Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Vai trò của đầu tư trong việc thúc đẩy kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (397.46 KB, 20 trang )

Theo C.Mac va F.Anghen: Không thể cải biến kinh tế xã hội nếu thiếu vai trò
kinh tế của Nhà nước, loài người đã và đang còn sống lâu dài trong nền kinh
tế thị trường,bên cạnh mặt tích cực là chủ yếu, nền kinh tế thị trường không
thể tránh khỏi mặt tiêu cực. Phát huy mặt tích cực, chủ động hạn chế mặt tiêu
cực của kinh tế thị trường thông qua vai trò của đầu tư trong việc thúc đẩy
kinh tế là một tất yếu khách quan.
I. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ TRONG
VIỆC THÚC ĐẨY KINH TẾ

1.Nhà nước là gì ?
Trong tiến trình lịch sử phát triển, sự ra đời của Nhà nước chậm hơn sự ra
đời của xã hội vì Nhà nước chỉ được tạo ra từ xã hội có một trình độ phát triển
nhất định
Nhà nước không phải là cái bẩm sinh vốn có mà nó xuất hiện gắn liền với sự
xuất hiện chế độ tư hữu về Tư liệu sản xuất, sản xuất hàng hoá, giai cấp và
đấu tranh giai cấp. Nhà nước là kiểu tổ chức xã hội của xã hội có giai cấp. Nó
là một bộ máy, một hệ thống tổ chức chặt chẽ, tác động vào mọi mặt của đời
sống xã hội, do giai cấp thống trị lập ra nhằm hợp pháp hoá và củng cố sự áp
bức của chúng đối với quần chúng lao động. Do vậy bản chất Nhà nước theo
nguyên nghiã của nó là nền chuyên chính để thực hiện sự thống trị của một
giai cấp, là bộ máy áp bức của giai cấp thống trị đối với xã hội. Nhà nước chỉ
là một phạm trù lịch sử, nó không đồng nghĩa với xã hội, nó chỉ tồn tại trong
một giai đoạn lịch sử nhất định và sẽ tự tiêu vong khi các cơ sở ra đời và tồn
tại của nó không còn nữa. Bất kì một Nhà nước nào cũng có chức năng kinh
tế, mà theo Mac thì chức năng của nhà nước như “vai trò bà đỡ cho xã hội cũ
thai nghén xã hội mới”. Ở các thời kì khác nhau, các chế độ xã hội khác nhau,

Vai trß cña ®Çu t- trong viÖc thøc ®Èy kinh tÕ


do tính chất Nhà nước khác nhau nên vai trò và chức năng kinh tế của Nhà


nước có biểu hiện khác nhau.
2.Vai trò của đầu tư trong việc thúc đẩy kinh tế qua các giai đoạn khác
nhau của lịch sử
Nói về vai trò kinh tế của Nhà nước qua các thời kì và chế độ xã hội, C.Mac
và F.Anghen đã có những đúc kết hết sức xác đáng như sau:
* Các Nhà nước trước Chủ nghĩa tư bản, vai trò kinh tế chủ yếu là đặt ra chế
độ thuế khoá, một chế độ đóng góp có tính chất cưỡng bức để nuôi sống bộ
máy cai trị, thực hiện chức năng đối nội (giữ cho sự xung đột giai cấp nằm
trong vòng trật tự) đối ngoại (bảo vệ lãnh thổ) từ đó bảo vệ và mở rộng lợi ích
kinh tế của giai cấp thống trị.
* Đến Nhà nước tư sản, vai trò kinh tế của Nhà nước không chỉ dừng lại ở
thuế khoá, không chỉ đơn thuần là cơ quan cai trị ở bên ngoài, bên trên quá
trình sản xuất như Anghen đã nhận xét "nền văn minh mà tiến lên thì bản thân
thúê má là không đủ nữa, Nhà nước phát hành hối phiếu, vay nợ tức là phát
hành công trái”. Và sự xuất hiện sở hữu Nhà nước đã làm cho Nhà nước bắt
đầu ở bên trong quá trình sản xuất, Nhà nước là “Nhà tư bản tập thể lý tưởng,
Nhà nước ấy càng chuyển nhiều lực lượng sản xuất thành tài sản của nó bao
nhiêu thì nó lại càng biến thành tư bản tập thể thực sự bấy nhiêu và càng bóc
lột nhiều công nhân”
Cũng theo hai ông, không thể có sự biến đổi kinh tế xã hội từ chủ nghiã tư
bản lên xã hội cộng sản nếu thiếu vai trò kinh tế của Nhà nước, của giai cấp vô
sản, Anghen nhấn mạnh ”Giai cấp vô sản chiếm lấy chính quyền Nhà nước và
biến tư liệu sản xuất trước hết thành sở hữu Nhà nước”. Theo dự đoán của
Mac và Anghen, chuyên chính vô sản trong đó bộ phận quan trọng là Nhà
nước và vai trò kinh tế của Nhà nước ra đời từ sự chín muồi của các tiền đề

