Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

CHUYÊN đề KINH tế QUỐC tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.5 KB, 21 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết và mục đích nghiên cứu
Trong xu hướng toàn cầu hóa, các nước trên thế giới đang hội nhập mạnh
mẽ vào nền kinh tế khu vực cũng như nền kinh tế thế giới trên cơ sở đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế. Để có thể tiến hành từng
bước hội nhập vững chắc và thành công, một nhân tố không thể thiếu đó
chính là hành lang pháp lý tiến bộ, theo kịp với thực tiễn quốc tế. Xét trong
lĩnh vực thương mại quốc tế, các nước tham gia phải xây dựng và áp dụng
nghiêm túc hệ thống các nguyên tắc nhằm tạo ra một môi trường cạnh tranh
lành mạnh. Trong hệ thống các nguyên tắc đó, Tối huệ quốc (MFN) là một
trong những nguyên tắc cơ bản nhất.
Tối huệ quốc (MFN) có bản chất là đối xử bình đẳng - cơ sở để tạo
nên môi trường thương mại quốc tế cạnh tranh lành mạnh. Nguyên tắc này
được thể hiện rất rõ qua các hiệp định của Tổ chức Thương mại quốc tế
(WTO), đồng thời cũng là một trong những nguyên tắc quan trọng áp dụng
trong quan hệ hợp tác kinh tế song phương và đa phương.
Nhằm tìm hiểu rõ hơn về nguyên tắc Tối huệ quốc (MFN) , em xin
chọn đề tài “Phân tích nội dung của nguyên tắc tối huệ quốc (MFN) trong
quan hệ thương mại quốc tế và thực tiễn áp dụng nguyên tắc tối huệ quốc
(MFN) ” làm chuyên đề trong quá trình học tập môn Kinh tế quốc tế.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Bố cục đề tài được chia làm ba phần chính sau:
Chương I: Giới thiệu chung về nguyên tắc Tối huệ quốc (MFN)
Chương II: Thực tiễn áp dụng nguyên tắc Tối huệ quốc (MFN)
Chương II: Tổng quát về tác động của nguyên tắc Tối huệ quốc (MFN)

1


CHƯƠNG I
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ MFN


( MOST FAVOURED NATIONAL)
1. Lịch sử ra đời và khái niệm
Thuật ngữ MFN là một thuật ngữ có lịch sử lâu đời, nó đã xuất hiện
từ thế kỷ 12 ở một số dạng khác nhau. Tuy nhiên nó chỉ chính thức trở
thành một nguyên tắc có ý nghĩa trong thương mại quốc tế khi vào thế kỷ 17
các quốc gia châu Âu cạnh tranh với nhau trong việc xây dựng hệ thống
chính sách thương mại. Hiệp ước có điều khoản MFN là hiệp ước giữa Hoa
Kỳ và Pháp năm 1778. Tiếp theo đó, điều khoản MFN cũng được đưa vào
Hiệp ước Cobden-Chevalier năm 1860 giữa Pháp và Anh. Từ đó trở đi,
nguyên tắc MFN đã được áp dụng trong nhiều hiệp định thương mại khác
của Châu Âu với những mức độ khác nhau.
Tình hình chính trị căng thẳng trước và trong Chiến tranh thế giới lần
thứ nhất đã làm cho nguyên tắc MFN bị mai một và gần như bị mất hẳn. Khi
chiến tranh gần kết thúc, nhiều quốc gia đã có những nỗ lực nhằm phục hồi
lại tầm quan trọng của MFN nhưng không thành công. Mãi đến tháng 1 năm
1918, tại điểm thứ ba trong chương trình 14 điểm của mình, Tổng thống
Hoa Kỳ Wilson đã kêu gọi dỡ bỏ càng nhiều càng tốt tất cả các hàng rào cản
trở kinh tế và thiết lập các điều kiện thương mại bình đẳng giữa các quốc gia
cùng đồng tâm phấn đấu vì hoà bình và cam kết duy trì hoà bình.
Hội nghị Hoà bình thế giới sau chiến tranh thế giới thứ nhất không
bàn đến hàng rào cản trở thương mại, nhưng trong Hiệp ước hoà bình, Đức
và một số nước có quyền lực khác đã được yêu cầu mở rộng vô điều kiện
MFN trong thương mại với các nước đồng minh trong 3 năm. Hội Quốc
Liên cũng dẫn chiếu tới nguyên tắc "đối xử bình đẳng” trong thương mại
giữa các quốc gia thành viên, điều này cũng tương đương với nguyên tắc
MFN.
2


