- 1 -
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM
TIỂU LUẬN
MÔN: QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Đề tài: Một số kinh nghiệm về xây dựng bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội
ngũ giáo viên của trường THPT hiện nay
Sinh viên : Trần Thị Huế
Lớp : K50 SP Sinh
HÀ NỘI 1-2009
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 2
Lí do chọn đề tài: 2
PHẦN NỘI DUNG 5
Chương 1: Cơ sở khoa học 5
Cơ sở lí thuyết 5
Chương 2: Thực trạng bồi dưỡng giáo viên THPT 7
Mục đích bồi dưỡng: 7
PHẦN KẾT LUẬN 40
Kết luận: 40
Kiến nghị: 40
TÀI LIỆU THAM KHẢO 43
PHẦN MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài:
Hiện nay,toàn đảng,toàn dân ta đã và đang thực hiện công cuộc đổi mới với mục
tiêu là công nghiệp hoá,hiện đại hoá đất nước,xây dựng một xã hội công bằng,dân
chủ,văn minh nhằm thực hiện lý tưởng dân giàu,nước mạnh,xã hội phát triển bền
vững.Thực chất,dân tộc ta đang chuyển từ nền văn minh lúa nước sang nền văn minh
công nghiệp,tiếp cận từng bước hội nhập vào nền văn minh hậu công nghiệp-văn minh
- 2 -
của nền kinh tế tri thức.Đây là một thực trạng mà chúng ta phải đối mặt trong quá trình
hoạch định chiến lược phát triển của đất nước,
Chúng ta chỉ có thể giải quyết được những thách thức tên bằng cách làm cho nền
giáo dục có những bước chuyển căn bản,có tính cách mạng,phải phát triển toàn diện con
người,phát triển nguồn nhân lực-nguồn tài nguyên vô giá để phát triển kinh tế xã hội.
Hiến pháp điều 35 ghi rõ:" Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu" và điều
36"nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục khuyến khích các nguồn đầu tư khác" vì phát
triển nguồn lực người là bí quyết,là chìa khoá dẫn đến thành công của mọi quốc gia
trong thời đại ngày nay.Phát triển nguồn lực con người nhằm tạo nên những con người
mới, những con người của nền văn minh hậu công nghiệp,của nền kinh tế tri thức
Để thực hiện được mục tiêu giáo dục,đòi hỏi phải có rất nhiều yếu tố,trong đó yếu
tố quan trọng,căn bản là đội ngũ giáo dục.Nghị quyết hội nghị ban chấp hành trung
ương đảng 2,khoá 8 khẳng định:"giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giaó dục và
được xã hội tôn vinh".
Trong thời đại ngày nay,một đất nước muốn phát triển hưng thịnh,bền vững thì
không chỉ nhờ vàp tài nguyên,vốn kinh tế, mà yếu tố quyết định chính là nguồn lực
con người nói chung và đội nhũ giáo dục phổ thông trung học nói riêng là rất quan
trọng và cấp thiết.Chỉ thị của ban bí thư trung ương đảng về việc xây dựng,nâng cao
chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trong giai đoạn 2005-2010
trong đó mục tiêu tổng quát nêu:"Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
được chuẩn hoá,đảm bảo chất lượng đủ về số lượng,đồng bộ về cơ cấu,đặc biệt chú
trọng nâng cao bản lĩnh chính trị,phẩm chất,lối sống,lương tâm,tay nghề của nhà giáo
thông qua việc quản lý,phát triển đúng định hướng và hiệu quả sự nghiệp giáo dục để
nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực,đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của
sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước".
Thực tế chất lượng và hiệu quả của giáo dục nước ta trong những năm gần đây tuy
có những bước khởi sắc nhưng chưa đáp ứng được với yêu cầu của thời kỳ công nghiệp
hoá hiện đại hoá đất nước trong xu thế hội nhập quốc tế.Điều này đã được chỉ rõ trong
- 3 -
nghị quyết trung ương 2,khoá 8 của ban chấp hành trung ương đảng:"giáo dục và đào
tạo nước ta còn yếu kém,bất cập cả về quy mô,cơ cấu,nhất là chất lượng và hiệu quả,
chưa đáp ứng kịp thời với những đòi hỏi ngày càng cao về nhân lực của công cuộc đổi
mới về kinh tế xã hội và bảo vệ tổ quốc, thực hiện công nghiệp hoá hiện đaị hoá đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa".
Từ những vấn đề nêu trên đã đặt ra cho ngành giáo dục đào tạo cả nước nói chung
và trường trung học phổ thông Chương Mỹ A nói riêng một nhiệm vụ vô cùng quan
trọng,cấp thiết đó là: Phát triển đội ngũ giáo viên có trình độ,năng lực,phẩm chất đáp
ứng được nhu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ hội nhập.
Trong những năm qua,cấp học THPT của Hà Tây nay là Hà Nội có nhiều cố gắng
về nhiều mặt,nhất là công tác bồi dưỡng,phát triển đội ngũ giáo viên.Nhưng trước yêu
cầu đòi hỏi ngày càng cao về nhân lực của công cuộc đổi mới về kinh tế xã hội và bảo
vệ tổ quốc,trước yêu cầu,nhiệm vụ của giáo dục của giáo dục hiện tại và trong thời gian
tới cho thấy đội ngũ giáo viên THPT trên địa bàn còn nhiều bất cập về chất lượng, số
lượng cơ cấu. Vì vậy có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng và hiệu quả đào tạo.
Từ thực tế và yêu cầu đòi hỏi phát triển kinh tế xã hội như hiện nay nhất thiết phải
xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên THPT đủ về số lượng mạnh về chất lượng,
đồng bộ về cơ cấu góp phần tích cực thực hiện mục tiêu của sự nghiệp giáo dục:" Nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực,bồi dưỡng nhân tài phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá
hiện đại hoá đất nước".Vì những lý do như vậy tôi chọn đề tài" một số kinh nghiệm bồi
dưỡng giáo viên của trường THPT làm đề tài nghiên cứu.
1- Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn quản lý hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ
sư phạm cho giáo viên trường THPT,đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động bồi
dưỡng nghiệp vụ sư phạm trong bối cảnh hiện nay,góp phần nâng cao chất lượng đào
tạo.
2- Đối tượng nghiên cứu.
- Kinh nghiệm bồi dưỡng giáo viên ở trường THPT.
- 4 -
3- Nhiệm vụ nghiên cứu.
4.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của việc quản lý QTDH ở trường
THPT.
4.2. Phân tích thực trạng quản lý QTDH ở trường THPT X.
4.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng QTDH ở trường
THPT X.
4- Phương pháp nghiên cứu.
- Sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu.
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở khoa học
Cơ sở lí thuyết
Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng
thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH đất nước là điều kiện để phát huy nguồn lực con người.
