Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Đánh giá hiện trạng và đề xuất biện pháp quản lý chất thải rắn tại thành phố đông hà tỉnh quảng trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 20 trang )

MỞ ĐẦU

Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt với đời sống con người, đối với sinh
vật và sự phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa của dân tộc và nhân loại. Bảo vệ môi
trường gắn liền với phát triển bền vững đang là vấn đề được đặt ra trên toàn thế
giới, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam.
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của nước
ta, các ngành sản xuất kinh doanh dịch vụ ở các đô thị và khu công nghiệp được mở
rộng và phát triển nhanh chóng, một mặt đóng góp tích cho sự phát triển của đất
nước, mặt khác tạo ra một lượng lớn chất thải rắn bao gồm: chất thải sinh hoạt, chất
thải công nghiệp, chất thải y tế…[2]. Việc thải bỏ một cách bừa bãi các chất thải rắn
không hợp vệ sinh ở các đô thị và khu công nghiệp là nguồn gốc chính gây ô nhiễm
môi trường làm nảy sinh các bệnh tật, ảnh hưởng đến sức khỏe và cuộc sống con
người. Nguy cơ gây ô nhiễm môi trường do chất thải gây ra đang dần trở thành vấn
đề cấp bách đối với hầu hết các đô thị trong cả nước, đòi hỏi phải có các biện pháp
quản lý khắc phục để đảm bảo môi trường và phát triển bền vững.
Thành phố Đông Hà là trung tâm thương mại du lịch, dịch vụ của tỉnh Quảng
Trị. Là cửa ngỏ của tuyến hành lang kinh tế Đông Tây. Trong những năm vừa qua,
trên bình diện cả nước cũng như ở thành phố Đông Hà, quá trình phát triển kinh tế xã hội diễn ra rất sôi động, nhiều khu công nghiệp được xây dựng, nhiều đô thị mới
được hình thành. Trong thành phố Đông Hà quá trình đô thị hóa đi liền với sự
nghiệp công nghiệp hóa, phát triển giao thông, xây dựng cơ sở hạ tầng điện, nước
đã làm thay đổi bộ mặt của đô thị vốn nhỏ bé nơi đây. Công nghiệp phát triển, đô
thị càng mở rộng, dân số đô thị ngày càng tăng đã làm bùng nổ lượng chất thải khí,
nước thải và đặc biệt là chất thải rắn với khối lượng vượt quá khả năng thu gom, xử
lý, ở một số nơi đã vượt quá tầm kiểm soát của cơ quan chức năng địa phương [17].
Trong khi đó nguồn nhân lực và phương tiện thu gom vận chuyển rác ở Thành phố
Đông Hà còn lạc hậu và ít ỏi, không đáp ứng nhu cầu thu gom hiện tại.
Đến thời điểm hiện nay, rác thải sinh hoạt tại thành phố Đông Hà hầu như
được thu gom một cách hỗn hợp mà không được phân loại. Chúng được thu gom
Trang 1



vận chuyển và chôn lấp cùng với các loại rác công nghiệp, hóa chất bệnh
viện…Điều này làm chậm quá trình phân hủy rác hữu cơ gây mùi hôi thối và là
nguồn gốc phát sinh các ổ dịch. Số lượng nhà máy tái sinh, tái chế còn quá ít là một
trong những lý do khiến cho bãi chôn lấp hoạt động không bao lâu thì quá tải.
Vì vậy, bây giờ khi thành phố Đông Hà vừa mới thành lập thì việc thu gom,
xử lý chất thải rắn, xây dựng bãi chôn lấp đúng quy cách, đảm bảo vệ sinh môi
trường nói riêng và quản lý chất thải rắn một cách chặt chẽ nói chung, là những yêu
cầu cấp bách hiện nay.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn đó nên chúng tôi chọn đề tài: “Đánh
giá hiện trạng và đề xuất biện pháp quản lý chất thải rắn tại thành phố Đông Hà
- tỉnh Quảng Trị” nhằm phục vụ cho công tác quản lý và giảm thiểu ô nhiễm môi
trường đưa Đông Hà phát triển theo định hướng thành phố mới.

Trang 2


CHƢƠNG 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI THÀNH PHỐ ĐÔNG

1.1.1. Điều kiện tự nhiên
1.1.1.1.. Vị trí địa lý [16]
Đông Hà là thành phố tỉnh lỵ, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội
của tỉnh Quảng Trị, nằm ở toạ độ địa lý 16007’53’’-16052’22’’ Vĩ độ Bắc và
107004’24’’-107007’24’’ Kinh độ Đông, cách thành phố Đồng Hới 93km về phía
Bắc, cách Thành phố Huế 70km về phía Nam, cách cửa khẩu Lao Bảo 85km về
phía Tây, cách cảng biển Cửa Việt 16km về phía Đông.
Ranh giới Thành phố được xác định:

- Phía Bắc giáp huyện Cam Lộ và Gio Linh.
- Phía Nam giáp huyện Triệu Phong.
- Phía Đông giáp huyện Gio Linh và huyện Triệu Phong.
- Phía Tây giáp huyện Cam Lộ.
Vị trí địa lý của thành phố Đông Hà được thể hiện ở hình 1.1.1.
1.1.1.2.. Đặc điểm địa hình
Địa hình thành phố Đông Hà có thể quy về 2 dạng địa hình cơ bản sau:
- Địa hình gò đồi bát úp ở phía Tây và Tây Nam, có diện tích 319,1ha; chiếm
44,1% diện tích tự nhiên; có độ cao trung bình 10m so với mực nước biển, nghiêng
dần về phía Đông, với độ dốc trung bình 5-10%.
- Địa hình đồng bằng có độ cao trung bình 3m so với mực nước biển, chiếm
55,9% diện tích tự nhiên, được phủ lên trên mặt lớp phù sa thuận lợi cho phát triển
nông nghiệp (trồng lúa nuớc, hoa màu, rau hoa và cây cảnh...).
Nguồn: Tham khảo Đề án thành lập Thành phố Đông Hà thuộc tỉnh Quảng Trị,
năm 2008 của UBND thị xã Đông Hà.

