Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

BIỆN PHÁP GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC QUA VIỆC HÌNH THÀNH KĨ NĂNG GIAO TIẾP CHO HỌC SINH LỚP 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.32 KB, 16 trang )

BIỆN PHÁP GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC QUA VIỆC HÌNH THÀNH KĨ NĂNG
GIAO TIẾP CHO HỌC SINH LỚP 3
A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Giáo dục đạo đức học sinh là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong công tác
chủ nhiệm. Bởi Tiểu học là bậc học nền tảng, mà trẻ em là tương lai của đất nước.
Muốn cái nền tảng, cái tương lai này tốt đẹp, muốn các em trở thành người có ích cho
xã hội thì cần phải hội đủ hai điều kiện: đức và tài như Bác Hồ đã từng nói: “Có
đức mà khơng có tài thì vơ dụng, cịn có tài mà khơng có đức thì cũng khơng giúp ích
gì cho xã hội ”. Câu nói ấy của Bác vơ cùng thấm thía trong lịng mỗi người, đặc biệt
là mỗi thầy, cô giáo chúng ta.
Muốn phát triển con người toàn diện, muốn đào tạo nhân tài của đất nước, chúng
ta không chỉ dạy cho các em giỏi về văn hố mà cịn phải làm tốt cơng tác giáo dục
đạo đức cho các em. Đặc biệt là giáo dục các em học sinh Tiểu học. Qua nhiều năm
giảng dạy ở trường Tiểu học, tôi nhận thấy việc giáo dục hành vi đạo đức qua việc
hình thành kĩ năng giao tiếp cho các em là vơ cùng cần thiết, hay nói đúng hơn là phát
triển toàn diện về nhân cách con người thể hiện qua hai mặt là: “Tài và Đức”.
Dù ở xã hội nào thì cái đức vẫn ln được coi trọng vì: Cái đức là gốc, cái tài là
sự biểu hiện của cái đức. Vì vậy việc giáo dục cái đức cho học sinh là một yêu cầu
quan trọng, đang trở thành một vấn đề bức xúc mà xã hội quan tâm. Tình trạng này
khơng chỉ xuất hiện ngồi xã hội mà còn len lõi vào trong cả trường học. Biểu hiện rõ
nhất là trong các lớp học vẫn cịn có những học sinh thuộc dạng “chưa ngoan”, thiếu
lễ phép với người lớn, hạn chế về đạo đức, nhân cách. Cũng chính vì sự chưa ngoan
đó mà dẫn đến tình trạng học sinh “chưa hồn thành nội dung học tập môn học và
hoạt động giáo dục” dẫn đến bỏ học làm ảnh hưởng khơng ít đến những thành viên
khác trong lớp học và ảnh hưởng đến toàn trường, mà xa hơn là gánh nặng của xã hội.
Với những lí do trên, bản thân tôi đã tiến hành nghiên cứu và áp dụng có hiệu
qủa đề tài “Biện pháp giáo dục đạo đức qua việc hình thành kĩ năng giao tiếp cho học
sinh lớp 3”.
1



B. NỘI DUNG:
I. Thực trạng:
1. Thực trạng về nhân cách, kĩ năng giao tiếp của học sinh.
1.1. Thực trạng về giáo dục đạo đức nhân cách cho học sinh nói chung.
Các ngành, các cấp đã quan tâm nhiều đến việc giáo dục đạo đức, nhân cách cho
học sinh; trong soạn giảng từng môn học và hoạt động giáo dục, kể cả hoạt động
ngoại khóa thì đều có văn bản chỉ đạo lồng ghép kĩ năng sống, giáo dục đạo đức lối
sống cho học sinh. Tuy nhiên vấn đề này chỉ được thực hiện với hình thức đối phó
(chỉ thể hiện trên giáo án), cịn thực tế thì chưa khắc sâu, chưa được coi trọng, bởi
giáo viên đa số chỉ tập chung vào mơn Tốn – Tiếng Việt là chủ yếu.
Mỗi ngày, khi bước ra ngoài xã hội thường nghe những lời than phiền đạo đức,
kĩ năng giao tiếp của trẻ em sao xuống cấp quá! Trẻ em ngày nay không ngoan bằng
trẻ em ngày xưa, trẻ em ngày nay hay ỷ lại, trẻ em ngày nay khơng chịu đựng được
khó nhọc, kiên trì, nhẫn nại bằng trẻ em ngày xưa. Thật ra do các em sinh ra, lớn lên
và chịu ảnh hưởng, tác động từ rất nhiều gương sống, làm việc, sinh họat, quan hệ của
người lớn chúng ta. Ảnh hưởng đầu tiên trong cuộc đời các em chính là những thành
viên trong chiếc nơi gia đình như anh, chị, em, bố mẹ; nối tiếp chiếc nơi gia đình là
chiếc nôi trường học, là thầy cô, anh chị phụ trách Đội Thiếu niên Tiền phong, bạn bè,
anh chị ở các lớp trên, đàn em ở các lớp nhỏ, bác bảo vệ, chị nhân viên phục vụ . . .
Các em sẽ dễ bị cám dỗ bởi tất cả các thói hư tật xấu, vì ở tuổi các em rất nhạy cảm
với tất cả những cái tốt lẫn cái xấu trong xã hội, chiếc nơi gia đình và chiếc nơi
trường học chính là chiếc lá chắn, mơi trường vững chắc bảo vệ cho các em trước
những cám dỗ bởi những cái xấu trong xã hội, tạo cho các em có đề kháng tốt, hình
thành kỹ năng sống, chọn lọc, tự chống chọi những cái xấu.
1.2. Thực trạng về giáo dục đạo đức nhân cách cho học sinh ở trường Tiểu học.
Qua thực tế làm công tác chủ nhiệm và giảng dạy, nhìn chung kĩ năng giao tiếp
của đa số các em ngày càng xuống cấp, thậm chí vẫn cịn một số em có những biểu
hiện chưa ngoan, thiếu lễ phép và dẫn đến việc bỏ học ở các em. Qua nghiên cứu
2



