Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ LIÊN HỆ VỚI TÌNH HÌNH THỰC TIẾN Ở VIỆT NAM.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.29 KB, 7 trang )

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: KINH TẾ ĐẦU TƯ
VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ
LIÊN HỆ VỚI TÌNH HÌNH THỰC TIẾN Ở VIỆT NAM
------------
Tăng trưởng kinh tế có vai hết sức quan trọng đối với sự phát triển của mỗi
quốc gia, nó là điều kiện vật chất cần thiết để đảm bảo cho sự phát triển. Ngày nay, nó
đã trở thành mục tiêu và là động lực của nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là đối với
các nước đang phát triển như nước ta.
Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế lại phụ thuộc vào các yếu tố nguồn lực và khả
năng huy động, sử dụng các yếu tố đó vào quá trình sản xuất để tạo ra của cải vật chất
cho xã hội. Quá trình đó liên tục được tiếp diễn và tạo thành chu kỳ tái sản xuất với
quy mô ngày càng được mở rộng, đây là cơ sở và cũng chính là kết quả được tích luỹ
lại từ hoạt động đầu tư.
Như vậy, đầu tư có tác động trực tiếp đối với tăng trưởng kinh tế và phát triển
của một nền kinh tế. Kết quả của hoạt động đầu tư là làm gia tăng năng lực sản xuất,
cung ứng các sản phẩm vật chất, dịch vụ cho nền kinh tế, thúc đẩy quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và chuyển giao công nghệ, từ đó tạo đà cho sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế.
Trong những năm qua, nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển, duy trì được
mức tăng trưởng cao và ổn định so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, mức
sống người dân được cải thiện rõ rệt, chất lượng cuộc sống được nâng cao,... Để có
được những thành tựu đó, phải kể đến vai trò đặc biệt quan trọng của đầu tư. Với
những chính sách nhằm thu hút và sử dụng có hiệu qủa vốn đầu tư trong và ngoài
nước, Việt Nam đang nâng cao uy tín, vị thế của mình trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, trong quá trình huy động và sử dụng các nguồn lực cho hoạt động
đầu tư để tạo động lực cho tăng trưởng và phát triển nền kinh tế ở nước ta cũng bộc lộ
nhiều hạn chế, đòi hỏi chúng ta phải có những đánh giá, nhận định đúng về quá trình
thực hiện, rút ra những vấn đề cần phải khắc phục và đề ra biện pháp tổ chức thực hiện
cho phù hợp với tình hình thực tế nhằm đạt được những mục tiêu mong muốn.
Để giải quyết vấn đề này, trong phạm vi của bài viết xin đưa ra một số phân


tích, đánh giá về tác động, vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế của Việt
Nam, từ đó đưa ra các kiến nghị, đề xuất về các giải pháp tổ chức thực hiện trong thời
gian tới, cụ thể như sau:
I. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM, LÝ LUẬN CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐẦU TƯ VÀ
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1. Đầu tư
Hiện nay, có nhiều khái niệm khác nhau về đầu tư như: Theo quan điểm dưới
góc độ tiêu dùng, thì đầu tư là hình thức hạn chế tiêu dùng hiện tại để thu được mức
tiêu dùng lớn trong tương lai; Theo quan điểm trên góc độ tài chính, thì đầu tư là một
chuỗi các hoạt động chi tiêu để chủ đầu tư nhận về một chuỗi các dòng thu nhằm hoàn
vốn và sinh lời; Theo nghĩa rộng và bao quát thì đầu tư là việc sử dụng phối hợp các
nguồn lực ở hiện tại vào một hoạt động nào đó nhằm đạt được một hay một số tập hợp
mục đích của nhà đầu tư trong tương lai.
Nguyễn Văn Kỷ-Lớp CH18L Trang 1
Tuy nhiên, theo Luật đầu tư số: 59/2005/QH11, được Quốc hội nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005 và chính
thức có hiệu lực từ ngày 01/7/2006 thì: “Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các
loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu
tư theo quy định của pháp luật”.
Tuỳ theo mục đích và yêu cầu quản lý đối với từng loại hình đầu tư mà người
ta tiến hành phân loại hoạt động đầu tư theo các tiêu chí khác nhau, ví dụ: Nếu theo
bản chất của đối tượng đầu tư, có: đầu tư cho các đối tượng vật chất, đầu tư cho các
đối tượng tài chính, đầu tư cho các đối tượng phi vật chất; Theo cơ cấu tái sản xuất, có
đầu tư chiều rộng, đầu tư chiều sâu;Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của các kết
quả đầu tư, có: đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển khoa học kỹ
thuật, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư, có: đầu tư
trực tiếp, đầu tư gián tiếp. Theo nguồn vốn, có: đầu tư trong nước, đầu tư nước
ngoài,...
2. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế được hiểu là sự gia tăng về sản lượng của nền kinh tế theo