Trang 3


Vị trí địa lý và cấu trúc địa hình thành phố Đông Hà được thể hiện ở hình
1.1.1

Hình 1.1.1. Vị trí địa lý thành phố Đông Hà- Quảng Trị

1.1.1.3. Đặc điểm khí hậu
Đông Hà nằm trong vùng khí hậu Bắc Trung Bộ, mang đặc điểm của khí hậu
nhiệt đới gió mùa và có những biểu hiện đặc thù so với các vùng khí hậu khu vực
phía Đông Trường Sơn. Chế độ khí hậu chia làm 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa
khô nóng.
- Mùa mưa: do chịu ảnh hưởng của không khí lạnh cực đới tràn về tới đèo

Hải Vân, nên khu vực Đông Hà tương đối lạnh so với các vùng phía Nam miền
Trung. Lượng mưa trung bình năm đạt 2.300mm, nhưng 80% lượng mưa lại tập
trung chủ yếu trong 4 tháng (từ tháng 7 đến tháng 10).
- Mùa khô nóng: kéo dài từ tháng 3 đến tháng 8, gần như liên tục nắng nóng
kèm theo gió phơn Tây-Tây Nam khô nóng, có sức gió cấp 6, cấp 7 và do cấu tạo
địa hình của phía triền dốc Đông Trường Sơn nên gió qua đèo Lao Bảo về Đông Hà
tạo thành những cơn bão nhỏ, khô nóng có thời gian kéo dài trong nhiều tháng.
Nguồn: Trung tâm dự báo khí tượng thủy văn tỉnh Quảng Trị.

Trang 4


1.1.1.4. Đặc điểm thuỷ văn
Thành phố Đông Hà chịu ảnh hưởng thuỷ văn của 3 con sông chính là sông
Hiếu, sông Thạch Hãn, sông Vĩnh Phước.
- Sông Hiếu là hệ thống sông lớn nhất chảy qua Thành phố bắt nguồn từ
sườn Đông dãy Trường Sơn. Sông Hiếu có chiều dài 70km, diện tích lưu vực
465km2, đoạn chảy qua Thành phố có chiều dài 8km, với chiều rộng trung bình
khoảng 150-200m.
- Sông Thạch Hãn bắt nguồn từ sông Đakrông, chảy qua Ba Lòng rồi về
xuôi. Sông có chiều dài 145km, đoạn chảy qua ven phía Đông Thành phố có độ dài
5km.
- Sông Vĩnh Phước có diện tích lưu vực 183km2; có chiều dài 45km, chiều
rộng trung bình 50 - 70m, lưu lượng trung bình 9,56m3/s, mùa kiệt 1,79m3/s. Đây là
con sông cung cấp nguồn nước sinh hoạt cho thành phố Đông Hà.
- Ngoài các con sông chính, trên địa bàn thành phố còn có các hồ như: hồ
Khe Mây, hồ Trung Chỉ, hồ KM6, hồ Đại An... với mạng lưới phân bố đều khắp
trên địa bàn thành phố và tạo cảnh quan thiên nhiên, cải thiện vi khí hậu tiểu vùng
và phát triển du lịch sinh thái cho thành phố (TP).
Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội thị xã Đông Hà đến năm

2020.

1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
1.1.2.1. Dân số
Dân số toàn thành phố (theo kết quả tổng điều tra dân số ngày 01/01/2009) là
82.739 người. Năm 2008 tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,39%.

Trang 5


Bảng 1.1.1. Diện tích, dân số và mật độ dân cƣ năm 2008 của thành phố Đông Hà

TT

Tên phƣờng

Diện tích
(km2)

Mật độ
Dân số

Dân số

Số khu phố

(Ngƣời/km2)

1


Phường 1

2,5952

19.739

7.605

10

2

Phường 2

2,0188

4.466

2.212

10

3

Phường 3

19,1898

6.619


345

8

4

Phường 4

5,1003

4.462

875

5

5

Phường 5

3,6369

22.151

6.090

11

6


Phường Đông Thanh

4,8391

3.864

798

11

7

Phường Đông Giang

6,2553

5.023

803

10

8

Phường Đông Lễ

9,3952

7.467


795

9

9

Phường Đông Lương

19,9281

8.948

449

8

(Nguồn: Niên giám thống kê thành phố Đông Hà, 2009)

1.1.2.2. Hiện trạng phát triển kinh tế theo các ngành [15]
a. Thương mại - dịch vụ - du lịch
Hoạt động thương mại - dịch vụ phát triển khá, cơ sở hạ tầng được cũng cố
và tăng cường đầu tư mở rộng, phương thức kinh doanh đa dạng. Đông Hà là trung
tâm thương mại lớn nhất tỉnh, mạng lưới chợ trên địa bàn thành phố có 13 chợ,
trong đó 5 chợ được xây dựng kiên cố, 8 chợ bán kiên cố với khoảng 6.300 hộ kinh
doanh. Chợ Đông Hà là chợ lớn nhất của tỉnh với quy mô 2.500 quầy hàng. Hoạt
động kinh doanh ở chợ Đông Hà và các chợ đầu mối ngày càng phát triển, thu hút
nhiều doanh nghiệp, tiểu thương vào buôn bán.
Đến nay, trên địa bàn thành phố Đông Hà có 43 khách sạn và nhà nghỉ với
trên 870 phòng ngủ.
b. Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp

Ngành CN, TTCN trên địa bàn thành phố đạt mức tăng trưởng khá, giá trị
sản xuất CN, TTCN thời kỳ 2006 - 2010 tăng bình quân 15,4%. Giá trị sản xuất
Trang 6


công nghiệp trên địa bàn năm 2009 ước đạt 542,39 tỷ đồng, đạt 98,6% kế hoạch
năm (560 tỷ đồng) và tăng 12,3% so với cùng kỳ năm trước.
Số cơ sở sản xuất trên địa bàn hiện có 988 cơ sở, tăng 29 cơ sở so với năm
2008. Trong đó ngoài quốc doanh có 983 cơ sở, quốc doanh có 05 đơn vị.
Tại KCN Nam Đông Hà hiện có 19 dự án đăng ký đầu tư, với tổng số vốn
đăng ký là 1.044 tỷ đồng, có 03 dự án đi vào hoạt động, thu hút gần 1.400 lao động.
Tại CCN Đông Lễ, hiện có 17 dự án đăng ký đầu tư kinh doanh và được giao đất
thực địa, trong đó có 04 dự án đã đi vào hoạt động sản xuất, 04 dự án đang hoàn
thành lắp đặt dây chuyền thiết bị công nghệ, 07 dự án đang xây dựng nhà xưỡng.
c. Sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản
Cơ sở vật chất hạ tầng phục vụ kinh tế nông nghiệp được chú trọng đầu tư.
Thời kỳ 2006 - 2010, giá trị sản xuất nông, lâm, thuỷ sản tăng bình quân 4%/năm,
riêng nông nghiệp tăng 3,2%/năm; lâm nghiệp tăng 3,4%/năm, đặc biệt thuỷ sản
tăng nhanh đạt 26,2%.
Việc chỉ đạo triển khai các đề án trên lĩnh vực nông nghiệp đã có hiệu quả:
Đã xây dựng vùng sản xuất rau an toàn 5ha, giá trị 1ha canh tác đạt trên 150 triệu
đồng. Tăng cường công tác phòng chống dịch bệnh gia súc, gia cầm đã hạn chế thấp
nhất thiệt hại do dịch bệnh gây ra.
Tổng diện tích gieo trồng các loại cây cả năm thực hiện 2.572ha, đạt 102,9%
kế hoạch và bằng 102,5% so với năm 2006, trong đó cây lương thực là 2.2092ha,
đạt 104,6% kế hoạch và bằng 102,3% so với cùng kỳ năm trước. Năng suất lúa bình
quân cả năm đạt 47,1 tạ/ha, tăng 0,1 tạ/ha so với kế hoạch và tăng 0,6 tạ/ha so với
năm 2006.
Tình hình chăn nuôi: số lượng đàn gia súc 12.772 con, bằng 94,9% so với
cùng kỳ năm trước, số lượng gia cầm tăng nhưng không đáng kể, ước khoảng

35.800 con bằng 102,3% so với cùng kỳ năm trước.
Nuôi trồng thủy sản: diện tích nuôi trồng thủy sản có giảm nhưng năng suất
và sản lượng vẫn đạt khá. Tổng diện tích nuôi tôm 64,6ha, năng suất bình quân 2,8
tấn/ha, sản lượng đạt 136,64 tấn với lãi rồng đạt 3,702 tỷ đồng. Diện tích cá nước
ngọt 65,61ha, ước đạt 3,8 tấn/ha, sản lượng đạt 245,28 tấn.

Trang 7


1.1.2.3. Giáo dục – Y tế
a. Giáo dục – đào tạo:
Giáo dục phổ thông: Đến năm 2007-2008, trên địa bàn thành phố có:
+ Bậc mầm non: Tổng số 17 trường, trong đó có 03 trường công lập và 14
trường bán công, tư thục. Tỷ lệ huy động trẻ mẫu giáo 5 tuổi đến trường đạt 99,6%.
Công tác xã hội hóa giáo dục hệ mầm non ngày càng cao.
+ Bậc tiểu học: Gồm 15 trường công lập và 01 trường bán công. Có 93,3%
trường học được kiên cố hóa. Học sinh được tổ chức học 2 buổi/ngày đạt 67,9%.
Cũng cố, duy trì vững chắc phổ cập tiểu học.
+ Bậc trung học cơ sở: có 09 trường, trong đó có 88,8% trường được kiên cố
hóa, 02 trường đạt tiêu chuẩn Quốc gia (đạt 23%). Công tác phổ cập trung học cơ sở
tiếp tục được cũng cố và phát triển.
+ Bậc trung học phổ thông: Có 04 trường, trong đó có 03 trường công lập (1
trường chuyên) và 01 trường bán công. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp và thi đỗ vào các
trường đại học, cao đẳng ngày càng tăng.
b. Y tế và chăm sóc sức khỏe cộng đồng:
Trên địa bàn hiện nay có 01 bệnh viện Tỉnh với quy mô 500 giường bệnh; 01
bệnh viện thị xã với quy mô 50 giường bệnh; 09 trạm y tế trên địa bàn 09 phường;
01 trung tâm y tế dự phòng thị xã; 45 phòng khám tư nhân lớn, nhỏ. Ngoài ra, còn
có trạm xá của các ngành khác nhau như: Bệnh xá công an, bệnh xá bộ đội, bệnh xá
Đông Trường Sơn…

Đã có 100% trạm y tế phường có bác sỹ, đã có 8/9 trạm y tế đạt tiêu chuẩn
Quốc gia về y tế. Bình quân trên 1 vạn dân có 26,2 bác sỹ, 61 giường (kể cả y tế
tuyến tỉnh và tuyến thị xã).
Nguồn: Niên giám thống kê thị xã Đông Hà năm 2008.

1.1.3. Hiện trạng sử dụng đất [11]
Theo thống kê hiện trạng sử dụng đất năm 2009. Tổng diện tích đất tự nhiên
của thành phố Đông Hà là 7.295,87 ha. Trong đó:
- Đất sản xuất nông nghiệp 4.001,89 ha, bao gồm các loại như: đất trồng cây
hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp, đất nuôi trồng thuỷ sản...
Trang 8


- Đất phi nông nghiệp là 2.492,93 ha, bao gồm đất ở đô thị, đất chuyên dùng,
đất tôn giáo, tín ngưỡng, đất nghĩa trang, nghĩa địa...
- Đất chưa sử dụng là 801,05 ha, bao gồm đất chưa sử dụng, đất đồi núi chưa
sử dụng.
Trong quy hoạch sử dụng đất thành phố, chưa có phân bổ đất để xử lý chất
thải trong khi đó đất nghĩa địa phân bố hầu khắp các vùng.

