Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Một vài kinh nghiệm về sử dụng phương pháp tích cực trong giờ đọc thêm văn ở nhà trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.6 KB, 17 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Sinh mệnh văn chương và tên tuổi cuả người cầm bút luôn đứng
trước sự thử thách nghiệt ngã của thời gian.Trong dòng chảy của quy luật
ấy, có một nhà văn đã lưu được tên tuổi của mình trong tâm hồn và tình
cảm các thế hệ độc giả - nhà văn Nguyễn Tuân.
Đọc Nguyễn Tuân ta sẽ thấy cái hay, cái lạ của ông trải trên những
trang viết. Ông là một trong số không nhiều nhà văn đã tạo cho mình một
phong cách nghệ thuật độc đáo. Trong cuốn Nhà văn hiện đại, nhà phê
bình văn học Vũ Ngọc Phan đã nhận xét: “Văn chương Nguyễn Tuân đã
làm cho văn giới Việt Nam phải chú ý đến lối hành văn đặc biệt của ông
và những ý kiến cùng tư tuởng phô diễn bằng những giọng tài hoa, sâu
cay, khinh bạc, lúc thì đầy nghệ thuật, lúc thì bừa bãi lôi thôi, như một
bức phác họa, nhưng bao giờ nó cũng cho người ta thấy một trạng thái
của tâm hồn”. Có thể thấy, Nguyễn Tuân đã đưa vào văn chương thành
công cái Tôi lớn lao của con người xã hội, con người chủ thể, con người
sáng tạo. “Nói đến Nguyễn Tuân, người ta thường hay nghĩ đến một cái
“tôi” đặc biệt tài hoa, nhưng cũng hết sức tài tử” ( theo Nguyễn Đăng
Mạnh).
Sự nghiệp của Nguyễn Tuân chủ yếu được nhắc đến là những tác
phẩm ở thể tùy bút và bút ký, đặc biệt là tùy bút. Có thể nói tính tự do,
phóng túng và khả năng thể hiện bản ngã của người cầm bút ở thể tùy bút
đã rất ăn nhập với cá tính, tài năng Nguyễn Tuân. Nói như Vương Trí
Nhàn thì “Tùy bút đã là một phần cuộc đời…là một thứ số phận mà bảo
rằng ông lựa chọn nó hay nó lựa chọn ông, đằng nào cũng được”. Và ở
một thể loại khác được Nguyễn Tuân thử bút trong giai đoạn đầu của quá
trình sáng tác là truyện ngắn thì cái tôi của ông cũng thấp thoáng, bằng
nhiều cách. Những gì Nguyễn Tuân đã làm là cả một hành trình dâng
hiến đời văn, tài văn cho nhân dân, cho văn hóa dân tộc. Đó là lẽ sống
của những con người cao cả, những nhà văn chân chính.
1




Trong quá trình dạy và học các tác phẩm của nhà văn Nguyễn
Tuân cũng như quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học nói chung, muốn đạt
được hiệu quả giáo dục cao, việc giảng dạy văn học phải tiến hành sao
cho phù hợp với đặc trưng của bộ môn, vừa chú ý đến bản chất xã hội, vừa
phải chú ý tính thẩm mĩ, tính nghệ thuật của tác phẩm. Loại thể văn học là
một vấn đề thuộc hình thức nghệ thuật của văn học, có liên quan khăng
khít đến nội dung. Mỗi tác phẩm văn học đều tồn tại dưới hình thức một
loại thể nhất định, đòi hỏi một phương pháp, một cách thức phân tích
giảng dạy phù hợp với nó. Vì vậy, vấn đề loại thể văn học trong thực tế
giảng dạy ở trường phổ thông đặt ra không những như một vấn đề tri
thức mà chủ yếu còn là vấn đề về phương pháp. Đó là chìa khoá để khám
phá những giá trị đích thực của từng tác phẩm, cùng với sự vận động và
phát triển của nền văn học.
Như vậy, để hiểu về những sáng tác của Nguyễn Tuân phải đi từ
bản chất cái Tôi của nhà văn và khám phá trên cơ sở thể loại của tác
phẩm - một điều không phải dễ dàng và cũng chưa được thực sự chú
trọng trong quá trình dạy - học.
Trong tình hình dạy học văn hiện nay, khi phân tích tác phẩm văn
học chưa xác định đúng “chất của loại” trong thể. Xa rời bản chất loại thể
tác phẩm, thực chất là xa rời tác phẩm cả về “linh hồn” lẫn “thể xác”.
Một thực trạng đáng quan tâm nữa là sau những nỗ lực không ngừng áp
dụng đổi mới phương pháp, đặc biệt là việc ứng dụng công nghệ thông
tin trong quá trình giảng dạy thì việc dạy - học văn vẫn chưa thoát khỏi
sự đơn điệu và tẻ nhạt. Số học sinh yêu thích môn văn, rung động thực sự
với môn văn còn ở con số hạn chế. Vấn đề ở chỗ cần có một hướng khai
thác phù hợp với cấu trúc nghệ thuật của tác phẩm.
Đối với nhà văn Nguyễn Tuân, chương trình Ngữ Văn THPT giới
thiệu hai tác phẩm: truyện ngắn Chữ người tử tù (Lớp 11) và tùy bút