Đây là trách nhiệm của toàn đảng,toàn dân trong đó nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
là lực lượng nòng cốt có vai trò quan trọng.Và đội ngũ giáo viên là 1 yếu tố quyết định
sự phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo.Đảng,chính phủ,nhân dân ta luôn luôn đánh giá
cao công lao của thầy,cô giáo,của nhà trường đối với việc dạy dỗ thế hệ trẻ. Hiện
nay,đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục chiếm phần lớn trong đội ngũ những
người ăn lương của nhà nước ( trên dưới 800.000 người ).Tuy nhiên trước yêu cầu đổi
mới của sự phát triển giáo dục trong thời kì CNH, HĐH,đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý Giáo dục còn những hạn chế bất cập.Về số lượng,giáo viên còn thiếu rất nhiều,
số lượng còn thiếu khoảng hơn 150.000 giáo viên bậc tiểu học, trung học cơ sở, trung
học phổ thông. Đặc biệt ở vùng sâu,vùng xa,vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Chất
lượng chuyên môn, nghiệp vụ của độ ngũ nhà giáo chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới
giáo dục và phát triển kinh tế - xã hội. Đa số vẫn dạy theo lối cũ, nặng về truyền đạt lý
thuyết, ít chú ý đến sự phát triển tư duy, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành của
- 5 -
người học. Nước ta hiện đang tiến hành công cuộc cải cách sách giáo khoa và được tiến
hành ở tất cả các cấp, ngành, bậc học. sách giáo khoa mới liệu có đáp ứng được với sự
thay đổi của đất nước không cũng phụ thuộc rất nhiều vào phương pháp giảng dạy cũng
như chuyên môn của giáo viên, với trình độ giáo viên hiện nay thì không thể đáp ứng
được việc truyền tải kiến thức mới tới người học một cách tốt nhất. Nên phải có chương
trình bồi dưỡng giáo viên để dạy theo chương trình và sách giáo khoa mới. Yêu cầu của
ngành giáo dục đặt ra là phải xây dựng đội ngũ hướng dẫn viên để bồi dưỡng đội ngũ
giáo viên đạt hiệu quả cao.
1. Cơ sở pháp lí.
Bước vào thể kỷ 21, giáo dục Việt Nam đã trải qua 15 năm đổi mới và đã thu được
một số thành tựu quan trọng: Mở rộng quy mô, đa dạng hoá hình thức giáo dục, nâng
cấp cơ sở vật chất cho nhà trường…Bên cạnh những thành tựu đó nền giáo dục Việt
Nam cũng còn rất nhiều yếu kém, một trong số yếu kém là chất lượng của đội ngũ giáo
viên còn thấp: Thấp về chuyên môn, thấp về phương pháp giảng dạy… Đứng trước bối
cảnh quốc tế và trong nước dần một cải tiến đã đặt ra những thách thức không nhỏ cho
đội ngũ giáo viên cần phải nâng cao chất lượng mới đáp ứng được nhu cầu ngày càng
lớn của mọi tầng lớp xã hội.
Tiếp tục khai triển Nghị quyết số 40/GH 10 của Quốc hội, chỉ thị số 14/2001/CT-
TTg của Thủ tường chính phủ về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông.
Thực hiện chỉ thị số 40-CT/TW ngày 15/6/2004 của ban Bí thư về việc xây dựng,
nâng cao chất lượng độ ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục, Chỉ thị số 22/2003/CT-
BGD&ĐT ngỳa 05/6/2003 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT về việc bồi dưỡng nhà giáo và
cán bộ quản lí giáo dục, Bô GD&ĐT chỉ đạo các đơn vị, các địa phương thực hiện có
hiệu quả kế hoạch bồi dưỡng CBQL giáo dục, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
3- Cơ sở thực tế.
- 6 -
Trước những yêu cầu mới của sự phát triển giáo dục trong thời kì này, đội ngũ giáo
viên của nhà trường có những hạn chế, bất cập. Số lượng giáo viên còn thiếu, cơ cấu
giáo viên còn mất cân đối giữa các môn học. Chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ của
đội ngũ nhà giáo có mặt chưa đáp ứng yêu cầu và truyền đạt lí thuyết, ít chú ý đến phát
triển tư duy, năng lực sáng tạo, kĩ năng thực hành của người học. Chế độ, chính sách
còn bất hợp lí, chưa tạo được động lực đủ mạnh để phát huy tiềm năng của đội ngũ này.
Tình hình trên đòi hỏi phải phải xây dựng đội ngũ nhà giáo một cách toàn diện.
Đây là nhiệm vụ vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt, vừa mang tính chiến lược lâu dài
nhằm thực hiện thành công Chiến lược phát triển giáo dục 2001- 2010. Mục tiêu là xây
dựng độ ngũ nhà giáo được chuẩn hóa, đảm bảo về chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ
về cơ cấu, đặc biệt nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tân, tay nghề
của nhà giáo. Dưới đây là chương trình và nội dung bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội
ngũ giáo viên của trường THPT.
Chương 2: Thực trạng bồi dưỡng giáo viên THPT.
Mục đích bồi dưỡng:
- Nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn và quản lí giáo dục để đáp ứng
nâng cao chất lượng giáo dục.
- Nắm vững mục tiêu đổi mới chương trình, sách gíáo khoa theo tinh thần
NQ 40/QH 10 của Quốc hội, Chỉ thị 14/2001/CT-TTg của Thủ tướng chính phủ và
Chỉ thị số 40-CT/TW của ban Bí thư về xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà
giáo và quản lí giáo dục.
- Tăng cường kiến thức, hiểu và nắm vững được những điểm mới trong
chương trình, sách giáo khoa, nắm được chương trình, nội dung tìa liệu BDTX chu
kỳ III.
- 7 -
- Tăng cường năng lực sư phạm, nắm vững yêu cầ đổi mới phương pháp dạy
học, bước đầu vận dụng được quá trình chỉ đạo, dạy học, tích cực đổi mới phương
pháp dạy học để thực hiện tốt các yêu cầu đổi mới giáo dục.
- Củng cố các kết quả bồi dưỡng của các giai đoạn, các chu kì BDTX trứơc
và tinh thần tự học, tự bồi dưỡng của giáo viên.
Trên đây là những mục đích về bồi dưỡng giáo viên của nhà nước Việt Nam trong
thời kì đổi mới. Đó chỉ là một mô hình chung hay nói cách khác đó là những ý kiến chỉ
đạo chung nhất. Mỗi trường đều có một thế mạnh riêng cũng như đều có những đặc
điểm khác nhau về đội ngũ giáo viên, hay học sinh trong trường. Do đó mỗi trường cần
phải cụ thể hoá mục đích chung đó thành một mục tiêu bồi dưỡng riêng để phù hợp với
hoàn cảnh mổi trường. Ở đây em chỉ muốn bàn luận đến kinh nghiệm để đưa ra được
mục đích bồi dưỡng sao cho mục đích đó phù hợp với từng hoàn cảnh của từng trường.
Mục đích cần phải rõỏàng vì nếu mục đích đúng thì hướng đi sẽ đúng và sẽ nâng cao
được chất lượng giáo dục, nếu mục đích sai thì hướng phát triển sẽ không tốt điều này
làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc nâng cao chất lượng đào tạo giáo dục. Cụ thể em
xin đưa ra một vài ý kiến để xây dựng mục đích bồi dưỡng giáo viên sao cho hiệu quả:
- Đối với giáo viên việc quan trọng đó là phải nâng cao trình độ chuyên
môn. Đây là mục đích hàng đầu của mỗi người giáo viên khi tham gia vào công tác
giảng dạy. Có nâng cao trình độ chuyên môn lúc đó các kiến thức cung cấp cho học
sinh cũng như phương pháp giảng dạy dễ hiểu sẽ giúp cho học sinh học hiệu quả
hơn, yêu thích môn học hơn.