1.2. TỔNG QUAN CHẤT THẢI RẮN ĐÔ THỊ
1.2.1. Định nghĩa chất thải rắn đô thị [7]
Chất thải rắn (CTR) đô thị (gọi chung là rác thải đô thị) là vật chất mà con
người tạo ra ban đầu vứt bỏ đi trong khu vực trong khu vực đô thị mà không đòi
hỏi được bồi thường cho sự vứt bỏ đó. Thêm vào đó, chất thải được coi là chất thải
rắn đô thị nếu chúng được xã hội nhìn nhận như một thứ mà thành phố phải có trách
nhiệm thu gom và tiêu hủy [7].
Theo quan điểm này chất thải rắn đô thị có đặc trưng sau:
+ Bị vứt bỏ trong khu vực đô thị.
+ Thành phố có trách nhiệm thu dọn.

1.2.2. Nguồn gốc phát sinh chất thải rắn đô thị [9]
Chất thải rắn đô thị có thể phát sinh từ nhiều nguồn khác nhau. Nguồn phát
sinh CTR của khu vực đô thị thay đổi theo mục đích sử dụng đất và các phân vùng.
Tuy có nhiều cách phân loại khác nhau nhưng cách phân loại như sau là cách phân
loại được sử dụng phổ biến nhất.
Hoạt động
công nghiệp

Khu dân cư

Chất thải rắn
Đô thị

Hoạt động xây
dựng đô thị

Các trạm xử lý nước thải và các
đường ống thoát nước của thành
phố

Trung tâm thương
mại
Công sở, trường học,
công trình công cộng,
bệnh viện.

Dịch vụ đô thị, sân
bay

Sơ đồ 1.2.1. Nguồn gốc phát sinh chất thải rắn đô thị [9]

Trang 9


Từ sơ đồ trên ta thấy: Chất thải rắn đô thị được phát sinh từ nhiều nguồn
khác nhau như các hoạt động công nghiệp, xây dựng, các trung tâm thương mại, các
khu dân cư, các công trình công cộng,...
1.2.3. Phân loại chất thải rắn đô thị [6]
Các loại chất thải rắn được thải ra từ các hoạt động khác nhau được phân loại
theo nhiều cách.
a. Theo vị trí định hình: người ta phân biệt rác thải hay CTR trong nhà, ngoài
nhà, trên đường phố, chợ…
b. Theo thành phần hóa học và vật lý: phân biệt theo các thành phần hữu cơ,
vô cơ, cháy được, không cháy được, kim loại, dẻ vụn, da…
c. Theo bản chất nguồn tạo thành - chất thải rắn được phân thành các loại:
- Chất thải rắn sinh hoạt: là những chất thải liên quan đến các hoạt động của
con người, nguồn tạo thành chủ yếu từ các khu dân cư, cơ quan, trường học, các
trung tâm dịch vụ, thương mại. Chất thải rắn sinh hoạt có thành phần bao gồm kim
loại, sành sứ, thủy tinh, cao su, chất dẻo, thực phẩm dư thừa hoặc quá hạn sử dụng,
rơm rạ, xác động thực vật, rau quả…
- Chất thải rắn công nghiệp: là các chất thải phát sinh từ các hoạt động sản
xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, các nguồn phát sinh chất thải công nghiệp
gồm: Các phế thải từ vật liệu trong quá trình sản xuất công nghiệp, tro, xỉ trong các
nhà máy nhiệt điện, các phế thải từ nhiên liệu phục vụ cho sản xuất, bao bì đống gói
sản phẩm,...
- Chất thải xây dựng là phế thải như gạch, cát đá, bê tông vỡ do các hoạt
động phá dỡ, xây dựng công trình…
Các chất thải từ các hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật như trạm xử lý nước
thiên nhiên, nước thải sinh hoạt, bùn cặn từ cống thoát nước thành phố.
- Chất thải nông nghiệp: là những chất thải và mẫu thừa thải ra từ các hoạt
động nông nghiệp, như trồng trọt, thu hoạch các loại cây trồng, các sản phẩm thải ra

từ các lò chế biến gia súc…
d. Theo mức độ nguy hại – chất thải rắn được phân thành các loại:

Trang 10


- Chất thải nguy hại: bao gồm các loại hóa chất dễ gây phản ứng, độc hại,
chất thải sinh học dễ thối rữa, các chất dễ cháy, nổ hoặc các chất thải phóng xạ, các
chất thải nhiễm khuẩn, lây lan…có nguy cơ đe dọa tới sức khỏe người, động vật và
cây cỏ.
- Chất thải y tế nguy hại: là chất thải có chứa các chất hoặc hợp chất có một
trong các đặc tính gây nguy hại trực tiếp hoặc tương tác với các chất khác gây nguy
hại với môi trường và sức khỏe của cộng đồng, bao gồm: Các loại bông gạc, nẹp
dùng trong khám bệnh, điều trị, phẩu thuật, các loại kim tiêm, ống tiêm, chất thải
sinh hoạt từ bệnh nhân,...
- Chất thải không nguy hại: là những loại chất thải không chứa các chất và
các hợp chất có một trong các đặc tính nguy hại trực tiếp hoặc tương tác thành phần.
1.2.4. Thành phần của chất thải rắn đô thị [4]
- Chất hữu cơ: thức ăn thừa, giấy và bìa carton, nhựa, giẻ, vải vụn, da, cao su,
gỗ, lá cây, xác động thực vật chết.
- Chất vô cơ: kim loại, thủy tinh, gốm, sứ, tro và đất bẩn, đá gạch.
Bảng 1.2.1. Thành phần chất thải rắn đô thị
STT

Thành phần

I

Chất hữu cơ


1

Thực phẩm thừa

9.0

2

Giấy

34.0

3

Giấy cacton

6.0

4

Nhựa

7.0

5

Vải vụn

2.0


6

Cao su

0,5

7

Da

0,5

8

Rác vườn

18.5

STT
9

Thành phần
Gỗ

% khối lƣợng

% khối lƣợng
2.0
Trang 11



II

Chất vô cơ

1

Thủy tinh

8.0

2

Can thiếc

6.0

3

Nhôm

0.5

4

Kim loại khác

3.0

5


Bụi, tro

3.0

Nguồn: “ Công ty TNHH MTV Môi trường và Công trình Đô thị Đông Hà (2008),
Giáo trình giảng dạy quản lý chất thải rắn”.

