Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Các quan điểm chiến lược phát triển vùng kinh tế trọng điểm ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.5 KB, 20 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
ĐẠI HỌC HUẾ
-----o0o-----

TIỂU LUẬN
MÔN KINH TẾ VÙNG

CHUYÊN ĐỀ: “Các quan điểm chiến lược phát triển
vùng kinh tế trọng điểm ở Việt Nam hiện nay”

GIẢNG VIÊN : PGS.TS. NGUYỄN VĂN PHÁT
HỌC VIÊN: PHẠM THỊ BÍCH PHƯƠNG
LỚP :

K16D – QUẢN LÝ KINH TẾ

Quảng Trị, tháng 10 năm 2015


LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ những ngày đầu manh nha thành lập cho đến nay, các vùng kinh tế trọng điểm
(VKTTĐ) của Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể. Hiện nay quy mô của các VKTTĐ
đã mở rộng đến gần 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Sắp
tới, trong định hướng phát triển, quy mô của VKTTĐ có thể còn được mở rộng hơn nữa về
diện tích. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các
VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là
động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước dưới góc độ là những điểm cực tập
trung kinh tế, lại có một thế đứng vững chắc trong tương lai và dòng lan tỏa ngày càng mạnh
cho các vùng khác nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Để giải đáp những câu hỏi này, điểm mấu chốt là cần phải tìm ra được những quan
điểm mang tính chiến lược làm cơ sở cho quá trình định hướng và hoạch định chính sách


nhằm thay đổi diện mạo, vị thế và tạo dựng những bước đột phá cho phát triển các VKTTĐ
của Việt Nam trong thế kỷ 21.


CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CÁC VÙNG KINH TẾ
TRỌNG ĐIỂM
Một trong những nhân tố đột phá then chốt để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước là có những chính sách hợp lý nhằm đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, bao gồm cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần kinh tế và cơ cấu vùng kinh tế. Yêu cầu đổi
mới cơ cấu kinh tế của đất nước là một yêu cầu khách quan cấp thiết trong tiến trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.
Từ nghiên cứu các đặc điểm về vị trí địa lý; điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên
nhiên; đặc điểm và thực trạng kinh tế - xã hội của mỗi tỉnh/thành phố trong cả nước; các yếu
tố tác động từ bên ngoài đến nền kinh tế của đất nước như: bối cảnh kinh tế, chính trị, văn
hoá - xã hội của các nước trong khu vực và trên thế giới cũng như xu hướng toàn cầu hoá
nhằm rút ra kết luận về những lợi thế, thời cơ phát triển cũng như những hạn chế, thách thức
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi tỉnh/thành phố trong cả nước nhằm giúp cho
việc hoạch định những chính sách phát triển mang tính đột phá trong quá trình chuyển đổi
nền kinh tế quốc dân.
Để thúc đẩy sự phát triển chung của cả nước cũng như tạo mối liên kết và phối hợp
trong phát triển kinh tế - xã hội giữa các vùng kinh tế, Chính phủ Việt Nam đã và đang cố
gắng lựa chọn một số tỉnh/ thành phố để hình thành nên vùng kinh tế trọng điểm quốc gia có
khả năng đột phá, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của cả nước với tốc độ
cao và bền vững, tạo điều kiện nâng cao mức sống của toàn dân và nhanh chóng đạt được sự
công bằng xã hội trong cả nước. Việc hình thành các vùng kinh tế trọng điểm là nhằm đáp
ứng những nhu cầu của thực tiễn nói chung và đỏi hỏi của nền kinh tế nước ta nói riêng.
Theo hướng đó, cuối năm 1997 và đầu năm 1998, Thủ tướng Chính phủ đã lần lượt
phê duyệt các quyết định số 747/1997/QĐ-TTg, 1018/1997/QĐ-TTg và Quyết định số
44/1998/QĐ-TTg về Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội ba vùng kinh tế trọng
điểm quốc gia đến năm 2010, bao gồm vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, Trung bộ và vùng

kinh tế trọng điểm phía Nam. Trong 3 vùng kinh tế trọng điểm này, có 13 tỉnh/thành phố
được xếp vào quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội các vùng kinh tế trọng điểm.


Bảng 1. Số tỉnh được xếp vào vùng kinh tế trọng điểm theo các Quyết định của
Thủ tướng Chính phủ năm 1997 và năm 1998

1
2
3
4
5
1
2
3
4
1
2
3
4

I-Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ
Hà Nội
Hưng Yên
Hải Phòng
Quảng Ninh
Hải Dương
II- Vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ
Thừa Thiên - Huế
Đà Nẵng

Quảng Nam
Quảng Ngãi
III- Vùng kinh tế trọng điểm Nam bộ
TP. Hồ Chí Minh
Bình Dương
Bà Rịa -Vũng Tàu
Đồng Nai
Tổng số: 13

Trong Hội nghị các tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Nam bộ ngày 20-21/6/2003,
Thủ tướng Chính phủ đã quyết định mở rộng ranh giới của vùng. Văn phòng Chính phủ sau
đó đã ra Thông báo số 99/TB-VPCP ngày 02/7/2003 về kết luận của Thủ tướng Chính phủ
bổ sung vào vùng kinh tế trọng điểm Nam bộ thêm 3 tỉnh: Tây Ninh, Bình Phước, Long An.
Tổng diện tích vùng kinh tế trọng điểm sau khi bổ sung là 23.994,2 km2, bằng 7,3% diện tích
cả nước. Dân số (tính đến năm 2002) là 12,3 triệu người, bằng 15,4% so với cả nước.
Trong Hội nghị các tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ ngày 14-15/7/2003,
Thủ tướng Chính phủ đã quyết định mở rộng ranh giới của vùng; sau đó Văn phòng Chính
phủ đã ra thông báo số 108/TB-VPCP ngày 30/7/2003 về kết luận của Thủ tướng Chính phủ
tại Hội nghị, trong đó có quyết định "Đồng ý bổ sung 3 tỉnh: Hà Tây, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc
vào vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ". Tổng diện tích vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ sau khi
bổ sung là 15.277 km2, bằng 4,64% diện tích và dân số (tính đến năm 2002) là 13,035 triệu
người, bằng 16,35% so với cả nước.
Vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ, theo quyết định phê duyệt của Thủ tướng Chính
phủ số 1018/1997/QĐ-TTg ngày 29/11/1997, gồm thành phố Đà Nẵng và các tỉnh Thừa
Thiên - Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi. Nay quy mô của vùng được mở rộng thêm tỉnh Bình