Vai trß cña ®Çu t- trong viÖc thøc ®Èy kinh tÕ


kinh tế xã hội, đến lượt sự ra đời vai trò kinh tế của Nhà nước lại thúc đẩy các

điều kiện kinh tế xã hội của xã hội mới phát triển và hoàn thiện. Và khi những
điều kiện kinh tế xã hội phát triển đến một trình độ nhất định lại dẫn đến sự tự
tiêu vong của Nhà nước theo đúng quy luật phát sinh phát triển và chuyển hoá
vốn có của mọi sự vật hiện tượng
Mac và Anghen với tư cách vừa là nhà khoa học vừa là nhà hoạt động thực
tiễn, hai ông chưa thể đề cập nhiều vai trò và chức năng kinh tế của Nhà nước
cho xã hội tương lai khi thực tiễn chưa đến, bằng sự phân tích logic hai ông
chỉ phác hoạ chức năng kinh tế của Nhà nước chủ yếu là ”biến các tư liệu sản
xuất thành sở hữu Nhà nước”, chỉ đến sau này Lênin với tư cách là người lãnh
đạo trực tiếp công cuộc xây dựng xã hội mới thì vai trò và chức năng của Nhà
nước mới được nói tới nhiều hơn. Ông cho rằng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa
được xây dựng trên công hữu xã hội về tư liệu sản xuất với hai hình thức sở
hữu toàn dân và tập thể. Sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất là hình thức sở
hữu chung của toàn thể nhân dân lao động, mọi người cùng chiếm hữu tư liệu
sản xuất. Người chủ cao nhất là Nhà nước xã hội chủ nghĩa, sản xuất được tiến
hành theo kế hoạch tập trung thống nhất của Nhà nước. Còn hình thức sở hữu
tập thể do tập thể người lao động góp vốn, tư liệu sản xuất để xây dựng nên,
sản xuất được tiến hành theo kế hoạch của tập thể có sự hướng dẫn của Nhà
nước. Nhà nước xã hội chủ nghĩa có vai trò kinh tế đặc biệt, nó không còn là
bộ máy ăn bám đứng trên quá trình sản xuất nữa mà phải chuyển sang tổ chức,
thực hiện chức năng quản lý nền kinh tế quốc dân. Chức năng này gắn liền với
quá trình kế hoạch hoá tập trung thống nhất, quản lý sản xuất và phân phối sản
phẩm, kiểm tra chặt chẽ mức độ lao động và tiêu dùng.

Vai trß cña ®Çu t- trong viÖc thøc ®Èy kinh tÕ


Thực tế lịch sử đã cho thấy cùng với sự tiến hoá của các chế độ xã hội, vai
trò kinh tế của Nhà nước cũng có những biến đổi hết sức lớn lao, thể hiện rõ
trong các lý thuyết kinh tế điển hình qua các thời kì

- Trong xã hội chiếm hữu nô lệ và phong kiến: vai trò kinh tế của Nhà nước
chủ yếu chỉ dừng lại ở việc bảo vệ sở hữu về nô lệ và phong kiến về Tư liệu
sản xuất. Nhà nước trực tiếp dùng quyền lực của mình can thiệp vào việc phân
phối của cải được sản xuất ra bởi nô lệ. Còn Nhà nước phong kiến không chỉ
can thiệp vào việc phân phối mà còn tập hợp nhân dân xây dựng kết cấu hạ
tầng cho sản xuất nông nghiệp, khuyến khích quan lại di dân đi mở mang các
vùng đất mới, đề ra các chính sách ruộng đất thích hợp cho từng thời kì.
- Trong giai đoạn đầu của sự hình thành và phát triển của Chủ nghĩa tư
bản
+ Trong thời kì tích luỹ nguyên thuỷ Tư bản (giữa thế kỉ 15) Nhà nước có
vai trò kinh tế quan trọng trong việc tích luỹ tiền (Chủ nghĩa trọng thương), họ
đề cao vai trò tiền tệ, coi tiền tệ là tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá sự giàu có
của một quốc gia -“Nội thương là cái ống dẫn, ngoại thương là cái máy bơm,
muốn tăng của cải phải có ngoại thương nhập dần của cải qua nội thương”-do
đó các Nhà nước đã buộc các thương gia nước ngoài không được mang tiền ra
khỏi nước họ, quy định những nơi được phép buôn bán để dễ dàng cho việc
kiểm tra, đánh thuế nhập khẩu cao, khuyến khích phát triển xuất khẩu hàng
hoá , thành phẩm, hạn chế xuất khẩu nguyên liệu thô... Sự can thiệp của Nhà
nước đã góp phần tạo ra những tiền đề cần thiết cho sự ra đời của Chủ nghĩa
tư bản.
+ Thế kỉ 18,19 cuộc Cách mạng khoa học kĩ thuật lần thứ nhất hoàn thành,
công trường thủ công Tư bản chủ nghĩa đã đứng vững trong công nghiệp,
nông nghiệp...nền sản xuất ở các nước Tư bản phát triển nhanh, giai cấp Tư

Vai trß cña ®Çu t- trong viÖc thøc ®Èy kinh tÕ


sản đã chuyển từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất, tư tưởng tự do
kinh tế được thể hiện rõ nhất trong thời kì này mà tiêu biều là quan điểm kinh
tế của trường phái cổ điển. Họ ủng hộ mạnh mẽ tư tưởng tự do cạnh tranh,

chống lại việc Nhà nước can thiệp vào kinh tế:”Trong chính sách và trong
kinh tế phải tính đến những quá trình tự nhiên, không nên dùng những hành
động cưỡng bức để chống lại quá trình đó”-W.Petty. Tư tưởng tự do kinh tế
này được tiếp tục phát triển ở thuyết trật tự tự nhiên của trường phái trọng
nông ở Pháp, đại diện của họ là Quesnay, ông cho rằng chỉ có xã hội tư bản
mới là xã hội bình thường vì nó phù hợp với trật tự tự nhiên (với 2 quy luật cơ
bản la quy luật vật lý và luân lý) từ đó ông đưa ra tư tưởng tự do tư hữu, tự do
cạnh tranh, tự do tham gia thị trường.
Tuy nhiên đại diện tiêu biểu nhất trong thời kì này là một nhà Kinh tế chính
trị học tư sản cổ điển người Anh-Ađam Smith-ông đã dưa ra lý thuyết “Bàn
tay vô hình”, “Con người kinh tế”, “Nhà nước không can thiệp vào tổ chức
nền kinh tế hàng hoá". Ông cho rằng hoạt động của nền kinh tế là do các quy
luật khách quan tự phát chi phối, sự vận động của thị trường là do quan hệ
cung cầu cùng với những biến động tự phát của giá cả hàng hoá trên thị
trường quyết định. Quan hệ giữa người với người là quan hệ về lợi ích kinh tế.
Mỗi người hoạt động chỉ nhằm lợi ích cho bản thân, song do “bàn tay vô
hình” chi phối buộc con người phục tùng lợi ích chung của xã hội, điều này
nằm ngoài ý định của từng nhà kinh doanh. Mặc dù đề cao “bàn tay vô hình”
song ông cũng cho rằng đôi khi Nhà nước có nhiệm vụ kinh tế nhất định, đó là
khi các nhiệm vụ kinh tế đặt ra vượt quá khả năng của các doanh nghiệp. Mặt
khác các nhà kinh tế cũng thấy được rằng nền kinh tế phát triển càng cao, xã
hội hoá sản xuất ngày càng mở rộng, thị trường ngày càng phát triển thì càng
cần có sự quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế, song tư tưởng của họ vẫn