những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những biểu hiện chưa ngoan, thiếu lễ phép và
dẫn đến việc bỏ học ở các em. Tơi có thể phân loại và xác định nguyên nhân như sau:
+ Do việc dạy của giáo viên vẫn bám vào phương pháp rập khn máy móc,
chưa tìm ra phương pháp để nâng cao chất lượng giờ học. Giáo viên hầu hết chưa
kiểm soát hết việc việc làm, suy nghĩ và hành động của học sinh. Đây là ngun nhân
làm cho học sinh hoạt động khơng tích cực và nhàm chán khi học.
+ Giáo viên thường có quan niệm chỉ giáo dục hành vi đạo đức và kĩ năng giao
tiếp, ứng xử cho học sinh thông qua hệ thống kiến thức của 14 bài đạo đức như: Kính
yêu Bác Hồ; giữ lời hứa; tự làm lấy việc của mình; quan tâm, chăm sóc ơng bà, cha
mẹ, anh chị em; chia sẻ vui buồn cùng bạn; tích cực tham gia việc trường, việc lớp;
quan tâm giúp đỡ hàng xóm, láng giềng; biết ơn thương binh, liệt sĩ; đồn kết với
thiếu nhi quốc tế; tơn trọng khách nước ngồi; tôn trọng đám tang; tôn trọng thư từ,
tài sản của người khác; tiết kiệm và bảo vệ nguồn nước; chăm sóc cây trồng, vật ni.
Thường thì giáo viên cũng có nhắc nhở, có giáo dục học sinh, nhưng chỉ mang tính
hình thức chứ chưa chịu khó tìm hiểu hồn cảnh, nguyên nhân dẫn đến những biểu
hiện tiêu cực nêu trên.
Bảng 1: Chất lượng khảo sát biểu hiện hành vi đạo đức của học sinh:
Lớp

3.1

Tổng
số HS
35

Số em có kĩ

Số em có kĩ


Số em có kĩ năng

Số em cịn hạn chế

năng giao tiếp, năng giao tiếp, giao tiếp, nhân cách về kĩ năng giao
nhân cách tốt. nhân cách khá. đạt yêu cầu.
SL
%
SL
%
SL
%
18
51.43
10
28.57
4
11.43

tiếp, nhân cách.
SL
%
3
8.57

Qua việc điều tra trên cho thấy tỉ lệ học sinh có biểu hiện hành vi đạo đức chưa
tốt chiếm gần 50% số học sinh của lớp. Từ lí do trên tôi quyết định nghiên cứu và
thực hiện đề tài “Biện pháp giáo dục đạo đức qua việc hình thành kĩ năng giao tiếp
cho học sinh lớp 3”. Đây là một việc làm thiết thực mà trong mỗi giáo viên chúng ta
băn khoăn, suy nghĩ nên dạy như thế nào để nâng cao hiệu quả các giờ dạy trên lớp