- Giáo viên cần phải nắm rõ nội dung chương trình sách giáo khoa. Cần phải
nắm rõ và bám sát nội dung sách mới có thể giúp các học sinh ôn tập tốt. Tránh lan
man những phần không cần thiết, chú trọng vào các nội dung quan trọng, phương
pháp sạy phải phù hợp với hình thức thi trắc nghiệm khách quan, tránh học tủ, học
lệch.
- 8 -
- Giáo viên luôn phải tự học hỏi, luôn tự bồi dưỡng bản thân để nâng cao
trách nhiệm nghề nghiệp. Một người dù có trình độ đến đâu mà khôngcó tinh thần
trách nhiệm với công việc làm việc phất phơ thì sẽ không bao giờ được trọng dụng.
Đồng thời học sinh sẽ không tin tưởng vào giáo viên, lời nói của giáo viên sẽ không
có trọng lượng.
Tóm lại mục đích bồi dưỡng cần phải rõ ràng cụ thể, và có thể không phải là
mục đích nữa mà nên chuyển mục đích bồi dưỡng thành mục tiêu bồi dưỡng để càng
cụ thể vấn đề hơn thì sẽ càng đạt hiệu quả cao hơn.
1- Phương châm bồi dưỡng:
- Kết hợp bồi dưỡng nội dung với bồi dưỡng về phương pháp dạy học và sử dụng
thiết bị dạy học.
- Kết hợp bồi dưỡng trong hè với tự bồi dưỡng trong năm học
- Đa dạng hoá hình thức bồi dưỡng.
- Phương pháp bồi dưỡng tại các lớp bồi dưỡng tập trung phải phù hợp với nội
dung, kết hợp với các hình thức nghe giảng,thảo luận và thực hành,đảm bảo 70%
thời lượng bồi dưỡng dành cho việc trao đổi,thảo luận,thực hành soạn bài,tập
giảng,sử dụng TBDH,thiết kế kiểm tra đánh giá theo hướng đổi mới.
Hiện nay không phải ngôi trường nào cũng đều có các thiết bị dạy học đầy đủ, nhất
là ở vùng nông thôn cơ sở vật chất còn rất thiếu thốn.Do đó phương châm bồi dưỡng
không thể nào bồi dưỡng cho giáo viên biết sử dụng các thiết bị tiên tiến trong dạy học.
Điều này hoàn toàn chưa cần thiết.Vậy phương châm bồi dưỡng ở đây là gì? Phương
châm bồi dưỡng ở đây chính là bồi dưỡng về nội dung và phương pháp dạy học.Công
cụ dạy học cũng chỉ là các thiết bị hỗ trợ cho người giáo viên trong quá trình giảng dạy,
chứ nó không quyết định đến chất lượng học tập của học sinh.
Học là một sự nghiệp cả đời,cũng giống như giáo viên bồi dưỡng cũng là một quá
trình liên tục và lâu dài.Nhất là trong giai đoạn còn trẻ,khi sinh viên mới ra trường đi
- 9 -
dạy học thì càng phải tự học tập,tự bồi dưỡng,một mặt để lấy kinh nghiệm,một mặt để
khẳng định vị thế của bản thân trong công việc.Còn thông thường khi dạy học càng lâu
năm thì khả năng tự học,tụ bồi dưỡng để nâng cao trình độ cũng giảm đi rất nhiều.Lí do
có lẽ trong suốt quá trình bồi dưỡng của bản thân giáo viên đã có những kinh nghiệm
nhất định,và bản thân mỗi con người đều có tính cứng nhắc,bảo thủ nhất định, do đó để
làm thay đổi phương pháp dạy của giáo viên đó là rất khó.Cho nên kinh nghiệm bồi
dưỡng ở đây là: phải tận dụng sức trẻ để tự học,tự bồi dưỡng và học cách chấp nhận
hoàn cảnh để có thể thay đổi đôi chút về bản thân để thích nghi,đáp ứng yêu cầu của
việc đổi mới trong giáo dục.
Để đi đến một cái đích có rất nhiều con đường không chỉ có một con đường duy
nhất.Ở đây cũng thế có nhiều hình thức bồi dưỡng khác nhau.Mỗi hình thức đều mang
những đặc thù riêng và có những thế mạnh riêng.Do đó kinh nghiệm ở đây là cần bồi
dưỡng vấn đề gì rồi xem xét có bao nhiêu hình thức bồi dưỡng và lựa chọn cho bản thân
một hình thức bồi dưỡng phù hợp nhất.Đây có thể được cho là vấn đề quan trọng nhất
trong phương châm bồi dưỡng giáo viên.Nó giống như một kim chỉ nam cho mỗi giáo
viên để giáo viên có thể bồi dưỡng nâng cao thế mạnh của bản thân, rèn luyện các kĩ
năng còn yếu để phục vụ tốt cho nghề nghiệp sau này.Những sinh viên mới ra trường đa
số kinh nghiệm chưa hề có nhiều,các kĩ năng còn chưa thành thạo,phương pháp giảng
dạy đôi khi còn hạn chế,công tác quản lí lớp học còn chưa khoa học…điều này làm cho
các giáo viên trẻ khi ra trường thường kém tự tin trong công việc và đôi lúc có những
giáo viên còn không chịu nổi những sự đùa nghịch của học sinh đối với mình. Đã từng
có nhiều giáo viên phải chảy nước mắt khi mà không thể nói nổi học sinh và còn bị học
sinh quậy phá lại chính giáo viên.Do đó giáo viên cần phải xác định rõ mục tiêu,phương
châm bồi dưỡng là gì để đó có thể tìm được cách bồi dưỡng sao cho đạt được mục tiêu
đề ra.
Cần phải chú trọng vào vấn đề thảo luận,thực hành khi tham gia vào các lớp bồi
dưỡng.Nhiều khi cách học và cách dạy ở Việt Nam vẫn còn mang tính lí thuyết khá
cao,còn khả năng thực hành thì dường như là chưa hề có chuyên môn.Tại sao học sinh
- 10 -
từ cấp 1 đến học sinh cấp 3 đều không có kĩ năng thực hành? Vâng có lẽ lí do đơn giản
là vì cháy giáo án nên không có thời gian dành cho các tiết thực hành,hay một lí do
cũng khá đơn giản khác là giáo viên cũng chưa có kĩ năng thực hành cao.Ví dụ trong
các thí nghiệm hoá sinh,hoá học…cần phải có một độ chính xác nhất định vì nếu không
sẽ gây sai số rất lớn,điều này yêu cầu đòi hỏi một trình độ kĩ năng nhất định.Do đó bên
cạnh việc bbồi dưỡng chuyên môn về kiến thức cũng cần phải có bồi dưỡng chuyên
môn về thực hành.Và theo em các trường cũng nên tuyển giáo viên dạy thực hành riêng
như vậy sẽ nâng cao chất lượng giáo dục cho các em học sinh trong trường hơn.Để làm
được điều này các lớp mở bồi dưỡng sẽ phải nâng cao các giờ thực hành lên mức tối đa,
ít nhất là 70% giờ thực hành,có như vậy mới đảm bảo tốt cho rèn luyện kĩ năng.Đồng
thời thông qua các vấn đề thực hành và seminar các giáo viên cũng có thể trao đổi các
kinh nghiệm,sáng kiến cho nhau tù đó sẽ tìm ra được các biện pháp thích hợp nhất.