Vai trß cña ®Çu t- trong viÖc thøc ®Èy kinh tÕ


dừng lại ở sức mạnh thị trường, ở sự tác động tự phát của các quy luật kinh tế
thị trường làm cho nền kinh tế phát triển ổn định và lành mạnh.
- Sang thời kì của đại tư bản công nghiệp: Chủ nghĩa tư bản phát triển

nhanh chóng nhờ các nguồn vốn tích luỹ to lớn nên người ta chủ yếu chỉ phê
phán những sự tiêu dùng xa xỉ làm giảm nguồn tích luỹ chứ cũng chưa thấy rõ
vai trò cần thiết của Nhà nước trong việc điều chỉnh các quá trình phát triển,
khắc phục các mất cân đối (Ví dụ Davit Ricardo).
+ Vào đầu những năm 1930 của thế kỉ nảy, khủng hoảng kinh tế diễn ra
thường xuyên đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929-1933 đã
làm cho “bàn tay vô hình” không thể đảm bảo những điều kiện ổn định cho
nền kinh tế thị trường phát triển. Đồng thời ở giai đoạn này trình độ xã hội hoá
sản xuất phát triển khá cao làm cho các nhà kinh tế thấy rằng: cần có một lực
lượng điều tiết nền kinh tế từ một trung tâm-đó là Nhà nước. Từ đó
J.M.Keynes-nhà kinh tế học người Anh đã dưa ra lý thuyết "Nhà nước điêù
tiết nền kinh tế thị trường". Ông cho rằng cùng với sự tăng lên của sản lượng
quốc gia thì thu nhập tăng lên và tiêu dùng cũng tăng lên. Nhưng do xu hướng
“tiêu dùng giới hạn” nên tiêu dùng tăng chậm hơn so với thu nhập, điều này
làm giảm cầu tiêu dùng tương đối. Cầu tiêu dùng giảm làm giảm giá hàng hoá
và từ dó làm giảm tỷ suất lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận giảm nhỏ hơn hoặc bằng
lãi suất thì các doanh nghiệp không còn có lợi do đó họ không đầu tư vào sản
xuất, kinh doanh nữa. Và như vậy khủng hoảng, trì trệ kinh tế và thất nghiệp
xảy ra là điều không thể tránh khỏi. Để khắc phục tình trạng đó, Nhà nước cần
phải can thiệp vào nền kinh tế, vào thị trường, phát huy mọi nguồn vốn nhàn
rỗi trong cư dân, các nghiệp chủ đưa vào sản xuất, tăng vốn đầu tư để giải
quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập, tiêu dùng, đặc biệt chú ý đến tăng cầu
tiêu dùng và chỉ có tăng cầu tiêu dùng mới thực sự khuyến khích các nghiệp

Vai trß cña ®Çu t- trong viÖc thøc ®Èy kinh tÕ


chủ đầu tư mới vào sản xuất, đó là một mặt. Mặt khác, Nhà nước phải dùng
chính sách tài chính, lãi suất để tác động vào nền kinh tế. Phải chấp nhận lạm
phát vừa phải, tăng lượng tiền nhất định vào lưu thông để giảm lãi suất, tăng

đầu tư tư bản mới, có làm được những điều đó thì mới làm cho nền kinh tế
phát triển cân bằng và ổn định, tránh được các đợt khủng hoảng, thất nghiệp
xảy ra trong nền kinh tế. Tuy nhiên, những quan điểm của Keynes và những
người theo ông không làm cho khủng hoảng, thất nghiệp và lạm phát giảm,
trái lại ngày càng gia tăng theo chu kì kinh tế.
+ Chính do những hạn chế của Keynes đã làm xuất hiện “Chủ nghĩa tự do
mới”-họ muốn kết hợp tất cả các quan điểm cũng như phương pháp luận của
các trường phái tự do cũ, trọng thương mới, trường phái Keynes với tư tưởng
cơ bản là: “Cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước ở mức độ nhất
định”, khẩu hiệu mà họ đưa ra là:”Thị trường nhiều hơn và Nhà nước can
thiệp ít hơn”. Họ xây dựng nhiều mô hình kinh tế thị trường như:
* “Nền kinh tế thị trường xã hội “ của CHLB Đức, nó dược hinh dung
như một sân bóng trong đó mỗi doanh nghiệp là một cầu thủ, Nhà nước đóng
vai trò là trọng tài thiết kế luật “chơi “ để điều khiển trận đấu sao cho nền kinh
tế có thể tránh được những tai hoạ như khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát.
Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế là: Tôn trọng cạnh tranh, Nhà nước can thiệp
vào kinh tế phải tổng hợp với thị trường, Nhà nước coi trọng chỉ tiêu xã hội,
sử dụng nó để đánh giá hoạt động của mỗi doanh nghiệp.
* Ở Mĩ tiêu biểu có “Trường phái trọng tiền hiện đại”, họ cũng ủng hộ tư
tưởng tự do kinh tế chống lại việc Nhà nước can thiệp, họ cho rằng nền kinh tế
tư bản chủ nghĩa thường xuyên ở trạng thái cân bằng động, đó là hệ thống tự
điều chỉnh, hoạt động dựa vào các quy luật kinh tế vốn có.