Qua bảng 1.2.1 về thành phần của chất thải rắn đô thị chúng tôi nhận thấy:
Chất thải rắn đô thị gồm 2 thành phần chủ yếu là chất thải rắn vô cơ và chất thải rắn
hữu cơ. Trong đó có nhiều loại khác nhau và có % khối lượng khác nhau.Chiếm tỷ
lệ cao nhất trong chất thải rắn hữu cơ là giấy với 34.0% khối lượng, tiếp đó là rác
thải vườn với 18.5%. Đối với chất thải rắn vô cơ bao gồm các kim loại như nhôm,
thiếc, bụi tro và thuỷ tinh vỡ,... Trong đó chiểm tỷ lệ cao nhất là thuỷ tinh với 8.0 %
khối lượng.
Trong rác thải có chứa nhiều nguyên tố, và mỗi chất có hàm lượng các
nguyên tố là khác nhau. Tỷ lệ phần trăm các chất có trong rác thải được thể hiện ở
bảng 1.2.2.
Bảng 1.2.2. Tỷ lệ phần trăm (%) các chất có trong rác thải
STT Chất thải

C

H

O

N

S


Tro

1

Thực phẩm

48

6.4

37.6

2.6

0.4

5.0

2

Carton

43

5.9

44.8

0.3


0.2

5.0

3

plastic

60

7.2

22.8

-

-

10.0

4

Vải

48

6.4

40.0


2.2

0.2

3.2

5

Gỗ

40.5

6.0

42.7

0.2

<0.1

0.9

6

Thủy tinh

45

0.6


43

<0.1

-

9.5

Nguồn: “Trần Hiếu Nhuệ, Ứng Quốc Dũng, Nguyễn Thị kim Thái (2001), Quản lý chất
thải rắn”

Trang 12


Theo số liệu trên, ta thấy các nguyên tố hoá học trong rác thải rất nhiều
nhưng mỗi loại chiếm một % khác nhau. Trong đó nguyên tố C và O chiếm tỷ lệ
phần trăm cao nhất trong tất cả các loại rác thải. Nguyên tố C chiếm tỷ lệ cao nhất ở
chất thải plastic với 60% và nguyên tố O chiếm tỷ lệ cao nhất ở chất thải carton với
44.8%. Có mặt ít nhất trong tất cả các loại chất thải là nguyên tố S dao động từ 0 –
0.4%.
Nền kinh tế đang ngày càng phát triển thì kéo theo một hàm luợng lớn các
chất thải rắn. Ở mỗi thành phố do đặc điểm phát triển kinh tế là khác nhau nên
lượng rác thải ra cũng khác nhau. Thành phần rác thải ở các tỉnh thành trong cả
nước được thể hiện ở bảng 1.2.3.:
Bảng 1.2.3. Thành phần rác thải ở nƣớc ta (% khối lƣợng)
STT Thành phần




Hải

Nội

Phòng

Hạ Long

TP

Đà

HCM

Nẵng

1

Lá cây, rác hữu cơ

50.1

50.58

40.1- 44.7

41.25

31.5


2

Nilon, nhựa, cao su

5.5

4.52

2.7- 4.5

8.78

22.5

3

Giấy, vải vụn, carton

4.2

7.52

5.5- 5.7

24.83

6.8

4


Kim loại, vỏ lon

2.5

0.22

0.3- 0.5

1.55

1.4

5

Thủy tinh, sành sứ

1.8

0.63

3.9- 8.5

5.59

1.8

6

Đất cát và chất khác


35.9

36.53

47.5- 36.1

18.0

36.0

Nguồn: “Trần Hiếu Nhuệ, Ứng Quốc Dũng, Nguyễn Thị kim Thái (2001), Quản lý chất
thải rắn”

Qua bảng 1.2.3 về thành phần rác thải ở nước ta chúng tôi nhận thấy thành
phần và hàm lượng rác ở các tỉnh thành trong cả nước là khác nhau. Tuỳ vào điều
kiện kinh kế - xã hội của mỗi Thành phố mà có hàm lượng rác thải khác nhau. Thải
ra nhiều giấy, vải vụn, carton nhất là Thành phố Hồ Chí Minh với 24.83 % khối
lượng, do ở đây phát triển mạnh các ngành kinh doanh may mặc, các khu sản xuất
hàng tiêu dùng,... Ở Hà Nội và Hải Phòng lượng rác chủ yếu là lá cây, rác hữu cơ,
các thực phẩm dư thừa. Trong khí đó ở Đà Nẵng thì số lượng nilon, cao su, nhựa
thải ra đứng vào loại cao nhất nước.