2- Loại hình,hình thức,phương thức bồi dưỡng.
3.1. Bồi dưỡng về nhận thức tư tưởng chính trị :
- Đối tượng : Toàn thể CBQLGD và giáo viên các cấp, bậc học.
- Nội dung,thời gian bồi dưỡng :
Các Phòng Giáo dục,các trường THPT,Chuyên nghiệp phối hợp với Ban Tuyên
giáo Quận,Huyện ủy để có kế hoạch triển khai học tập cho tất cả CBQLGD và giáo viên
thuộc phạm vi quản lý theo nội dung và kế hoạch hướng dẫn chung của Ban Tư tưởng
Văn hoá Thành ủy.
3.2. Bồi dưỡng về chuyên môn,nghiệp vụ.
- Tiếp tục tổ chức cho giáo viên các bộ môn ôn tập,củng cố nội dung bồi dưỡng các
chuyên đề học phần II theo tài liệu hướng dẫn của trường ĐH Sư phạm Thành phố Hồ
Chí Minh.Sở Giáo dục và Đào tạo phối hợp với trường ĐH Sư phạm tổ chức kiểm tra,
đánh giá kết quả bồi dưỡng của giáo viên - dự kiến vào qúi IV năm 2008.
3.3. Bồi dưỡng cán bộ quản lý và giáo viên THPT :
- 11 -
Bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình - sách giáo khoa mới lớp 12 THPT
năm học 2008-2009 :
Đối tượng : Tất cả giáo viên đang trực tiếp giảng dạy THPT,Bổ túc THPT,giáo
viên dạy các môn văn hoá ở các trường TCCN và cán bộ phụ trách thiết bị dạy học
THPT.
Các chuyên đề bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ theo yêu cầu các ngành học :
Sở Giáo dục và Đào tạo xây dựng các chuyên đề bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp
vụ cho CBQLGD, giáo viên thuộc các ngành học do các phòng, ban chức năng và đơn
vị trực thuộc Sở tổ chức trong tháng 7,8/2008 tùy theo đối tượng và đặc điểm từng
ngành học theo kế hoạch cụ thể đính kèm văn bản này.
3.4. Loại hình bồi dưỡng giáo dục khác :
Ngoài các loại hình bồi dưỡng chung theo chỉ đạo của Bộ và kế hoạch hướng dẫn
của Sở,các Phòng Giáo dục,trường BDGD quận,huyện; các trường THPT,trường
Chuyên nghiệp và các đơn vị trực thuộc Sở cần chú ý :
- Tiếp tục có kế hoạch bồi dưỡng sau tập huấn và bồi dưỡng trong năm học đối với
giáo viên dạy các lớp theo chương trình-sách giáo khoa mới.
- Chủ động phối hợp với các trường Sư phạm, các đơn vị chức năng để tổ chức bồi
dưỡng về tin học, ngoại ngữ; bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ khác theo các
chuyên đề phù hợp với yêu cầu của quận, huyện hoặc của trường nhằm thường xuyên
nâng cao kiến thức, phương pháp dạy học cho CBQLGD và giáo viên theo chủ trương
chung của ngành.
- Các trường Chuyên nghiệp cần chủ động xây dựng kế hoạch bồi dưỡng chuyên
môn, nghiệp vụ cho CBQL, giáo viên của trường trong hè phù hợp với đặc điểm ngành
nghề đào tạo và yêu cầu cụ thể của trường trên cơ sở “Quy định về bồi dưỡng nâng cao
trình độ giáo viên trường trung cấp chuyên nghiệp” ban hành theo Quyết định số
0/2008/QĐ-BGDĐT ngày 09/01/2008 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Chú trọng bồi
- 12 -
dưỡng những nội dung thiết thực nhằm giúp giáo viên giải quyết những vấn đề còn
vướng mắc, tồn tại về kiến thức, phương pháp (dạy lý thuyết và thực hành) trong việc
thực hiện chương trình, môn học ở đơn vị theo tinh thần “Quy chế đào tạo trung cấp
chuyên nghiệp” ban hành theo Quyết định số 40/2007/QĐ-BGDĐT ngày 01/08/2007
của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Chọn cử CBQL, giáo viên tham gia đầy đủ các lớp tập
huấn do Bộ, Sở tổ chức.
3.5 Hình thức bồi dưỡng giáo viên theo mô hình liên trường hoặc theo cụm
trường
Tổ chức các nhóm tự bồi dưỡng giáo viên theo mô hình liên môn và liên trường là
một trong những con đường tự bồi dưỡng thiết thực và hiệu quả
Từ 1995 đến nay, đội ngũ giáo viên phổ thông đã trải qua 3 chu kỳ bồi dưỡng thường
xuyên. Bên cạnh đó, việc bồi dưỡng thay sách, bồi dưỡng chuyên đề, bồi dưỡng nâng
cao năng lực gần như diễn ra liên tục hàng năm. Kết quả là trình độ chuyên môn và
nghiệp vụ ngày càng được nâng cao, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhiệm vụ giáo dục
trước nhiều yêu cầu mới của chương trình, sách giáo khoa nói riêng và việc đổi mới
giáo dục nói chung. Việc tự bồi dưỡng được xem là một nhu cầu tự thân của mỗi giáo
viên, được diễn ra thường xuyên liên tục trong suốt cả quá trình công tác của mỗi
người. Ngoài các đợt bồi dưỡng được thực hiện theo kiểu “từ trên xuống”, việc bồi
dưỡng phải được tiến hành mọi nơi, mọi lúc theo kiểu “từ dưới lên”. Giúp nhau trong tự
bồi dưỡng là một trong những con đường có hiệu quả trong tự bồi dưỡng chuyên môn,
nghiệp vụ.
Ngoài việc bồi dưỡng theo tổ chuyên môn, hình thức bồi dưỡng theo mô hình “liên
tổ” trong mỗi trường có tác dụng thiết thực theo từng nội dung tự bồi dưỡng. Chẳng
hạn, để nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học, các giáo viên
bộ môn Tin học có nhiều ưu thế hơn trong trường. Một tổ tự nguyện giúp đỡ nhau về
công nghệ thông tin được thành lập với hạt nhân là giáo viên bộ môn Tin học sẽ có ý
nghĩa rất thiết thực, đặc biệt đối với nhiều giáo viên đang còn hạn chế về sử dụng máy
tính trong dạy học.
- 13 -
Hình thức bồi dưỡng “liên trường” hoặc theo “cụm trường” có tác dụng rất lớn
trong việc giúp đỡ nâng cao năng lực chuyên môn giáo viên giữa các trường. Hàng
tháng, hàng quý, các tổ “liên trường” hoặc “cụm trường” cùng tiến hành dự giờ, trao đổi
về một chủ đề chuyên môn,… Trong năm, thường xuyên trao đổi tài liệu, thông tin
chuyên môn,… Những việc làm ấy rất có ích đối với mỗi giáo viên. Các giáo viên giỏi
có điều kiện để trau dồi chuyên môn và giúp đỡ đồng nghiệp; các giáo viên khác có
điều kiện học hỏi thêm, hoặc được giải đáp bằng ý kiến thống nhất của tập thể về những
điều còn băn khoăn,…
Tự bồi dưỡng là công việc thiết yếu của từng giáo viên. Thành lập các tổ tự bồi
dưỡng liên môn, liên trường cần nhiều đến vai trò của các tổ trưởng chuyên môn. Xây
dựng các tổ bồi dưỡng “cụm trường” cần nhiều đến vai trò của hiệu trưởng. Định hướng
các chủ đề tự bồi dưỡng, hoặc sinh hoạt chuyên môn cần đến các phòng chức năng của
Sở Giáo dục và Đào tạo. Sự phối hợp có hiệu quả giữa các thành phần trên sẽ làm cho
việc tự bồi dưỡng của giáo viên ngày càng có hiệu quả hơn.