Vai trß cña ®Çu t- trong viÖc thøc ®Èy kinh tÕ


* Ở các nước Bắc Âu đã có chủ trương tăng cường vai trò của Nhà nước
nhưng chủ yếu chỉ trong lĩnh vực xã hội, kiểu kinh tế thị trường xã hội.
+ Rõ ràng cả 2 trường phái Keynes và tự do mới đều vấp phải những sai lầm,
hoặc là hạ thấp đến mức bỏ qua cơ chế thị trường hoặc là phủ nhận vai trò

kinh tế của Nhà nước, nên vào thập niên 60,70 có sự xích lại gần nhau của 2
trường phái để hình thành nền kinh tế hỗn hợp, tức là họ đã phối hợp “Bàn tay
vô hình” và “Bàn tay hữu hình” để điều tiết nền kinh tế. Trong cuốn “Kinh tế
học” của Samuelson ông viết:”Điều hành một nền kinh tế không có cả chính
phủ lẫn thị trường thì cũng như định vỗ tay bằng một bàn tay”, theo ông Nhà
nước có vai trò đảm bảo sự ổn định, công bằng và hiệu quả vì các nền kinh tế
thực tế đôi khi chịu thất bại của thị trường gồm cạnh tranh không hoàn hảo
(cao hơn nữa là độc quyền), tác động bên ngoài( ngoại ứng), hàng hoá công
cộng (nếu để tư nhân làm thì việc cung ứng thường không đủ nên Chính phủ
phải nhảy vào làm việc đó) thuế (một dạng cưỡng bức quan trọng của Nhà
nước để phục vụ những chi tiêu của mình).
Như vậy sự can thiệp của Chính phủ vào thị trường để nâng cao hiệu quả
không phải chỉ đơn thuần là do ý thích, mà đã tạo điều kiện dễ dàng hơn cho
các tư doanh làm ăn trôi chảy, ngăn cản lạm dụng khi các doanh nghiệp trở
thành những kẻ tham lam độc quyền và kiềm chế hoạt động của các doanh
nghiệp khi khối nhà máy của họ đe doạ sinh mạng và tài sản của người khác.
Ngoài ra nếu nền kinh tế hoạt động hoàn toàn có hiệu quả, luôn trên ranh giới
đường khả năng sản xuất, sự cạnh tranh trên thị trường là hoản hảo thì hàng
hoá luôn được đặt vào tay người có nhiều tiền nhất chứ không phải theo nhu
cầu lớn nhất, vì vậy cần thừa nhận rằng một hệ thống thị trường có hiệu quả
có thể gây ra sự bất bình đẳng lớn, và một khi thị trường dân chủ không thích
sự phân phối “phiếu đôla” trong một thị trường “thả lỏng” thì nó có biện pháp

Vai trß cña ®Çu t- trong viÖc thøc ®Èy kinh tÕ


thay đổi kết quả thông qua những chính sách “phân phối lại”, từ đó Nhà nước
có thể sử dụng "thuế luỹ tiến” đánh thuế người giàu theo tỉ lệ thu nhập cao
hơn người nghèo, xây dựng hệ thống hỗ trợ thu nhập nhằm tạo ra một “mạng
lưới an toàn”, bảo vệ những người không may khỏi bị huỷ hoại về kinh tế.

Bên cạnh đó, theo Samuelson từ khi ra đời cho đến nay Chủ nghĩa tư bản đã
gặp phải những thăng trầm chu kì cuả lạm phát, do vậy sử dụng một cách thận
trọng quyền lực về tiền tệ và tài chính của Chính phủ (bao hàm việc điều tiết
tiền tệ và hệ thống ngân hàng để xác định mức lãi suất và điều kiện tín dụng.
Qua xem xét 3 vai trò trên đây của Chính phủ- người đảm bảo hiệu quả,
công bằng và ổn định-ông đã làm rõ tại sao nước Mĩ những năm 1980 lại được
gọi là “một nền kinh tế hỗn hợp”, cơ chế thị trường xác định giá cả và sản
lượng trong nhiều lĩnh vực, trong khi đó Chính phủ điều tiết thị trường bằng
các chương trình thuế, chi tiêu và luật lệ. Cả hai bên thị trường và Chính phủ
đều có tính chất thiết yếu như nhau. Lí thuyết kinh tế của trường phải này có ý
nghĩa thực tiễn với nước ta vì nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là sự vận động dược điều tiết bởi
sự thống nhất giữa cơ chế thị trường-bàn tay vô hình- và vai trò kinh tế của
Nhà nước-bàn tay hữu hình.
- Thời kì các nước xã hội chủ nghĩa: Sau Đại chiến Thế giới II, bên cạnh hệ
thống các nước tư bản chủ nghĩa đã hình thành và phát triển từ trước, một hệ
thống mới các nước xã hội chủ nghĩa ra đời và tồn tại song song trên khắp các
châu lục (trước Đại chiến Thế giới II chỉ tồn tại duy nhất một Nhà nước xã hội
chủ nghĩa là Liên Xô). Do quan điểm chính trị, tư tưởng và nhiều điều kiện
khác, tất cả các nước xã hội chủ nghĩa đều áp dụng chế độ kế hoạch hoá tập
trung để quản lý nền kinh tế. Đặc trưng nổi bật nhất của chế độ này là việc
Nhà nước được đặt vào trung tâm của mọi quan hệ kinh tế. Thông qua công cụ