Người lái đò sông Đà (lớp 12). Đây là hai tác phẩm tiểu biểu cho hai giai
đoạn sáng tác và cũng là hai thể loại thành công của Nguyễn Tuân. Về
2


một mặt nào đó, nó góp phần phác họa đầy đủ chân dung của “cái Tôi”
nhà văn- ngọn nguồn của sự sáng tạo và cho thấy diện mạo phong cách
độc đáo của nhà văn này.
Vì lẽ đó, trong khuôn khổ của một đề tài tôi muốn đề cập đến
hướng tiếp cận tác phẩm của nhà văn Nguyễn Tuân. Dù không mới
nhưng thiết nghĩ nó sẽ góp một phần nhỏ vào việc dạy và học có hiệu quả
những tác phẩm của nhà văn Nguyễn Tuân trong chương trình THPT. Đó
là hướng tiếp cận các tác phẩm của nhà văn trên cơ sở áp dụng các biện
pháp đặc trưng của “loại thể” và dựa trên cái nhìn có hệ thống về bản
chất cái Tôi cá nhân của nhà văn.
II/ Nhiệm vụ của đề tài
Chia sẻ kinh nghiệm về: Hướng tiếp cận và dạy học tác phẩm của
nhà văn Nguyễn Tuân trong chương trình THPT theo đặc trưng loại thể
và dựa trên cái nhìn có hệ thống về cái Tôi của nhà văn.
III/ Cơ sở nghiên cứu
- Cơ sở lí luận: tiếp nhận lí thuyết về dạy học tác phẩm văn học theo loại
thể và những kiến thức về nhà văn.
- Cơ sở thực tiễn: những thuận lợi và hạn chế của đối tượng học sinh lớp
11,12 ( với những đặc điểm nổi bật về tâm lí, trí tuệ), cơ sở vật chất, tinh
thần, hiệu quả áp dụng phương pháp, biện pháp dạy học tác phẩm văn
học theo loại thể…
IV/ Phương pháp nghiên cứu
- Biện pháp thu nhập và xử lí thông tin.
- Biện pháp khảo nghiệm và thống kê tư liệu.
- Biện pháp phân tích, tổng hợp, so sánh.

V/ Cấu trúc: Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính gồm các
phần sau:
I/ Tác giả Nguyễn Tuân
II/ Thể loại truyện ngắn và tùy bút
III/ Tình hình dạy – học tác phẩm của nhà văn Nguyễn Tuân
3


IV/ Tiếp cận tác phẩm của nhà văn Nguyễn Tuân

B. PHẦN NỘI DUNG
I/ TÁC GIẢ NGUYỄN TUÂN
Nguyễn Tuân sinh ngày 10/7/1910 tại phố Hàng Bạc trong một gia
đình nhà Nho khi nền Hán học đã suy tàn, khi những nền nếp sinh hoạt
cổ đang mất dần đi trước sự xâm nhập của văn minh phương Tây. Ông
chịu nhiều ảnh hưởng từ gia đình. Người có ảnh hưởng lớn và trực tiếp
đến tư tưởng, quan điểm của Nguyễn Tuân chính là người cha, cụ
Nguyễn An Lan - một nhà Nho tài hoa bất đắc chí. Hồi nhỏ Nguyễn Tuân
học chữ Nho, sau ông chuyển sang học tiếng Pháp. Theo học đến cuối
bậc thành chung ở thành phố Nam Định thì ông bị đuổi học vì tham gia
một cuộc bãi khóa phản đối mấy giáo viên người Pháp nói xấu người
Việt Nam (1929). Không lâu sau đó (1930) ông lại bị bỏ tù vì “xê dịch”
trái phép qua biên giới.
Ở tù ra, Nguyễn Tuân bắt đầu làm báo, viết văn với nhiều bút
danh: Ngột Lôi Quật, Thanh Hà, Nhất Lang, Tuân, Nguyễn Tuân, Ân
Ngũ Tuyên, Tuấn Thừa Sắc…được bạn đọc biết đến nhiều bởi tập “Một
chuyến đi” đăng báo năm 1938, nhưng ông chỉ thực sự nổi tiếng khi tác
phẩm “Vang bóng một thời” ra đời (đăng báo năm 1939 và xuất bản
thành sách năm 1940) . Với nội dung và phong cách mới lạ, tập truyện
ngắn đã đặt Nguyễn Tuân vào vị trí nổi bật trên văn đàn lúc bấy giờ.

Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, Nguyễn Tuân hào hứng
đón chào và tham gia cách mạng một cách nhiệt tình. Từ năm 1948-1958,
ông giữ chức Tổng thư kí Hội văn nghệ Việt Nam. Nguyễn Tuân hoạt
động rất tích cực trên mặt trận văn hóa và tiếp tục đóng góp cho văn học
nhiều trang viết sắc sảo, đầy nghệ thuật để rồi tên tuổi được ghi nhận là
một cây bút tiêu biểu của nền văn học mới.
4


