Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Khóa luận tốt nghiệp : Đánh giá hiện trạng và đề xuất biện pháp quản lý chất thải rắn y tế tại TP quy nhơn tỉnh bình định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 91 trang )

Đồ án tốt nghiệp GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhờ những thay đổi có tính chiến lược trong đường lối xây dựng kinh tế - xã
hội của Đảng và Chính phủ ta, Thành phố Quy Nhơn đang bước vào một thời kỳ
đổi mới toàn diện, trong đó các hoạt động đang chuyển từ tình trạng chậm phát
triển sang một nhịp điệu mới sinh động và bước đầu đã đạt được nhiều hiệu quả
kinh tế đáng khích lệ. Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội là quá trình cải tạo,
nâng cấp đô thị hiện có, mở rộng các khu đô thị mới, quy hoạch và xây dựng các
khu công nghiệp tập trung. Hiện nay thành phố Quy Nhơn hiện đã được công
nhận là thành phố loại I của cả nước.
Cũng như các thành phố khác trong cả nước, quy mô đô thị của thành phố
Quy Nhơn đang được mở rộng nhanh chóng, dân số đô thị ngày càng gia tăng.
Thành phố Quy Nhơn đã và đang không ngừng phát triển kinh tế - xã hội mà còn
ở các lĩnh vực dịch vụ. Quy Nhơn là một thành phố trung tâm hành chính kinh tế
của tỉnh, thu hút nhiều nhà đầu tư. Chính những điểm mạnh trên cũng đã kéo theo
ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, mà đặc biệt là CTR y tế không được quản lý
chặt chẽ làm ảnh hưởng đến môi trường nghiêm trọng.
Hiện nay ngành y tế ở các bệnh viện với các quy mô khác nhau tập trung chủ
yếu ở các khu đô thị với quy mô giường bệnh khá lớn. Khối y tế tư nhân từ phòng
khám đến bệnh viện tư nhân đang hoạt động, ngoài ra nhiều công ty, xí nghiệp
dược trong quá trình sản xuất cũng thải ra rất nhiều chất độc hại. Lượng chất thải
y tế ngày càng tăng dần do sự gia tăng dân số, mức sống, sự nâng cao khám chữa
bệnh.
Tuy nhiên, cho đến nay công tác quản lý chất thải tại hầu hết các bệnh viện
chưa thực hiện triệt để từ khâu thu gom, phân loại, vận chuyển và xử lý. Sự phân
công trách nhiệm chưa được cụ thể, thiếu nhân viên được đào tạo về quản lý chất
thải y tế, thiếu phương tiện vận chuyển, thu gom, sử dụng phương pháp đốt/chôn
lấp đơn giản… Vì thế các chất thải y tế nguy hại phát sinh từ hoạt động bệnh viện
đã và đang gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng gây ảnh hưởng trực tiếp đến
sức khỏe của cộng đồng xã hội.


SVTH: Đồng Thị Phiên 1
Đồ án tốt nghiệp GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
Nhận thức của cộng đồng nói chung và nhân viên y tế nói riêng về nguy cơ
tiềm ẩn trong chất thải bệnh viện còn kém, chính vì vậy dòng chất thải bệnh viện
đã và đang hoà lẫn vào dòng chất thải khác, đặc biệt là dòng chất thải sinh hoạt.
Đây là điều hết sức nguy hiểm cho sức khỏe cộng đồng. Việc quản lý chất thải
rắn bệnh viện tại thành phố Quy Nhơn cũng nằm trong bối cảnh chung, do đó
việc cải thiện điều kiện quản lý chất thải bệnh viện tại thành phố Quy Nhơn nhằm
chủ động phòng bệnh và bảo vệ môi trường là vấn đề hết sức cấp bách.
Trước những hiện trạng thực tế trên, hiện trạng quản lý CTR y tế trên địa bàn
thành phố Quy Nhơn đang là một vấn đề nan giải, gây khó khăn cho công tác thu
gom, vận chuyển và xử lý. Ngoài ra còn làm tốn kém kinh phí và gây ô nhiễm
môi trường. Chính những lý do trên, nhằm góp phần làm cho công tác quản lý,
thu gom cũng như vận chuyển, xử lý CTR y tế đạt được hiệu quả. Chính vì vậy
mà đề tài “Đánh giá hiện trạng và đề xuất biện pháp quản lý chất thải rắn y
tế tại thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định” được thực hiện với mục tiêu tìm
hiểu công tác quản lý CTR y tế để từ đó đưa ra những giải pháp tối ưu nhằm giải
quyết những vấn đề nan giải hiện nay của thành phố Quy Nhơn.
2. Mục đích nghiên cứu
Thông qua các số liệu thu thập và thông tin về hệ thống thu gom, vận chuyển
CTRYT trên địa bàn thành phố Quy Nhơn nhằm tìm hiểu rõ hơn về cách quản lý
CTRYT.
- Đánh giá hiện trạng hệ thống quản lý CTRYT trên địa bàn thành phố Quy
Nhơn (nguồn, thu gom, vận chuyển, xử lý,…).
- Dự báo tốc độ phát sinh CTRYT trong những năm sắp tới (tính đến năm
2020).
- Đề xuất các giải pháp quản lý tối ưu để dạt được hiệu quả trong công tác quản
lý CTRYT trên địa bàn TP. Quy Nhơn.
3. Nội dung nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu cần nghiên cứu, các nội dung của luận văn tập trung chủ

