công
chúa Anne, con gái của Nữ hoàng Anh Elizabeth Đệ nhị đã sang thăm chính

thức Việt Nam trong 5 ngày kể từ ngày 4-8/2004. Đánh giá về sự kiện này,
Đại sứ Anh tại Việt Nam, ông Warwick Morris bày tỏ: “Chúng tôi rất vui khi
công chúa Anne sang thăm Việt Nam đúng vào năm kỉ niệm 50 năm ngày lên
ngôi của nữ hoàng Anh. Tôi chắc Bà sẽ có được những ấn tượng tốt đẹp trước
14


những thành tựu mà chính phủ và nhân dân Việt Nam đạt được … Chuyến
thăm này sẽ đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quan hệ hợp tác ngày
một lớn mạnh giữa Anh quốc và Việt Nam.
Quan hệ về kinh tế thương mại giữa hai nước: Hiện nay Anh đang
đứng thứ 10 trong danh sách những nhà đầu tư lớn nhất vào Việt Nam và
đứng ở vị trí thứ hai trong Liên minh châu Âu. Các công ty và tập đoàn kinh
tế của Anh đã có mặt tại thị trường Việt Nam từ rất sớm ngay từ khi có luật
đầu tư nước ngoài. Tính cho đến tháng 7 năm 2002, Anh có 35 dự án được
cấp giấy phép với tổng số vốn đầu tư là 1.14 tỷ USD. Nhìn chung các dự án
của Anh được hình thành tương đối đồng đều về số lượng và chủ yếu thông
qua các hình thức: Hợp doanh có 10 dự án vốn đầu tư đạt 653 triệu USD,
chiếm 56,4% vốn đầu tư; Liên doanh với 9 dự án, vốn đầu tư là 217 triệu
USD, chiếm 18,7% vốn đầu tư nước ngoài đang được triển khai với 6 dự án,
vốn đầu tư là 16 triệu USD chiếm 1,4% .
Qua các con số trên chúng ta có thể thấy, các nhà đầu tư Anh cũng đã
góp một phần đáng kể vào sự đóng góp chung của Liên minh châu Âu đối với
phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam trong suốt những năm qua. Các nhà
đầu tư Anh nổi tiếng là thận trọng và tính toán kĩ lưỡng trong việc lựa chọn
thị trường đầu tư, họ đã lựa chọn Việt Nam là điểm đến cho các kế hoạch lâu
dài, điều đó chứng tỏ họ đã vượt qua tất cả những rào cản về sự khác biệt
chính trị, văn hoá… Đặc biệt họ đã bỏ qua những cấm vận của Mỹ ở Việt
Nam, bỏ qua những hận thù mà Mỹ đang lôi kéo đồng minh của mình để áp
đặt cho Việt Nam.

Hơn thế nữa giữa hai nước còn có các chương trình hợp tác về giáo dục
và hợp tác phát triển. Để thúc đẩy phổ cập hơn nữa hình ảnh đất nước Anh
cũng như xúc tiến Việt Nam hội nhập với thế giới và khu vực, xoá đói giảm
nghèo ở các khu vực miền núi, chính phủ Anh mới đây đã thông qua bộ phát
triển quốc tế (DEID) viện trợ cho Việt Nam khoản viện trợ phát triển trị giá
30 triệu USD.

15


Hợp tác giáo dục, nâng cao năng lực cho các nhà nghiên cứu, hoạch
định chính sách cũng đã và đang được đồng loạt triển khai thông qua một
chương trình mang tên “Chương trình liên kết giáo dục cao” dưới sự giám sát
điều phối bởi hội đồng Anh.
Đánh giá về những hoạt động liên kết cả về chính trị xã hội và giáo dục
của đôi bên, Thị trưởng thành phố London Michel Oliver, trong chuyến thăm
Việt Nam ngày 22/4/2002, đã nói: “Tôi cảm thấy thật tuyệt vời khi tiếp xúc
với người dân Việt Nam trong 3 ngày qua tại Hà Nội… Đẩy mạnh hơn nữa
hợp tác giáo dục đào tạo và tăng cường hiểu biết lẫn nhau sẽ vẫn là trọng tâm
cho tương lai quan hệ của hai nước.”