Trong hơn năm mươi năm cầm bút và sáng tạo không ngừng,
Nguyễn Tuân đã để lại một sự nghiệp văn học phong phú với nhiều bài
học bổ ích cho những ai muốn bước vào nghề văn. Bắt đầu viết từ năm
1930, dường như con người ấy bước vào nghề văn cốt là để khẳng định
một cá tính riêng, một phong cách nghệ thuật không thể lẫn với bất kì ai.
Trong cả hai giai đoạn sáng tác trước và sau cách mạng tháng Tám 1945,
tuy có những biến đổi nhất định trong tư tưởng, quan điểm song cá tính
và phong cách ấy vẫn là một sự thống nhất - rất Nguyễn Tuân và chỉ có
thể là Nguyễn Tuân mà thôi. Trước cách mạng, tác phẩm của ông chủ
yếu xoay quanh ba đề tài chính: Chủ nghĩa “Xê dịch”, vẻ đẹp “Vang
bóng một thời” và Đời sống trụy lạc. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng
Mạnh thì giai đoạn này phong cách nghệ thuật của ông có thể gói gọn
trong một chữ “ngông” . Ông luôn thể hiện là một nghệ sỹ tài tử ngông
nghênh, kiêu bạc với đời, biểu hiện những cái khác đời, thậm chí ngược
đời, lấy cái tài hoa, uyên bác để “trêu ghẹo thiên hạ, để khinh thế ngạo
vật”. Tất cả đều xuất phát từ một cái Tôi đối lập với xã hội, có khi sa vào
chủ nghĩa cá nhân cực đoan. Có lẽ bởi trong giai đoạn này người “lữ
khách” ấy cảm thấy không thể tìm được trong môi trường quanh mình cái
cảm giác mới lạ, mãnh liệt mà ông vẫn hằng khát khao “tôi muốn mỗi
ngày trong cuộc sống của tôi phải cho tôi cái say rượu của tối tân hôn”,
cũng bởi cảm cảm giác bất hòa với thực tại - cái thời buổi Tây Tàu nhố

nhăng với những mặt trái của nó. Nguyễn Tuân không lúc nào cảm thấy
yên ổn, ông đã tìm về quá khứ để nhấm nháp hương vị một thời vang
bóng cùng những con người tài hoa bất đắc chí, dần dà trở nên cô độc, bế
tắc ông tìm vào thế giới yêu ma đầy mộng ảo tìm hi vọng thoát ly, để rồi
đến lúc cũng phải trở về với thực tại. Những diện mạo phức tạp của cái
Tôi ấy không làm nhòa đi một con đường riêng, độc đáo của Nguyễn
Tuân, đó là hành trình bền bỉ săn tìm cái đẹp, đưa cái đẹp thăng hoa. Và
thẳm sâu bên trong tâm hồn ấy vẫn chưa hẳn đã khép kín trước cuộc đời.
Nhà văn không quay lưng lại với những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân
5


tộc mà là quay lưng lại với những cái xấu xa của xã hội, ta vẫn nhận ra
trong sáng tác của ông ý thức sâu sắc về tinh thần dân tộc dân chủ.
Cách mạng tháng Tám như một sự đổi đời kì diệu đối với những
nghệ sỹ tiền chiến, trong đó có Nguyễn Tuân. Ông đã tìm ra con đường
giải thoát cho cuộc sống và nghệ thuật của mình, nhanh chóng hòa mình
vào nhịp sống đang sục sôi của dân tộc. Sau một quá trình vật lộn, “lột
xác” không hề đơn giản, các tác phẩm từ “ Lột xác” (1945) “ Đường vui”
(1949) “Tình chiến dịch” (1950) “Tùy bút kháng chiến” (1955) “Tùy bút
kháng chiến và hòa bình” (1956) đến “ Sông Đà” (1960) “Hà Nội ta đánh
Mỹ giỏi” (1972) Ký (1976)…cho thấy sự chuyển biến từ cái Tôi cá nhân
cực đoan đến cái Tôi công dân nghệ sỹ. Người nghệ sỹ ấy đã thấy “cái có
thật bây giờ đẹp và cái đẹp bây giờ có thật trong cuộc đời” (Nguyễn Đình
Thi). Không còn đối lập với cuộc đời, không lùi sâu vào cái Tôi cá nhân
nữa, Nguyễn Tuân đã mở lòng ra tìm kiếm cái đẹp trong cuộc đời thường
và đem ngòi bút tài năng của mình chân thành phục vụ cuộc chiến đấu
của dân tộc, theo sát từng nhiệm vụ chính trị của đất nước, ngợi ca Tổ
Quốc, ngợi ca nhân dân.
Từng thử bút qua nhiều thể loại: lúc đầu làm thơ sau chuyển sang

viết truyện ngắn, tiểu thuyết, bút kí, tùy bút, phóng sự...Thể loại gắn bó
chủ yếu và làm nên tên tuổi nhà văn lớn chính là thể tùy bút. Bằng ngòi
bút bản lĩnh, ông đã góp phần bồi đắp, phát triển thêm nhiều khả năng
nghệ thuật cho thể loại này.
Văn giới coi Nguyễn Tuân là “một thứ định nghĩa về văn chương”,
những ai muốn bước vào nghề văn đều tìm thấy từ con người và tác
phẩm của ông nhiều bài học bổ ích cho công việc sáng tạo nghệ thuật.
Bạn đọc gần xa lưu giữ trong tình cảm của mình những trang văn đẹp,
hình ảnh về một cá tính, nhân cách đẹp. Nguyễn Tuân thực sự xứng đáng
với tất cả niềm tin yêu và sự ngưỡng mộ ấy. Nguyễn Tuân ngày càng
khẳng định được vị trí hàng đầu vững chắc của mình trong nền văn xuôi
Việt Nam hiện đại.
6