3.6 Hình thức giáo viên tự bồi dưỡng năng lực, kiến thức của bản thân.
Sự nghiệp học tập là vô cùng,Lênin đã từng nói:״học,học nữa,học mãi”.Người giáo
viên cũng vậy,phải không ngừng học tập nâng cao kiến thức thông sách vở,các tài liệu
trên mạng,thông qua các đồng nghiệp khác…Đặc biệt với môn sinh học,là môn có rất
nhiều những thành tựu khoa học,những phát minh mới,do đó người giáo viên phải biết
cập nhật thông tin,đưa chúng vào trong bài giảng,làm cho bài giảng thêm sinh động,lôi
cuốn được học sinh.
3.7 Phương thức bồi dưỡng giáo viên trực tiếp
Tổ chức các lớp bồi dưỡng cho giáo viên về kiến thức,năng lực sư phạm.Các lớp
bối dưỡng này thường do sở giáo dục hay do bộ tổ chức,diễn ra vào kì nghỉ hè.Qua các
kì bồi dưỡng này,người giáo viên được trực tiếp giao lưu học hỏi,được giải đáp thắc
mắc của mình trong công tác giảng dạy. Thường các trường sẽ cắt cử một số giáo viên
đi,mỗi người sẽ được tập huấn ít nhất một lần trong năm. Thời gian tập huấn ngắn dài
- 14 -
tùy vào từng đợt, thường là một tháng, có khi chỉ là một tuần hay vài ngày.Phương
châm bồi dưỡng là:
- Kết hợp bồi dưỡng về nội dung với bồi dưỡng về phương pháp, sử dụng thiết bị
dạy học.
- Kết hợp bồi dưỡng trong hè và tự bồi dưỡng trong năm học.
- Đa dạng hoá hình thức bồi dưỡng, thông qua các lớp bồi dưỡng tập trung kết hợp
với các sinh hoạt tổ nhóm chuyên môn, hội thi giáo viên và tự bồi dưỡng của cán bộ,
giáo viên; tổ chức tham quan học tập trao đổi kinh nghiệm quản lý.
3.8. Phương thức bồi dưỡng gián tiếp.
- Cho giáo viên tự tìm hiểu sách để nghiên cứu.Có thể tổ chức theo mô hình:tổ
chức các nhóm tự bồi dưỡng giáo viên theo mô hình liên môn và liên trường là một
trong những con đường tự bồi dưỡng thiết thực và hiệu quả.Qua đó giáo viên có thể
giao lưu,học hỏi kinh nghiệm,các cách giảng dạy hay,từ đó năng cao được chuyên môn
nghiệp vụ.Theo tôi,đây là cách bồi dưỡng có hiệu quả nhất,không gì có thể bằng việc có
thể phát huy tính sáng tạo,chủ động học tập tích cực trong bản thân chính chúng ta.
- Phương thức dạy học cũ:giáo viên đọc,học sinh chép,do đó không phát huy được
khả năng tư duy,tính chủ động của học sinh.Ngày nay,phương thức dạy học truyền
thống được thay bằng cách dạy học theo cách lấy người học làm trung tâm,giáo viên chỉ
là người hướng dẫn cho học sinh cách học,cách lãnh hội kiến thức,người giáo viên có
nhiệm vụ định hướng,giải đáp các thắc mắc.Đây là phương thức dạy học mới và đang
được áp dụng vào trong các trường học,tuy nhiên còn gặp nhiều khó khăn vì giáo
viên<nhất là các giáo viên lâu năm rất ngại thay đổi cách dạy cũ>
Kết luận: Tuy có những đặc thù riêng, nhưng giáo dục và đào tạo,bồi dưỡng năng
lực bản thân đều nằm trong quá trình học tập suốt đời của con người. Học ở trường lớp,
học trong cuộc đời là một quá trình phát triển liên tục. Có thể hiểu giáo dục được thực
hiện ở các bậc học phổ thông nhằm trang bị cho con người những kiến thức cơ bản về
tự nhiên và xã hội để nhận thức thế giới. Giáo dục là giai đoạn cần thiết để hình thành
- 15 -
nhân cách, tạo lập cho con người trở thành một cá nhân có ích trong cộng đồng. Đào tạo
là khâu nối tiếp của giai đoạn giáo dục, chuẩn bị cho con người những hành trang cần
thiết để lao động sáng tạo. Đào tạo trang bị cho con người những kiến thức và kỹ năng
nghề nghiệp thích hợp với mỗi cá nhân để bước vào cuộc sống. Như vậy, giáo dục và
đào tạo là một quá trình thống nhất hữu cơ. Giáo dục là nền tảng của đào tạo. Con
người phải có những kiến thức phổ thông nhất định thì đào tạo mới hiệu quả. Đến lượt
mình, đào tạo đòi hỏi giáo dục phải có những cải cách thích ứng, phục vụ cho việc trang
bị tiếp tục những kiến thức nghề nghiệp.Bồi dưỡng là khâu sau giáo dục và đào tạo,có
nhiều hình thức,phương pháp,nội dung,hình thức…bồi dưỡng khác nhau nhưng chúng
đều có mục đích duy nhât là giúp củng cố,mở rộng kiến thức cho con người,giúp nâng
cao tầm hiểu biết.
4- Thời gian và đối tượng tham gia bồi dưỡng.
- Thời gian bồi dưỡng thường mỗi năm là 1 tháng, kết hợp với các hình thức bồi
dưỡng tập trung, sinh hoạt chuyên đề và tự học có hướng dẫn.
- Đối tượng bồi dưỡng: Toàn thể cán bộ công chức, nhà giáo ngành giáo dục.
- Các cá nhân tham gia bồi dưỡng phải có thu hoạch về các nội dung trên và lưu
trong hồ sơ chuyên môn.
a- Bồi dưỡng thường xuyên.
- Thực hiện bồi dưỡng tập trung kết hợp với sinh hoạt chuyên môn từ 5 – 7 ngày
theo tài liệu của Bộ (tài liệu này do các trường khoa ĐHSP được giao nhiệm vụ BDGV
THPT biên soạn).
- Chương trình Bồi dưỡng về nhận thức tư tưởng chính trị.
Đối tượng: là cán bộ Quản lý Giáo Dục, Giáo viên và Công nhân viên toàn ngành.
Thời gian: được tiến hành trong hè.
- Chương trình BDTX phần chuyên môn, nghiệp vụ được thiết kế thành 4 phần:
Phần 1: Các bài giới thiệu (từ bài 1 đến bài 3).
- 16 -
Phần 2: Phương pháp dạy học tích cực và tương tác (từ bài 4 đến bài 9).
Phần 3: Áp dụng phương pháp dạy học tích cực và tương tác (từ bài 10 đến bài 19).