16


CHƯƠNG 3
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA ANH ĐỐI VỚI CFSP

3.1. Những quan điểm của Anh về CFSP
Ngay từ khi CFSP mới ra đời, Anh quốc đã nhận thức ngay được vai
trò lãnh đạo của mình trong liên minh châu Âu và các vấn đề quốc phòng, an

ninh và đối ngoại đối với toàn cầu. Sự suy giảm tương đối quyền lực của Anh
từ 1945 đã buộc Anh phải hợp tác đa phương và sử dụng EU như làm một
công cụ đẻ theo đuổi trách nhiệm và lợi nhuận toàn cầu. Vì lí do này mà Anh
thường xem CFSP như là một phương tiện để nâng cao lợi nhuận của mình và
do đó sự tham gia của Anh vào CFSP được xem như là một sự điều chỉnh hơn
là phá vỡ những quyền ưu tiên chính sách ngoại giao. Mối quan hệ đặc biệt
này đã đe doạ mối quan hệ đặc biệt với Mỹ của Anh. Anh vừa kí với NATO
một bản cam kết lâu dài và điều này có vẻ như đáng tin cậy và Anh trở thành
người trụ cột bảo vệ an ninh vô cùng hiệu quả của EU.
Nhìn chung khi so sánh sự hội nhập châu Âu, Anh vẫn không tỏ rõ bất
cứ một ý kiến nào về việc tách rời khỏi CFSP từ trước tới nay. Hơn thế nữa,
Anh lại là một trong những thành viên có mối quan hệ lâu dài nhất trong hệ
thống quốc phòng và an ninh chung của châu Âu kể từ năm 1945. Vấn đề nan
giải đã tăng khi sự hợp tác này trở nên là một tổ chức mang tính hình thức
17


nhiều hơn là những hoạt động thực tế và hệ thống chính trị châu Âu đang đưa
ra những lời đề nghị về một châu Âu siêu quốc gia. Đa số dân chúng đã tỏ ra
nghi ngờ về điều này và kết quả là chẳng có một xu hướng thực sự nào dẫn
đường cho chính sách đối ngoại và an ninh chung này cả. Các cuộc tranh cãi
thường xuyên xảy ra và là tâm điểm của các cuộc tranh luận về đâu là chủ
quyền thực sự của một quốc gia. Còn về phía Anh, chính phủ nước này luôn
thúc ép buộc các chính phủ luân phiên phải tham gia vào các tuyên bố phòng
vệ từ xa hay cùng tham gia vào một châu Âu như một nhà nước thống nhất
và bỏ qua chủ quyền riêng của quốc gia. Nhưng thực tế lại không như mong
muốn, các cuộc tranh cãi thường xuyên xảy ra và nghị viện châu Âu nêu bật
một thực tế rằng EU có thể đã có được những đặc điểm riêng biệt của từng
quốc gia như hệ thống các tổng thống hay các bộ trưởng. Điều này cũng là
nguyên nhân chính gây nên các cuộc tranh cãi từ các quốc gia. Ví dụ: Anh

đồng ý và luôn muốn tiến hành nhanh các chương trình hoạt động cho CFSP
nhưng một số nước lại không muốn đánh mất bản sắc riêng của mình trong
một châu Âu thống nhất.
So sánh với một số các quốc gia thành viên khác thì công chúng Anh
có vẻ như rất sẵn sàng cho việc đưa nước Anh nắm giữ vai trò quan trọng
trong chính sách đối ngoại và an ninh chung của EU. Cùng với đó là sự lưỡng
lự và những ý kiến không kiên định của Anh Quốc về vai trò lãnh đạo của
mình. Vấn đề liên quan ở đây xoay quanh những mối lo ngại về một chủ
nghĩa đế quốc mà Anh cho rằng nó không thuộc phạm vi ảnh hưởng của
mình. Theo như ông Tonny Blair thì việc trở thành một thủ tướng lúc nào
cũng phải rong ruổi trên khắp các nẻo đường châu Âu để chăm lo cho một
chính sách an ninh chung thì là một điều không nên. Mà điều quan trọng đối
với ông lúc này để tạo nên một châu Âu vững chắc và an toàn thì các nước
phải tập trung hơn nữa vào công việc đối nội của mình. Và ý muốn của ông
Blair là làm sao vừa đóng vai trò quan trọng trong chương trình hoạt động của
CFSP vừa không phải lo lắng nhiều và mất nhiều công sức. Ông cũng muốn
các nước làm sao thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa những chính sách đối nội. Điều
18