nói chung và giáo dục đạo đức, nhân cách cho học sinh nói riêng.
3


II. Các biện pháp giáo dục đạo đức qua việc hình thành kĩ năng giao tiếp
cho học sinh.
Để đưa chất lượng về đạo đức, nhân cách đúng, phong phú và có sự thay đổi về
vốn sống ở học sinh, tơi xin mạnh dạn đưa ra một số biện pháp sau:
1. Giáo viên chủ nhiệm phải làm tốt công tác phối hợp, tìm nguyên nhân và
hướng khắc phục:
Do ảnh hưởng bởi cuộc sống lao động, mưu cầu sinh nhai nên có một số ít phụ
huynh khơng có thời gian để quan tâm đến con em, thậm chí có một số ít phụ huynh
còn hạn chế trong phương pháp dạy dỗ con cái, vì quá cưng chìu, thương yêu con
nhưng lại bị sự hạn chế trong kiến thức về phương pháp giáo dục con, khiến một số ít
phụ huynh học sinh có những thái độ thiếu thiện cảm với thầy, cô giáo hoặc tệ hơn
nữa là có cách dạy con đi ngược với phương pháp sư phạm của nhà trường. Điều này
có ảnh hưởng tệ hại đối với việc giáo dục kĩ năng giao tiếp cho học sinh. Chính vì thế
nên giáo viên cần phải kết hợp chặt chẽ với Ban đại diện cha mẹ học sinh của trường
bằng mọi cách như qua buổi họp định kỳ, điện thoại liên lạc để hỗ trợ kiến thức cho
họ về phương pháp giáo dục con cái. Vận động cha mẹ các em quan tâm hơn nữa
trong việc giáo dục kĩ năng giao tiếp cho con mình. Điều này cũng phát huy vai trị
xã hội hố giáo dục đối với nhà trường, khuyến khích kêu gọi mọi người trong xã hội
cùng tham gia giáo dục tạo nên sức mạnh quần chúng rộng rãi, quan tâm đến giáo
dục, để phụ huynh học sinh khơng cịn phó mặc trách nhiệm cho thầy cơ giáo. Qua đó
giáo viên sẽ tìm ra một số nguyên nhân và tìm ra giải pháp giáo dục đạo đức, nhân
cách cho học sinh.
1.1. Học sinh còn hạn chế về kĩ năng giao tiếp do thiếu sự quan tâm chỉ dạy
của gia đình hoặc do sự quan tâm giáo dục của gia đình khơng đúng:
Những học sinh này thường xuất thân từ con nhà nghèo, bố mẹ lao động vất
vả, gia đình đơng anh em, cơ sở vật chất cũng như tinh thần bị thiếu thốn, cha mẹ chỉ

đáp ứng cho con ăn no, khơng có thời gian giáo dục, chăm sóc chu đáo cho con.
Những em thuộc hoàn cảnh trên thường ở nhà phụ giúp gia đình khơng có thời gian
4


học hành, vui chơi dẫn đến học yếu, lười học. Nhiều em vì thiếu thốn mà sinh ra ăn
cắp vặt, tụ tập theo bạn bè xấu,…Hoặc do quá thương con, nng chiều con hết mực,
con muốn gì, cha mẹ đáp ứng ngay. Những em này xuất thân từ những gia đình giàu
có, con địi hỏi gì cũng cho mà qn đi việc giáo dục hay để ý xem con mình là
người như thế nào.
Giáo viên phải nhanh chóng tiếp xúc, gặp gỡ cha mẹ các em và trao đổi về
những chỗ hổng cần thiết để họ hiểu và có biện pháp khắc phục, động viên phụ
huynh quan tâm đến việc giáo dục con cái mình bằng nhiều hình thức khác nhau.
Chỉ và giải thích cho họ hiểu khơng nên chiều chuộng con quá mức mà phải hạn
chế, điều chỉnh hành vi của con mình, khơng nên cho con q nhiều tiền, hoặc mua
cho con những đồ chơi bạo lực mà nên mua cho con những đồ chơi phục vụ cho
việc học tập, óc sáng tạo.
Ở trường, giáo viên phải động viên, nhắc nhở và đưa ra những tấm gương tốt
cùng hoàn cảnh để các em học tập trong suốt quá trình tìm hiểu và giáo dục, tránh
tình trạng coi thường và mặc xác học sinh, mà phải luôn coi trọng các em, hy vọng
các em phải trở thành người tốt. Giáo viên nên theo dõi báo cáo những biểu hiện
hằng ngày của học sinh, có biện pháp phối hợp đúng lúc.
1.2. Học sinh còn hạn chế về kĩ năng giao tiếp do ảnh hưởng từ gia đình, cha
mẹ là người thiếu văn hố .
Cha mẹ đối xử với nhau khơng tốt, thường hay đánh đập, chửi bới nhau. Các em
lớn lên trong môi trường không tốt, như thế chắc chắn sẽ bị hư hỏng, thiếu sự quan
tâm giáo dục dẫn đến hiện tượng chán nản, bỏ học, rong chơi lêu lỏng.
Trong trường hợp này, giáo viên nên gặp cha mẹ học sinh để trao đổi để họ thấy
được sự sai lầm của họ đã dẫn đến sự hư hỏng sai lầm cả đời con. Hãy vì con mà
thay đổi cách nhìn, cách sống, cách cư xử trong gia đình, làm cho họ hiểu con cái

chịu ảnh hưởng rất lớn ở cha mẹ. Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nơi ni con
khơn lớn nên người. Ngồi ra, giáo viên phải làm cho học sinh hiểu được cần phải