thời gian. Theo quan điểm của kinh tế học, thì tăng trưởng kinh tế thường chỉ sự gia
tăng của giá trị tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hoặc sự gia tăng của giá trị GNP bình
quân đầu người.
Tuy nhiên, để phán ánh chính xác hơn sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia,
người ta thường chỉ tính sản lượng ròng của một nền kinh tế, tức là tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) của nền kinh tế đó.
Như vậy, tăng trưởng kinh tế được tính bằng mức tăng GDP hoặc mức tăng
GDP bình quân đầu người theo thời gian. Điều này có nghĩa là tăng trưởng kinh tế chỉ
thể hiện sự gia tăng về mặt lượng của nền kinh tế theo thời gian.
3. Vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế
3.1 Đầu tư tác động đến quy mô sản lượng của nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường thì hàng hoá, dịch vụ được điều tiết thông qua quan
hệ cung, cầu. Do đó, nó tác động đến quy mô sản lượng của nền kinh tế của mỗi quốc
gia trong một thời kỳ nhất định. Trong khi đó, hoạt động đầu tư lại là một bộ phận cấu
thành lên tổng cung, tổng cầu của nền kinh tế, cụ thể:
- Tác động đến tổng cầu: Do tổng cầu của nền kinh tế: AD = C + I + G + NX, tức
là tổng cầu của nền kinh tế bao gồm: Chi tiêu của khu vực Chính phủ + Chi tiêu của các
hộ gia đình và các doanh nghiệp + Tiết kiệm (hay đầu tư) + Chênh lệch xuất nhập khẩu.
Vì vậy, đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu, nó tác động đến
tổng cầu trong ngắn hạn và tác động một cách trực tiếp. Tức là, khi tổng cung chưa thay
đổi thì sự tăng lên của đầu tư sẽ làm cho tổng cầu của nền kinh tế tăng lên. Khi đó sẽ
làm cho quy mô sản lượng cân bằng thay đổi trong ngắn hạn.
- Tác động đến tổng cung: Kết quả của hoạt động đầu tư là tài sản và năng lực
sản xuất mới tăng thêm, vì vậy nó tạo ra sự gia tăng về mặt sản lượng của nền kinh tế.
Nhưng tác động của đầu tư là trong dài hạn, khi đầu tư tăng sẽ làm cho sản lượng của
nền kinh tế gia tăng, do đó sẽ làm cho sản lượng tiềm năng tăng lên và giá cả sản phẩm
giảm xuống. Đến lượt nó, khi giá cả giảm sẽ kích thích, gia tăng tiêu dùng và kích thích
sản xuất phát triển, tạo gia sự tăng trưởng của nền kinh tế.
3.2 Quy mô đầu tư tác động đến tốc độ của tăng trưởng kinh tế:
Cho đến nay, đã có rất nhiều mô hình nghiên cứu và chỉ ra vai trò của hoạt