Hội nghị Kinh tế Thế giới Geneve tháng 5 năm 1927 đã tuyên bố ủng

hộ khả năng diễn giải nguyên tắc MFN, và nhấn mạnh rằng nguyên tắc này
cần được sử dụng rộng rãi trong các hiệp ước thương mại.
Năm 1933, Hội Quốc Liên đã xuất bản một văn bản mẫu với khoảng
300 từ về nguyên tắc MFN. Tuy nhiên, do tác động của khủng hoảng kinh tế
thế giới 1929-1933, nguyên tắc MFN đã không nhận được sự ủng hộ rộng
rãi. Nguyên tắc này gần như đã biến mất vì cuộc Chiến tranh Thế giới thứ
hai, nhưng sau chiến tranh nguyên tắc lại hồi sinh mạnh mẽ và cùng với sự
phát triển của hệ thống thương mại đa phương, với sự ra đời của Hiệp định
chung về thuế quan và thương mại (GATT 1947), MFN đã trở thành nền
tảng của thương mại quốc tế.
Theo GATT 1947, MFN là nghĩa vụ ràng buộc chung, bất kỳ một đối
xử nào được dành cho một nước thì ngay lập tức cũng sẽ được mở rộng tới
tất cả các thành viên khác. Điều này cũng được quy định trong một số hiệp
định của WTO. Ví dụ, tất cả thành viên GATT dành cho nhau đối xử thuận
lợi trong việc áp dụng và điều hành các quy định hải quan, thuế quan và các
khoản thu khác có liên quan như đã dành cho bất kỳ một nước khác. Năm
1948, quy chế này chính thức được GATT đưa vào điều 1 của GATT, trở
thành cơ sở quan trọng trong việc giao dịch thương mại trên thế giới.
MFN là nguyên tắc cơ bản trong hiệp định chung về thương mại
hàng hóa (GATT) nhằm bảo đảm sự đối xử công bằng với các quốc gia
tham gia hiệp định, không cho phép đối xử đặc biệt hơn hoặc kém giữa các
nước tham gia GATT.
Không có một định nghĩa chung về MFN cho mọi lĩnh vực, nhưng
xét về bản chất MFN đơn giản có nghĩa là nếu một nước dành đối xử thuận
lợi nhất cho bất kỳ một nước thì cũng dành đối xử như vậy cho tất cả các
thành viên khác của WTO. Do đó, bản chất của MFN là đối xử bình đẳng,
không phân biệt đối xử và nguyên tắc này đã góp phần thúc đẩy tự do hoá
thương mại .
3



2. Cơ sở pháp lý và cách thức áp dụng
a) Cơ sở pháp lý:
Cơ sở pháp lý của đãi ngộ tối huệ quốc thường là điều khoản quy
định về MFN. Căn cứ vào điều khoản này mà bên ký kết cùng một bên hoặc
nhiều bên ký kết khác phải thực hiện nghĩa vụ đối với nhau, dành cho nhau
những đãi ngộ tối huệ quốc trong phạm vi áp dụng do WTO quy định.
Có 2 phương pháp để đạt được sự đãi ngộ MFN từ một hay nhiều
nước khác:
+ Kí kết các hiệp định thương mại và trong hiệp định thương mại đó
có các điều khoản quy định về MFN.
+ Quy định của các tố chức quốc tế mà các quốc gia thành viên của
tổ chức phải tuân thủ.
Thông thường quy chế tối huệ quốc mang tính song phương. Tuy
nhiên quy chế này cũng có thể áp dụng đơn phương nhằm đáp ứng tình
trạng kinh tế đặc biệt của một quốc gia hay do áp lực chính trị.
VD: Mỹ không áp dụng nguyên tắc MFN đối với Cuba mặc dù Cuba và Mỹ
đều là thành viên của WTO.
b) Cách áp dụng tối huệ quốc:
Áp dụng MFN ngay lập tức và vô điều kiện(áp dụng tối huệ quốc
kiểu châu Âu): Các nước dành cho nhau MFN(ký kết các hiệp định ưu đãi
và miễn trừ thuế cho bất kì một quốc gia thứ ba nào) mà không kèm theo bất
kì điều kiện ràng buộc nào.
VD: Năm 1641, đãi ngộ tối huệ quốc lần đầu tiên được áp dụng trong điều
ước kí kết giữa Hà Lan và Bồ Đào Nha.
Áp dụng MFN có điều kiện (áp dụng tối huệ quốc kiểu châu Mỹ):
quốc gia được hưởng MFN phải chấp nhận những điều kiện về kinh tế hoặc
chính trị mà quốc gia cho hưởng đòi hỏi.
4



VD: Năm 1778 lần đầu tiên được áp dụng cho điều ước thương mại mà Mỹ
kí với Pháp.
Năm 1979, Trung Quốc ký hiệp định thương mại với Mỹ quy định 2 bên
sẽ dành cho nhau những đãi ngộ tối huệ quốc về lĩnh vực xuất nhập khẩu…
Nhưng hàng năm quốc hội Mỹ vẫn phải xét và phê chuẩn cho Trung Quốc
được hưởng những ưu đãi tối huệ quốc từ Mỹ. Đây chính là loại ưu đãi tối
huệ quốc có điều kiện.
3. Ngoại lệ MFN
Tương tự như trong lĩnh vực thương mại hàng hoá và sở hữu trí tuệ,
Đãi ngộ tối huệ quốc (MFN) là một nguyên tắc nền tảng trong thương mại
dịch vụ. Điều II, GATS quy định “Đối với bất kỳ biện pháp nào thuộc phạm
vi điều chỉnh của hiệp định này, mỗi Thành viên phải ngay lập tức và không
điều kiện dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ của bất kỳ Thành
viên nào khác, sự đãi ngộ không kém thuận lợi hơn sự đãi ngộ mà Thành
viên đó dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ của bất kỳ nước nào
khác”. Nghĩa vụ này có thể được hiểu là các thành viên WTO sẽ dành cho
các thành viên khác và đồng thời được hưởng từ các thành viên đó đãi ngộ
ưu đãi nhất mà mỗi thành viên dành cho bất kỳ quốc gia nào, bất kể quốc
gia đó có là thành viên WTO hay không. Như vậy, về nguyên tắc, mọi biện
pháp mở cửa thị trường đối với các dịch vụ thuộc GATS, bất kể được cam
kết đơn phương, song phương hoặc đa phương đều phải được áp dụng vô
điều kiện với mọi thành viên WTO.
Tuy nhiên, trên thực tế, đàm phán mở cửa thị trường dịch vụ là một
nội dung hết sức phức tạp bởi chính những thuộc tính của thương mại dịch
vụ. Trước hết, do tính chất vô hình của dịch vụ nên rất khó định lượng tác
động của các biện pháp bảo hộ cũng như giá trị của các cam kết tự do hoá
trong lĩnh vực này. Bởi vậy, trong đàm phán về dịch vụ không có được
những công thức cắt giảm chung như trong thương mại hàng hoá và mỗi
5