Vai trß cña ®Çu t- trong viÖc thøc ®Èy kinh tÕ


kế hoạch được chi tiết hoá đến cao độ, mọi vấn đề của nền kinh tế từ sản xuất,
phân phối đến tiêu dùng... đều do các cơ quan Nhà nước đảm trách. Điều này
là nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự tụt hậu của hệ thống các nước xã hội

chủ nghĩa so với hệ thống các nước tư bản phát triển. Những cải tổ nhưng
không triệt để sau đó vì thế đã dẫn tới sự sụp đổ không tránh khỏi của Liên Xô
và một loạt các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu vào cuối thập kỷ 80, đầu
thập kỷ 90.
Như vậy về nguyên tắc Nhà nước cần phải can thiệp vào thị trường
nhưng không có mô hình nào chung có thể áp dụng cho toàn thế giới. Căn cứ
vào điều kiện cụ thể của từng nước mà phải tìm ra cho mình một vị trí tiếp cận
với nền kinh tế, một cách thức riêng để can thiệp vào thị trường, định hướng
nền kinh tế đến các mục tiêu mong muốn trên cơ sở tôn trọng các quy luật
khách quan của thị trường.
3. Tính tất yếu khách quan của việc xuất hiện vai trò kinh tế của Nhà
nước
Trên thực tế, không có nền kinh tế nào thế giới lí tưởng của bàn tay vô
hình. Mỗi nền kinh tế đều có những khuyết tật. Vì lí do đó nên ở bất cứ nơi
nào trên thế giới, không có chính phủ nào dù bảo thủ đến đâu lại không nhúng
tay vào nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, lực lượng sản xuất ngày
càng phát triển và theo đó quan hệ sản xuất mới được thiết lập cho phù họp
với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Vì vậy Nhà nước
cần phải nắm vai trò chủ đạo trongviệc đưa ra giải pháp để phát triển lực
lượng sản xuất. Trong thời kì quá độ, để phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị
trường cần phải giải quyết hai mâu thuẫn chính. Thứ nhất đó là mâu thuẫn
giữa nền kinh tế chậm phát triển với yêu cầu phát triển nền kinh tế hiện đại
bằng quá trình đẩy nhanh phát triển nền kinh tế hàng hoá. Thứ hai đó là mâu

Vai trß cña ®Çu t- trong viÖc thøc ®Èy kinh tÕ


thuẫn giữa những yếu tố nhanh nhạy, tự phát của nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần.Với tư cách là cơ quan quyền lực đại diện cho lợi ích của nhân
dânvà là người chủ đại diện cho sở hữu toàn dân, Nhà nước phải quản lí nền

kinh tế đ, thực hiện chế độ dân chủ về mọi khâu, mọi mặt của quá trình tái sản
xuất.
II- Sự hình thành cơ chế quản lí mới ở Việt Nam
Trước hết ta cần nắm được khái niệm cơ chế kinh tế: Đó là tồng thể các yếu tố
có mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau tạo thành động lực dẫn dắt nền kinh tế
phát triển.
1.

Cơ chế quản lí kinh tế cũ ở Việt Nam

a)Đặc trưng cơ bản
Cơ chế quản lí kinh tế cũ của nước ta là cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan
liêu bao cấp (Giai đoạn trước ĐạI hội VI của Đảng năm 1986) Đặc trưng chủ
yếu của cơ chế quản lý kinh tế giai đoạn này đó là coi kế hoạch là công cụ
quản lí số một, có tính chất pháp lệnh bắt buộc trực tiếp hoặc gián tiếp đối với
tất cả các nghành, các cấp, tổ chức xã hội, các đơn vị kinh tế trong đó công
dân, luật pháp về kinh tế (mới có rất ít) và các công cụ quản lí khác đều được
xếp sau công cụ kế hoạch. Nhà nước bị biến thành “ông chủ của một doanh
nghiệp lớn”, thông qua hệ thống chỉ tiêu kế hoạch chi tiết, Nhà nước trực tiếp
quyết định tất cả các vấn đề liên quan tới đời sống kinh tế xã hội của đất nước.
b)Ưu điểm
Cơ chế này đã góp phần đắc lực vào việc huy động những nguồn lực khổng
lồ trong thời gian ngắn để triển khai các chương trình quy mô của quốc gia,
đặc biệt là việc động viên nhân tài vật lực phục vụ các nhiệm vụ sản xuất và
chiến đấu phù hợp với đặc điểm tình hình đất nước trong những năm chiến
tranh. Có thể nói cơ chế quản lí này đã hoàn thành sứ mạng lịch sử của mình.

Vai trß cña ®Çu t- trong viÖc thøc ®Èy kinh tÕ



c)Nhược điểm
- Quản lí kinh tế bằng các mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, điều đó thể hiện
ở sự chi tiết hóa quá đáng các nhiệm vụ do Trung ương giao bằng một hệ
thống chỉ tiêu pháp lệnh từ trên giao xuống, qua đó làm suy yếu, triệt tiêu
động lực kinh tế thậm chí gây ra tác động như khuyến khích sự ỷ lại, dựa dẫm,
lười biếng gây thiệt hại cho những người tích cực, tạo môi trường cho lãng
phí, gây thất thoát cho tài sản quốc gia .
- Các cơ quan hành chính kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động của các
đơn vị kinh tế cơ sở, nhưng lại không chịu trách nhiệm về những quyết định
của mình.
- Coi thường các quan hệ hàng hoá- tiền tệ và hiệu quả quản lí kinh tế, quản
lí nền kinh tế và kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm,
quan hệ hiện vật là chủ yếu, do đó hạch toán chỉ là hình thức. Chế độ bao cấp
được thể hiện dưới các hình thức: bao cấp quá giá, chế độ cung cấp và cấp
phát vốn của ngân sách mà không ràng buộc vật chất đối với người được cấp
phát vốn.
- Từ những đặc điểm trên tất yếu dẫn đến một bộ máy quản lý cồng kềnh, có
nhiều cấp trung gian và kém năng động, từ đó sinh ra một đội ngũ cán bộ quản
lý kém năng lực quản lí, không theo nghiệp vụ kinh doanh, nhưng phong cách
thì quan liêu cửa quyền.
Những quan niệm “ ấu trĩ” trên đây về xây dựng và phát triển kinh tế là
biểu hiện sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan, mà đặc
biệt là quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất.
Cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp đã tích cóp những xu
hướng tiêu cực, làm nảy sinh sự trì trệ, hình thành cơ chế kìm hãm sự phát

Vai trß cña ®Çu t- trong viÖc thøc ®Èy kinh tÕ



triển kinh tế xã hội. Vấn đề đặt ra là phải đổi mới sâu sắc cơ chế đó theo
hướng căn bản của sự đổi mới cơ chế quản lí đã được Đại hội VI của Đảng
xác định và được tiếp tục khẳng định tại Đại hội VII:” Tiếp tục xoá bỏ cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ, vận hành có hiệu quả cơ chế
thị trường có sự quản lí của Nhà nước”
2.