yếu vào các vấn đề trọng tâm của đề tài :
SVTH: Đồng Thị Phiên 2
Đồ án tốt nghiệp GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
- Tổng quan về CTRYT & hệ thống các phương pháp quản lý CTR y tế.
- Tổng quan về thành phố Quy Nhơn phục vụ cho quá trình làm luận văn.
- Đánh giá hiện trạng quản lý CTRYT ở thành phố Quy Nhơn.
- Đề xuất các biện pháp để cải thiện tình hình quản lý chất thải rắn y tế cho hiện
tại và tương lai của thành phố.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1 Phương pháp luận
Thu thập số liệu đã được thống kê về lượng CRT y tế phát sinh cũng như
nguồn phát sinh, công tác thu gom, vận chuyển và xử lý,…trên địa bàn thành phố
Quy Nhơn. Mà điều đáng quan tâm là CTR y tế nếu không được quản lý tốt sẽ
lây lan, truyền nhiễm các bệnh nguy hiểm cho mọi người xung quanh khi tiếp
xúc.
Đưa ra những dự báo phát sinh lượng CTR y tế trong tương lai (tính đến
2020) cũng như những ảnh hưởng của CTR y tế đến sức khoẻ cộng động và môi
trường.
Việc lưu trữ, thu gom, vận chuyển và xử lý chưa đạt được hiệu quả. Do đó,
làm ảnh hưởng đến vẻ mỹ quan của thành phố và gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng. Từ đó đề xuất biện pháp quản lý CTR y tế trên địa bàn thành phố
Quy Nhơn cho phù hợp với tình hình hiện nay.
Nhằm đạt được những hiệu quả cao trong công tác thu gom, vận chuyển CTR
y tế thì trước hết cần đưa ra sơ đồ hoá cụ thể cách quản lý CTR y tế cho thành
phố Quy Nhơn.
4.2 Phương pháp nghiên cứu cụ thể
4.2.1 Tham khảo tài liệu
Sưu tầm và thu thập dữ liệu thông qua các tài liệu đã được nghiên cứu. Đây là
bước không thể thiếu trong quá trình làm nghiên cứu. Số liệu thu thập đã được
công bố rộng rãi có liên quan đến CTRYT.

Tìm hiểu các bài luận văn mẫu, các bài nghiên cứu khoa học cấp quốc gia có
liên quan đã được công nhận thông qua các phương tiện như: báo chí, internet,…
SVTH: Đồng Thị Phiên 3
Đồ án tốt nghiệp GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
Tham khảo các bài giảng có nội dung liên quan của các giáo viên các trường
để bài luận văn được hoàn chỉnh hơn.
4.2.2 Điều tra thực địa
Việc điều tra thực địa cũng rất quan trọng trong quá trình nghiên cứu, tận mắt
quan sát hiện trạng CTRYT đang tồn tại trong khu vực. Từ đó đưa ra những nhận
xét chính xác về công tác quản lý CTRYT tại thành phố Quy Nhơn. Công tác này
được thực hiện thông qua các chuyến khảo sát thực tế tại các bệnh viện, phòng
khám và trung tâm y tế để hiểu rõ hơn về tình hình thu gom, lưu trữ CTR y tế trên
địa bàn thành phố Quy Nhơn.
Phát phiếu thăm dò cho các đối tượng như: cán bộ chuyên môn, nhân viên vệ
sinh của bệnh viện, nhân viên thu gom, người dân,…để đưa ra ý kiến của từng cá
nhân mà đưa ra ý kiến chung nhất.
Thu thập số liệu về lượng CRT y tế phát sinh tại các cơ quan quản lý.
5. Thời gian nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu luận văn là 12 tuần. Luận văn được tính bắt đầu từ ngày
01 tháng 11 năm 2010 đến 23 tháng 01 năm 2011.
6. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn chủ yếu:
- Chất thải rắn y tế từ bệnh viện.
- Chất thải rắn y tế tại các trung tâm y tế.
- Chất thải rắn y tế từ nhà máy, xí nghiệp sản xuất dược phẩm.
- Chất thải rắn y tế từ các phòng khám tư nhân.
- Chất thải rắn y tế từ các hộ gia đình và nhà thuốc tây.
Phạm vi nghiên cứu: do thời gian có hạn nên phạm vi nghiên cứu chỉ tập trung
chủ yếu vào chất thải rắn y tế và phạm vi nghiên cứu trong địa bàn khu vực thành
phố Quy Nhơn.