5


nói năng chuẩn mực, lễ độ trong giao tiếp, giáo viên luôn động viên an ủi, chia sẻ,
đưa ra phương hướng để học sinh vươn lên bởi: “Lời nói khơng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lịng nhau”.
1.3. Học sinh còn hạn chế về kĩ năng giao tiếp do ảnh hưởng từ bạn bè xấu
xung quanh.
Các em sống ở gia đình lành mạnh nhưng giao lưu với nhóm bạn bè không tốt, bị
bạn rủ rê, tác động làm cho các em bắt chước các thói hư, tật xấu, lời nói phím nhã,
thơ tục từ bạn bè do vơ ý.
Giáo viên cần kết hợp với chính quyền địa phương, với cha mẹ các em để trao
đổi tìm biện pháp ngăn cản việc giao lưu của các em với những người xấu xung
quanh. Cùng với gia đình theo dõi cách ăn nói, cách cư xử của các em,
nghiêm cấm học sinh chửi thề, nói tục, làm cho học sinh thấy được lỗi lầm và có ý
thức khắc phục. Giáo viên cần phát động phong trào: “ Nói lời hay, làm việc tốt “
trong trường, trong lớp và nhắc nhở lẫn nhau cùng tiến bộ.
1.4. Học sinh còn hạn chế về kĩ năng giao tiếp do thiếu tình thương của
người thân và bạn bè .
Đối với những em này, giáo viên là người có trách nhiệm nhiều nhất, thay cho
cha mẹ giáo dục các em, gặp người đang chăm sóc em để tâm sự, trao đổi để họ tạo
cho các em cuộc sống thoải mái hơn, dễ gần hơn, thường an ủi, nhắc nhở các em,
làm cho các em thấy rằng: “Giáo viên là người mẹ hiền , lớp học như một gia đình
đầm ấm, trường học là ngơi nhà thứ hai”.
2. Dùng nghệ thuật sư phạm trong công tác chủ nhiệm.
Thật ra, những điều qui định trong nội qui học sinh rất dễ dàng thực hiện đối với
các em. Thế nhưng, tại sao các em lại thường hay vi phạm? Thậm chí vi phạm có hệ

thống! Đó chính là điều mà người thầy phải suy nghĩ và xem xét lại, liệu những
phương pháp, cách thức, kế hoạch giáo dục của người thầy có phù hợp với từng đối
tượng học sinh hay khơng? Chính sự quan tâm đúng mức của người thầy đối các em
sẽ là yếu tố hàng đầu đem lại hiệu quả cao nhất trong công tác giáo dục trẻ trong xã
6


hội hiện nay.
2.1. Dùng nghệ thuật tạo cơ hội để khen học sinh:
Đặc điểm tâm sinh lý của các em là thích được khen, thích chứng tỏ, tự khẳng
định mình. Thế nên người thầy cần tìm thấy ở các em những ưu điểm để động viên,
khích lệ các em phát triển mặc dù những ưu điểm ấy rất nhỏ. Không nên bỏ qua, hoặc
thờ ơ trước những kết quả mà các em đạt được. Vì nếu khơng quan tâm đến thành
tích, để có những lời động viên khen thưởng kịp thời thì các em sẽ sao lãng việc rèn
luyện mình và cũng không muốn tham gia vào nhiều công việc. Bởi lẽ các em nghĩ có
làm tốt cũng chẳng được gì và cũng chẳng ai biết đến; cịn khi các em vi phạm thì
giáo viên khơng nên chê trách hay phạt vạ mà phải khuyên răng động viên các em. Vì
vậy người thầy cần tạo cho các em những cơ hội để các em thể hiện mình. Khen
thưởng đúng lúc, kịp thời sẽ có tác dụng rất lớn đến việc làm của các em. Và nó chính
là những liều thuốc tốt nhất để gây dựng cho các em lòng đam mê, tính nhiệt tình
năng nổ, sáng tạo trong cơng việc.
Giáo viên phải là người trực tiếp theo dõi, kiểm tra, động viên nhắc nhở các em,
phải nêu gương “người tốt việc tốt” trước lớp, dưới cờ hàng ngày, hàng tuần, hàng
tháng hoặc học kỳ để có khen thưởng kịp thời, nhằm động viên khuyến khích các em
ngày càng tiến bộ. Bởi vì những mầm sống tốt, những biểu hiện tích cực luôn được
sinh sôi nẩy nở trong mảnh đất màu mỡ của những yêu thương và trân trọng.
2.2. Phải biết giao việc từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp:
Phần đơng học sinh cấp Tiểu học thường có những biểu hiện sa xúc về đạo đức
như ham chơi game, banh bàn, bi da, nói tục, chữi thề, sao lãng việc học hành hoặc
bất chấp nề nếp kỹ cương của nhà trường, thường là những em học sinh còn hạn chế

trong học tập, lực học các em không theo kịp bạn, đâm ra chán nản lao vào những trò
chơi vơ bổ, dần dần các em có những việc làm vi phạm đạo đức. Trong giảng dạy
người thầy nên chú ý nhiều đến đối tượng học sinh này để có những câu hỏi phù hợp
với khả năng của từng em “ Áp dụng 10 kĩ năng đặt câu hỏi”, từ dễ đến khó, từ đơn
giản đến phức tạp nhằm khơi dậy trong các em những khao khát về sự hiểu biết, về
7