Cơ chế thị trường và sự vận dụng ở Việt Nam

a)Một số khái niệm cơ bản
Để có thể đi sâu nghiên cứu cơ chế quản lí kinh tế mới ở Việt Nam cần nắm
vững một số khái niệm sau
- Thị trường là gì? Thị trường gắn liền với quá trình sản xuất và lưu thông
hàng hoá, nó ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của sản xuất
lưu thông hàng hoá, sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, lượng sản phẩm
lưu thông trên thị trường ngày càng dồi dào và phong phú, thị trường được mở
rộng. Như vậy thị trường là lĩnh vực trao đổi hàng hoá thông qua tiền tệ làm
môi giới, tại đây người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác
định giá cả và số lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường. Thị trường là trung
tâm của toàn bộ quá trình tái sản xuất hàng hoá. Những vấn đề cơ bản của nền
sản xuất hàng hoá là sản xuất cái gì? Số lượng bao nhiêu? Bằng phương pháp
nào? đều phải thông qua thị trường vì vậy thị trường đóng vai trò hoạt động và
phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
- Cơ chế thị trường là gì? Mọi hệ thống kinh tế đều được tổ chức cách này
hay cách khác, để huy động tối đa các nguồn lực xã hội và sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực đó nhằm sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ thoả mãn nhu cầu
của xã hội. Việc sản xuất ra hàng hoá gì? Theo phương thức nào là tốt nhất?
Việc phân phối hàng hoá được sản xuất ra sao cho đáp ứng tốt nhất nhu cầu xã

Vai trß cña ®Çu t- trong viÖc thøc ®Èy kinh tÕ



hội? Đó là những vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế xã hội, lực lượng nào
quyết định những vấn đề cơ bản đó?
Trong nền kinh tế hàng hoá có một loạt những quy luật kinh tế vốn có cho
nó hoạt động như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật lưu thông tiền
tệ... và lợi nhuận là động lực cơ bản của sự vận động của nó. Các quy luật đó
thể hiện sự tác động của mình thông qua các mối quan hệ kinh tế trong lĩnh
vực trao đổi- thị trường, thông qua sự vận động của giá cả. Nhờ sự vận động
của hệ thống giá cả thị trường mà diễn ra sự thích ứng tự phát khối lượng và
cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu của nhu cầu của xã hội, tức là
các quy luật điều tiết nền sản xuất xã hội. Một nền kinh tế mà trong đó những
vấn đề cơ bản của nó do thị trường quyết định được xem là nền kinh tế thị
trường.
Như vậy, cơ chế thị trường là cơ chế tự điều chỉnh nền kinh tế hàng hoá, là “
bộ máy” kinh tế điều tiết toàn bộ sự vận động của kinh tế thị trường, quá trình
sản xuất và lưu thông hàng hoá dưới sự tác động khách quan của các quy luật
kinh tế vốn có của nó (đặc biệt là quy luật giá trị- quy luật kinh tế cơ bản của
sản xuất và lưu thông hàng hoá) cơ chế đó quyết định những vấn đề cơ bản
của nền kinh tế: sản xuất cái gì? như thế nào? cho ai?
- Vai trò của kinh tế thị trường?Kinh tế thị trường giúp nhân loại giải quyết 3
vấn đề cơ bản trong nền kinh tế một cách có hiệu quả
+Sản xuất cái gì? Không phải do thượng đế, một tổ chức mệnh lệnh và cũng
không phải do người sản xuất quyết định, mà do người tiêu dùng thông qua
việc bỏ đồng tiền để lựa chọn: Họ thích hàng hoá này chứ không phải hàng
hoá kia, họ cần số lượng này chứ không phải số lượng khác, chấp nhận mức
giá này chứ không phải mức giá khác. Thông qua việc bỏ phiếu bằng đồng
tiền để chọn cho mình những thứ hàng hoá hợp sở thích, thị hiếu, nhu cầu, về

Vai trß cña ®Çu t- trong viÖc thøc ®Èy kinh tÕ



chủng loại, số lượng, mẫu mã. Ở đây tính dân chủ tự do thực sự được thể hiện
rõ nét.
+Sản xuất như thế nào? Vấn đề này được giải quyết thông qua cạnh trạnh và
chủ yếu là do cạnh tranh quyết định. Muốn đứng vững và chiến thắng trong
cạnh tranh, người sản xuất phải lựa chọn kĩ thuật và công nghệ tối ưu. Cạnh
tranh giữa các xí nghiệp trong ngành hình thành nên lợi nhuận siêu ngạch cho
người sản xuất. Động lực hấp dẫn này thúc đẩy họ luôn đổi mới kĩ thuật, phấn
đấu đưa năng suất lao động cá biệt lên cao hơn năng suất lao động xã hội. Hơn
nữa, cạnh tranh còn là cơ chế sàng lọc, bình tuyển những kiểu sản xuất tân
tiến, loại bỏ những cơ chế sản xuất cũ kĩ lạc hậu. Vì thế cạnh tranh là linh hồn
của đời sống kinh tế trong nền kinh tế thị trường.
+Sản xuất cho ai? Như ta đã biết mục đích của sản xuất hàng hoá là để bán,
để chuyển H thành T, làm cho sản xuất tái diễn. Do vậy để trả lời câu hỏi “Sản
xuất cho ai” chỉ có thể là sản xuất cho người có tiền. Trong phân phối, động
lực vì đồng tiền để làm giàu trở thành một sức mạnh thật sự thúc đẩy con
người trong các hoạt động kinh tế của họ. Tất nhiên sự phân phối trong kinh tế
thị trường không tránh khỏi một số mặt trái về hậu quả xã hội.
-Đặc điểm chung của cơ chế thị trường
+Ưu điểm: Trước hết nó kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế, tạo điều
kiện thuận
lợi cho hoạt động tự do của họ, lấy lợi nhuận siêu ngạch làm động lực hoạt
động nên đòi hỏi
các doanh nghiệp thường xuyên phải hạ thấp chi phí lao động cá biệt xuống
thấp hơn chi phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó mà động viên được các
nguồn lực của xã hội và sử dụng tiết kiệm các nguồn lực đó, thúc đẩy việc áp