Trang 13


1.2.5. Tình hình phát sinh chất thải rắn trên thế giới và Việt Nam
1.2.5.1. Tình hình phát sinh chất thải rắn trên thế giới
Trong vài thập kỷ vừa qua, do sự phát triển kinh tế và bùng nổ dân số diễn ra
mạnh mẽ, tình trạng lượng rác thải phát sinh ngày càng gia tăng gây ô nhiễm môi
trường sống đã trở thành vấn đề lớn của hầu hết các nước trên thế giới. Nếu tính

bình quân mỗi ngày thải ra một lượng rác thải là 0.5kg/người/ngày đêm, thì mỗi
ngày trên thế giới sẽ thải ra 3 triệu tấn và một năm sẽ có khoảng 1 tỷ tấn rác thải
[21].
Theo số liệu thống kê của Tổ chức Hợp tác và phát triển Kinh tế (OECD)
cho hay từ năm 1980- 1997, tỷ lệ rác thải ở thành phố trong các nước thành viên
OECD đã tăng 40% và dự báo lượng rác thải tính theo bình quân đầu người có thể
tăng lên mức 500 đến 640kg/năm vào năm 2020. Theo các chuyên gia của OECD,
lượng rác thải trên thế giới có thể tăng từ 770 triệu tấn hiện nay lên đến 2 tỷ tấn vào
năm 2020 [10].
Ở Nga, lượng rác thải bình quân theo đầu người là 300kg/người/năm; như
vậy mỗi năm nước Nga thải ra 50 triệu tấn rác. Ở Pháp thì lượng rác thải bình quân
là 1 tấn/người/năm và mỗi năm nước Pháp có khoảng 35 triệu tấn rác thải [25].
Với lượng rác thải ra ngày càng lớn như vậy thì đòi hỏi phải được xử lý một
cách hợp lý nhằm đảm bảo môi trường không bị ô nhiễm bởi rác thải.
Theo con số thống kê chưa đầy đủ Tổ chức Hợp tác và phát triển Kinh tế
(OECD), mỗi năm thế giới thải ra 10 tỷ tấn rác, trong đó 4 tỷ tấn rác được thải ra từ
các nước trong tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) trong những năm
1990. Nhưng đứng đầu vẫn là Mỹ với 2 tỷ tấn [10]. Lượng chất thải rắn phát sinh ở
một số nước trên thế giới được thể hiện ở bảng sau:

Trang 14


Bảng 1.2.4. Lƣợng chất thải rắn phát sinh ở một số nƣớc trên thế giới
Tên nƣớc

Chất thải rắn
(kg/ngƣời/ngày)

Mỹ


2,50

Anh

1,60

Thụy Sỹ

1,30

Nhật Bản

0,90

Đức

0,85

Thụy điển

0,80

Singapo

0,87

Hồng Công

0,85


Columbia

0,54

Philipbin

0,50

Indonexia

0,60

Trung Quốc

0,50

Nguồn: “Theo thông tấn xã Việt Nam (2006), OECD tăng cường xử lý rác thải bảo
vệ môi trường”

Theo số liệu trên, Mỹ là nước có lượng rác thải ra theo đầu người cao nhất
2,5kg/người/ngày đêm hay 870 kg/người/năm. Đối với các nước như Singapor,
Hồng Công, Đức lượng rác thải ra trung bình xấp xỉ 0,87kg/người/ngày đêm [10].
Theo dự báo số lượng CTR nói chung, rác thải sinh hoạt nói riêng tại Mỹ sẽ
tiếp tục tăng lên từ 540 triệu tấn năm 1997 lên 43% tức 770,2 triệu tấn đến năm
2020. Trong khi đó lượng rác đem đốt xử lý chỉ 18%, 18% được tái sinh còn lại
phải mang chôn lấp (năm 1997). Như vậy cả ở các nước công nghiệp tiên tiến, số
lượng rác được tái sinh cũng chỉ đạt 1/5. Và điều nhức nhối hơn nữa là lượng rác
thải được xử lý đốt, chôn lấp gây ô nhiễm môi trường, thu hẹp đất sinh hoạt vốn đã
hạn hẹp [6].


Trang 15


Bảng 1.2.5. Chỉ số quản lý rác thải ở một số nƣớc trên thế giới (năm 1992)
Khối lƣợng rác
Tên nƣớc

thải
(kg/ngƣời/năm)

Chôn lấp
(%)

Đốt (%)

Ủ sinh học

Thu hồitái

(%)

chế (%)

Mỹ

701

67.0


16.0

2.0

15.0

Canada

646

82.0

8.0

-

10.0

Hà Lan

484

52.0

27.0

8.0

13.0


Đức

417

68.9

15.5

3.1

12.5

Thụy Sỹ

406

11.0

76.0

13.0

-

Nhật

400

22.5


72.8

-

3.1

Pháp

348

50.0

40.0

10.0

-

Anh

347

83.0

13.0

-

-


Tây Ban Nha

323

75.0

5.0

20.0

-

Thụy Điển

314

38.0

55.0

7.0

-

Nguồn: “Trần Hiếu Nhuệ, Ứng Quốc Dũng, Nguyễn Thị kim Thái (2001), Quản lý chất
thải rắn”

Từ bảng trên có thể thấy rằng: Mỹ là nước có khối lượng phát thải chất thải
rắn bình quân đầu người/năm là cao nhất thế giới (701kg/người/năm), sau đó là
Canada (646 kg/người/năm). Các phương pháp xử lý chất thải rắn ở các nước cũng

khác nhau. Mỹ là nước đã sử dụng phương háp thu hồi và tái chế chất thải rắn cao
nhất thế giới (15% lượng rác thải phát sinh), sau đó đến Hà Lan và Đức. Trong khi
đó, Thụy Sỹ sử dụng phương pháp đốt là chủ yếu (chiếm 76%) và ở Nhật Bản tỷ lệ
này là 72.8%. Tây Ban Nha là nước đã sử dụng phương pháp ủ sinh học nhiều nhất
(20%) trong việc xử lý chất thải rắn đô thị [7].
Phương pháp chôn lấp được các nước sử dụng nhiều nhất trong việc xử lý
chất thải rắn là Anh (83%), Tây Ban Nha (75%) và Đức (68.9%). Hội các chính
quyền địa phương tại Anh (LGA), nói hàng năm người Anh thải ra 27 triệu tấn rác
hỗn tạp không qua tái chế. Chia đều cho các gia đình trung bình mỗi hộ thải nửa tấn
rác hàng năm và con số này đã đưa nước Anh trở thành thùng rác của châu lục [20].
Trang 16