Định. Như vậy, vùng có diện tích tự nhiên 27.879 km 2, dân số năm 2002 có khoảng 6 triệu
người, chiếm 8,47% về diện tích tự nhiên và khoảng 7,49% dân số so với cả nước.
Sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong những năm vừa qua có được sự tăng

trưởng cao và ổn định là do đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Song sự tăng trưởng
đó một phần là do sự tác động qua lại không chỉ giữa các vùng kinh tế trọng điểm mà còn do
những tác nhân quan trọng khác như: hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông bao gồm: đường bộ,
đường thuỷ, sân bay, các bến, cảng v.v trong các vùng kinh tế trọng điểm và các tỉnh/ thành
phố trong cả nước nhằm mục tiêu tác động cùng phát triển…
Trong quá trình hình thành và phát triển, các vùng kinh tế trọng điểm đang phát huy
lợi thế, tạo nên thế mạnh của mình theo cơ cấu kinh tế mở, gắn với nhu cầu thị trường trong
và ngoài nước, và không chỉ tạo ra động lực thúc đẩy sự chuyển dịch nhanh cơ cấu nền kinh
tế quốc dân theo chiều hướng tích cực mà còn góp phần ổn định nền kinh tế vĩ mô, đặc biệt
là hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh lân cận trong vùng. Nhà nước
tiếp tục thúc đẩy các vùng kinh tế trọng điểm phát huy vai trò đầu tàu tăng trưởng nhanh,
đồng thời tạo điều kiện và đầu tư thích đáng hơn cho vùng nhiều khó khăn. Thống nhất quy
hoạch phát triển trong cả nước, giữa các vùng, tỉnh, thành phố, tạo sự liên kết trực tiếp về
sản xuất, thương mại, đầu tư, giúp đỡ kỹ thuật về nguồn nhân lực, nâng cao trình độ dân trí
và đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của vùng và khu vực,
gắn chặt phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ, cải thiện môi trường và quốc phòng an ninh.
Nhận thức được vị trí, vai trò và tầm quan trọng của các vùng kinh tế trọng điểm
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; để đảm bảo cho sự vận hành về phát
triển kinh tế của từng vùng cũng như giữa các vùng một cách hiệu quả, ngày 18 tháng 02
năm 2004, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 20/2004/QĐ-TTg về việc thành
lập Tổ chức điều phối phát triển các vùng kinh tế trọng điểm ở cấp Trung ương. Cơ cấu, bộ
máy của Tổ chức điều phối phát triển các vùng kinh tế trọng điểm bao gồm: Ban Chỉ đạo
điều phối phát triển các vùng kinh tế trọng điểm (gọi tắt là Ban Chỉ đạo) và các Tổ điều phối
của các Bộ, ngành và địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm.
Ngày 13 tháng 8 năm 2004, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các Quyết định số
145, 146, 148/2004/QĐ-TTg về phương hướng chủ yếu phát triển kinh tế -xã hội vùng kinh
tế trọng điểm đến năm 2010 và tầm nhìn năm 2020. Trong các quyết định này, quy mô của
các vùng kinh tế trọng điểm đã được mở rộng thêm 7 tỉnh gồm Hà Tây, Vĩnh Phúc, Bắc
Ninh (Bắc bộ); Bình Định (Trung bộ) và Tây Ninh, Bình Phước, Long An (Nam bộ). Đồng



thời, các quyết định này cũng thay thế cho các quyết định số 747/1997/QĐ-TTg,
1018/1997/QĐ-TTg và Quyết định số 44/1998/QĐ-TTg đã ban hành năm 1997 và năm
1998.
Bảng 2: Số tỉnh được xếp vào các vùng kinh tế trọng điểm theo các Quyết định
145, 146, 148/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ:

1
2
3
4
5
6
7
8
1
2
3
4
5
1
2
3
4
5
6
7

I-Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ
Hà Nội

Hưng Yên
Hải Phòng
Quảng Ninh
Hải Dương
Hà Tây
Bắc Ninh
Vĩnh Phúc
II- Vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ
Thừa Thiên - Huế
Đà Nẵng
Quảng Nam
Quảng Ngãi
Bình Định
III- Vùng kinh tế trọng điểm Nam bộ
TP. Hồ Chí Minh
Bình Dương
Bà Rịa - Vũng Tàu
Đồng Nai
Tây Ninh
Bình Phước
Long An
Tổng số: 20

Nhằm tạo ra sự thống nhất, đồng bộ để đạt được hiệu quả cao trong phát triển kinh tế,
xã hội, bảo vệ môi trường và bảo đảm quốc phòng, an ninh của các vùng kinh tế trọng điểm,
thực hiện thành công định hướng phát triển của các vùng kinh tế trọng điểm được xác định
trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; chủ trương, chính sách, đường lối phát triển kinh
tế - xã hội của Đảng và Nhà nước về phát triển ba vùng kinh tế trọng điểm ở nước ta, ngày
10 tháng 10 năm 2007, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 159/2007/QĐ-TTg,
ban hành Quy chế phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương đối với các vùng kinh tế trọng