quốc gia tự đưa ra một lịch trình cam kết riêng. Với trình độ phát triển, năng
lực đàm phán khác nhau, mỗi quốc gia có một Danh mục cam kết riêng và
không nước nào giống nước nào. Thứ hai, các nhóm nước có cách tiếp cận
rất khác nhau trong đàm phán dịch vụ. Trong khi các nước công nghiệp
phát triển muốn thúc đẩy mạnh mẽ các thoả thuận mở cửa thị trường thì các
nước đang phát triển lại hết sức dè dặt trong việc đưa ra các cam kết. Bên
cạnh lý do về trình độ phát triển, một nguyên nhân không kém phần quan
trọng là sự e ngại việc mở cửa thiếu kiểm soát các dịch vụ nhạy cảm (tài
chính, viễn thông, vận tải, giáo dục…) có thể dẫn đến mất ổn định, tác động
tiêu cực tới phát triển kinh tế-xã hội. Cụ thể, trong số các thành viên đang
phát triển của WTO, 44 nước cam kết dưới 20 phân ngành và 47 nước cam
kết từ 21 đến 60 phân ngành. Các nước phát triển đều cam kết từ 60 đến 130
phân ngành. Từ hai lý do cơ bản nêu trên, nếu áp dụng cứng nhắc nguyên
tắc MFN sẽ không thúc đẩy được tiến trình đàm phán dịch vụ. Bởi điều này
sẽ mâu thuẫn với một nguyên tắc quan trọng của đàm phán là nguyên tắc có
đi có lại và không khuyến khích các thành viên tự nguyện đưa ra các cam
kết tự do hoá dịch vụ.
Một số ngoại lệ được nêu rõ trong những bản dự thảo ban đầu của các
Điều khoản MFN, ví dụ như trong GATT. Khi xây dựng Hiệp định GATT,
thực tế đã có một loạt các hệ thống ưu đãi có hiệu lực, đặc biệt là Hệ thống
Ưu đãi của Khối Thịnh Vượng chung. Hiệp định GATT 1947 đã thừa nhận
sự tiếp tục tồn tại của các hệ thống ưu đãi này như những ngoại lệ có từ
trước GATT với giả thiết rằng ảnh hưởng của các ưu đãi này sẽ giảm bớt
theo thời gian. Trên thực tế, cùng với sự sụp đổ của hệ thống thực dân cũ,
các ưu đãi được ghi tại phụ lục kèm theo Điều I của GATT đã mất đi hiệu
lực (ví dụ như “thương mại ưu đãi” của Pháp đối với Đông Dương theo phụ
lục B).
Các ngoại lệ của nghĩa vụ MFN quy định trong Hiệp định GATT và

các Hiệp định khác gồm có:
6


-

Thoả thuận thương mại khu vực (liên minh thuế quan, khu vực

thương mại tự do): Các thể chế thương mại khu vực đã và đang được hình
thành trên nhiều khu vực theo Điều khoản XXIV của GATT 1994 (quy định
về áp dụng theo lãnh thổ, vận chuyển biên giới, liên minh quan thuế và các
khu vực thương mại tự do).
-

Thương mại biên giới: Thương mại biên giới được xem là một thực

tế thương mại quốc tế đặc biệt mà cư dân hai bên biên giới của các nước
láng giềng được phép buôn bán không theo những quy định xuất nhập khẩu
thông thường. Các nước láng giềng thường có những chính sách riêng để
tạo điều kiện cho quan hệ thương mại của cư dân hai bên biên giới và những
chính sách này không phải áp dụng đối với những nước không có cùng biên
giới.
-

Mua sắm của Chính phủ: Nghĩa vụ MFN của Điều I, GATT không

áp dụng đối với các sản phẩm nhập khẩu vì mục đích tiêu dùng tức thời
hoặc tiêu dùng cuối cùng của Chính phủ và không nhằm mục đích bán lại
hoặc sử dụng cho sản xuất hàng hoá để bán.
-


Ngoại lệ chung theo Điều XX của GATT 1994: Điều khoản XX của

GATT 1994 cho phép các thành viên được hạn chế nhập khẩu từ hoặc xuất
khẩu đến những nguồn cụ thể. Những biện pháp này được áp dụng vì những
mục đích cụ thể, gồm:


Bảo vệ đạo đức công cộng



Bảo vệ cuộc sống của con người, động vật hay thực vật và

bảo vệ sức khoẻ


Bảo đảm sự tôn trọng pháp luật và các quy tắc không bất

tương thích với các quy định của hiệp định này


Liên quan tới các sản phẩm sử dụng lao động của tù nhân



Bảo vệ di sản quốc gia có giá trị nghệ thuật, lịch sử hay khảo

cổ



Liên quan tới việc gìn giữ nguồn tài nguyên có thể bị cạn kiệt,
7


nếu các biện pháp đó cũng được áp dụng hạn chế cả với sản xuất
và tiêu dùng trong nước


Thi hành nghĩa vụ của một hiệp định liên chính phủ về một

hàng hoá cơ sở ký kết phù hợp với các tiêu thức đã được đệ trình
và không bị phản đối


Hạn chế với xuất khẩu nguyên liệu do trong nước sản xuất và

cần thiết có đủ số lượng thiết yếu nguyên liệu đó để đảm bảo hoạt
động chế tác trong thời kỳ giá nội được duy trì dưới giá ngoại
nhằm thực hiện một kế hoạch ổn định kinh tế của chính phủ, với
điều kiện các hạn chế đó không dẫn tới tăng xuất khẩu hay tăng
cường mức bảo hộ với ngành công nghiệp trong nước và không vi
phạm các quy định của GATT về không phân biệt đối xử


Nhằm có được hay phân phối một sản phẩm thuộc diện khan

hiếm chung trong nước hay tại một địa phương.
-


Ngoại lệ về an ninh theo Điều XXI của GATT 1994: Điều XXI của

GATT cho phép các thành viên được hạn chế nhập khẩu từ và xuất khẩu đến
những nước cụ thể vì lý do bảo vệ an ninh quốc gia.
-

Ngoại lệ liên quan đến việc thực hiện nguyên tắc đối xử khác biệt và

thuận lợi hơn cho các nước đang phát triển. Ngoại lệ này cho phép các nước
dành các đối xử khác biệt và thuận lợi hơn cho các nước đang phát triển mà
không đòi hỏi có sự đối đẳng từ các nước đang phát triển và không phải áp
dụng cho các nước phát triển khác. Ngoại lệ này được áp dụng trong các
trường hợp sau:


Hệ thống ưu đãi phổ cập (GSP): đây là hệ thống thuế quan ưu

đãi mà các nước phát triển dành cho các nước đang phát triển;


Đối xử khác biệt và thuận lợi hơn đối với các biện pháp phi

thuế quan dành cho các nước đang phát triển;


Các thoả thuận giữa các nước đang phát triển với nhau không

phải áp dụng cho các nước phát triển;
8




-

Đối xử đặc biệt dành cho các nước kém phát triển.

Các ngoại lệ khác được GATT công nhận (thuế chống phá giá, thuế

chống trợ cấp, trả đũa theo quy định về giải quyết tranh chấp): Các hiệp
định WTO cho phép áp dụng những biện pháp cụ thể sau khi đã áp dụng các
thủ tục cụ thể dưới hình thức thuế đối kháng, thuế chống phá giá, các biện
pháp trả đũa theo quy trình giải quyết tranh chấp. Các biện pháp này được
áp dụng dưới hình thức sản phẩm bắt nguồn từ các nước thành viên cụ thể
của WTO.
-

Các hiệp định nhiều bên: Các Hiệp định của WTO bao gồm 4 Hiệp

định được gọi là các Hiệp định nhiều bên. Đó là: Hiệp định Thương mại về
Máy bay Dân dụng, Hiệp định về Mua sắm Chính phủ, Hiệp định Quốc tế
về Sữa và Hiệp định Quốc tế về Sản phẩm Thịt bò. Các Hiệp định này chỉ
áp dụng cho các thành viên thoả thuận chấp nhận chúng, nên những quyền
lợi dành cho các thành viên của các hiệp định này chỉ giới hạn cho những
thành viên nào đã chấp nhận từng hiệp định đó. Trường hợp này gọi là MFN
có điều kiện: là việc dành MFN căn cứ vào một số điều kiện mà nước được
hưởng phải đáp ứng. Do đó quy chế thành viên của một hiệp định có thể là
một điều kiện. Điều này đôi khi được gọi là MFN với điều kiện cùng tham
gia một hiệp định.

9



CHƯƠNG II
THỰC TIỄN ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC TỐI HUỆ QUỐC
(MFN)
1.

Thực hiện theo MFN
Nghĩa vụ MFN là nghĩa vụ cơ bản mà các nước thành viên của WTO