Còn phương pháp đốt rác thông thường sử dụng ở các quốc gia phát triển vì
phải có một nền kinh tế đủ mạnh để bao cấp cho việc thu đốt rác sinh hoạt như một
dịch vụ phúc lợi xã hội của toàn dân. Tuy nhiên, đốt rác sinh hoạt bao gồm nhiều
chất khác sinh khói độc và dễ sinh dioxin nếu giải quyết việc xử lý khói không tốt
(phần xử lý khói là phần đắt nhất trong công nghệ đốt rác) [30].
Như vậy, với tình hình phát triển kinh tế ngày càng cao thì lượng rác phát
sinh trên thế giới đang ngày càng nhiều và chủ yếu tăng nhanh ở các nước phát
triển. Mặc dù các nước này đã dùng nhiều biện pháp để hạn chế rác thải phát sinh,
thu hồi nguyên liệu nhưng lượng rác thải phát sinh cũng đang trở thành mối quan
tâm của chính quyền và nhân dân các nước.
1.2.5.2. Tình hình phát sinh chất thải rắn ở Việt Nam
Việt Nam đang trên đà phát triển, thực hiện công cuộc công nghiệp hóa –
hiện đại hóa. Quá trình hội nhập quốc tế, gia nhập WTO đã mở ra cho đất nước
nhiều cơ hội chung nhưng cũng tạo ra nhiều thử thách, khó khăn. Mục tiêu phấn đấu
của Đảng và Nhà nước ta là đến năm 2030 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp. Cho đến năm 2003 cả nước có trên 33 khu công nghiệp tập trung được hình
thành, hàng trăm nhà máy nằm trong các khu công nghiệp đang hoạt động [2].

Quá trình đô thị hóa tăng nhanh, làm tăng dòng người di dân từ nông thôn ra
thành thị, tình trạng thiếu quỹ dành cho chôn lấp chất thải. Nên đã làm ảnh hưởng
đến môi trương sinh thái, cuộc sống sinh hoạt của người dân.
Theo thống kê, ở nước ta tốc độ phát sinh rác thải tùy thuộc vào từng loại đô
thị và dao động từ 0,6 - 0,8 kg/người/ngày đêm. Đối với vùng nông thôn lượng này
thường là 0,3 – 0,5 kg/người/ngày đêm. Ở các thành phố lớn như thành phố Hồ Chí
Minh, Hà Nội, Bà Rịa – Vũng Tàu tổng lượng rác đã tăng lên đáng kể trong những
năm gần đây. Chất thải rắn tập trung ở những vùng kinh tế trọng điểm, khu công
nghiệp, khu đô thị phát triển. Theo thống kê lượng chất thải rắn trung bình phát sinh
từ các đô thị và thành phố năm 1996 là 16.237 tấn/ngày, năm 1997 là 19.315 tấn/
ngày, năm 1998 là 22.210 tấn/ngày. Năm 2003, tỷ trọng các chất thải rắn 4 thành
phố lớn [7].
* TP Hà Nội: 480- 580 kg/m3/ngày
* TP Hải Phòng: 580 kg/m3/ngày
Trang 17


* TP Hồ Chí Minh: 500 kg/m3/ngày
* TP Đà Nẵng: 420 kg/m3/ngày
Bảng 1.2.6. Lƣợng chất thải tạo thành và tỷ lệ thu gom trên toàn quốc (1997- 1999)
Lƣợng phát sinh (tấn/ngày)

Lƣợng thu gom (tấn/ngày)

Loại chất thải
1997

1998

1999


1997

1998

1999

14.525

16.558

18.879

55

68

75

822

920

1.049

90

92

92


1.798

2.049

2.336

55

65

65

Chất thải y tế nguy hại

240

252

277

75

75

75

Chất thải CN nguy hại

1.930


2.200

2.508.48

48

50

60

Tổng cộng

19.315

21.979

25.049

56

70

73

Chất thải sinh hoạt
Bùn, cặn cống
Phế thải xây dựng

Nguồn: “Trần Hiếu Nhuệ, Ứng Quốc Dũng, Nguyễn Thị kim Thái (2001), Quản lý chất

thải rắn”

Từ bảng số liệu cho thấy lượng rác thải phát sinh qua các năm ngày càng gia
tăng nhưng hiệu suất thu gom thì tăng không đáng kể. Chất thải từ sinh hoạt là lớn
nhất và tỷ lệ thu gom là 75%, trong khi đó lượng chất thải nguy hại chỉ chiếm tỷ lệ
thu gom là 60%.
Theo thống kê mỗi ngày thành phố Hồ Chí Minh thải ra một lượng rác là
1.340 tấn/ngày vào năm 2003 là 4.955 tấn và năm 2006 là 6000 tấn/ngày. Trong đó
rác thải sinh hoạt: 4.936 tấn; rác xây dựng: 1.069 tấn; rác thải y tế: 5,5 tấn; rác công
nghiệp: 1000 tấn. Việc xử lý rác càng trở nên khó khăn hơn khi dân số ngày càng
tăng và sự di dân ồ ạt từ các tỉnh khác tới thành phố. Các bãi rác Đông Thạnh
(huyện Hóc Môn), Gò Cát (huyện Bình Chánh), Phước Hiệp (huyện Củ Chi) đã
hoạt động hết công suất nhưng không sao giải quyết hết được lượng rác lớn của
thành phố như hiện nay. Điều này đã gây ra các vấn đề ô nhiễm môi trường trầm
trọng [29].
Hiện trạng rác thải tại Hà Nội cũng là một vấn đề đáng quan tâm. Hiện nay
có khoảng 620.000 tấn rác phát sinh mỗi năm, trong đó khoảng 500.000 tấn được
chôn lấp tại bãi rác Nam Sơn cách thành phố 65 km. Mặc dù bãi rác được xây dựng
Trang 18


và quản lý tốt nhưng nước rác vẫn đang là vấn đề bức xúc cần phải giải quyết. Bên
cạnh đó sự gia tăng đáng kể khối lượng rác hàng năm dẫn đến tình trạng quá tải các
bãi chôn lấp. Hà Nội có 5 bãi chôn lấp nhưng chỉ có bãi rác Nam Sơn và Lâm Du
đang hoạt động, trong đó bãi rác Lâm Du chủ yếu dùng để chôn lấp rác xây dựng
[9,24].
Tại Đà Nẵng, cùng với sự phát triển của thành phố, chất thải rắn đã gia tăng
nhanh chóng. Năm 2003 tổng lượng rác thải thu gom của thành phố là 208.000 tấn,
tương đương 569 tấn/ngày, trong đó rác từ các hộ dân là 149.000 tấn/năm (408
tấn/ngày). Đến năm 2004, tổng lượng rác thu gom từ hộ dân là 400- 500 tấn/ngày.