điểm. Theo Quyết định này, quy mô của Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam được mở rộng,


bao gồm các tỉnh, thành phố: Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình
Dương, Tây Ninh, Bình Phước, Long An, Tiền Giang.
Tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XII, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số
15/2008/QH12 về việc điều chỉnh địa giới hành chính thành phố Hà Nội và một số tỉnh có
liên quan. Theo đó, từ ngày 1 tháng 8 năm 2008, hợp nhất toàn bộ diện tích tự nhiên và dân
số của tỉnh Hà Tây vào thành phố Hà Nội. Như vậy, Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ bao
gồm 7 tỉnh: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh.
Ngày 16 tháng 4 năm 2009, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án thành lập vùng
kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long gồm 4 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương là: Thành phố Cần Thơ, tỉnh An Giang, tỉnh Kiên Giang và tỉnh Cà Mau. Theo đó, xây
dựng Vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long trở thành vùng phát triển
năng động, có cơ cấu kinh tế hiện đại, có đóng góp ngày càng lớn vào nền kinh tế của đất
nước, góp phần quan trọng vào việc xây dựng cả vùng đồng bằng sông Cửu Long giàu
mạnh, các mặt văn hoá, xã hội tiến kịp mặt bằng chung của cả nước; bảo đảm ổn định chính
trị và an ninh quốc phòng vững chắc.
Bảng 3: Số tỉnh được xếp vào các vùng kinh tế trọng điểm cho đến nay:
I - Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ
1

Hà Nội

2

Hưng Yên

3


Hải Phòng

4

Quảng Ninh

5

Hải Dương

6

Bắc Ninh

7

Vĩnh Phúc
II- Vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ

1

Thừa Thiên - Huế

2

Đà Nẵng

3

Quảng Nam


4

Quảng Ngãi


5

Bình Định
III- Vùng kinh tế trọng điểm Nam bộ

1

TP. Hồ Chí Minh

2

Bình Dương

3

Bà Rịa - Vũng Tàu

4

Đồng Nai

5

Tây Ninh


6

Bình Phước

7

Long An

8

Tiền Giang
IV- Vùng kinh tế trọng điểm
vùng đồng bằng sông Cửu Long

1

TP. Cần Thơ

2

An Giang

3

Kiên Giang

4

Cà Mau

Tổng số: 24


CHƯƠNG II. NHỮNG CƠ SỞ NGHIÊN CỨU VÀ ĐỀ XUẤT QUAN ĐIỂM
1. Những bất cập về thực trạng phát triển các VKTTĐ tại điểm xuất phát của
giai đoạn phát triển lan tỏa.
Có thể phân chia sự phát triển các VKTTĐ ở nước ta thành ba giai đoạn: giai đoạn
hình thành (thời kỳ 1992-1999); giai đoạn phát triển mở rộng (2000 – 2005) và từ năm 2006
đến nay là giai đoạn phát triển lan tỏa. Giai đoạn phát triển lan tỏa của các VKTTĐ, gắn với
sự kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) (vào tháng 11/2006), sức
thu hút đối với bên ngoài của nền kinh tế Việt Nam đã bắt đầu nổi mạnh, và đặc biệt, hướng
vào các VKTTĐ, khu vực lãnh thổ có môi trường đầu tư thuận lợi hơn so các vùng khác. Về
tính chất, sự phát triển của các VKTTĐ giai đoạn này từ đây có tính chất lan tỏa rõ hơn,
trong đó các vùng động lực tạo đà (cơ hội) phát triển cho những khu vực phát triển mới.
Khác với giai đoạn phát triển mở rộng (tính lan tỏa gắn với yêu cầu cải cách và chuyển dịch
cơ cấu nền kinh tế một cách tương đối chủ quan), giai đoạn phát triển lan tỏa gắn với yêu
cầu hội nhập và sự phát triển theo lãnh thổ một cách khách quan hơn. So với yêu cầu mới,
thực trạng phát triển các VKTTĐ khi bước sang giai đoạn lan tỏa còn nhiều bất cập, có thể
tóm tắt như sau:
(1) Quy mô diện tích quá lớn và mức độ tập trung dân số còn thấp:

Qua biểu 1, phần diện tích tập trung ở VKTTĐVN chiếm 22,3% so với diện tích đất
nước, trong đó VKTTĐBB chiếm 4,6%, VKTTĐMT là 8,4 còn lại VKTTĐPN chiếm 9,3%.
Trong khi đó, quy mô diện tích của các vùng động lực của nhiều nước, ví dụ như: Cairo (Ai
cập) chiếm 0,5% diện tích đất nước; Ba bang Miền Trung – Nam của Braxin chiếm 15% ;
hay các nước như Gana, Ba Lan, Neu Dilân, với diện tích đất nước đều khoảng 250 000km2
nhưng khu vực kinh tế tập trung cao hay gọi là vùng động lực tăng trưởng, chỉ chiếm diện
tích khoảng 5% diện tích đất nước v.v…Các con số so sánh này cho thấy, quy mô diện tích
chiếm của ba VKTTĐ ở VN là khá cao so với các nước khác trên thế giới, sức chứa về dân



số



khả

năng

kinh

tế

của

các

vùng

này

rất

cao.