phải tuân thủ. Đồng thời nó cũng là nghĩa vụ bắt buộc trong các Hiệp định
thương mại song phương, các thoả thuận thương mại khu vực. Vì vậy, hầu
như tất cả các nước trên thế giới đều phải thực hiện nghĩa vụ này. Tuy
nhiên, song song với các quy định ràng buộc về nghĩa vụ MFN các hiệp
định thương mại song phương, đa phương hay các thỏa thuận khu vực cũng
cho phép áp dụng các trường hợp ngoại lệ. Nghĩa là một nước có thể sử
dụng các ngoại lệ của MFN để dành đối xử MFN cho một hoặc một số nước
thay vì toàn bộ các nước thành viên của hiệp định. Mục tiêu cuối cùng của
việc áp dụng các ngoại lệ MFN này là làm giảm sức cạnh tranh của hàng
hóa xuất khẩu từ các nước không được hưởng đối xử MFN.
Thực tế cho thấy đã có nhiều trường hợp trong đó một nước quy định
dành MFN cho một nước khác chỉ khi một số điều kiện không liên quan đến
thương mại được đáp ứng. Ví dụ điển hình là trường hợp Quốc hội Hoa Kỳ
thông qua Luật Jackson-Vanik sửa đổi Luật Thương mại 1974 hạn chế việc
dành MFN cho các nước cho các nước có nền kinh tế phi thị trường nếu các
nước này từ chối quyền di cư đối với công dân của họ, đánh thuế di cư cao
hơn mức thuế danh nghĩa, và áp dụng mức thu cao hơn mức danh nghĩa đối
với ai muốn di cư. Động cơ đưa ra Luật Jackson-Vanik ban đầu nhằm vào
Liên xô cũ, cho đến nay nó vẫn còn hiệu lực và đã được sử dụng trong quan
hệ thương mại giữa Hoa Kỳ với Trung Quốc, Việt Nam, Rumani, Mông

cổ... Việc Hoa Kỳ từ chối không cho các nước nói trên hưởng MFN có
nghĩa là hàng hoá của các nước đó sẽ bị Hoa Kỳ áp dụng thuế suất cao theo
10


Luật Smoot-Hawley. Điều này sẽ làm giảm đáng kể sức cạnh tranh của hàng
hóa xuất khẩu của các nước đó trên thị trường Hoa Kỳ.
Một ngoại lệ MFN khác được các nước sử dụng khá phổ biến là ngoại
lệ về các thoả thuận thương mại “khu vực” mà gần đây thường được gọi đó
là “chủ nghĩa khu vực” (regionalism) và thậm chí một số trường hợp còn gọi
là “chủ nghĩa song phương” (bilateralism). Do GATT thừa nhận sự tồn tại
của các thoả thuận thương mại khu vực như một ngoại lệ của MFN nên
trong 4 thập kỷ từ 1950 đến 1990 có 75 thoả thuận thương mại khu vực
được hình thành và riêng thập kỷ 1990 đến 2000 đã có tới 82 thoả thuận như
vậy ra đời. Tuy nhiên, có tới hơn 100 kiểu “thoả thuận thương mại khu vực”
chỉ mang danh nghĩa vì chỉ có một số hàng hoá được đưa vào diện thực
hiện. Do đó, nghĩa vụ MFN đang bị đe doạ nghiêm trọng và WTO đã buộc
phải thành lập một Uỷ ban để rà soát và kiểm tra các thoả thuận thương mại
khu vực này nhưng cho đến nay, các thoả thuận thương mại khu vực và
song phương có chiều hướng ngày càng tăng lên. Ngày nay khoảng 50%
tổng giao dịch thương mại toàn cầu được tiến hành thông qua các thoả thuận
thương mại khu vực.
Việc áp dụng MFN có thể chia thành các giai đoạn :
Giai đoạn đầu (từ 1947-1954)
Việc đối xử công bằng là thực sự cần thiết về cả kinh tế và chính trị
đối với các nước sáng lập GATT nhằm tránh được cuộc ganh đua về thuế
trong cuộc khủng hoảng 1929-1933 khiến thương mại thế giới giảm hai
phần ba giá trị danh nghĩa, do đó, việc không tuân thủ nguyên tắc này chỉ
được tuân theo các trường hợp ngoại lệ.
Từ 1954 đến 1979

Các quy định ban đầu của GATT, điển hình là MFN, không phân
biệt giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển. Tất cả các bên
tham gia đều có quyền và nghĩa vụ như nhau bất kể trình độ phát triển như
11


thế nào. Tuy nhiên, đến đầu những năm 50, trật tự này bắt đầu bị đặt dấu
hỏi, cả ở bên trong và bên ngoài GATT. Bên cạnh đó, số lượng các nước
đang phát triển trở thành thành viên GATT cũng tăng lên, nhiều nước quan
điểm rằng sẽ là không thực tế nếu kì vọng các nước đang phát triển nghèo
với nền kinh tế dễ bị tổn thương có thể canh tranh trong cùng điều kiện với
các nước phát triển.
Vì vậy, đến năm 1979, vòng đàm phán Tokyo đã đưa ra nguyên tắc
đối xử đặc biệt đối với các nước đang phát triển, được gọi là điều khoản thi
hành. Điều khoản này hợp pháp hóa các ưu đãi thuế quan cho các nước
đang phát triển trong khuôn khổ Hệ thống Ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP)
và đồng thời cho phép các ngoại lệ đối với nguyên tắc nhân nhượng lẫn
nhau trong đàm phán thuế quan, ý tưởng là các nước phát triển cần giảm
thuế quan với các hàng hóa của các nước đang phát triển mà không đòi hỏi
đổi lại việc cắt giảm thuế quan tương tự. Ngoài ra điều khoản này còn cho
phép các nước đang phát triển dễ dàng tham gia vào các khu vực thương
mại tự do hơn. Thêm vào đó, chính phủ của các nước đang phát triển cũng
có thể tăng cường khả năng bảo vệ đối với các doanh nghiệp trong nước nhờ
khả năng linh hoạt hơn về rào cản thương mại đối với quyền cung cấp hỗ trợ
của chính phủ.
Từ 1980 đến nay
Nhiều ý kiến muốn các nước đang phát triển tham gia nhiều hơn vào
các vòng đàm phán vì người ta ngày càng nhận ra rằng đối xử đặc biệt cũng
có cái giá của nó vì đàm phán mà ko có sự phụ thuộc lẫn nhau khiến cho các
nước đang phát triển trở nên kém hấp dẫn hơn đối với các đối tác khác. Do