II/ THỂ LOẠI TRUYỆN NGẮN VÀ TÙY BÚT
1.TRUYỆN NGẮN
Nhận diện thể loại truyện ngắn là một nỗ lực liên tục của cả người
sáng tác và giới nghiên cứu lí luận. Truyện ngắn có thể được hiểu khái
quát là một thể loại tự sự cỡ nhỏ, một lát cắt của đời sống nhưng dung
chứa trong nó nội dung phản ánh hiện thực sâu sắc. Truyện ngắn không
miêu tả hiện thực trong cả một quá trình mà chỉ chớp lấy những khoảnh
khắc ấn tượng, những điểm sáng thẩm mĩ để từ đó khái quát lên những
nét bản chất nhất mang tính quy luật của hiện thực. Vì vậy, đặc trưng cơ
bản của truyện ngắn là sự hàm súc, cô đọng. Truyện ngắn thể hiện khả
năng chiếm lĩnh hiện thực và phản ánh mang trình độ cao của người nghệ
sĩ và nó ngày càng phát huy được thế mạnh trong nền văn học hiện đại.
Về tính chất của “loại” trong thể “truyện ngắn”, có thể phân biệt như
sau: Loại “Truyện ngắn - kịch hoá” là những truyện ngắn được xây dựng
theo hướng kịch hoá thường lấy một hành động nhân vật làm nòng cốt.

Truyện thường có cốt truyện gay cấn: sự kiện, hành động tập trung trong
một tình huống điển hình và đòi hỏi kết thúc bất ngờ. Lời trần thuật ngắn
gọn, tính chất khẩu ngữ, tính chất cá thể hoá ngôn ngữ đậm nét. Có thể
thấy, Chữ người tử tù là một truyện ngắn lãng mạn giàu kịch tính. Đặc
biệt, cảnh tượng cuối cùng là một bức tranh đầy kịch tính được xây dựng
bằng thủ pháp đối lập tương phản: trong buồng giam chật hẹp bẩn thỉu,
ẩm ướt, đầy phân chuột, phân gián… dưới ánh sáng của một bó đuốc tẩm
dầu, một người cổ đeo gông, chân mang xiềng đang tô đậm những nét
chữ trên tấm lụa trắng tinh… Từ đó dẫn đến một cảnh tượng kì lạ đầy
kịch tính để làm toát lên nội dung tư tưởng của tác phẩm và những thông
điệp nghệ thuật của nhà văn. Loại “Truyện ngắn - trữ tình hoá” lại sử
dụng thủ pháp của trữ tình để tạo ra một cấu trúc tự sự mới, trong đó câu
chuyện được kể lại chủ yếu gợi ra ấn tượng về một thế giới đang tồn tại
trong tâm tưởng con người. Chẳng hạn như: “Hai đứa trẻ” của Thạch
7


Lam là truyện ngắn trữ tình. Tác phẩm là loại truyện không có cốt truyện,
truyện của những cung bậc tâm trạng, của những sắc thái cảm xúc, cảm
giác, cảm tính. Loại “Truyện ngắn - tiểu thuyết hoá” là truyện tổng hợp
loại thể ở đó các thủ pháp kịch và trữ tình vẫn được sử dụng nhưng
không nhằm diễn tả hành động hay trạng thái cảm xúc mà trước hết là để
phân tích, lí giải đời sống qua quan hệ của con người với môi trường,
hoàn cảnh, tính cách.
Như vậy, ngay trong thể truyện ngắn cũng có những tính chất riêng về
“loại”. Trong quá trình nghiên cứu cũng như giảng dạy, điều quan trọng
là phải nắm bắt được cái chất của “loại” trong “thể”. Đó là con đường
hiệu quả nhất để chúng ta đi sâu vào chiếm lĩnh tác phẩm văn chương,
tránh lối khai thác máy móc.
2. TÙY BÚT


Tùy bút là một thể loại văn xuôi có đóng góp đáng kể vào nền văn
học, đặc biệt ở thời kỳ hiện đại. Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Chế Lan Viên,
Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Thi, Bình Nguyên Lộc, Vũ Bằng, Hoàng Phủ
Ngọc Tường, Băng Sơn… là những tên tuổi lớn với những tác phẩm thành
công ở thể loại này.
Trong phần giới thiệu Nguyễn Tuân toàn tập, tập 1, nhà nghiên cứu
Nguyễn Đăng Mạnh có nêu ra một định nghĩa bao quát được hầu hết những
đặc trưng của thể loại: “Tùy bút là gì ?...Có thể hiểu một cách đại khái thế
này: người viết tùy bút thường mượn cớ thuật lại một sự kiện, một mẩu
chuyện nào đó mà mình có trải qua để nhân đấy nêu lên những vấn đề này
khác mà bàn bạc, mà nghị luận, triết luận, ném ra những suy tưởng của mình
một cách thoải mái, phóng túng”.
Không có cốt truyện, không có tình tiết éo le gay cấn, nên sức hấp dẫn
của những trang tùy bút là ở cách thức tác giả bộc lộ thế giới tinh thần chủ
quan với những cung bậc cảm xúc mãnh liệt, những rung động tinh tế cùng
những liên tưởng bất ngờ, tài hoa, uyên bác.
8