Trong khi đó, nếu mật độ dân số trung bình của cả nước là 256người/km2 thì mật
độ dân số trung bình của VKTTĐ là 478 người/km2 (gần gấp hai lần so với mật độ dân số
chung), mật độ dân số của Thành phố Hồ Chí Minh cao nhất cả nước - hiện nay là 2409
người/km2. Còn ở Thái Lan, mật độ dân số trung bình chỉ là 123 người/km2 nhưng mật độ
của vùng động lực tăng trưởng lên gấp 5 lần, tức là khoảng 600 người/km2; hay ở Indonexia,

các con số tương tự là 289 và 12 500. Những số liệu so sánh trên đây cho thấy, diện tích của
VKTTĐ Việt nam còn quá cao so với mật độ tập trung dân cư, hay nói cách khác, sức chứa
dân cư vào VKTTĐVN còn khá lớn.
(2) Mức độ tập trung kinh tế còn yếu và hiệu quả phát triển không cao:

Biểu 2 cho thấy, mặc dù mức độ tập trung kinh tế ở các VKTTĐVN đạt tới 72,3%
GDP, xấp xỉ 90% thu ngân sách cả nước, nhưng với quy mô về diện tích và dân số lớn (như
trên đã nói) thì việc chỉ đạt được các con số về tăng trưởng, tổng thu nhập của nền kinh tế
như trên là còn quá khiêm tốn so với chức năng là vùng động lực tăng trưởng của cả nước.
Tại các nước đang phát triển các vùng động lực tăng trưởng đóng góp vào việc làm gia tăng
thu nhập của toàn nền kinh tế quốc gia rất lớn, vùng Mexico City góp tới 30% GDP của cả
nước Mexico mặc dù chỉ chiếm 0,1% diện tích cả nước; Thành phố Luanda cũng đóng góp
trên 30% GDP cả nước mặc dù chỉ chiếm 0,2% tổng diện tích. Với chỉ khoảng 5% diện tích
đất nước, nhưng các vùng kinh tế động lực của các nước Gana, Ba Lan và Niu Dilan đã sản
xuất từ 27% đến 39% GDP của cả quốc gia. Ở Brazil, các bang ở miền Trung – Nam như
Minas Gerais, Rio de Janeiro và Sao Paulo chiếm tới 52% GDP nhưng chỉ chiếm khoảng
10% diện tích đất nước.


Một chỉ tiêu mới hiện nay chúng ta thường dùng để xác định mật độ kinh tế cao hay
thấp là mức GDP/km2. Các vùng động lực kinh tế ở ở các nước trên thế giới có mức độ tập
trung rất cao: Nhật Bản, Mỹ, Anh v.v… đạt tới 30 triệu USD/1km2, một số thành phố lớn có
thể lên tới 200 triệu USD. Trong khi đó, các VKTTĐ ở Việt Nam chỉ đạt khoảng 6 triệu
USD, KKTTĐ miền Trung, đạt khoảng 1,3 triêuUSD/km2, VKTTĐBB đạt 9,6 triệu
USD/km2, VKTTĐPN đạt 10,6 triêuUSD/km2. Thu nhập bình quân đầu người ở các
VKTTĐ mặc dù có tăng lên nhưng mới chỉ hơn mức chung của cả nước khoảng 1,75 lần. Cơ
cấu ngành kinh tế chưa thực sự thể hiện sự phát triển cao hơn của VKTTĐ so với cả nước,
thậm chí tỷ trọng dịch vụ còn có phần thấp hơn (38%) so với cả nước (38,1%).

2. Những bài học quốc tế về phát triển kinh tế theo lãnh thổ và xu thế phổ biến

hiện nay trên thế giới.
Lịch sử phát triển kinh tế của nhiều nước thành công trên thế giới cho thấy: Chính
phủ không thể đồng thời vừa thúc đẩy sản xuất kinh tế vừa trải rộng chúng trên khắp đất
nước một cách suôn sẻ. Hàng nhiều chục năm trào lưu “tăng trưởng cân đối theo không
gian” trở thành phổ biến ở nhiều nước đang phát triển, là mục tiêu của nhiều Chính phủ
mang mầu sắc chính trị khác nhau như: cộng hòa Arập, Aicập, Braxin, Nigieria, Nga, Nam
Phi, v.v… Thậm chí, chính phủ nhiều nước phát triển đã từng có sự cam kết mạnh mẽ về sự
phát triển cân đối theo không gian, kể cả Anh, Canada. Tuy vậy, kết quả mang lại là không
có ý nghĩa. Trong quá trình phát triển, cũng có nhiều quốc gia đã đưa ra cơ chế khuyến khích
để tạo sự tập trung kinh tế cho những vùng tụt hậu. Ý tưởng ở đây là để thu hút các doanh
nghiệp, các vùng tụt hậu cần phải đến bù những điểm bất lợi như chi phí vận chuyển hay
logistics cao hơn, cơ sở hạ tầng yếu kém hơn và mức độ cung cấp dịch vụ công kém hơn (rõ
rệt nhất là các quốc gia châu Âu), đã sử dụng các chính sách công nghiệp để thu hút các
công ty đến những vùng tụt hậu. Tuy nhiên, các cơ chế khuyến khích tài chính, mặc dù có
hiệu quả về mặt chính trị, đã không chuyển đổi được số phận kinh tế của các vùng tụt hậu.
Ở Liên Xô cũ, theo quan điểm phát triển đồng đều rộng khắp quốc gia, Chính phủ
đã ra sức giảm tỷ trọng kinh tế của các vùng công nghiệp cũ như Sanh Peterbua, vùng Trung
tâm và Trung Uran từ 65% xuống còn 32%, cưỡng chế chuyển dịch sản xuất sang các vùng
phía Đông từ 4% năm 1925 lên đến 28% vào cuối chế độ XHCN, mà sự tan rã của chế độ đó
đã được đẩy nhanh hơn bởi sự phi hiệu quả theo vùng do những nỗ lực này gây ra. Ngay cả
một số nước Đông Nam Á, như Indonexia cũng đã có một thời kỳ dài mà cao điểm là giai
đoạn 1974-1984 thực hiện chính sách chuyển dân cư ra khỏi các vùng đông đúc để đến