đó, khi vòng đàm phán Uruguay bắt đầu, nhiều nước đang phát triển quyết
định tham gia tích cực hơn vào vòng đàm phán nhằm đạt được những hỗ trợ
cho lợi ích xuất khẩu của họ. Họ chấp nhận tuân thủ MFN ở nhiều phân
ngành hơn so với trước (Cụ thể, trong số các thành viên đang phát triển của
WTO, 44 nước cam kết dưới 20 phân ngành và 47 nước cam kết từ 21 đến
12


60 phân ngành. Các nước phát triển đều cam kết từ 60 đến 130 phân ngành.)
Tuy nhiên các điều khoản đối xử đặc biệt với các nước đang phát triển vẫn
hầu như ko có gì thay đổi.
2.

Ngoại lệ MFN
Ngoại lệ MFN là việc cho phép một thành viên của WTO được hoặc

chưa thực hiện những nhiệm vụ nhất định. Ngoại lệ đã được ghi trong các
hiệp định giữa các bên riêng lẻ, dành ưu tiên cho một số nước nhất định,
hoặc áp dụng các biện pháp tự vệ với một số hàng hóa miễn sao nó thỏa
mãn một số điều kiện nhất định.
Sự xuất hiện của ngoại lệ: Hiệp định chung về thuế quan và thương
mại (GATT) và Hiệp định chung về thương mại và dịch vụ (GATS) đều
đồng ý cho sự xuất hiện của ngoại lệ trong trường hợp cần thiết để tăng tính
mềm dẻo trong thương mại quốc tế. Ngoại lệ trợ giúp cho các nước đang
phát triển với việc đồng ý cho duy trì hệ thống thuế quan và hạn ngạch một
cách tự do hơn. Mục tiêu để giúp tăng mức sống cho các quốc gia này và hỗ
trợ các ngành kinh tế mới đang non kém. Tuy nhiên, để bảo vệ nguyên tắc
MFN, các nước đã quyết định ngoại lệ chỉ được chấp nhận một lần duy nhất
và không được bổ sung thêm. Hiện nay các ngoại lệ đang được xem xét lại
như đã quy định và về nguyên tắc thời hạn của chúng là 10 năm.

Những trường hợp ngoại lệ cuả MFN :
- Các quốc gia nằm trong khối tự do thương mại hoặc các hiệp định tự
do thương mại được phép dành cho nhau những đặc quyền mậu dịch hơn so
với các nước bên ngoài (ASEAN, NAFTA…)
Ví dụ: Điều 24 của GATT công nhận các nước thuộc một thỏa thuận khu
vực có thể dành cho nhau những ưu đãi lớn hơn so với ưu đãi dành cho
nước thành viên WTO nằm ngoài thỏa thuận khu vực đó. Như vậy, các nước
ASEAN có thể dành cho nhau không chỉ thuế suất thấp hơn mà còn có thể là
những tiêu chuẩn kỹ thuật ít ngặt nghèo hơn.
13


Campuchia, Mỹ, Anh... đều tham gia vào WTO được Việt Nam đối xử
theo nguyên tắc MFN. Ô tô nhập khẩu được Việt Nam áp 1 mức thuế chung
(100-160%) tùy theo từng loại xe để bảo hộ công nghiệp ô tô trong nước.
Giá xe ô tô ở Việt Nam rất đắt. Trong khi đó nước Campuchia miễn thuế
nhập khẩu ô tô. Giá xe ô tô ở Campuchia rẻ bằng 1 nửa so với Việt Nam.
Tuy nhiên theo thỏa thuận khu vực, tại khu kinh tế thương mại Lao Bảo các
tất cả các tổ chức, cá nhân hoạt động đầu tư, kinh doanh có trụ sở đăng ký
tại Khu KTTM Lao Bảo đều được nhập khẩu ôtô du lịch và đăng ký sử dụng
tại Khu KTTM với thuế suất và thuế nhập khẩu bằng 0 và không hạn chế số
lượng nhập khẩu, đăng kí biển kiểm soát Lào và Campuchia. Ở vùng này xe
ô tô chỉ là một thứ rất bình thường của các gia đình, chỉ với 500-1000 usd
bạn cũng có thể sở hữu một chiếc ô tô bình dân. Đã từng một thời Việt Nam
rộ lên việc buôn lậu xe biển Lào và Campuchia vào các thành phố. Điều này
lý giải tại sao chúng ta rất hay bắt gặp những chiếc xe lạ từ Lào, Capuchia
nhưng toàn của các ông chủ Việt Nam. Các Đại gia Việt mua xe xịn nhờ
những người ở Campuchia, Lào đứng tên rồi đưa về Việt Nam.
Chỉ sau khi chính phủ áp thuế nhập khẩu ô tô cũ tăng lên hơn 100%, và
giảm thời hạn lưu thông xe biển nước ngoài xuống 14 ngày, đã hạn chế

được tối đa việc xe lậu (trước đây xe biển nước ngoài cứ sau 1 tháng phải
quay lại hải quan để xin gia hạn).
Theo cam kết trong ASEAN, đến năm 2018 một số dòng xe nguyên
chiếc nhập khẩu sẽ áp dụng thuế suất 0%. Xe nhập khẩu từ các nước thành
viên WTO cũng sẽ giảm mạnh theo cam kết giảm 70% sau 7 năm ra nhập.