III/ TÌNH HÌNH DẠY - HỌC TÁC PHẨM CỦA NHÀ VĂN
NGUYỄN TUÂN
Qua thực tế khảo sát đối tượng tiếp nhận tác phẩm của nhà văn
Nguyễn Tuân trong chương trình Ngữ Văn THPT là học sinh lớp 11 và
lớp 12 người viết nhận thấy có một số vấn đề như sau:
Năng lực trí tuệ của học sinh có thể giúp các em nắm bắt tác phẩm
không khó khăn. Các em cũng đã có khả năng tư duy lí luận, tư duy trừu
tượng một cách độc lập và sáng tạo, việc phân tích hình tượng văn học,
phân tích cái hay cái đẹp của tác phẩm có thể được các em thực hiện có
hiệu quả. Tuy vậy vì một số lí do, nhiều em có thiên hướng về đời sống

vật chất, lười học, lười suy nghĩ, học theo kiểu đối phó, sao chép nên sự
cảm thụ tác phẩm văn học của các em còn là quá trình thụ động.
Người viết đã tiến hành khảo sát đối tượng học sinh các lớp:
11B2,11B3,11B4,12A4,12A5,12A6 sau khi các em đã học tác phẩm của
nhà văn Nguyễn Tuân, trên đại thể về các vấn đề như sau:
- Đặc điểm nào về cuộc đời, con người Nguyễn Tuân làm em nhớ nhất?
Trước Cách mạng tháng Tám 1945, có thể xếp Nguyễn Tuân vào khuynh
hướng văn học nào? Sau cách mạng, sáng tác Nguyễn Tuân có thay đổi
cơ bản nào?
- Văn của Nguyễn Tuân có gì khác biệt so với các tác giả cùng thời?
- Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm có gì đặc biệt?
- Cảm nhận của em về ý nghĩa nhan đề tác phẩm?
- Em thích nhất đoạn văn hoặc hình ảnh nào trong tác phẩm? Vì sao?
- Nhân vật nào để lại trong em nhiều ấn tượng sâu đậm nhất? Vì sao?
- Ấn tượng của em sau khi học xong tác phẩm của nhà văn Nguyễn Tuân?
Từ các kết quả khảo sát, người viết nhận thấy các em học sinh
chưa nắm bắt được toàn bộ tác phẩm mà chỉ nhớ một vài chi tiết cụ thể.
Một số em chưa hiểu được bản chất vấn đề mà rơi vào suy diễn. Các em
đều có ấn tượng tốt đối với nhân vật trung tâm của tác phẩm, nhưng mới
9


chỉ dừng lại ở những cảm nhận bề ngoài, chưa thấy được quan niệm nghệ
thuật nhà văn gửi gắm vào hình tượng nhân vật. Nếu như học xong Chữ
người tử tù , Người lái đò sông Đà các em chỉ biết cảm phục trước cái tài
của Huấn Cao, tấm lòng trọng cái tài của quản ngục và thầy thơ lại; thấy
được tài năng bản lĩnh của ông lái đò thì e rằng chưa đủ. Điều cốt lõi cần
truyền đạt cho học sinh là nhận biết và trăn trở với cuộc đời của nhân vật,
là quan niệm nghệ thuật nhà văn gửi gắm vào hình tượng nhân vật. Về
đặc trưng thể loại của tác phẩm phần nào đó học sinh còn mơ hồ. Các em

học sinh còn chưa hiểu những yếu tố chính trong phong cách nghệ thuật
của tác giả hoặc nắm bài chỉ là những ý đơn lẻ mà không phải theo hệ
thống. Trong việc giảng dạy tác phẩm, phần nhiều giáo viên chỉ đi vào
phân tích hình tượng nhân vật.
Về tư liệu sách giáo khoa, đối với tác phẩm Chữ người tử tù thì
phần tác giả Nguyễn Tuân, các em sẽ được học là trong chương trình lớp
12. Vì vậy nếu như học sinh chỉ dựa vào tiểu dẫn sách giáo khoa để soạn
bài thì sẽ lúng túng trong việc nhận ra chất văn riêng của tác giả. Phần
hướng dẫn học bài trong sách giáo khoa là vô cùng quan trọng. Đó là
những câu hỏi để các em đi sâu cảm nhận tác phẩm. Tuy vậy, phần câu
hỏi phân tích hình tượng Huấn Cao và viên quản ngục chưa chỉ rõ được
thi pháp xây dựng hình tượng cho các em.
Đối với tác phẩm Người lái đò sông Đà, ở trang viết của Nguyễn Tuân
yếu tố tự sự có phần đậm nét, nhưng trữ tình vẫn là cốt lõi, quán xuyến toàn
bộ mạch cảm xúc, tư tưởng của tác phẩm. Những câu hỏi gợi ý trong phần
Hướng dẫn học bài của sách giáo khoa hầu như chỉ nhằm tìm hiểu về nghệ
thuật khắc họa hình ảnh sông Đà, hình tượng ông lái đò và nét tài hoa độc
đáo, uyên bác của phong cách tùy bút Nguyễn Tuân. Hơn nữa, trong khi cái
Tôi tài hoa, uyên bác được chú trọng khai thác thì cái Tôi dào dạt, tinh tế
trong cảm xúc, chân thành gắn bó với đất nước và dân tộc của một nhà văn
từng có thời kỳ dài thoát ly cuộc sống, chỉ ham mải miết trong xê dịch ít
nhiều đã bị xem nhẹ. Trên thực tế, việc dạy - học tác phẩm này gặp không ít
10