niềm tin vào bản thân. Sự tự tin trong con người các em chính là những ngọn lửa
mạnh mẽ thúc đẩy cho các em tiến bộ.
2.3. Phải nghiên cứu lý lịch, hồ sơ học sinh:
Khi nhận lớp, giáo viên cần tìm hiểu các em thơng qua giáo viên chủ nhiệm cũ,
nghiên cứu kĩ học bạ, sổ liên lạc, sổ chủ nhiệm, sổ theo dõi chất lượng của năm học
trước liển kề để tìm hiểu hồn cảnh gia đình…. để liên hệ với phụ huynh khi cần thiết.
2.4. Xây dựng ban cán sự lớp với tinh thần tự quản, ý thức trách nhiệm cao:
Bầu cử những em có năng lực và được tập thể tín nhiệm.
Báo cáo trung thực những diễn biến xảy ra hàng ngày cho giáo viên chủ nhiệm.
Làm việc đúng lề lối quy định, đúng vị trí các chức danh.
2.5. Xây dựng tập thể lớp đoàn kết, vững mạnh, có tinh thần yêu thương và
giúp đỡ lẫn nhau.
Gần gũi, thương yêu, trao đổi với học sinh để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng xu
hướng sở thích của học sinh, giúp các em thể hiện được “điều em muốn nói”.
Tạo mơi trường thân thiện để các em thấy được "mỗi ngày đến trường là một
niềm vui". Từng bước phát huy tinh thần làm chủ tập thể của học sinh, cùng thi đua
giúp đỡ lẫn nhau. Biết động viên thăm hỏi kịp thời khi bạn đau ốm, hay gặp khó khăn,
hoạn nạn. Xây dụng và phát huy tốt lớp học tự quản.
2.6. Phối hợp tốt ba môi trường giáo dục.
Về phía nhà trường: Cần có những biện pháp giáo dục áp dụng với từng đối
tượng học sinh. Phối hợp với Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh tạo nhiều sân
chơi lành mạnh, hình thành thói quen ở các em “Mình vì mọi người, mọi người vì

mình”. Giáo dục các em tinh thần đồn kết, tương thân tương ái thơng qua các hoạt
động từ thiện, các hoạt động giúp đở bạn nghèo… do nhà trường và Liên đội phát
động. Qua đó có thể giáo dục các em tinh thần “ Lá lành đùm lá rách” “ Một miếng
khi đói bằng một gói khi no”…
Về phía gia đình: Phải ln là chỗ dựa vững chắc cho các em, những thành viên
trong gia đình cần ln noi gương tốt cho các em noi theo, giúp các em không cảm
8


thấy cô đơn, lẽ loi, hụt hẩng. Không nên quá lo về kinh tế mà bỏ quên việc giáo dục
con em mình, phải thường xuyên liên lạc với nhà trường, nắm tình hình học tập của
con em mình.
Đối với xã hội: Cần quan tâm đến ngành giáo dục nhiều hơn nữa, kết hợp với
ban ngành địa phương làm lành mạnh, trong lành mơi trường sống, khơng cịn những
tệ nạn, những thói hư tật xấu…làm ảnh hưởng đến thế hệ trẻ mai sau.
2.7. Nhiệt tình, linh động với cơng việc, cơng bằng với học sinh, khen thưởng
và phê bình kịp thời.
Thực hiện đầy đủ các loại sổ sách theo quy định, báo cáo trung thực, kịp thời cho
ban giám hiệu về tình hình đạo đức, nhân cách của học sinh.
Một năm học giáo viên cần đến nhà học sinh ít nhất một lần để nắm thông tin,
thuyết phục cha mẹ học sinh tham gia tốt vào hoạt động giáo dục.
Hàng tháng chuyển sổ liên lạc đến gia đình học sinh đúng thời gian quy định, xử
lý thông tin phản hồi kịp thời, có hiệu quả.
Khi có tình huống đột xuất xảy ra, phải xử lý khéo léo, liên hệ với Cha mẹ học
sinh để giải quyết mau lẹ, có hiệu quả.
Cuối tuần khen thưởng, xử lý kịp thời, dù chỉ những tiến bộ chậm chạp, ln có
lịng vị tha đối với các em, bỏ qua những lổi lầm, để tạo niềm tin và tạo cơ hội tiến bộ.
Giáo viên phải thường xuyên học tập nâng cao trình độ, trao dồi đạo đức nhà
giáo để xứng đáng là tấm gương tốt cho học sinh noi theo.
Giáo viên chủ nhiệm cụ thể hóa kế hoạch hoạt động tập thể theo tuần, đánh giá,

tuyên dương, góp ý cụ thể đối với học sinh của lớp.
3. Giáo dục kĩ năng giao tiếp thông qua tổ chức đồn đội.
Thơng qua các chủ điểm sinh hoạt hàng tháng, tổ chức Đội cần phối hợp với Ban
giám hiệu, giáo viên chủ nhiệm, các tổ chức đoàn thể khác trong nhà trường thường
xuyên tổ chức cho các em thi thố tài năng bằng các trị chơi giải trí lành mạnh. Nhằm
tạo cho các em gắn bó với tập thể, thấy được tinh thần trách nhiệm của mình đối tập
thể. Từ đó xây dựng cho các em ý thức, sáng tạo trong cơng việc, biết sống vì mọi
9