này cho thấy những quan điểm vô cùng mâu thuẫn của Anh về CFSP. Nó
khiến cho công chúng Anh chuyển từ thái độ hào hứng xây dựng cho một
chính sách an ninh khu vực chung sang những mối nghi ngờ sâu sắc và câu
hỏi mà họ đặt ra là liệu CFSP là sự tự nguyện của các quốc gia hay là một sự
ép buộc từ phía những nhà lãnh đạo của EU có tiếng nói lớn?
Nước Anh có một lịch sử lâu đời về các liên minh quân sự và đây cũng
chính là lí do vì sao Anh có quyền kiêu hãnh về các lực lượng quân sự của
mình được trang bị vũ khí một cách đầy đủ. Họ có thể ra tay và hành động bất
cứ lúc nào nếu cần thiết. Hơn thế nữa Anh còn muốn chứng minh cho thế giới
về những các bản cam kết mà anh đang thực hiện để đạt được mục tiêu và

tham vọng của mình. Tuy nhiên, nhiệm vụ này dường như vượt quá sức của
Anh. Tham vọng của họ là nắm giữ vai trò lãnh đạo toàn cầu cũng như trong
các vấn đề thuộc phạm vi giải quyết của liên minh châu Âu.
Tuy nhiên không phải lúc nào Anh cũng thực hiện được tham vọng của
mình, Anh đang phải đối mặt với một đối thủ khá lớn, đó là Pháp. Cả hai bên
đều muốn có được vị trí cao nhất trong Liên minh châu Âu, một vị trí lãnh
đạo để mang tầm ảnh hưởng của mình quyết định tới toàn số phận châu Âu.
Họ đều muốn sử dụng EU như một cung cụ để giúp mình tiến xa hơn trong
phạm vi toàn thế giới. Nhưng nhìn chung cả Anh và Pháp đều đồng tình và
sẵn sàng trở thành những đối tác tích cực trong việc xây dựng một EU thống
nhất và thịnh vượng, một EU an toàn trong CFSP.
3.2. Những quyền lợi mà Anh được hưởng trong CFSP
Mặc dù sự gần gũi giữa Anh và Mỹ đã có từ rất lâu và ngày càng tỏ ra
mật thiết hơn nữa nhưng Anh vẫn thường cung cấp cho EU về những quan
điểum và chính sách đối ngoại cũng như trừng phạt kinh tế của Mỹ với các
nước trên thế giới như: Các vấn đề ở Cuba, Libya, Iran, Israel- Palestin, hay
các cuộc đàm phán quốc tế về môi trường và thương mại… Anh đã sử dụng
EU như một tấm mền phủ để thiết lập nên một chính sách trước mắt cũng như
lâu dài để chống lại đồng minh ngay cả những đồng minh thân cận nhất của
mình. Anh luôn tìm kiếm sự trợ giúp từ EU trong các vấn đề ở Zimbabwe hay
19


ở đảo Síp và EU phần nào đã xoá bớt đi nỗi lo sợ và e ngại của các nước đối
với “đế quốc” Anh ở các khu vực này.
Trong cuộc chiến ở Iraq, chính phủ Anh phải đối mặt với các khó khăn
liên tiếp và giấc mơ về sức mạnh quân sự toàn cầu của Anh đã bị sụp đổ.
Nhưng bất cứ lúc nào Anh cũng có được sự trợ giúp của EU và NATO trong
việc khôi phục lại sức mạnh cũng như vị thế của mình. Chính vì lí do này mà
Anh tham gia rất tích cực vào các chương trình an ninh quân sự trong khu vực

cũng như trong các khối liên hiệp như NATO. Bản tuyên bố Joint kí năm
1997, trong đó có sự tham gia cả của Mỹ và Canada về việc chống tên lửa đạn
đạo WMD. Thủ tướng Anh Tonny Blair ủng hộ rất nhiệt tình với chương
trình này. Ông nói: “Đây là một cơ hội tuyệt vời để Anh đẩy mạnh hơn nữa và
nhấn mạnh tầm quan trọng của khối liên minh Xuyên Thái Bình dương”. Ông
Peter Hain,một nghị sĩ của Anh đã phát biểu “Sự khác biệt giữa quan điểm
của Anh trong CFSP với rất nhiều quốc gia khác là chúng ta nhìn thấy sự biến
thiên giữa chúng. Nếu chính sác đối ngoại của chúng ta thành công thì EU sẽ
trở thành mọt khu vực thịnh vượng và an toàn nhất thế giới. Nhưng nếu như
chúng ta thất bại, chính sách an ninh chung bị đổ vỡ thì chính những người
lính của chúng ta phải đi thu dọn và nhặt từng mảnh vỡ ấy và chính sách hỗ
trợ của chúng ta sẽ phải mang trên vai gánh nặng số phận về một nền hoà
bình, an ninh không những trong EU mà còn trên toàn cầu.
Chính phủ của ông Blair sẽ phải tiếp tục tiến hành phát triển và đưa ra
những thuận lợi chính sách đối ngoại của mình cho công chúng. Đặc biệt ông
Blair phải nhất quyết và chắc chắn về vai trò lãnh đạo của mình trong EU,
trong các vấn đề thuộc phạm vi của CFSP. Anh sẽ phải tỏ rõ quan điểm hơn
nữa đối với Mỹ vì trong trường hợp này Anh không thể lựa chọn cả hai, hoặc
là EU, hoặc là Mỹ. Nội dung chính của CFSP là nhằm mang lại hoà bình và
an ninh cho toàn khu vực và cho cả thế giới chứ không phải đi theo các bước
chân của Mỹ để gây nên các cuộc chiến như ở Iraq hay Afghanistan… Cả EU
lên tiếng phản đối chính sách của Mỹ và những gì mà ông Bush đang tiến
hành ở Iraq, chỉ có Anh ủng hộ và tự nguyện gửi quân với số lượng khá đông
20