động đầu tư đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế, ví dụ như: Mô hình Robert Solow
Nguyễn Văn Kỷ-Lớp CH18L Trang 2
(1956) cho rằng: việc tăng vốn sản xuất chỉ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong
ngắn hạn mà không ảnh hưởng trong dài hạn, tăng trưởng sẽ đạt ở trạng thái dừng;
Mô hình Sung Sang Park cho rằng: nguồn gốc tăng trưởng là tăng cường vốn đầu tư
quốc gia cho đầu tư con người; Theo mô hình Tân cổ điển, thì nguồn gốc của tăng
trưởng tùy thuộc vào cách thức kết hợp hai yếu tố đầu vào vốn (K) và lao động (L).
Theo quan điểm tăng trưởng của trường phái kinh tế học vĩ mô Keynes, với mô hình
tiêu biểu là mô hình Harrod-Domar thì: nguồn gốc tăng trưởng kinh tế là do lượng vốn
(yếu tố K, capital) đưa vào sản xuất tăng lên.
Mặc dù các mô hình kinh tế được đưa ra đều khẳng định vai trò của đầu tư đối
với tăng trưởng kinh tế, nhưng bản than mô hình cũng có những hạn chế nhất định.
Nhưng các nguyên lý về vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng đã tiếp tục được làm rõ
qua hoạt động thực tiễn.
Thực tế cho thấy rằng: mức gia tăng sản lượng của nền kinh tế phụ thuộc vào
sự gia tăng quy mô vốn đầu tư. Vì vậy, việc gia tăng quy mô vốn đầu tư và sử dụng
vốn đầu tư hợp lý là những nhân tố quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư,
tăng năng suất nhân tố tổng hợp, tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng CNH-HĐH, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế…do đó, nâng cao chất
lượng tăng trưởng kinh tế. Mối quan hệ giữa đầu tư với tăng trưởng được mô hình hoá
qua công thức:
Mức gia tăng GDP =
Vốn đầu tư
ICOR
Trong đó: Hệ số ICOR là tỷ số giữa quy mô đầu tư tăng thêm với mức gia tăng
sản lượng, hay là suất đầu tư cần thiết để tạo ra một sản lượng tăng thêm. Hệ số này
được tính toán như sau:
ICOR=
Vốn đầu tư tăng thêm
=

Đầu tư trong kỳ
GDP tăng thêm GDP tăng thêm
Nếu đem chia cả tử và mẫu số cho GDP, ta có:
ICOR=
Tỷ lệ vốn đấu tư/GDP
Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Như vậy, nếu hệ số ICOR không đổi, mức tăng trưởng kinh tế GDP hoàn toàn
phụ thuộc vào quy mô vốn đầu tư.
II. VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở
VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA
1. Khái quát về tình hình tăng trưởng kinh tế:
Trong những năm qua, mặc dù phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức
nhưng nước ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng trong quá trình phát triển
kinh tế xã hội, kinh tế duy trì ở mức tăng trưởng cao, chất lượng tăng trưởng ngày càng
được cải thiện, các cân đối vĩ mô được đảm bảo,
Trong giai đoạn 2001-2005, nền kinh tế nước ta duy trì được khả năng tăng
trưởng khá nhanh và tương đối bền vững, đạt ở mức cao so với nhiều nước trong khu
vực và trên thế giới. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm đạt 7,5%/năm, đạt mục
tiêu đề ra trong kế hoạch 5 năm 2001-2005 và cao so với nhiều nước trong khu vực.
Trong giai đoạn 2006-2010, tổng sản phẩm trong nước (GDP) ước đạt khoảng
6,9% (mục tiêu 7,5-8%), trong đó: khu vực nông, lâm, thuỷ sản đạt 3,8%; công
nghiệp-xây dựng đạt 10,2%; dịch vụ đạt 7,0%. Nhìn chung, trong bối cảnh khung
hoẳng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu thì kết quả đạt được này là rất đáng khích
lệ, thể hiện được tính tự thích ứng và sức bền vững của nền kinh tế ở nước ta. Đặc biệt
trong hai năm đầu thực hiện Kế hoạch 2006-2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt ở
Nguyễn Văn Kỷ-Lớp CH18L Trang 3
mức cao hơn so với mục tiêu 5 năm đề ra (năm 2006: tăng 8,23%; năm 2007: tăng
8,46%); các năm 2008-2010 chịu tác động khá lớn của khung hoẳng kinh tế thế giới,
tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2008 vẫn đạt 6,3%; năm 2009 đạt 5,3%, dự kiến năm
2010 đạt khoảng 6,5%.