trở ngại bởi trước đó học sinh chủ yếu được học các tác phẩm văn xuôi thiên
về tự sự, dần dần cảm xúc và nhận thức của các em đã quen nương theo cốt
truyện, hệ thống nhân vật, tình tiết, đến khi cần cảm thụ một tác phẩm văn
xuôi giàu chất trữ tình, các em gặp lúng túng.
IV/ TIẾP CẬN TÁC PHẨM CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN TUÂN

1. MỘT SỐ YÊU CẦU CÓ TÍNH NGUYÊN TẮC
Tìm hiểu một tác phẩm, ta không thể bỏ qua hoàn cảnh ra đời của
nó. “Vang bóng một thời” là tập truyện đầu tay của Nguyễn Tuân ra đời
những năm 1939 – 1940, là tác phẩm được đánh giá “gần đạt tới sự toàn
mĩ ” tiêu biểu cho sáng tác trước Cách mạng của ông. “Xã hội lúc này
đen tối, ngột ngạt quá. Cái Tôi muốn mơ mộng tìm chỗ yên thân ngoài
cuộc đời,…nhưng vấn đề sống còn của hiện thực: chiến tranh, chết đói…
Làm rung chuyển cả chỗ ngồi trong mộng tưởng, trong tháp ngà của nó,
đe doạ cả bản thân nó” (Nguyễn Hoành Khung). Do vậy, các nhà văn
lãng mạn lâm vào khủng hoảng, bế tắc tìm hướng thoát li. Nếu như các
nhà văn mới đi vào xu hướng trụy lạc, siêu thoát, thần bí, hình thức chủ
nghĩa (Vũ Hoàng Chương, Huy Cận, nhóm Xuân thu nhã tập) thì Nguyễn
Tuân tìm hướng đi riêng cho mình: tìm cái đẹp còn sót lại từ quá khứ với
tập trruyện “Vang bóng một thời”.
“Vang bóng một thời” gồm 12 truyện ghi lại “những dư âm và dư
ảnh của một thời đã qua”. Đó là cuộc sống của lớp quan lại, nhà Nho thất
thế lúc bấy giờ. Tất cả các nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân đều
mang trong mình chất tài hoa nghệ sĩ. Chữ người tử tù là truyện ngắn tiêu
biểu nhất trong “Vang bóng một thời”. Nó đại diện cho mảng sáng tác cái
đẹp gắn với cái có ích, vì vậy nó có tính tư tưởng cao.Về phương diện nội
dung: Cũng ca ngợi cái đẹp, cái tài hoa tài tử nhưng khác tất cả các
truyện trong tập, cái đẹp, cái tài hoa ở đây lại được chung đúc trong một
hình tượng nghệ thuật có sức cuốn hút lớn về khí tiết, nhân cách. Về nghệ
thuật, đây là tác phẩm tiêu biểu cho thi pháp Nguyễn Tuân trong “Vang

11


bóng một thời” với nghệ thuật vừa cổ kính vừa hiện đại trong cách kể
chuyện, tả cảnh, tạo tình huống, xây dựng tính cách, khắc sâu chủ đề.

Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân là bút ký đặc sắc, kết quả
của chuyến thâm nhập thực tế vùng sông Đà 1958 - 1960 của nhà văn, in
trong tập bút ký “Sông Đà”. Cảm hứng gắn bó với mảnh đất và con
người Tây Bắc đã in đậm trong hình ảnh người lái đò nghệ sĩ và con sông
Đà vừa hùng vĩ vừa nên thơ. Với Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã
ghi dấu ấn không trộn lẫn của mình ở thể loại tùy bút, bám sát hiện thực,
say mê khám phá những nét ấn tượng, những vẻ đẹp tiềm ẩn từ hiện thực.
Hơn thế nữa, tác phẩm còn đánh dấu sự vững vàng trong tư tưởng tình
cảm của nhà văn. Từ cái Tôi cô đơn, đối lập với cuộc đời, nhà văn đã hòa
mình vào cuộc sống chung của đất nước và tìm thấy cái đẹp trong cuộc
đời thường bằng sự nhạy cảm tinh tế của một tâm hồn nghệ sĩ yêu đất
nước, yêu con người lao động, yêu và tin vào cách mạng, vào con đường
dân tộc đang hướng tới. Tấm lòng ấy, tài năng ấy của Nguyễn Tuân thật
đáng trân trọng.
Nguyễn Tuân là nhà văn mang nặng lòng hoài cổ, là một trí thức
giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, luôn gắn bó với những giá trị
văn hoá cổ truyền của dân tộc. Chính vì thế trong sáng tác của mình, ông
thích viết về vẻ đẹp riêng của thời xưa. Trước Cách mạng ông đi tìm cái
đẹp của thời xưa còn sót lại còn sau Cách mạng ông không đối lập xưa
với nay, cổ với kim mà tìm thấy sự gắn bó giữa quá khứ, hiện tại và
tương lai.Trong thế giới của “Vang bóng một thời”, cái cổ điển thường
chiếm ưu thế và được nhà văn ưu tiên hàng đầu với thái độ trân trọng đặc
biệt. Quay về quá khứ, tưởng như quá khứ là một khía cạnh của chủ
nghĩa lãng mạn. Đó cũng là thể hiện sự bất mãn, quay lưng lại thực tại,
phủ nhận xã hội đương thời.Còn ở tác phẩm Người lái đò S ông Đà ông
đã tìm vẻ đẹp xưa trong một không gian - thời gian hiện đại. Tác phẩm
ra đời trong những năm đất nước ta tiến hành xây dựng lại miền Bắc nói
chung và vùng đất Tây Bắc nói riêng, những hình tượng chính trong tác
12