sang Iraq để thực hiện công việc tái thiết Iraq. Nói tóm lại quan điểm của Anh
về CFSP có những điểm chính sau:
Thứ nhất, chúng ta không thể phủ nhận về những đóng góp mà Anh đã
làm để xúc tiến nhanh quá trình thực hiện CFSP.

Thứ hai, Anh muốn cả châu Âu phát triển trong một hệ thống chính trị
và an ninh chung nhưng Anh lại không muốn mất đi bản sắc của mình. Chính
vì thế mà Anh đã khuyến khích các nước trong Liên minh phát triển công tác
đối nội. Cũng vì lí do này mà Anh đã từ chối không gia nhập hệ thống tiền tệ
chung châu Âu mà vẫn giữ nguyên đồng bảng Anh của mình.
Thứ ba, Anh luôn muốn có được vị trị lãnh đạo trong CFSP để hướng
con đường châu Âu đi theo chính sách của mình. Một phần không kém quan
trọng đó là Anh muốn tạo dựng mối quan hệ với Mỹ để kì vọng vào một trật
tự thế giới mới trong đó Anh nắm vai trò chủ chốt.

21


KẾT LUẬN
Khách quan mà nói thì Anh là một trong những quốc gia có nhiều kinh
nghiệm trong hợp tác an ninh. Bộ quốc phòng Anh đã có rất nhiều các hoạt
động chứng tỏ cho sự tồn tại của chính sách này. Có thể viện dẫn ra một số
hành động như sau: Anh là một trong những thành viên sáng lập của khối
quân sự Bắc Đại Tây dương NATO. Từ khi tham gia đến nay, vai trò của Anh
trong khối này ngày càng lớn, bên cạnh đồng minh khổng lồ là Hoa Kỳ. Và
với tiềm lực kinh tế của mình Anh cũng đang nắm giữ vai trò chủ chốt trong
CFSP. Anh đã đạt được rất nhiều thuận lợi trong các chương trình hợp tác đa
phương này. Nhưng bên cạnh đó Anh cũng phải đối mặt với không ít những
thách thức cả trong quan hệ ngoại giao, kinh tế và lực lượng quân sự, đặc biệt
là vị trí lãnh đạo mà nước nào cũng muốn dành giật lấy. Anh đang phải đứng
trước hai ngả đường vô cùng khó khăn để lựa chọn. Nhiệm vụ lớn nhất của
Anh lúc này là phải làm sao có được những sáng tạo trong vận dụng và thực
hiện, cũng như xây dựng những nguyên tắc chỉ đạo cơ bản các hoạt động cơ
bản của chính sách chung này. Chúng ta có thể ti tưởng vào một châu Âu
thống nhất, an ninh va thịnh vượng, không chỉ bởi sự đóng góp vô cùng tích

cực của các quốc gia tự nguyện tham gia và chiến lược phòng thủ chung mà
còn do tình hình ngày càng phức tạp của thế giới, buộc các quốc gia phải liên
kết lại để chông lại những thế lực hòng lật đổ hoà bình tròn toàn liên minh.

22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. />2.
3. Chính sách đối ngoại của một số nước lớn trên thế giới.
4.

/>
%91c_Li%C3%AAn_hi%E1%BB%87p_Anh_v%C3%A0_B%E1%BA
%AFc_Ireland

23


MỤC LỤC
.......................................................................................................22
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................23
3. Chính sách đối ngoại của một số nước lớn trên thế giới............23

24



×