người, biết u thương con người. Đó cũng chính là con đường hình thành nhân cách
tốt nhất cho các em.
4. Dùng kĩ năng giao tiếp, nhân cách người thầy giáo dục kĩ năng giao
tiếp ,nhân cách học sinh.
Trong các cách giáo dục thì phương pháp nêu gương có tác dụng rất lớn, đạt
hiệu quả cao nhất. Mỗi thầy cô giáo phải thật sự là tấm gương sáng cho các em noi
theo, mặc dù bản thân không được như những nhà giáo dục học nổi tiếng, nhưng tối
thiểu phải là những nhà giáo dục gương mẫu, nhiệt tình, thương yêu học trị vì đối với
các em, người thầy chính là thần tượng, thì chính bản thân của người thầy khơng chỉ
nói suông mà phải bằng hành động và việc làm cụ thể trong quan hệ với đồng nghiệp,
phụ huynh, học sinh và ngồi xã hội. Mỗi lời nói, cử chì và hành động qua việc tiếp
xúc với đồng nghiệp, với học sinh và ngoài xã hội phải chuẩn mực, gương mẫu, ln
ln mang tính sư phạm; mỗi hình động và việc làm phải thiết thực, hiệu quả mà
không gây phiền hà, ảnh hưởng đến mọi người xung quanh.
5. Giáo dục kĩ năng giao tiếp, nhân cách học sinh thông qua môn đạo đức.
Dạy học mơn đạo đức phải gắn bó chặt chẽ với cuộc sống thực của học sinh. Các
truyện kể, tình huống, tấm gương, tranh ảnh,...sử dụng để dạy học đạo đức phải lấy
chất liệu từ cuộc sống thực của học sinh. Điều đó sẽ giúp cho bài học đạo đức thêm
phong phú, gần gũi, sống động đối với các em.
Dạy học môn đạo đức cần đi từ quyền trẻ em, từ lợi ích của trẻ em đến trách

nhiệm, bổn phận của học sinh. Cách tiếp cận đó sẽ giúp cho việc dạy học đạo đức trở
nên nhẹ nhàng, sinh động hơn, giúp cho học sinh lĩnh hội và thực hiện hành vi tự giác
hơn, tránh được tính chất nặng nề, áp đặt trước đây.
Thông qua các bài đạo đức, học sinh lớp 3 được giáo dục một số kĩ năng sống cơ
bản như: kinh nghiệm giao tiếp, kinh nghiệm tự nhận thức, kinh nghiệm ra quyết
định, kinh nghiệm giải quyết vấn đề... Việc giáo dục cho học sinh lớp 3 thông qua các
bài đạo đức vừa là nhiệm vụ vừa là mục tiêu giáo dục ở tiểu học.
III. Những kết quả đạt được:
10


1. Hiệu quả của sáng kiến:
Tuy thời gian không dài, với cách tổ chức dạy học theo các biện pháp nêu trên,
hiệu quả giờ dạy và kĩ năng giao tiếp, nhân cách của học sinh được nâng lên rõ rệt.
Học sinh hứng thú học tập, hoạt động tích cực hơn, các em mạnh dạn hơn, tự tin hơn
trong giao tiếp. Số em có biểu hiện hành vi đạo đức cịn hạn chế đã giảm đi. Số em có
biểu hiện hành vi đạo đức tốt được nâng lên rõ rệt.
Bảng 2: Kết quả thực nghiệm
Lớp

3.1

Tổng
số HS
35

Số em có kĩ

Số em có kĩ


Số em có kĩ năng

Số em cịn hạn chế

năng giao tiếp, năng giao tiếp, giao tiếp, nhân cách về kĩ năng giao
nhân cách tốt. nhân cách khá. đạt yêu cầu.
SL
%
SL
%
SL
%
30
85.71
4
11.43
1
2.88

tiếp, nhân cách.
SL
%
0
0

Từ kết quả thống kê cho ta thấy kết quả giáo dục đạo đức, nhân cách qua việc
hình thành kĩ năng giao tiếp cho học sinh lớp 3 của trường Tiểu học Phong Thạnh
Đông ngày được nâng lên bởi vì lực lượng thầy cơ giáo của trường đã cố gắng kết
hợp, chọn lọc các biện pháp để làm công tác chủ nhiệm. Đăc biệt là rất chú tâm đến
công tác giáo dục đạo đức cho các em. Chính sự giáo dục không đúng, không khoa

học, không phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của các em, khiến cho các em hay có
những biểu hiện chống đối lại người lớn. Nếu người thầy thiếu bản lĩnh sư phạm, mất
bình tĩnh, nóng giận sẽ có những quyết đốn sai, lời lẽ, biện pháp giáo dục khơng
đúng thì hậu quả sẽ càng tệ hại hơn.
Như vậy với một thời gian ngắn nhưng tôi nhận thấy những biện pháp mà tôi đưa
ra đã thu được kết quả thật khả quan. Thiết nghĩ nếu giáo viên áp dụng các biện pháp
này một cách thường xuyên ở lớp thì chắc chắn sẽ giúp việc hình thành đạo đức, nhân
cách ở các em sẽ tốt hơn.
2. Bài học kinh nghiệm:
Qua kinh nghiệm thực tế giáo dục đạo đức cho học sinh, tôi rút ra bài học sau:

11


Bài học về tư cách giáo viên: Muốn giáo dục kĩ năng giao tiếp cho học
sinh, giáo viên cần phải là người chuẩn mực, là tấm gương sáng cho học sinh noi
theo. Giáo viên cần phải luôn cân nhắc thận trọng mọi cử chỉ lời nói, việc làm,
khơng để học sinh có nhận xét khơng tốt về thầy cơ.
Bài học về tìm hiểu học sinh: Quá trình tìm hiểu phải kĩ lưỡng, chính xác
và chín chắn. Tìm hiểu về gia đình, xã hội xung quanh, quan hệ với bạn bè, thực hiện
xem học bạ ở các năm học trước hoặc hỏi thăm giáo viên chủ nhiệm cũ.
Bài học kinh nghiệm trong giáo dục: Giáo dục học sinh còn hạn chế về
kĩ năng giao tiếp khơng nên nóng vội, ln thể hiện sự thương yêu học sinh, tin
tưởng các em sẽ tiến bộ.
Phối hợp: Cần phối hợp chặt chẽ với nhà trường, hội phụ huynh, cha mẹ
học sinh. Không nên giáo dục bằng lí thuyết mà phải nêu gương điển hình để các em
học tập.
Qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu thực tế việc giáo dục đạo đức cho học sinh
chưa ngoan ở lớp 3.1 trường Tiểu học Phong Thạnh Đông. Tôi thấy rằng, việc giáo
dục kĩ năng giao tiếp và hình thành nhân cách cho học sinh, cho thế hệ trẻ là một quá

trình rèn luyện lâu dài, liên tục, diễn ra ở nhiều môi trường khác nhau, liên quan nhiều
đến các mối quan hệ xã hội. Vì vậy nó địi hỏi người thầy giáo phải có đức tính kiên
trì, khéo léo trong ứng xử, bền bỉ, tế nhị để có thể tìm hiểu sâu sắc từng đối tượng học
sinh, và thương yêu các em với một tình cảm chân thành, tạo mói quan hệ gần gũi.
Cần có cách cư xử nhẹ nhàng, chừng mực với từng đối tượng, thể hiện sự quan tâm
đến các em, qua đó tạo cho các em có sự tinh tưởng tuyệt đối với giáo viên và hướng
các em đến một thói quen xem ngơi trường như ngơi nhà thứ hai của mình.
Với những quy tắc đã nêu trên đây chúng ta hy vọng rằng cơng tác giáo dục học
sinh “chưa ngoan” sẽ có những bước chuyển biến mới. Tuy nhiên việc giáo dục nhân
cách cho học sinh không thể thành công trong một sớm một chiều, bởi giáo dục là cả
một quá trình và không thể chỉ thực hiện bởi giáo viên chủ nhiệm, BGH và các tổ
chức đồn thể trong trường. Chính vì vậy chỉ có sự gắn kết của các bậc phụ huynh,
12


các tổ chức xã hội cùng quan tâm ủng hộ nhà trường và tham gia công tác giáo dục
học sinh “chưa ngoan” mới có thể tin tưởng đạt được kết quả tích cực và bền vững.
C. KẾT LUẬN
I. Kết Luận trong nghiên cứu:
Để “Biện pháp giáo dục đạo đức qua việc hình thành kĩ năng giao tiếp cho học
sinh lớp 3” đạt kết quả như mong muốn, mỗi chúng ta cần thực hiện tốt các nguyên
tắc giáo dục sau:
1. Kịp thơi, thường xuyên tọa cho giáo viên, cha mẹ học sinh và các tổ chức
đoàn thể trong nhà trường nắm vững yêu cầu nội dung, biện pháp giáo dục đạo đức
cho học sinh. Tránh tư tưởng xem nhẹ nhiệm vụ giáo dục đạo đức học sinh, tránh tình
trạng thực hiện nhiệm vụ giáo dục qua loa, mang tính hình thức, khơng có hiệu quả.
2. Phải giảng dạy thật tốt mơn Đạo đức. Bởi Đạo đức là môn học quan trọng để
giáo dục kĩ năng giao tiếp, hình thành nhân cách cho học sinh. Thơng qua mơn Đạo
đức để hình thành cho các em kiến thức về chuẩn mực đạo đức đã học.
3. Giáo dục kĩ năng giao tiếp cho học sinh Tiểu học, chủ yếu thông qua hai con

đường: con đường dạy học và con đường tổ chức các hoạt động ngoại khóa. Do đó
chúng ta cần tổ chức các hoạt động trong nhà trường, đặc biệt là các hoạt động phong
trào, các hoạt động thi đua, các hoạt động thực tiễn,…Thơng qua các hoạt động đó để
giáo dục kĩ năng giao tiếp cho học sinh. Hoạt động càng phong phú, đa dạng, thì quá
trình giáo dục học sinh càng có hiệu quả tốt.
4. Phải nắm vững tình hình học sinh, điều kiện giáo dục của nhà trường… để xây
dựng kế hoạch giáo dục và đề ra các biện pháp thực hiện một cách thiết thực nhất.
Cần phối hợp tốt giữa ba môi trường giáo dục: Nhà trường - Gia đình - Xã hội.
5. Giáo dục học sinh cũng cần thường xuyên theo dõi diễn biến, đánh giá tình
hình và kết quả giáo dục. Đối tượng để đánh giá ở đây là cả tập thể (trường, lớp) và
từng cá nhân học sinh, vì thế phải đánh giá cả phong trào lẫn tư tưởng, tình cảm, hành
vi và thói quen của học sinh. Đánh giá kết quả giáo dục phải thông qua quan sát, theo
dõi của cá nhân. Việc tổ chức, theo dõi cần được tiến hành thường xuyên, liên tục
13