phẩm mang hơi thở của thời đại. Tuy nhiên, Người lái đò Sông Đà vẫn
còn mang “cốt cách của một thời vang bóng”. Ông vẫn giữ thói quen tìm
cái đẹp xưa trong cái ngày nay. Chân dung người lái đò cũng mang dáng
dấp của một bậc phong Nho tài tử xưa và trong bút pháp miêu tả vẻ đẹp
của thiên nhiên vẫn phảng phất cái xưa cũ.
2. VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP

2.1. Phương pháp đọc sáng tạo.
Việc đọc tác phẩm văn chương là một phương pháp quan trọng.
Phương pháp đọc sáng tạo được sử dụng hầu như thường xuyên trong tiết
học, từ lúc bắt đầu xem xét và trong cả quá trình phân tích tác phẩm văn
chương. Đọc sáng tạo có nhiều biện pháp: Đọc hướng dẫn, đọc phân tích
kể chuyện hoặc thuộc lòng, phát biểu cảm nghĩ…Mức thấp nhất là đọc
đúng (tròn vành, rõ chữ, đúng chính âm, chính tả). Mức cao hơn là đọc
diễn cảm (đọc văn) diễn tả sự cảm thụ chứ không chỉ dừng lại ở mức thể
hiện cảm xúc. Nhà văn thường sử dụng nhiều giọng điệu để thể hiện tác
phẩm của mình, đọc văn là đọc cho đúng “chất giọng ấy” của nhà văn.
Hoạt động này chưa được chú ý đúng mức. Phần lớn học sinh đọc
tác phẩm với giọng đều đều, chưa biết nhấn đúng chỗ, đúng lúc. Kết quả
là ấn tượng của học sinh về bài thơ hoặc truyện ngắn ấy rất mờ nhạt. Vì
vậy, hướng dẫn học sinh đọc đúng đọc hay tác phẩm là một yêu cầu cần
thiết.
Chữ người tử tù là một truyện ngắn trữ tình lãng mạn giàu kịch
tính. Vì vậy, yêu cầu trước tiên là phải đọc đúng loại thể của nó. Là một
truyện ngắn lãng mạn trữ tình, trước tiên chúng ta cần chú ý đến những
đoạn văn giàu nhạc tính khi miêu tả thiên nhiên, những đoạn độc thoại
nội tâm của nhân vật và những lời bình luận trữ tình ngoại đề của tác giả.
Là một truyện giàu kịch tính, chúng ta phải đọc để làm nổi bật tình huống
kịch, nhân vật chính trong đó có sự đối lập giữa nhân vật và không gian,

nhân vật và nhân vật, không gian trong tù và không gian ánh sáng bao
quanh nhân vật trong cảnh cho chữ. Đọc đoạn văn cuối tả cảnh cho chữ
13


chúng ta phải làm nổi bật được “cái thần” của bức tranh. Đó là vẻ đẹp
của những người tài hoa yêu mến và trân trọng cái đẹp. Chú ý đến các từ
ngữ miêu tả hình ảnh, âm thanh, màu sắc, dáng điệu để làm nổi bật hình
tượng ba nhân vật, thể hiện sự đổi ngôi hiếm có giữa người tử tù và quan
coi ngục, thể hiện sự chiến thắng và lên ngôi của cái đẹp trong không
gian nhà tù ẩm ướt, bẩn thỉu.
Bên cạnh đó, giáo viên hướng dẫn học sinh chú ý đọc đúng các từ
cổ đã được chú giải ở sách giáo khoa. Đây là các từ quan trọng tạo nên
không khí cổ xưa của tác phẩm.
Với Người lái đò sông Đà, văn Nguyễn Tuân biến đổi rất linh hoạt.
Mạch văn tuôn chảy theo dòng cảm xúc hết sức thoải mái, chuyện này
chồng chéo lên chuyện kia không theo một trình tự nào, và cũng không bị
ràng buộc hạn chế bởi không gian, thời gian. Vì thế, cần có giọng đọc
phù hợp với cảm xúc của tác giả.
Mục đích cuối cùng của hoạt động đọc là người giáo viên hướng
dẫn học sinh chiếm lĩnh được tinh thần của tác phẩm. Tóm tắt tác phẩm
và nắm bắt được hệ thống hình tượng tác phẩm.
2.2. Phương pháp gợi mở
Phương pháp gợi mở chủ yếu cho người đọc đi tìm để tự chiếm
lĩnh lấy tri thức của mình. Phương pháp này hỗ trợ cho phương pháp đọc
sáng tạo, giúp cho học sinh mở rộng nhận thức, để phân tích, bình giá các
hiện tượng văn học.Vì vậy cần xây dựng hệ thống câu hỏi logic, chặt chẽ,
xây dựng tình huống có vấn đề; xây dựng hệ thống bài tập, đặt vấn đề
cho học sinh làm theo đề xuất của giáo viên và tiến hành tổ chức tranh
luận.