những vùng thưa dân với mục tiêu thúc đẩy sự phát triển đồng đều, và giảm đói nghèo. Tuy
vậy, các chương trình này cũng không thể điều chỉnh nổi dân cư ở những vùng đông dân và
các chi phí cho thực hiện chương trình khá tốn kém, và quan trọng hơn là kết cục không
giảm đi được sự nghèo đói cho dân cư các vùng này.
Những thất bại trong thực hiện chính sách phát triển dàn đều kinh tế đã dẫn đến một
xu hướng tập trung hóa về kinh tế trên thế giới nói chung và các nhóm nước ngày càng rõ

nét và cao hơn. Cùng với sự phát triển, mức độ tập trung kinh tế ngày càng tăng lên. Ở
khoảng ¼ các nước trên thế giới như Brazil, Na Uy, Nga, Thái Lan - hơn ½ thu nhập quốc
dân được tạo ra ở khu vực chiếm chưa đầy 5% diện tích đất đai của cả nước. ½ tổng các
nước trên thế giới chẳng hạn như Argentina, Arâp Xê-út, v.v… ít nhất 1/3 thu nhập quốc dân
được tạo ra ở những vùng chiếm chưa đầy 5% diện tích đất nước.
Trong quá trình thực hiện tập trung hóa kinh tế, mặc dù giai đoạn đầu có thể dẫn đến
hiện tượng phân hóa mức sống theo khu vực giữa vùng phát triển và vùng tụt hậu, nhưng
hiện nay, bằng chứng thực nghiệm của nhiều nước phát triển cũng như các nước đang phát
triển tăng trưởng nhanh cho thấy: việc tăng cường tập trung hóa sản xuất vẫn có thể đi cùng
với thu hẹp dần khoảng cách mức sống giữa các vùng địa lý. Cùng với sự phát triển, những
khác biệt về phúc lợi giữa nông thôn – thành thị và trong chính thành thị được thu hẹp. Sự
tập trung hoạt động kinh tế và sự đồng nhất mức sống có thể diễn ra song hành với nhau.
Tập trung hóa kinh tế lại trở thành điều kiện để tạo sự phát triển toàn diện trên phạm vi lãnh
thổ, như quan điểm của Ông Đặng Tiểu Bình(TQ): "Muốn để toàn bộ đất nước trở nên phồn
thịnh thì nhất quyết một số vùng phải giàu lên trước những vùng khác".


CHƯƠNG III. QUAN ĐIỂM CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN VKTTĐ Ở VIỆT NAM
Những phân tích trên đây gợi mở một số quan điểm chiến lược trong phát triển các
VKTTĐ ở Việt nam thời gian đến năm 2020. Những quan điểm này bảo đảm quá trình phát
triển bền vững các VKTTĐ ở Việt Nam, một mặt phù hợp với đặc điểm và thực trạng các
vùng động lực tăng trưởng ở nước ta hiện nay, nhưng mặt khác dứt khoát phải phù hợp với
xu thế chung, trên cơ sở sự thành công trong việc tổ chức các vùng động lực kinh tế của các
nước trên thế giới.

1. Chiến lược phát triển các VKTTĐ phải được coi là mắt xích quan trọng nhất
nhằm tạo dựng động lực tăng trưởng nhanh trong điều kiện kinh tế thị trường, hội
nhập trong nước và quốc tế ngày càng phát triển.
Hai thập kỷ qua, chúng ta có bước tiến khá dài. Kinh tế liên tục tăng trưởng trong 27
năm. Riêng 22 năm đổi mới, tốc độ tăng bình quân 6,8%, thời kỳ 1991 đến nay đạt bình

quân 7,5%. Tốc độ tăng trưởng nói trên thuộc nhóm đầu châu lục, chỉ sau Trung Quốc. Tuy
tăng trưởng cao, tăng liên tục suốt thời gian dài nhưng do xuất phát điểm quá thấp nên thu
nhập bình quân đầu người vẫn chỉ tiến từng bước chậm (hiện đứng thứ 7 khu vực, thứ 35
châu Á và 137 trên thế giới). Vì vậy, dù tăng trưởng cao và mục tiêu thoát nhóm những nước
nghèo nhất thế giới sắp vượt qua nhưng nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế vẫn là nguy cơ
lớn, không gì khác, buộc chúng ta phải đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Những phân tích về kinh nghiệm quốc tế cho thấy: tăng trưởng kinh tế nhanh hiếm
khi cân đối. Các nỗ lực trải rộng sự tăng trưởng một cách vội vàng sẽ khó duy trì được lâu.
Nhu cầu phải có các vùng động lực tăng trưởng nhanh ở các VKTTĐ hiện nay được hỗ trợ
tích cực bởi khả năng hình thành nó trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập. Khi các
đường biên giới kinh tế ngày càng “mỏng đi”, kèm theo các khía cạnh về đổi mới thể chế
(như di cư tự do, xóa bỏ hành chính về quản lý nhân hộ khẩu theo kiểu hành chính trước
kia), phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng và các chính sách khuyến khích (trong đó có quan
điểm khuyến khích ưu tiên đầu tư cho các “đại gia”), sẽ tạo những dòng chảy lớn về vốn,
nguồn nhân lực cũng như các yếu tố khác hướng về các vùng động lực tăng trưởng, làm cho
mật độ kinh tế các vùng này ngày càng đậm đặc hơn. Kết quả của sự tập trung kinh tế ở các
VKTTĐ, các vùng động lực tăng trưởng sẽ là yếu tố quyết định để chúng ta có thể vượt qua
cửa ải quan trọng là: thoát khỏi danh sách các nước đang phát triển có mức thu nhập thấp
một cách vững chắc.