14


Chỉ với 500USD cho chiếc Daewoo Tico

Khoảng 85.000 USD cho chiếc Poscho

15


14.000 USD cho chiếc RX300 của Lexus
Cơ chế thương mại đường biên cũng là một ngoại lệ của MFN. Quy
định này cho phép một thành viên của WTO dành các ưu đãi thương mại
cho các nước láng giềng để tạo điều kiện thúc đẩy các thay đổi dịch vụ được
sản xuất và tiêu dùng nội địa giữa các vùng biên giới giáp nhau.
Ví dụ: Theo Tổng cục Hải quan, hiện giao thương giữa Việt Nam và những
nước có chung đường biên giới có hai cách thức: buôn bán chính ngạch và
buôn bán qua biên giới. Trong đó, buôn bán qua biên giới bao gồm hàng
hoá xuất nhập khẩu biên giới (hàng tiểu ngạch), hàng hoá mua bán, trao đổi
của cư dân biên giới, hàng hoá đưa vào chợ biên giới, chợ cửa khẩu, chợ
trong khu kinh tế cửa khẩu. Hàng hoá buôn bán qua biên giới khi xuất khẩu,
nhập khẩu đều phải nộp thuế và lệ phí (nếu có) theo quy định của pháp luật
Việt Nam, trừ hàng hoá trao đổi của cư dân biên giới trong định lượng miễn
thuế, được hưởng các ưu đãi về thuế xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa qua

biên giới theo thỏa thuận song phương giữa Việt Nam với những nước có
chung biên giới. Lý giải về vấn đề này, theo bà Trần Thị Thúy Hoa, Tổng
thư ký Hiệp hội cao su Việt Nam, nếu một doanh nghiệp Trung Quốc mua
mủ cao su của Việt Nam theo đường chính ngạch thì phải chịu thuế từ 1820% trên giá trị lô hàng, còn mua theo tiểu ngạch thì thuế chỉ còn 9-10%,
giảm gần phân nửa so với chính ngạch.
Trong năm 2010, Chính phủ Việt Nam đã triển khai dành ưu đãi thuế quan
bằng 0% cho 25 nhóm hàng nông sản của Campuchia xuất khẩu sang Việt
Nam, phía Campuchia đã cấp C/O (giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa) ưu
đãi cho bốn nhóm mặt hàng của Việt Nam xuất khẩu sang Campuchia là
thuốc lá, hạt điều, sầu riêng và măng cụt.
Từ năm 2008, Việt Nam cũng đã ban hành danh mục giảm thuế nhập khẩu
các mặt hàng từ Lào, với mức giảm 50% hoặc được hưởng thuế suất nhập
khẩu 0% theo chương trình ưu đãi Việt – Lào. Các mã hàng nằm trong danh
16


mục giảm 50% thuế suất bao gồm: thịt, trứng, lúa gạo, đường, động cơ đốt
trong, xe vận tải hàng hóa….
Ngoại lệ MFN thứ ba đó là quyết định của đại hội đồng GATT ngày
25.6.1971 về việc thiết lập hệ thống ưu đãi phổ cập (GSP) chỉ áp dụng cho
hàng hoá xuất xứ từ các nước đang phát triển và chậm phát triển.
Trong chương trình GSP, các nước phát triển dành cho một số nước đang
phát triển và chậm phát triển mức thuế quan ưu đãi (thậm chí bằng 0%) mà
không đòi hỏi các nước này phải dành ưu đãi tương tự.
Ví dụ: Hoa Kỳ cũng có chương trình GSP để giúp kinh tế tại các
nước đang phát triển. Chương trình này miễn thuế nhập cảng cho khoảng
3,400 sản phẩm nhập cảng từ 134 nước và lãnh thổ, bao gồm cả 43 nước
chậm tiến nhất. Hoa Kỳ dành thêm 1,400 sản phẩm cho những nước này.
Tổng thống Hoa Kỳ là người ký quyết định những mặt hàng và những nước
được hưởng GSP. Để được miễn thuế nhập khẩu theo chế độ ưu đãi này: (1)

hàng phải được nhập trực tiếp từ nước hưởng lợi vào lãnh thổ hải quan Hoa
Kỳ và (2) ít nhất 35% trị giá hàng hoá phải được tạo ra tại nước hưởng lợi.
Danh sách sản phẩm được hưởng quy chế GSP có thể thay đổi, thêm hoặc
bớt hàng năm và đối với từng quốc gia. Thời gian được hưởng quy chế GSP
không phải vĩnh viễn, trái lại có thời hạn. Những hàng hoá được hưởng GSP
của Hoa Kỳ bao gồm hầu hết các sản phẩm công nghiệp và bán công
nghiệp, một số mặt hàng nông thuỷ sản, và các nguyên liệu công nghiệp.
Không phải sản phẩm nào cũng có thể xin được hưởng quy chế GSP. HoaKỳ ấn định từ 1995 một số sản phẩm sau đây không được nằm trong quy
chế này: hầu hết các hàng dệt may, đồng hồ, giầy dép, túi cầm tay, đồ đựng
hành lý, khăn giải bàn, găng tay để làm việc, và quần áo bằng da. Ngoài ra
một số sản phẩm nhập cảng có tính cách nhậy cảm cũng không được bao
gồm trong danh sách GSP như thép, kính, và đồ điện tử.