Phần 4: Thực hành và đánh giá giảng dạy (từ bài 20 đến bài 21).
Sở Giáo Dục v à Đào Tạo đã tiến hành phối hợp với trường ĐHSP Huế (Trung tâm
nghiên cứu Giáo Dục và Bồi Dưỡng Giáo Viên) tổ chức tập huấn cho đội ngũ cốt cán
các trường về nâng cao năng lực cho Giáo viên giảng dạy Chương trình thay SGK Lớp
10 (tháng 1/2007) và Lớp 11 (tháng 12/2007) Sở Giáo Dục Đào Tạo yêu cầu các trường
báo cáo về quá trình tổ chức triển khai tại Đơn vị về Sở Giáo Dục Và Đào Tạo và tiếp
tục tổ chức cho các tổ chức chuyên môn bồi dưỡng thường xuyên theo tài liệu hướng
dẫn bồi dưỡng các chuyên đề về đổi mới giáo dục THPT (đổi mới phương pháp Dạy
Học và Kiểm tra đánh giá ở THPT) trong năm học 2007 – 2008 theo tài liệu của Bộ
Giáo Dục Đào Tạo đã gửi về cho các trường từ tháng 9/2007.
- Thời gian gửi về báo cáo và kế hoạch của trường chậm nhất là 31/3/2008.
- Các trường BTTH, Trung tâm GD thường xuyên, trường TCCN (có GV dạng văn
hoá) tổ chức cho Giáo viên nghiên cứu theo Bộ môn thông qua sinh hoạt chuyên môn từ
5 – 7 ngày và hướng dẫn tự học trong thời gian còn lại HK II năm học 2007 – 2008 và
trong hè 2008 theo tài liệu hướng dẫn của Bộ Giáo Dục Đào Tạo.
- Phòng GDCN & TX tiến hành tập hợp kết quả Bồi dưỡng thường xuyên của Giáo
viên trung học theo chu kì III và đăng kí mua phôi giấy chứng nhận từ Bộ Giáo Dục
Đào Tạo (dự kiến cấp chứng chỉ BDTX CK III cho GV vào quý 4 năm 2008 ).
- Chương trình Bồi dưỡng các chứng chỉ sau Đại học:
Đối tượng: CBQLGD, Giáo viên THPT không có điều kiện học sau Đại học.
Môn bồi dưỡng: Văn, Toán và Ngoại ngữ.
b- Bồi dưỡng thực hiện CT-SGK mới.
* Đối với cán bộ QLGD :
- 17 -
- Hiệu trưởng các trường THPT tham dự hội nghị bồi dưỡng theo kế hoạch của Bộ
GD&ĐT. Phó hiệu trưởng tham gia các lớp bồi dưỡng cho giáo viên theo chuyên môn.
- Bồi dưỡng cốt cán và CBQLGD: Từ cuối tháng 6 đến đầu tháng 7/2008 theo lịch
cụ thể của Bộ Giáo Dục Đào Tạo.
* Đối với giáo viên :
- Sở GD&ĐT tổ chức các lớp bồi dưỡng cho giáo viên theo các môn giảng dạy ở
lớp 11 phổ thông : (theo kế hoạch cụ thể đính kèm):
Thời gian : từ 01/8 đến 17/8/2008
- Các môn : Toán, Ngữ văn, Vật lý, Hoá học, Sinh học : 7 ngày
- Các môn : Lịch sử, Địa lý, Ngoại ngữ, Công nghệ : 6 ngày
- Các môn còn lại : 5 ngày.
- Địa điểm : Lớp đặt tại các trường THPT (theo cụm địa bàn quận, huyện)
- Đặc biệt, đối với bộ môn Hoạt động ngoài giờ lên lớp, Phó hiệu trưởng phụ trách
công tác chủ nhiệm (hoặc theo phân công của Hiệu trưởng) tham dự lớp bồi dưỡng, sau
đó về trường trực tiếp triển khai cho toàn thể giáo viên chủ nhiệm lớp 11 của trường.
- Đối với Bồi dưỡng Giáo viên dạy thay sách lớp 12 THPT năm học 2008 -2009.
- Đối tượng: Tất cả các Giáo viên đang trực tiếp giảng dạy THPT, Bổ túc THPT.
- Thời gian tổ chức bồi dưỡng: Từ giữa tháng 7 đến cuối tháng 7 năm 2008.
* Thành phần Ban quản lý lớp bồi dưỡng :
- Sở GD&ĐT ủy nhiệm cho Hiệu trưởng trường THPT nơi có địa điểm đặt lớp
(theo kế hoạch kèm theo văn bản này) lập danh sách Ban Quản lý lớp bồi dưỡng gồm :
+ Trưởng ban và 01 Phó trưởng ban : là thành viên trong Ban giám hiệu trường.
+ Các thành viên : 03 cán bộ, nhân viên của trường phụ trách về cơ sở vật chất, về
kinh phí và các phương tiện kỹ thuật khác phục vụ cho lớp bồi dưỡng.
- 18 -
- Danh sách Ban quản lý lớp gởi về Sở trước ngày khai mạc lớp bồi dưỡng để Sở ra
quyết định công nhận, làm cơ sở cho việc tổ chức lớp ở đơn vị.
* Ban quản lý lớp bồi dưỡng có trách nhiệm :
- Chuẩn bị địa điểm đặt lớp, các điều kiện cần thiết cho việc tổ chức lớp học, tham
gia tổ chức, quản lý các lớp bồi dưỡng đặt tại đơn vị - khai mạc lớp học, kiểm diện học
viên trong thời gian tham dự lớp gởi về Sở để làm cơ sở xác nhận cho giáo viên sau đợt
tập huấn.
- Thanh, quyết toán kinh phí tổ chức lớp (theo hướng dẫn của Phòng KHTC Sở) và
báo cáo kịp thời về Sở tình hình triển các lớp học sau đợt bồi dưỡng.
- Ngoài loại hình bồi dưỡng chung theo chỉ đạo của Bộ và kế hoạch hướng dẫn của
Sở, còn có một số các đơn vị tổ chức bồi dưỡng về Tin học, Ngoại ngữ, bồi dưỡng về
chuyên môn nghiệp vụ khác theo các chuyên đề phù hợp với yêu cầu của đơn vị nhằm
thường xuyên nâng cao kiến thức, phương pháp dạy học cho CBQLGD và Giáo viên
theo chủ trương chung của ngành.
- Đối tượng tham gia bồi dưỡng này là: những Giáo viên đang giảng dạy tại các
trường THPT và các CBQLGD.
- Thời gian tham gia bồi dưỡng: theo quy định mở lớp của Sở Giáo Dục Đào Tạo
và các khoá đào tạo này thường là loại hình ngắn hạn.
5. Chương trình và nội dung bồi dưỡng
Việc đầu tiên là phải tiến hành rà soát, sắp xếp lại đội ngũ nhà giáo để có kế hoạch
đào tạo, bồi dưỡng bảo đảm đủ số lượng và cân đối về cơ cấu; nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ, đạo đức cho đội ngũ nhà giáo.
- Tổ chức điều tra, đánh giá đúng thực trạng đội ngũ nhà giáo về tình hình tư
tưởng, đạo đức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phương pháp giảng dạy.