2. Các VKTTĐ của Việt Nam phải thực sự trở thành khu vực phát triển động
lực theo hướng nâng cao đáng kể tính tập trung và mức độ đậm đặc về kinh tế trên
mỗi vùng ( tính theo tiêu chí GDP/km2)
Hiện nay cấu trúc các VKTTĐ ở nước ta còn mang nặng tính chất hành chính. Mỗi
vùng bao gồm một số tỉnh trọn vẹn nằm gần nhau. Điều này có một số điều bất cập:
Do bị ảnh hưởng bởi địa giới hành chính, theo quan điểm hiệu quả và bền vững thì
phạm vi các VKTTĐ của nước ta hiện quá rộng lớn so với các khu vực động lực tăng trưởng
của nhiều nước trên thế giới;
Thực chất nhiều địa phương trong một số tỉnh thuộc VKTTĐ có trình độ phát triển

kinh tế rất thấp, lại không có các điều kiện hay dấu hiệu nổi trội để làm động lực tăng
trưởng, làm cho sức hấp dẫn của các VKTTĐ đối với các nhà đầu tư bị hạn chế, khiến cho
khả năng nổi trội và bật dậy của VKTTĐ kém đi rất nhiều;
Việc gắn địa giới hành chính vào VKTTĐ gây ra những rào cản lớn về hành chính
cho việc tiếp cận thị trường của các khu vực, ảnh hưởng đến việc phát huy tối đa khả năng
của vùng động lực trên cơ sở hội nhập trong nước và quốc tế ngày càng rộng.
Vì vậy, để các VKTTĐ của Việt Nam thực sự trở thành động lực tăng trưởng và là
trung tâm hấp dẫn thu hút các nhà đầu tư, thì cần thiết phải có quan điểm đúng hơn về mặt
địa giới các VKTTĐ ở Việt Nam. Cần lấy tiêu chí về mức độ tập trung, mật độ đậm đặc về
kinh tế thay cho tiêu chí và xu hướng mở rộng quy mô diện tích của vùng khi đánh giá sự
phát triển của các VKTTĐ. Tiêu chí để đo mật độ kinh tế được tính bằng giá trị gia tăng
(GDP) được tạo nên trên một kilomét vuông đất (GDP/km2). Mật độ kinh tế cao đương
nhiên đòi hỏi tập trung hóa cao về lao động, vốn, gắn liền với mật độ việc làm, mật độ dân
cư cũng như mật độ các khu đô thị trên vùng. Theo quan điểm này, một số điểm cần được
xem là những phát hiện mới cần nhấn mạnh trong tư duy và hành động hoạch định chính
sách, quy hoạch phát triển VKTTĐ ở VN trong thời gian tới:
Chỉ nên bao hàm trong VKTTĐ những địa điểm thực sự có các dấu hiệu làm động
lực tăng trưởng, coi đây là nguyên tắc hiệu quả trong quá trình quy hoạch phát triển các
VKTTĐ ở VN đến 2020. Không nên gắn với địa giới hành chính trong vùng trọng điểm và
không nên coi việc mở rộng địa giới hành chính hay quy mô địa lý là mục tiêu hay kết quả
của quá trình phát triển các VKTTĐ.
Chấp nhận xu hướng quá tải về dân cư, kinh tế, xã hội và hạ tầng kỹ thuật trên các
VKTTĐ, nhất là các khu vực đô thị tập trung của các vùng. Vùng kinh tế trọng điểm phải


chủ động đón nhận sự “quá tải” để thực hiện quy hoạch, tổ chức lại và đầu tư hiện đại hóa,
bảo đảm xử lý tối ưu những phát sinh do sự quá tải gây ra.
Không nên xem sự di cư nội bộ là một mối đe dọa cho sự không ổn định kinh tế, xã
hội và sự quá tải cho các khu vực tăng trưởng cao. Điều quan trọng trong hoạch định chính
sách là không nên tạo ra các rào cản sự di cư, cần có hệ thống thông tin kinh tế, thị trường để

ngăn cản dòng di cư không hợp lý theo các khía cạnh kinh tế.

3. Các VKTTĐ nói chung, các khu vực tập trung kinh tế, khu đô thị trong vùng
phải được tổ chức theo nguyên tắc hiệu quả, hiện đại và vững chắc, bảo đảm tính chất
“ba cao, ba lớn”.
Quan điểm này dựa trên lập luận chủ yếu là VKTTĐ phải thực sự là “bộ mặt” của cả
nước không chỉ về kinh tế mà cả trong tổ chức không gian đô thị. Để bảo đảm các VKTTĐ
của Việt Nam thực sự trở thành vùng động lực tăng tưởng và có khả năng thích ứng với tính
chất tập trung kinh tế xã hội cao, cần phải hình thành mạng lưới hạt nhân trong các vùng, đó
là các đô thị, các khu vực kinh tế tập trung mang tính hiện đại, được xây dựng theo quan
điểm“ ba cao – ba lớn”. “ba cao”, đó là: nhân lực chất lượng cao, công nghệ cao, không
gian cao. “Ba lớn” bao gồm: tổ chức lớn, sản xuất lớn và phải có những người bạn lớn. Cụ
thể:
Hình thành và mở rộng các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất nhằm tận
dụng lợi thế kinh tế nhờ quy mô, làm cho nó thực sự trở thành những “bệ phóng” tăng
trưởng kinh tế cho vùng và cả nước.
Hệ thống đô thị của VKTTĐ phải phát triển mạnh theo hướng đa dạng hóa và hiện
đại để tận dụng tính kinh tế nhờ đô thị hóa.
Tổ chức hoạt động kinh tế trong các khu đô thị phù hợp với điều kiện hình thành và
phát triển của từng loại đô thị. Đối với các đô thị lớn: mô hình tổ chức thường mang tính có
xu hướng đa dạng hóa cao và định hướng dịch vụ nhiều hơn; đây cũng là nơi sáng tạo, phát
kiến, ươm trồng và nuôi dưỡng các doanh nghiệp mới và loại dần các ngành đã trưởng
thành. Các thành phố, đô thị có quy mô trung bình và nhỏ thường được tổ chức theo hướng
chuyên môn hóa sâu và sản xuất đại trà, quy mô lớn đối với các ngành, sản phẩm đã trưởng
thành và phát triển trên cơ sở sử dụng tính kinh tế nhờ chuyên môn hóa sâu theo quy trình
cung cấp và tiêu thụ sản phẩm lẫn cho nhau.
Xây dựng đô thị với quan điểm hiện đại, bền vững về cấu trúc và cơ sở hạ tầng. Đối
với các khu vực bắt đầu đô thị hóa, mục tiêu phải là hỗ trợ sự chuyển đổi tự nhiên giữa nông