Vai trß cña ®Çu t- trong viÖc thøc ®Èy kinh tÕ



dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật, tăng năng suất lao động, nâng cao trình độ xã
hội hoá sản xuất.
* Hai là cơ chế thị trường có tính năng động và khả năng thích nghi nhanh
chóng khi những điều kiện kinh tế thay đổi, làm thích ứng kịp thời khối lượng
và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu của nhu cầu. Lí do là vì trong
kinh tế thị trường tồn tại một nguyên tắc ai đưa ra thị trường một loại hàng
hoá mới và sớm nhất sẽ thu được lợi nhiều nhất.
* Ba là trong nền kinh tế thị trường hàng hoá rất phong phú và đa dạng, do
vậy tạo điều kiện thuận lợi cho việc thoả mãn ngày càng tốt hơn những nhu
cầu vật chất, văn hoá và sự phát triển toàn diện của mọi thành viên xã hội.
Những việc này nếu để Nhà nước tự làm thì sẽ phải thực hiện một khối lượng
công việc khổng lổ, có khi còn không thực hiện được và đòi hỏi chi phí cao
trong việc ra các quyết định.
+Nhược diểm: Bên cạnh những ưu điểm kể trên, kinh tế thị trường còn có
hàng loạt các khuyết tật, trước hết là sự phát triển không ổn định của nền kinh
tế, điều đó xuất phát từ tính tự phát của cơ chế kinh tế thị trường. Những cân
đối lớn trong nền kinh tế được xác lập thông qua hàng loạt những dao động.
Do đó cứ sau một thời kì phồn thịnh lại đến thời kì trì trệ, suy thoái, khủng
hoảng, thất nghiệp, lạm phát...là những hiện tượng gắn liền với kinh tế thị
trường. Những hiện tượng kể trên ảnh hưởng tiêu cực tới các mặt đời sống
kinh tế xã hội.
* Thứ hai, đó là sự xuất hiện độc quyền trong nền kinh tế. Độc quyền vi phạm
các điều kiện hiệu quả Pareto, điều đó làm tổn hại tới lợi ích của người tiêu
dùng và của xã hội.
* Thứ ba, các ngoại ứng. Ngoại ứng tồn tại khi việc sản xuất hoặc tiêu dùng
một mặt hàng trực tiếp làm ảnh hưởng tới các doanh nghiệp hoặc người tiêu

Vai trß cña ®Çu t- trong viÖc thøc ®Èy kinh tÕ



dùng không can dự đến việc mua hoặc bán hàng hóa đó, nhưng không được
phản ánh đầy đủ trong giá cả thị trường. Ngoại ứng dù tích cực hay tiêu cực
khi không được phản ánh trong giá cả thị trường sẽ làm cho mức sản lượng
không phải là tối ưu và do đó làm thiệt hại tới lợi ích xã hội.
* Thứ tư, hàng hoá công cộng. Đây là hàng hoá mà sự tiêu dùng của một
người không ảnh hưởng đến sự tiêu dùng của ngưởi khác như: đường cao tốc,
quốc phòng, an ninh...hàng hoá công cộng hết sức cần thiết nhưng các cá
nhân, hộ gia đình, các doanh nghiệp không ai chịu bỏ tiền ra để sản xuất.
* Thứ năm, phân phối thu nhập. Do sự tác động của các quy luật kinh tế thị
trường, sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, sự phân hoá giàu nghèo là
hiện tượng không tránh khỏi. Những điều đó có thể dẫn đến mâu thuẫn, thậm
chí xung đột trong xã hội. Điều này sẽ trở thành những nhân tố cản trở quá
trình tăng trưởng và phát triển kinh tế.
* Thứ sáu, vấn để thông tin. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp
cần rất nhiều thông tin khác nhau. Trong khi đó, khả năng của từng doanh
nghiệp trong việc thu nhập và xử lý thông tin rất hạn chế. Mỗi doanh nghiệp
không thể tự giải quyết được nhu cầu về thông tin của chính mình.
* Thứ bảy, mục đích của doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa, do đo họ có thể
lạm dụng tài nguyên xã hội, có thể gây ra ô nhiễm nguồn nước, không khí...
* Thứ tám, khủng hoảng sản xuất thừa là căn bệnh cố hữu của các nền kinh tế
thị trường phát triển. Ở đây, do mức cung hàng hoá vượt quá mức cầu có khả
năng thanh toán nên dẫn tới tình trạng “ dư thừa hàng hoá” Nguyên nhân của
tình trạng trên là do mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa, mâu thuẫn này được thể hiện trên tính kế hoạch cao độ ở từng doanh
nghiệp với tính vô chính phủ trên toàn bộ nền sản xuất xã hội. Xu hướng mở
rộng sản xuất vô hạn độ mâu thuẫn với sức mua có hạn của quần chúng. Mâu
thuẫn đối kháng giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản.