Dự kiến, quy mô nền kinh tế vào năm 2010 gấp khoảng 2 lần so với năm 2000.
GDP theo giá thực tế tính bình quân đầu người quy đổi ra USD vào năm 2010 đạt
khoảng 1.200 USD, vượt mục tiêu KH đề ra là từ 1.050-1.100 USD.
2. Khái quát về hoạt động đầu tư:
2.1 Giai đoạn 2001-2005:
Trong giai đoạn 5 năm (2001-2005), tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đạt
1.202,2 nghìn tỷ đồng, gấp 1,98 lần so với 5 năm 1996-2000, trong đó: vốn ngân sách
Nhà nước chiếm 22,8%, vốn tín dụng đầu tư chiếm 12,4%, vốn của khu vực doanh
nghiệp Nhà nước chiếm 15,4%, vốn của dân cư và khu vực tư nhân chiếm 30%, vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài chiếm 16,6%.
Cơ cấu đầu tư đã có sự dịch chuyển theo hướng tích cực, tập trung cho những mục
tiêu quan trọng về phát triển kinh tế, xã hội: đầu tư cho lĩnh vực kinh tế chiếm 70% tổng
mức vốn đầu tư toàn xã hội, trong đó: ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 13,5%, công
nghiệp và xây dựng 44,3%, giao thông - bưu điện 12,1%; lĩnh vực xã hội 26,9%, trong
đó: giáo dục - đào tạo 4,1%, y tế, xã hội 2,3%, văn hóa thể thao 2,3%, khoa học và công
nghệ 1,3%; đồng thời quan tâm đầu tư nhiều hơn cho vùng nghèo, xã nghèo.
Quy mô vốn đầu tư ở các vùng đều tăng, tỷ trọng vốn đầu tư vùng núi phía Bắc chiếm
8,3%; vùng Bắc Trung bộ là 8%; vùng Duyên hải miền Trung 12,4%; vùng Tây Nguyên
5,3%.
Bên cạnh nguồn vốn trong nước, trong 5 năm đã thu hút được khối lượng vốn
ODA cho phát triển cơ sở hạ tầng ; Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong cả giai đoạn đạt
khoảng 14,3 tỷ USD, tăng 40% so với 5 năm trước, tập trung chủ yếu trong lĩnh vực
công nghiệp và xây dựng, chiếm 82%; lĩnh vực dịch vụ chiếm 13%, nông, lâm, thuỷ
sản, chiếm 5%.
Điểm nổi bật về đầu tư trong giai đoạn này là sự tăng lên mạnh mẽ của khu vực
kinh tế tư nhân. Đến năm 2005 cả nước có trên 160 nghìn doanh nghiệp thành lập mới,
với số vốn đăng ký khoảng 321 nghìn tỷ đồng, gấp 2,6 lần số doanh nghiệp giai đoạn 10
năm (giai đoạn 1991-2000) cộng lại. Tỷ trọng đầu tư của khu vực này ngày càng tăng,
chiếm khoảng 30% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
2.1 Giai đoạn 2006-2010:

Mặc dù chịu tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu,
nhưng chúng ta đã huy động được một khối lượng khá lớn vốn đầu tư phát triển. Tổng
nguồn vốn đầu tư toàn xã hội trong 5 năm 2006-2010 đạt khoảng 3.073,8 nghìn tỷ đồng,
gấp hơn 2,5 lần so với giai đoạn trước, trong đó:
Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước ước thực hiện khoảng 647 nghìn tỷ đồng,
chiếm 21% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Nguồn vốn này được tập trung ưu tiên cho các
dự án kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi, giáo dục, y tế, các chương trình mục tiêu
quan trọng đã góp phần cải thiện hệ thống kết cấu hạ tầng, tạo tiền đề thúc đẩy tăng
trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, góp phần xóa đói, giảm
nghèo, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Nguyễn Văn Kỷ-Lớp CH18L Trang 4
Vốn trái phiếu Chính phủ 5 năm ước đạt khoảng 136,6 nghìn tỷ đồng, chiếm
4,4%; Vốn tín dụng đầu tư ước đạt 195,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 6,4% tổng vốn đầu tư
toàn xã hội. Nguồn trái phiếu Chính phủ được tập trung vào các công trình giao thông,
thủy lợi, kiên cố hóa trường lớp học, từ năm 2008 bổ sung thêm đầu tư nâng cấp hệ
thống bệnh viện tuyến huyện và tuyến tỉnh; từ năm 2009 bổ sung thêm đầu tư ký túc xá
cho sinh viên.
Nguồn vốn đầu tư của khu vực doanh nghiệp tư nhân và dân cư đã tăng lên mạnh
mẽ và đóng vai trò ngày càng quan trọng, 5 năm ước thực hiện khoảng l.092,2 nghìn tỷ
đồng, chiếm 35,5% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Đáng chú ý trong hai năm 2008-2009, trong bổi cảnh khủng hoảng tài chính và
suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt kết quả
khá cao. Tính chung trong 5 năm, tổng vốn đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 150 tỷ
USD, gấp hơn 7 lần so với giai đoạn 2001-2005; trong đó 2 năm 2006-2007 đều đạt tốc
độ năm sau cao hơn năm trước gấp hơn 1,7 lần, riêng năm 2008 gấp gần 3,4 lần so với
năm 2007 (71,7 tỷ USD). Trong 5 năm ước thực hiện khoảng 658,5 nghìn tỷ đồng, gấp
hơn l,4 lần so với kế hoạch đề ra.
Trong bổi cảnh nguồn cung vốn ODA dành cho các nước đang phát triển giảm,
nhưng Việt Nam vẫn nhận được sự ủng hộ và cam kết mạnh mẽ của cộng đồng các nhà
tài trợ quốc tế. Tổng vốn ODA cam kết 5 năm ước đạt trên 3 l tỷ USD, gấp hơn l,5 lần

so với mục tiêu đề ra (19-21 tỷ USD), trong đó khối lượng vốn đã giải ngân ước đạt
khoảng 13 tỷ USD, vượt 8,4% so với kế hoạch đề ra.
3. Đánh giá chung về vài trò của đầu tư với tăng trưởng kinh tế ở Việt
Nam:
Nếu như trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung thì nền kinh tế gần như không có
tăng trưởng, thậm trí rơi vào tình trạng trì trệ. Nhưng kể từ khi khi chuyển sang cơ chế
thị trường mà đặc biệt là kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, nền kinh tế nước ta đã
từng bước phát triển, sản lượng của nền kinh tế ngày càng cao. Đây cũng là kết quả
của quá trình đổi mới toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực đầu tư.
Trong những năm qua, hoạt động đầu tư ở Việt Nam đã có những bước chuyển
biến mạnh mẽ, môi trường đầu tư được cải thiện, huy động được các nguồn lực trong
xã hội tạo ra sự tăng trưởng của nền kinh tế, và được thể hiện chi tiết qua bảng số liệu
sau:
Phụ lục: Tổng hợp vốn đầu tư, GDP và hệ số ICOR của Việt Nam qua các năm:
Năm
Vốn đầu tư
(Nghìn tỷ đồng)
GDP giá thực tế
(Ngàn tỷ đồng)
Tốc độ
tăng GDP
(%)
Vốn đầu
tư/GDP(%)
ICOR
(lần)
1995 72,45 228,89 9,54 31,65 3,32
1996 87,39 272,03 9,34 32,12 3,44
1997 108,37 313,62 8,15 34,55 4,24
1998 117,13 361,01 5,76 32,44 5,63

1999 131,17 399,94 4,77 32,79 6,88
2000 151,18 441,64 6,79 34,23 4,85
2001 163,54 481,29 6,86 33,98 4,95
2002 193,10 535,72 7,08 36,04 5,09
2003 219,68 613,44 7,26 35,81 5,00
2004 290,92 715,30 7,79 40,67 5,22
Nguyễn Văn Kỷ-Lớp CH18L Trang 5

×