thôn và thành thị. Các khu đô thị hóa ở giai đoạn giữa, sự tăng trưởng mạnh mẽ ở đô thị gây
ra sự tắc nghẽn ngày càng tăng, cần có chính sách tập trung giảm sự tắc nghẽn và khoảng
cách kinh tế, sử dụng tính kinh tế nhờ mạng lưới, bao gồm đầu tư cao cơ sở hạ tầng để tăng
cường tính liên kết bên trong khu đô thị và khuyến khích các quyết định lựa chọn địa bàn
hoạt động có hiệu quả về mặt xã hội của các đơn vị kinh tế. Đối với các khu vực đô thị hóa
phát triển ở trình độ cao, điều quan trong là các chính sách cần tập trung vào phát triển hệ
thống khu dân cư sinh sống hiện đại, bảo đảm tiêu chí đô thị phát triển theo chiều cao và
chiều sâu, bảo đảm vấn đề môi trường và chất lượng cuộc sống.

4. Các VKTTĐ phải có một thế đứng vững chắc dựa trên cơ sở tạo dựng các mối
liên kết vững chắc với các vùng khác trong khu vực và các nước.
Quan điểm này một mặt tạo điều kiện để phát huy thế mạnh của chính các VKTTĐ
trong việc phấn đấu trở thành điểm động lực tăng trưởng từ việc dễ dàng nhận được sự hỗ
trợ của các vùng lân cận; mặt khác chính là cơ sở để thực hiện vai trò lan tỏa của VKTTĐ
đối với các vùng khác trong cả nước. Việc tạo dựng hệ thống kết nối vững chắc là quan điểm
mang tính chiến lược để giảm thiểu khoảng cách giữa VKTTĐ với các vùng khác trong các
nước và phạm vi quốc tế, nó có tác dụng làm mỏng đi biên giới địa lý tạo ra sự chia cắt kinh
tế và xã hội giữa các địa phương trên các VKTTĐ với nhau cũng như giữa VKTTĐ với các
vùng khác.Trên một mức độ nhất định, nó làm giảm mật độ tập trung trong tương lai dài của
VKTTĐ so với các vùng khác.
Thực hiện quan điểm này: Thứ nhất, cần tổ chức một mạng lưới cơ sở hạ tầng giao
thông kết nối các VKTTĐ với các khu vực lân cận cũng như hệ thống đường vành đai nối
vùng trọng điểm với mọi địa bàn trên cả nước cũng như phạm vi quốc tế, tạo ra tính kinh tế
nhờ mạng lưới. Thứ hai, Phát triển mạnh hệ thống công nghệ thông tin kết nối VKTTĐ với
các vùng khác, nhất là với các vùng tụt hậu, chậm phát triển. Hệ thống thông tin kết nối giữa
vùng phát triển với vùng tụt hậu đem lại nhiều lợi ích cho các nhà sản xuất trong các vùng
tụt hậu. Họ sẽ có điều kiện thuận lợi hơn để nhận thông tin về giá cả hàng hóa có thể trao đổi
với vùng trọng điểm.

5. Phát triển bền vững VKTTĐ phải luôn luôn được quán triệt bằng phương

châm: “Tăng trưởng mất cân đối, phát triển mang tính hòa nhập” ở cấp địa phương,
quốc gia và quốc tế.


Theo quan điểm này, có hai vấn đề đặt ra: một mặt, sự gia tăng mật độ tập trung kinh
tế ngày càng cao trên các VKTTĐ đòi hỏi phải được tiến hành đồng thời với giảm đi khoảng
cách và sự chia cắt với các vùng chậm phát triển về lĩnh vực xã hội; mặt khác, tăng cường
tập trung hóa sản xuất cao vẫn cho phép có thể đi cùng với thu hẹp dần khoảng cách mức
sống giữa các vùng trong nước. Giải quyết hợp lý mối quan này, cần phải có hai điều kiện:
một là, sử dụng triệt để hiệu ứng tác lực của kinh tế thị trường thông qua quá trình thực hiện
tích tụ, tập trung, di cư và chuyên môn hóa; hai là, phải có sự trợ giúp đắc lực của các chính
sách chính phủ đối với cả hai vấn đề tập trung hóa sản xuất, kinh tế, vừa tạo ra sự hội tụ về
kinh tế. Để thực hiện quan điểm này:
Cần quan tâm mạnh hơn đến việc xây dựng mạng lưới cơ sở hạ tầng giao thông
“cứng” và “mềm” để kết nối các VKTTĐ với các vùng phụ cận, các vùng trung gian và các
vùng chậm phát triển, phát huy ưu thế của từng vùng để thực hiện phân công lao động xã hội
hợp lý trên cơ sở quy luật thị trường để tiến hành chuyên môn hóa, tích tụ, tập trung tùy theo
khả năng của các vùng.
Không sốt ruột đòi hỏi sự hội tụ xã hội phải được thực hiện ngay một lúc đồng thời
với tập trung kinh tế. Phải chấp nhận sự phân hóa ban đầu để có sự hội tụ xã hội một cách
vững chắc ở giai đoạn sau và mãi mãi.
Những chính sách của Chính phủ đóng vai trò hỗ trợ tích cực cho việc thực hiện mục
tiêu tập trung hóa kinh tế, hội tụ trong phát triển xã hội. Những chính sách cần ưu tiên hàng
đầu là chính sách di dân tự do; chính sách đầu tư cho các vùng không trọng điểm, nhất là các
vùng tụt hậu; chính sách điều tiết phân phối lại thu nhập từ các VKTTĐ đến các vùng còn
lại của địa phương và quốc gia, làm tăng tính hấp dẫn về mặt xã hội cho các vùng không
trọng điểm.