nhưng việc đánh giá xếp loại năng lực, phẩm chất của học sinh, thì phải theo định kì
theo qui chế đã qui định.
II. Kiến nghị, đề xuất:
1. Đối với giáo viên:
Xây dựng kế hoạch thực hiện công tác chủ nhiệm và giáo dục đạo đức học sinh
gắn với chủ đề năm học .
Tăng cường giáo dục tích hợp qua các môn học có, xác định trách nhiệm dạy bất
kỳ môn học nào cũng phải tham gia kết hợp giáo dục đạo đức vào những bài giảng,
những tình huống sư phạm có liên quan, khai thác bài tập thực hành, xử lý tình huống
đạo đức. Phải xem nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh là nền tảng để rèn nền
nếp, kỷ cương của trường lớp, góp phần chống lưu ban, bỏ học.
Mỗi giáo viên phát huy tốt vai trò chủ nhiệm, phụ trách chi đội phối hợp hoạt
động giáo dục theo chủ điểm của chương trình hoạt động đội, tăng cường giáo dục
đạo đức hàng ngày, nắm bắt đặc điểm học sinh để giáo dục cụ thể.

Giáo viên phải nắm vững quy định về đạo đức nhà giáo, làm cơ sở để tự rèn
luyện phẩm chất đạo đức nhà giáo, qui tắc ứng xử sư phạm, có lối sống và cách ứng
xử chuẩn mực để thực sự làm tấm gương đạo đức học sinh noi theo (lời nói gắn liền
hành động thực tiễn), mỗi giáo viên luôn trau dồi chuẩn mực đạo đức, gương mẫu
qua từng hành động, luôn dịu dàng hết lòng thương yêu học sinh, bằng lương tâm
chức nghiệp của mình xây dựng chương trình hành động riêng trong công tác giáo
dục đạo đức học sinh. Các chương trình hành động của giáo viên được tổng hợp theo
các Tổ, Khối để gửi về Ban Giám hiệu bổ sung vào kế hoạch của trường.
Khuyến khích học sinh tự giác, tự chủ tham gia tích cực các hoạt động phong
trào đoàn đội, chấp hành nội quy, quy định của nhà trường, luật an toàn giao thông,
phòng chống tai nạn, thương tích cho học sinh, giúp đỡ bạn cùng tiến bộ trong học
tập, hạnh kiểm.
2. Đối với nhà trường, Đội TNTP Hồ Chí Minh:
Tở chức các hoạt đợng giáo dục ngoài giờ lên lớp: Tổng phụ trách xây dựng kế
14


hoạch hoạt động theo chủ điểm từng tháng. Hàng tuần, sinh hoạt dưới cờ có
đánh giá nhắc nhở khắc phục hạn chế tồn tại, phát huy mặt tích cực, biểu dương tập
thể lớp, cá nhân học sinh tiêu biểu.
Tăng cường tủ sách đạo đức và các hoạt động liên quan (giới thiệu sách, kể
chuyện theo sách, kể chuyện đạo đức Bác Hồ,Tiểu phẩm...) Xây dựng và cụ thể hóa
kế hoạch thực hiện chủ đề: “Rạng ngời trang sử Đội, vững bước tiến lên Đồn ” . Phát
đợng thực hiện các phong trào thi đua nề nếp, kỷ luật, vệ sinh, kế hoạch nhỏ, nụ cười
hồng, phong trào học tập làm theo 5 điều Bác Hồ dạy thiếu niên nhi đồng.
Giới thiệu tìm hiểu các di tích văn hóa, di tích lịch sử, tham quan thăm viếng,
học tập.( Đài liệt sĩ, Bảo tàng . . .)
Tổng phụ trách Đội tham mưu kế hoạch, biện pháp hoạt động giáo dục ngoài giờ
lên lớp, hướng dẫn giáo viên chủ nhiệm phụ trách chi đội hỗ trợ, phối hợp tổ chức
hoạt động, giáo dục đạo đức theo chủ điểm.

Tăng cường các hình thức tuyên truyền thông tin, giáo dục theo chủ đề, biểu
dương gương tốt, phát động phong trào chia sẽ giúp bạn, giúp người hoạn nạn.
Trên đây là một số vấn đề về giáo dục kĩ năng giao tiếp cho học sinh mà tôi đã
suy nghĩ. Tôi tin chắc rằng nếu chúng ta quan tâm đúng mức và thực hiện tốt các
biện pháp trên thì sẽ khơng cịn tình trạng học sinh chưa ngoan ở trong nhà trường.
Tuy nhiên không sao tránh khỏi những hạn chế của nó, rất mong sự đóng góp ý kiến
của đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện và áp dụng có hiệu quả tốt hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Phong Thạnh Đông, ngày 25 tháng 01 năm 2016
Người viết

15



×