17


CHƯƠNG III
TỔNG QUÁT TÁC ĐỘNG CỦA NGUYÊN TẮC
TỐI HUỆ QUỐC (MFN)
Nguyên tắc Tối huệ quốc (MFN) là một trong những nguyên tắc cơ
bản nhất được áp dụng trong thương mại quốc tế hiện nay. Được quy định
lần đầu tại Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) và sau
này là Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ (GATS), nguyên tắc Tối huệ
quốc có tác động rất lớn đến quá trình tự do hóa thương mại của nền kinh tế
thế giới trong xu hướng toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ trong thời gian
gần đây. Khi tham gia kí kết trở thành thành viên của WTO, các nước đều
phải tuân thủ nguyên tắc Tối huệ quốc, tuy nhiên cách thức áp dụng của mỗi
nước không giống nhau. Có hai cách thức áp dụng nguyên tắc Tối huệ quốc:
một là có điều kiện ràng buộc (kiểu châu Mỹ) và không có điều kiện ràng
buộc (kiểu châu Âu). Mỗi cách thức được áp dụng bằng việc ngay lập tức

dành cho các nước tham gia các ưu đãi như nhau, đây là điểm cốt yếu của
nguyên tắc Tối huệ quốc. Xét trên lĩnh vực thương mại quốc tế, nguyên tắc
Tối huệ quốc có tác động rất lớn trong việc xóa bỏ sự phân biệt đối xử cũng
như “hàng rào” ngăn cản quá trình giao thương giữa các nước thành viên,
tạo dựng môi trường cạnh tranh quốc tế lành mạnh, tăng cường lưu thông
hàng hóa trong nền kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên mỗi cách thức lại có ảnh
hưởng khác nhau đến nước tham gia kí kết do có hay không có điều kiện
ràng buộc kèm theo. Cụ thể, với cách thức áp dụng Tối huệ quốc có điều
kiện ràng buộc, để hưởng nhưng ưu đãi từ nguyên tắc này mang lại, nước
được hưởng phải chấp nhận những điều kiện đi kèm về kinh tế hay chính trị
mà quốc gia cho hưởng yêu cầu. Những điều kiện về kinh tế hay chính trị
đều có ảnh hưởng đến sự độc lập cũng như phát triển của quốc gia được
hưởng ưu đãi Tối huệ quốc, do vậy, đây là sự đánh đổi mà các nước áp dụng
18


cần phải cân nhắc khi tham gia kí kết. Khác với cách thức áp dụng Tối huệ
quốc có điều kiện, cách thức áp dụng Tối huệ quốc không có điều kiện
không có những ảnh hưởng trên, do vậy, khi áp dụng cách thức này sẽ đạt
được hiệu quả cao nhất và hài hòa lợi ích các bên tham gia thực hiện.

19


KẾT LUẬN
Trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay, số lượng các quốc gia tham
gia hội nhập kinh tế thế giới tăng rất nhanh. Là những nguyên tắc cơ bản
thúc đẩy tự do hóa thương mại, hai nguyên tắc Tối huệ quốc và Đối xử quốc
gia ngày càng trở nên phổ biến trong quan hệ quốc tế nói chung và quan hệ
kinh tế quốc tế nói riêng. Tuy nhiên, các quy định quốc tế về hai nguyên tắc

tương đối phức tạp và có ảnh hưởng sâu sắc đến từng quốc gia, tùy thuộc
vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước. Chính vì vậy, mỗi quốc gia
cần có sự chuẩn bị kĩ càng trên nhiều phương diện khi tham gia kí kết các
hiệp định có hai nguyên tắc Tối huệ quốc và Đối xử quốc gia để phát huy
hiệu quả tích cực của hai nguyên tắc này trong việc thúc đẩy tự do hóa
thương mại, phát triển kinh tế, đồng thời giữ vực độc lập chủ quyền quốc
gia cũng như bản sắc văn hóa dân tộc.

20


MỤC LỤC
NỘI DUNG
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết và mục đích nghiên cứu
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Chương I: Giới thiệu chung về MFN ( Most Favoured

Trang
1
1
1
2

National)
1. Lịch sử ra đời và khái niệm
2. Cơ sở pháp lý và cách thức áp dụng
a) Cơ sở pháp lý
b) Cách áp dụng tối huệ quốc
3. Ngoại lệ tối huệ quốc

Chương II. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc tối huệ quốc
1. Thực hiện theo MFN
2. Ngoại lệ MFN
Chương III: Tổng quát tác động của nguyên tắc tối huệ quốc
KẾT LUẬN

2
3
3
4
5
9
9
11
17
18

21



×