6. Các VKTTĐ phải có cơ quan chủ quản chính thức với tư cách là chủ thể
trong việc xác định các định hướng, mục tiêu phát triển, đồng thời là địa chỉ triển khai

các chính sách của chính phủ ban hành cho các VKTTĐ.
Trong quá trình phát triển bền vững các VKTTĐ, các dấu hiệu của thị trường và
nguyên tắc thị trường cần phải được quán triệt xuyên suốt và đầy đủ nhất, nhưng yếu tố thúc
đẩy của nhà nước đóng vai trò quan trọng không kém. Vấn đề là ở chỗ, Chính phủ thông qua
các cơ quan chức năng chuyên trách, phải làm thế nào đó để nắm bắt được các dấu hiệu của
thị trường trong các VKTTĐ, các thị trường có liên quan, thị trường liên kết, từ đó định


hướng được các mục tiêu phát triển của các VKTTĐ trên cơ sở nắm bắt thị trường, và cuối
cùng là đưa ra hệ thống chính sách hỗ trợ thúc đẩy quá trình thực hiện mục tiêu phát triển.
Yêu cầu về vai trò của Chính phủ đối với phát triển bền vững các VKTTĐ đặt ra vấn
đề về tổ chức bộ máy quản lý các VKTTĐ như thế nào? Một mặt phải có chức năng và khả
năng hoạch định sự phát triển, quy hoạch tổng thể và chi tiết nội bộ VKTTĐ; điều tiết sự vận
hành, tổ chức phối hợp hoạt động liên kết của vùng trong điều kiện không gian địa lý được
hình thành từ nhiều địa phương hành chính khác nhau; là địa chỉ để triển khai các chính sách
của nhà nước áp dụng cho các VKTTĐ. Tổ chức bộ máy như vậy không thể là chính quyền
của từng cấp địa phương hành chính, cũng không thể chỉ là một ban điều phối làm chức năng
tổng kết cho dù là người lãnh đạo là Thủ tướng chính phủ.
Vì vậy, theo quan điểm này, đối với Việt Nam, một là phải hoàn chỉnh, nâng cấp và
xác định rõ chức năng của Ban điều phối VKTTĐ để làm; thứ hai, và tốt nhất là nên hình
thành một bộ máy làm chức quản lý, điều tíết hoạt động, tổ chức triển khai thực hiện các
chính sách phát triển VKTTĐ. Cơ quan đó theo kinh nghiệm của các nước phát triển, kể cả
các nước vùng lân cận, đó là Hội đồng vùng. Chỉ với tư cách là một Hội đồng thì mới thực
sự thực hiện được các chức năng nói trên.

KẾT LUẬN
Từ những phát hiện về thực trạng các VKTTĐ ở Việt Nam hiện nay, trên cơ sở kinh
nghiệm tổ chức các vùng động lực tăng trưởng của nhiều nước trên thế giới, việc tìm ra
những quan điểm chiến lược phát triển các VKTTĐ của Việt Nam thực sự có ý nghĩa quan
trọng nhằm hướng các VKTTĐ của nước ta phát triển theo một xu hướng hợp lý, đúng quy

luật.
Hệ thống 6 quan điểm nêu ra trong khuôn khổ chiến lược phát triển VKTTĐ của Việt
Nam nhằm vào những mục tiêu nói trên. Ba quan điểm đầu nhằm hướng các VKTTTĐ phát
triển theo đúng nội hàm là các vùng động lực tăng trưởng quốc gia thực sự; hai quan điểm
tiếp theo tạo thế đứng vững chắc cho các VKTTĐ và sự lan tỏa tích cực của các VKTTĐ với
cả nước theo phương châm: vừa tạo sự tập trung hóa về kinh tế, vừa tạo sự hội tụ về mức
sống; quan điểm cuối cùng có liên quan đến việc hình thành bộ máy quản lý các VKTTĐ,
làm được chức năng điều hành, phối hợp hoạt động của vùng trong điều kiện có nhiều thay
đổi trong quan điểm về tổ chức, nội dung, tính chất và vai trò của VKTTĐ trong chiến lược


phát

triển

kinh

tế

-



hội

chung

của

cả


nước.


Tài liệu tham khảo:
-

-

Các báo cáo hoạt động của VKTTĐ Việt Nam của Ban điều phối VKTTĐ
Các báo cáo và phỏng vấn trực tiếp: Văn phòng điều phối VKTTĐ, UBND tmột số
tỉnh thuộc VKTTĐ như Đà Nẵng, Bình Định, Bình Dương, TP HCM, TP Hà Nội,
tỉnh Hưng Yên, Viện Kinh tế và xã hội Thành phố HCM, Viện chiến lược phát triển,
Bộ KH&ĐT
Báo cáo phát triển Thế giới, 2009
Các webside của Đảng cộng sản Việt Nam, Bộ KH&ĐT, Bộ Khoa học công nghệ,
v.v…
Ngô Doãn Vịnh, Chiến lược phát triển, bàn về tư duy và hành động có tính chiến
lược, NXB Chính trị quốc gia, 2007.
Tạp chí Kinh tế & Phát triển



×