Tác phẩm Chữ người tử tù có kết cấu theo lối vẽ mây nẩy trăng, tác
giả đã để cho viên quản ngục và thầy thơ lại xuất hiện trước Huấn Cao –
nhân vật trung tâm của tác phẩm, gợi trí tò mò cho bạn đọc và làm cho
hình tượng nhân vật được thắp sáng lên. Vì vậy, xây dựng hệ thống câu
hỏi gợi mở ở tác phẩm này sẽ góp phần tạo hứng thú, bất ngờ cho học
14


sinh. Giáo viên có thể gợi mở vấn đề cho học sinh suy nghĩ về thái độ của
viên quản ngục và thầy thơ lại khi nghe tin Huấn Cao về trại giam. Tại
sao quản ngục lại quan tâm đến việc Huấn Cao xuất hiện, tại sao thái độ
của thầy quản lại nửa úp, nửa mở, nửa như đề phòng Huấn Cao, nửa như
muốn nhân nhượng? Tại sao quản ngục lại băn khoăn suy nghĩ, tại? Tại
sao tính Huấn Cao vốn khoảnh mà lại nhận lời cho chữ viên quản ngục?
Tại sao cảnh cho chữ lại là cảnh tượng xưa nay chưa từng có?
Với Người lái đò sông Đà, giáo viên có thể gợi mở học sinh suy
nghĩ về cuộc vượt thác có một không hai của người lái đò, gợi cho các
em ấn tượng về một con sông tồn tại như một sinh thể có hồn với hai nét
tính cách trái ngược nhau.
2.3 Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu bước đầu xây dựng cho học sinh kỹ năng
phân tích và cắt nghĩa văn học. Giáo viên nêu vấn đề cho các em, nghiên
cứu và trình bày những hiểu biết của mình. Chẳng hạn, ở tác phẩm Người
lái đò sông Đà cần phải chú trọng đặt vấn đề nhằm khơi gợi ở học sinh sự
đồng điệu, ngưỡng vọng trước cái tôi giàu cảm xúc, tinh tế, chân thành của
người nghệ sĩ. Những tình cảm cao đẹp đối với quê hương đất nước, gia đình,
bè bạn chắc chắn sẽ có thêm điều kiện để nảy sinh; góp phần vào việc hoàn
thiện nhân cách cho học sinh. Có thể đưa ra vấn đề: Em hiểu gì về quan
niệm nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân trong tác phẩm “Người lái đò
sông Đà”? Hoặc có thể giao bài tập nghiên cứu cho học sinh chuẩn bị ở

nhà trong một khoảng thời gian nhất định và tổ chức thảo luận trên lớp
khi đã có kết quả nghiên cứu của học sinh.

15


C . PHẦN KẾT LUẬN
Phân tích và khám phá tác phẩm văn học để các em học sinh cảm
thụ và yêu quý tác phẩm, rung động với tác phẩm không phải là một điều
dễ dàng. Nó đòi hỏi người giáo viên không chỉ có tài mà còn phải có cái
tâm.
Trong sáng kiến kinh nghiệm này, người viết đưa ra những hiểu
biết về việc cảm thụ tác phẩm của nhà văn Nguyễn Tuân theo đúng loại
thể của tác phẩm và căn cứ vào bản chất cái Tôi của nhà văn. Người viết
chỉ muốn đưa ra vấn đề để cùng suy ngẫm chứ không đề xuất một cách
dạy cụ thể bởi mỗi người bằng kinh nghiệm, cái tài và cái tâm của bản
thân sẽ có những hướng tiếp nhận phù hợp. Thiết nghĩ những trình bày ở
đây cũng chỉ là một số gợi ý cho nên không tránh khỏi những bất cập,
thiếu sót, hy vọng nhận được sự bổ sung, góp ý của các đồng nghiệp để
bài viết tốt hơn. Xin chân thành cảm ơn!

XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa ngày 20 tháng 05 năm 2013
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

Lê Thị Cam


16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
A/ SÁCH
1. Tạ Duy Anh (chủ biên) – Nghệ thuật truyện ngắn và kí . NXB
Thanh Niên.2000
2. Hà Minh Đức (chủ biên) – Lí luận văn học. NXB Giáo Dục.2001
3. Lê Bá Hân, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên)- Từ
điển thuật ngữ văn học.NXB giáo dục. 1992
4. Nguyễn Thái Hòa – Những vấn đề thi pháp của truyện. NXB Giáo
dục.200
5. Nguyễn Đăng Mạnh- Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của
nhà văn. NXB Giáo Dục.1996
B/ TẠP CHÍ
1. Cao Kim Lan- Mấy vấn đề thi pháp cốt truyện. Tạp chí nghiên cứu
văn học. Số 6/2005
2. Tôn Thảo Miên- Nguyễn Tuân, dấu ấn của cá tính sáng tạo. Tạp
chí nghiên cứu văn học, Số 2/2006

17



×