- Trên cơ sở kết quả điều tra, căn cứ vào chiến lược phát triển giáo dục tiến hành
xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ
- 19 -
nhà giáo, đảm bảo số lượng, nâng cao chất lượng, cân đối về cơ cấu đạt chuẩn, đáp ứng
yêu cầu của thời kì mới.
- Rà soát, bố trí sắp xếp lại những giáo viên không đáp ứng yêu cầu bằng các giải
pháp thích hợp như: luân chuyển, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao trình độ. Ưu tiên việc
đào tạo, bồi dưỡng giáo viên các môn học còn thiếu ở các lĩnh vực mũi nhọn hoặc có
nhu cầu cấp bách.
Chương trình, nội dung bồi dưỡng đối với giáo viên dạy CT – SGK mới:
Nâng cao chất lượng nhận thức tư tưởng chính trị, tăng cường kỉ cương nền nếp
trong quản lí giáo dục và dạy học.
Mục tiêu bồi dưỡng giáo viên:
Sau khi bồi dưỡng xong, giáo viên phải:
- Giải thích được vì sao phải đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Xác định
được các nguyên tắc và căn cứ để thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ thông.
- Chỉ ra được những kết quả đổi mới chương trình giáo dục phổ thông.
- Nghiên cứu kế hoạch giáo dục THPT, vấn đề phân ban ở THPT.
- Xác định được mục tiêu, các nguyên tắc xây dựng, cấu trúc chương trình và SGK.
- Phát hiện được những nội dung mới và khó cần được giải đáp.
- Chỉ ra được những ưu nhược điểm của chương trình SGK mới. Nghiên cứu mục
tiêu của cấu trúc nội dung từng phần trong SGK ( chuẩn và nâng cao), tìm ra những
điểm khác biệt so với chương trình SGK cũ ở điểm nào.
- Phân tích được những ưu nhược điểm của SGK mới ( tính hiện đại, cập nhật, cấu
trúc logic hợp lí, sự phong phú của kênh hình, tính định hướng đổi mới phương pháp…
- Đổi mới phương pháp và phương tiện dạy học.
- Đổi mới kiểm tra, đánh giá.
Mục tiêu dạy chương trình SGK mới:
- 20 -
- Mục tiêu quan trọng của đổi mới giáo dục là đổi mới phương pháp dạy học,
nhưng chương trình bồi dưỡng còn tập trung nhiều cho các mục tiêu giới thiệu nội dung
mới và khó của chương trình và SGK mới. Trong khi đó, nhu cầu của giáo viên lại tập
trung nhiều hơn ở việc đòi hỏi được bồi dưỡng về thực hiện đổi mới phương pháp dạy
học, hình thức phân ban, phân hóa trong dạy học theo các chủ đề tự chọn còn mới mẻ,
nội dung chương trình chưa được đề cập thỏa đáng. Do đó, mục tiêu lớn nhất để dạy
chương trình SGK mới có hiệu quả đó là phải bồi dưỡng phương pháp dạy học mới cho
giáo viên của nhà trường. Đồng thời phải kết hợp sử dụng công nghệ thông tin thành
thạo, hiệu quả.
- Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; thực hiện giảm tải, có cơ cấu chương
trình hợp lí vừa đảm bảo được chuẩn kiến thức phổ thông, cơ bản, vừa tạo điều kiện để
phát triển năng lự của mỗi học sinh, nâng cao năng lực tư duy, kĩ năng thực hanh, tăng
tính thực tiễn, coi trọng kiến thức xã hội và nhân văn; bổ sung những thành tựu khoa
học và công nghệ hiện đại phù hợp với khả năng tiếp thu của học sinh và tiếp cận trình
độ giáo dục của các nước phát triển trong khu vực; quan tâm đầy đủ đến giáo dục phẩm
chất đạo đức, ý thức công dân, giáo dục sức khỏe thẩm mĩ cho học sinh.
Những điểm mới và nội dung tích hợp trong chương trình SGK mới:
Yêu cầu phải chú ý đến nội dung giáo dục thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân
văn do sự cân thiết phải đưa vào nhà trường một số nội dung dạy học mới, hoạt động
giáo dục gắn với hoạt động thực tiễn xã hội, kế hoạch giáo dục THPT có một số thay
đổi so với kế hoạch giáo dục THPT hiện hành. Chỉ thị 30/1998/CT- TTg của Thủ tướng
Chính phủ yêu cầu nội dung giáo dục THPT phải dựa trên cơ sở một chương trình
chuẩn và đảm bảo tính phổ thông, toàn diện, hướng nghiệp. Chênh lệch về kiến thức
của các môn học phân hóa giữa chương trình chuẩn và chương trình nâng cao không
quá 20%. Trong thông báo số 13/2006/VPCP của Văn phòng Chính phủ về ý kiến chỉ
đạo của Thủ tướng Phan Văn Khải, chủ tịch Hội đồng Quốc gia Giáo dục về phương án
điều chỉnh phân ban ở THPT, Thủ tướng đã chỉ đạo chọn phương án phân thành ba ban:
ban KHTN ( có các môn nâng cao Tóan, lí, Hóa, Sinh ) ; ban KHXH – NV ( có các môn
- 21 -
nâng cao Ngữ văn, Sử, Địa, Tiếng nước ngoài ) và ban Cơ bản HS học theo chương
trình chuẩn. Đó là những căn cứ pháp lí quan trọng để xây dựng lại kế hoạch dạy học
cho cấp học này.
Một số điểm mới:
- Thể hiện sự phân bố qua bố trí thời lượng dạy học chênh lệch cho 8 môn phân
hóa: Toán, Lí, Hóa, Sinh, Sử, Địa và Tiếng nước ngoài.
- Mức độ phân hóa không quá lớn, đảm bảo theo yêu cầu từ chương trình chuẩn
( mặt bằng học vấn phổ thông ) nâng lên 20% tính cả về thời lượng và nội dung chênh
lệch của từng môn học phân hóa. Cụ thể là các môn Toán, Lí, Hóa, Sinh ở ban KHTN
và các môn Ngữ văn, Sử, Địa, Tiếng nước ngoài ở ban KHXH- NV sẽ được nâng lên
20% so với chương trình chuẩn.
- Điều chỉnh giảm số tiết so với chương trình trung học phổ thông hiện hành ở một
số môn như Ngữ văn từ 11 tiết/ tuần trong cả 3 năm học xuống còn 9.5 tiết ; Toán từ 14
tiết còn 10 tiết ; Lí từ 9 tiết còn 6 tiết ; Công nghệ từ 6 còn 5. Thay vào các tiết này là
thời lượng dành cho các môn học mới, cho dạy học tư chọn và cho hoạt động giáo dục
khác ( hướng nghiệp, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ) đảm bảo sự cân đối giữa
các lĩnh vực tri thức của mặt bằng học vấn phổ thông.
- Tiếp tục thực hiện nguyên tắc phân hóa trong giáo dục THPT, đáp ứng nhu cầu
rất đa dạng của người học cũng như tạo điều kiện cho chương trình giáo dục của nhà
trường được thực hiện một cách linh hoạt, gắn bó với thực tiễn địa phương phục vụ yêu
cầu chuẩn bị đội ngũ lao động tham gia phát triển kinh tế- xã hội địa phương, kế hoạch
dạy học mới dành thời lượng cho môn học tự chọn: 4 tiết/ tuần cho 3 lớp 10, 11, 12 của
ban KHTN cũng như ban KHXH; 12 tiết/ tuần cho 3 lớp của ban Cơ bản. Mục đích là
giúp cho học sinh củng cố kiến thức, kĩ năng đã được học hoặc cung cấp chủ đề nâng
cao kiến thức, kĩ năng cho học sinh hoặc đáp ứng những yêu cầu khác cho học sinh.