Ước tính toàn thành phố Đà Nẵng thải ra khoảng 1200 tấn chất thải rắn mỗi ngày, tỷ
lệ thu gom đạt 86% (2006), lượng rác còn thải ra các ao hồ, sông kênh rạch. Vào
những ngày Tết lượng rác tăng lên 2000 tấn/ngày (tương đương 4000m3/ngày) [27].
Qua đó chúng ta nhận thấy, rác thải và sự phát sinh rác thải đang là áp hực
đối với con người cũng như môi trường. Rác thải có thể được xem là một dạng tài
nguyên nến có biện pháp quản lý và xử lý hiệu quả. Những tác động đến của rác
thải là rất lớn vì vậy cần có quy trình quản lý chất thải rắn chặt chẽ hơn từ các cấp
chính quyền và nâng cao nhân thức của người dân trong việc thải chất thải rắn.
1.2.6. Ảnh hƣởng của CTR đến môi trƣờng và sức khỏe con ngƣời
1.2.6.1. Ảnh hưởng của chất thải rắn đến môi trường [2,6,7]
Hiện nay tổng lượng rác thải sinh hoạt thải ra ở các đô thị nước ta vào
khoảng 50.000 tấn/ngày, nhưng mới chỉ thu gom được khoảng 55- 60%. Điều kiện
chủ yếu để đảm bảo tốt công tác vệ sinh môi trường ở khu dân cư đô thị là phải có
kế hoạch làm sạch và quét dọn thường xuyên các chất thải rắn, đó là các loại rác
sinh hoạt: thức ăn dư thừa, các loại rác đường phố… Rác thải thu gom được chủ
yếu đổ vào các bãi rác một cách tạm bợ, mà chưa được xử lý, chôn lấp theo quy
hoạch và hợp vệ sinh nên nó sẽ ảnh hưởng xấu đến môi trường [6].
Khối lượng CTR trong đô thị ngày càng tăng do tác động của quá trình đô thị
hóa, gia tăng dân số, phát triển kinh tế- xã hội và sự phát triển về trình độ và tính
cách tiêu dùng trong đô thị, dẫn đến chất thải rắn gây ô nhiễm, nhiễm khuẩn với
môi trường bao quanh con người như: đất, nước, không khí, nhà ở và các công trình

Trang 19


công cộng. Lượng rác thải không được xử lý tốt sẽ dẫn đến hàng loạt hậu quả tiêu
cực môi trường sống con người.
* Đối với môi trường nước: rác thải hữu cơ trong môi trường nước sẽ bị phân
hủy một cách nhanh chóng. Ngoài các sản phẩm này gây mùi hôi thối và độc hại đối
với sinh vật thủy sinh. Bên cạnh đó còn có nhiều loại vi trùng và siêu vi trùng làm ô

nhiễm nguồn nước. Đối với rác thải là kim loại gây hiện tượng ăn mòn trong môi
trường nước gây nhiễm bẩn nguồn nước nhất là các kim loại Hg, Pb hay các chất
phóng xạ.
* Đối với môi trường đất: chất hữu cơ sẽ được phân hủy trong chất tạo
khoáng, nước, khí CO2. Nếu trong môi trường yếm khí sản phảm cuối cùng là khí
CH4, CO2, nước gây độc cho môi trường. Ô nhiễm này cùng với ô nhiễm kim loại
nặng, chất độc hại theo nước trong đất chảy xuống mạch nước ngầm, làm ô nhiễm
mạch nước ngầm.
* Đối với môi trương không khí: các chất thải rắn thường có bộ phận có thể
bay hơi và mang theo mùi làm ô nhiễm không khí nhất là rác thực phẩm, nông
phẩm không được xử lý kịp thời và đúng kỹ thuật. Rác sinh ra các khí NH3, CO2,
CO, H2S, CH4. Nếu không được xử lý thì các khí này sẽ bay vào khí quyển gây
nguy hiểm gây nguy hiểm cho sinh vật và môi trường. Các nhà môi trường học đã
chứng minh rằng 15% tác hại gây ra hiện tượng nhà kính là từ các hiện tượng này.
1.2.6.2. Ảnh hưởng của chất thải rắn đến con người [4]
CTR sau khi được phát sinh từ các hộ gia đình, thương mại dịch vụ… Xâm
nhập vào môi trường không khí dưới dạng bụi phân hủy như H2S, NH3, NH4… rồi
theo đường hô hấp đi vào cơ thể con người hay sinh vật. Một bộ phận khác đặc biệt
là chất hữu cơ, các kim loại nặng, các bệnh truyền nhiễm xâm nhập vào nguồn nước
hay môi trường đất rồi vào cơ thể con người qua đường thức ăn, nước uống. Ngoài
những chất hữu có thể bị phân rã nhanh chóng, rác thải còn chứa những chất rất khó
bị phân hủy (như plastic) làm tăng thời gian tồn động của rác trong môi trường. Mặt
khác, việc xử lý chất thải rắn luôn phát sinh những nguồn gây ô nhiễm, nếu không
có biện pháp xử lý triệt để dẫn đến môi trường sống phát sinh nhiều bệnh tật dịch
bệnh. Tác hại chất thải đến con người được thể hiện ở sơ đồ 1.2.2

Trang 20




×