Vai trß cña ®Çu t- trong viÖc thøc ®Èy kinh tÕ



Do những khuyết tật đó mà xã hội thường xuyên phải có sự kiểm tra, điều
tiết, định hướng một cách có ý thức đối với sự vận động của cơ chế thị trường,
đó là lí do cần thiết phải thiết lập vai trò quản lí của Nhà nước ở tất cả các
nước có nền kinh tế thị trường. Ở nước ta sự quản lí của Nhà nước nhằm
hướng tới sự ổn định về kinh tế xã hội, sự công bằng và hiệu quả cũng như
làm cho nền kinh tế ngày càng tăng trưởng và phát triển với tốc độ cao.
b)Sự vận dụng vào Việt Nam
Cùng với tiến trình phát triển chung của thế giới, nền kinh tế Việt Nam
cũng đi lên phát triển một nền kinh tế thị trường nhưng mang bản săc riêng
của Việt Nam-nền kinh tế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa- đó là nền kinh tế vận động theo cơ chế hỗn hợp và
được định hướng bởi lý tưởng của chủ nghĩa xã hội. Đây là vấn đề hết sức mới
mẻ và tất nhiên định nghĩa này đòi hỏi phải loại trừ thành kiến"Thị trường là
chủ nghĩa tư bản","kế hoạch là chủ nghĩa xã hội" và các quan điểm cùng loại.
Để hiểu rõ về
nền kinh tế thị trường của Việt Nam ta cần làm rõ một số vấn đề sau:
*Thực trạng của nền kinh tế Việt Nam khi chuyển sang nền kinh tế thị
trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa?
Khi chuyển sang kinh tế thị trường chúng ta đứng trước một thực trạng là
đất nước đã và đang từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội vốn
là thuộc địa nửa phong kiến với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã
hội còn rất thấp. Đất nước lại trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để
lại còn nặng nề. Những tàn dư thực dân, phong kiến còn nhiều, lại chịu ảnh
hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
- Kinh tế hàng hoá còn kém phát triển, nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự
cấp tự túc:

Vai trß cña ®Çu t- trong viÖc thøc ®Èy kinh tÕ



+ Trình độ cơ sở vật chất kĩ thuật và công nghệ sản xuất còn thấp kém
+ Hệ thống kết cấu hạ tầng, dịch vụ sản xuất và dịch vụ xã hội chưa đủ để
phát triển kinh tế thị trường ở trong nước và chưa đủ khả năng để mở rộng
giao lưu với thị trường quốc tế.
+ Cơ cấu kinh tế còn mất cân đối và kém hiệu quả, còn mang nặng đặc trưng
của một cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Hiện tượng độc canh cây lúa vẫn còn tồn
tại, ngành nghề chưa phát triển. Từ Đại hội lần thứ VI của Đảng cho đến nay
tuy cơ cấu ngành và cơ cấu thành phần kinh tế đã có nhiều thay đổi nhưng vẫn
chưa thành được một cơ cấu mới hợp lí
+ Chưa có thị trường theo đúng nghĩa của nó
Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của nước ta đã được hình thành và
đang phát triển vì vậy thị trường ở nước ta cũng đang được hình thành và phát
triển. Tuy nhiên thị trường ở nước ta còn ở trình độ thấp, tính chất của nó còn
hoang sơ, dung lượng còn thiếu và có phần rối loạn, chúng ta mới từng bước
có thị trường hàng hoá nói chung. Về cơ bản nước ta còn chưa có thị trường
sức lao động. Chúng ta cũng chưa có thị trường tiền tệ và thị trường tiền vốn,
hoặc mới có thị trường này ở khu vực ngoài quốc doanh với quan hệ vay, trả,
mua, bán còn thô sơ. Khu vực kinh tế Nhà nước vẫn sử dụng lãi suất, tỉ giá và
quan hệ tài chính tiền tệ do Nhà nước quy định. Chưa có lãi suất, tỉ giá và tín
dụng thực sự theo cơ chế thị trường.
Thực trạng trên đây của nước ta là hậu quả của nhiều nguyên nhân khác
nhau. Về mặt khách quan đó là do trình độ phát triển của phân công lao động
xã hội còn thấp. Nền kinh tế còn mang nặng tính tự cấp tự túc. Về mặt chủ
quan là do nhận thức chưa đúng đắn về nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, do sự
phân biệt duy ý chí giữa thị trường có tổ chức và thị trường tư do. Một thời
gian khá dài đã tồn tại quan niệm cho rằng những tư liệu sản xuất lưu chuyển

Vai trß cña ®Çu t- trong viÖc thøc ®Èy kinh tÕ



trong nội bộ các xí nghiệp quốc doanh là những hàng hoá đặc biệt, nó không
được mua bán tự do vì chúng có vai trò đặc biệt quan trọng. Nếu chúng rơi
vào tay tư nhân nó sẽ trở thành những phương tiện nô dịch lao động của người
khác. Sức lao động tiền vốn cũng được quan niệm không phải là hàng
hoá...Mặt khác do quản lí theo chiều dọc- theo chức năng kinh doanh của từng
ngành một cách máy móc cho nên đã dẫn tới hiện tượng cửa quyền, cắt đứt
mối liên hệ tự nhiên giữa các ngành.
+ Năng suất lao động và thu nhập quốc dân tính theo đầu người còn thấp
Do trình độ cơ sở vật chất kĩ thuật và công nghệ còn thấp, kết cấu hạ tầng dịch
vụ sản xuất
và dịch vụ xã hội còn kém, cơ cấu kinh tế còn mất cân đối, thị trường trong
nước còn chưa phát triển...cho nên năng suất lao động xã hội và thu nhập bình
quân tính theo đầu người ở
nước ta tất yếu vẫn còn rất thấp. Tình hình này được phản ánh qua các số liệu
sau
Theo giá hiện hành( tỷ 1988

1989

1990

1991

1992

đồng)
GNP


13,266 2,308

38,167 69,959

Tổng đầu tư (I)

1,906

4,796

Tiêu dùng (C)

13,291 24,358 38,177 66,61

94,883

Tiết kiệm (S)

-25

6,987

2,817

-50

-10

-


3,349

101,87
-

Qua số liệu trên đây ta thấy: do năng suất lao động còn thấp nên mức tiêu
dùng xã hội từ năm 1988 đến năm 1990 đều lớn hơn mức GDP hàng năm, do
vậy không có tích luỹ nội bộ từ nền kinh tế trong nước, tiết kiệm đều là số âm.
Theo số liệu thống kê của Ngân hàng thế giới năm 1991 thì thu nhập quốc
dân theo đầu người của nước ta so với các nước đang phát triển ở Châu Á thì

Vai trß cña ®Çu t- trong viÖc thøc ®Èy kinh tÕ



×