- Số tuần học trong 1 năm học theo quy định chung là 35 tuần mỗi tuần lễ học 6
buổi.
- 22 -
- Thời gian học cho các môn trong mỗi buổi không quá 5 tiết, thời lượng mỗi tiết
không quá 45 phút.
- Mỗi tuần lễ ó 2 tiết hoạt động giáo dục tập thể dành cho sinh hoạt lớp, sinh hoạt
toàn trường. Tiết hoạt đông tập thể có thể hoạt động trong hoặc ngoài phòng học, trong
hoặc ngoài trường. Mỗi tháng có 4 tiết tương đương với 1 buổi dành cho hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp.
- Thời lượng và thời gian nghỉ hè, nghỉ tết, nghỉ giữa kì và cuối kì theo quy đinh
chung của Bộ GD & ĐT.
- Kế hoạch giáo dục cấp THPT quy định sự phân bổ thời lượng đối với chương
trình các môn học của ban KHTN, KHXH- NV và ban Cơ bản. Ban KHTN được tổ
chức dạy học theo chương trình nâng cao đối với 4 môn: Toán, Lí, Hóa, Sinh và theo
chương trình chuẩn đối với các môn còn lại; ban KHXH- NV được tổ chức dạy học
theo chương trình nâng cao đối với 4 môn: Ngữ văn, Sử, Địa, Tiếng nước ngoài và theo
chương trình chuẩn đối với các môn còn lại. Cả 2 ban đều có 4 tiết dành cho 3 lớp 10,
11, 12 để dạy học tự chọn. Ban Cơ bản được tổ chức dạy học theo chương trình chuẩn
và sử dụng 4 tiết/ tuần để dạy học các chủ đề tự chọn hoặc tùy theo điều kiện cơ sở vật
chất, điều kiện giáo viên,nguyện vọng và năng lực học tập của HS có thể dạy học một
số môn trong số 8 môn phân hóa nêu trong chương trình nâng cao.
Một số điểm mới của chương trình môn học:
Nhìn chung chương trình môn học đều bám sát vào 8 yêu cầu của xây dựng
chương trình trong quá trình xác định mục tiêu, nhiệm vụ môn học, trong lựa chọn và
sắp xếp các nội dung trong văn bản chương trình.
- Nổi bật là các chương trình đều tăng thời lượng dành cho các hoạt động thực hành,
hoạt động tích cực của học sinh.
- Các nội dung lí thuyết được cân nhắc lựa chọn và đề ra các yêu cầu thực hành phù
hợp với mức độ nhận thức của học sinh.
- 23 -
-Các nội dung trong chương trình được sắp xếp lại đêt tăng cường ứng dụng và hỗ
trợ giữa các môn.
- Đối với các môn văn hóa, nguyên tắc đảm bảo tính thực tiễn được thực hiện qua
việc tăng cường tích hợp, liên hệ nội dung môn học thực tiễn cuộc sống, địa phương,
đất nước hoặc đưa những nội dung ứng dụng thực tiễn, thông tin mới về kinh tế - xã
hội vào môn học. Nhiều môn học được thực hiện tích hợp như giáo dục dân số- sức
khỏe sinh sản, giáo dục bảo vệ môi trường, giáo dục sức khỏe. Qua đó giúp học sinh
hiểu biết thực tế cuộc sống, hiểu biết các hoạt động sản xuất của quê hương, đất
nước, góp phần định hướng nghề nghiệp, chuẩn bị tâm thế sẵn sàng tham gia lao
động sản xuất.
- Ngoài ra, chương trình hoạt động hướng nghiệp còn giúp học sinh nắm được thông
tin về tình hình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, địa phương, về thị trường lao
động, về thế giới nghề nghiệp và hệ thống đào tạo lam căn cứ cho việc chọn nghề và
chuẩn bị tâm thế tham gia lao động.
-Chương trình hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp quy định còn có phần hướng dẫn
trường THPT tổ chức các hoạt động cho học sinh như lao động - hướng nghiệp hoạt
động theo hứng thú nghiên cứu khoa học, kĩ thuật, nghệ thuật giúp các em định
hướng nghề nghiệp của mình.
-Các nội dung tự chọn với loại chuyên đề bám sát giúp học sinh nắm vững hơn các
kiến thức cơ bản, chủ đề đáp ứng sẽ cung cấp cho học sinh những kiến thức, kĩ năng
theo theo nhu cầu, nguyên vọng của học sinh, phần nào giúp học sinh có thêm hiểu
biết cần thiết để tham gia lao động xã hội ngay tại trường phổ thông.
Đổi mới phương pháp dạy học:
Đây là trọng tâm của toàn bộ chương trình bồi dưỡng. Chỉ có đổi mới phương pháp
dạy và học chúng ta mới có thể tạo được sự đổi mới thực sự trong giáo dục, mới có thể
đào tạo được lớp người năng động, sáng tạo, có tiềm năng cạnh tranh trí tuệ trong bối
cảnh nhiều nước trên thế giới đang hướng tới nền kinh tế tri thức.
- 24 -
Luật giáo dục 2005, điều 28.2, đã ghi “ phương pháp giáo dục phổ thông phải phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS; phù hợp với đặc điểm của từng
lớp học, từng môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, ren luyện kĩ năng vận dụng kiến
thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học
sinh ”.Hướng tới hoạt động học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động.
Tuy nhiên, đổi mới phương pháp dạy và học không có nghĩa là gạt bỏ các phương
pháp truyền thống mà phải vận dụng một cách hiệu quả các phương pháp học hiện có
theo quan điểm học tập tích cực kết hợp với các phương tiện hiện đại.
Đặc trưng của các phương pháp dạy học tích cực:
- Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh: Giáo viên không
chỉ giản đơn truyền thụ tri thức mà còn hướng dẫn hành động. Nội dung và phương
pháp dạy học phải giúp cho từng học sinh biết hành động và tích cực tham gia các
chương trình hoạt động của công cộng.
- Dạy học phải chú trọng phương pháp rèn luyện phương pháp tự học: Nếu rèn cho
người học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ lòng
ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ nhân lên gấp
bội.
- Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác:
Trong học tập, không phải mọi tri thức, kĩ năng, thái độ đều được hình thành bằng
các hoạt động cá nhân. Lớp học là môi trường giao tiếp thầy- trò, trò- trò, tạo nên mối
liên hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông
qua thảo luận, tranh luận trong tập thể, ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay
bác bỏ, qua đó người học nâng mình lên một trình độ mới. Bài học vận dụng được vốn
hiểu biết và kinh nghiệm sống của giáo viên.
Trong nhà trường phương pháp học tập hợp tác được tổ chức ở cấp nhóm, tổ, lớp
hoặc trường. Được sử dngj phổ biến trong dạy học nhóm nhỏ từ 4- 6 người. Học tập
hợp tác làm tăng hiệu quả học tập, nhất là lúc phải tự giải quyết các vấn đề gay cấn, lúc
- 25 -