7. Y nghĩa khoa học, kinh tế và xã hội của đề tài
- Y nghĩa khoa học
SVTH: Đồng Thị Phiên 4
Đồ án tốt nghiệp GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
Đề tài là cơ sở dữ liệu đầy đủ nhất về chất thải rắn y tế của thành phố Quy
Nhơn giúp tham mưu cho các nhà quản lý trong việc quản lý và quy hoạch CTR y
tế.
Xây dựng được biểu đồ CTR y tế phát sinh tại các bệnh viện và các phòng
khám tư nhân góp phần đơn giản hóa công tác thu gom, vận chuyển và xử lý.
Đề xuất được những giải pháp phù hợp nhất nhằm giải quyết được vấn đề
CTR y tế của thành phố trong thời gian tới.
- Y nghĩa kinh tế
Cung cấp các giải pháp quản lý chất thải rắn y tế một cách kinh tế và hợp lý
nhất.
Đề xuất các biện pháp quản lý CTR y tế và phương pháp xử lý hiệu quả làm
giảm chi phí mà nhà nước đầu tư.
Áp dụng các biện pháp giảm thiểu CTR y tế và thực hiện tái sử dụng, tái chế
trong lĩnh vực y tế.
- Y nghĩa xã hội
Giúp tạo môi trường trong sạch, giảm các tác động của chất thải rắn y tế, cải
thiện chất lượng cuộc sống cho người dân.
Giảm tới mức thấp nhất các ảnh hưởng của chất thải y tế đến môi trường và
sức khoẻ con người.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CHẤT THẢI RẮN Y TẾ
& HỆ THỐNG QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN Y TẾ
SVTH: Đồng Thị Phiên 5
Đồ án tốt nghiệp GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
1.1 Khái niệm về chất thải rắn y tế
Chất thải rắn là toàn bộ các loại vật chất được con người loại bỏ trong các
hoạt động kinh tế xã hội của mình (bao gồm các hoạt động sản xuất, các hoạt

động sống và duy trì sự tồn tại của cộng đồng ). Trong đó quan trọng nhất là các
loại chất thải sinh ra từ các hoạt động sản xuất và hoạt động sống.
Chất thải rắn y tế bao gồm một lượng lớn chất thải nói chung và một lượng
nhỏ hơn các chất thải có tính nguy hại cao. Chất thải y tế có thể tạo nên những
mối nguy cơ cho sức khoẻ con người.
Chất thải rắn y tế bao gồm tất cả các loại chất thải có chứa các vật chất của cơ
thể sống của người hoặc động vật, phát sinh từ các lĩnh vực chăm sóc bệnh nhân,
giải phẫu, nghiên cứu, các phương tiện chuyên chở hoặc y tế hoặc từ các công
việc khám nghiệm, xử lý tử thi, giải phẫu học, bệnh lý học, các công việc khám
chữa bệnh về răng miệng cũng như khám chữa bệnh thú y.
Mặc khác CTR y tế cũng bao gồm:
- Các vật sắc nhọn: khái niệm về các vật sắc nhọn bao gồm các vật dụng, đối
tượng, và thiết bị có đầu nhọn hoặc có các bộ phận lồi ra có có khả năng cắt
đứt hoặc xuyên qua vào da. Các vật này bao gồm kim tiêm dưới da, dao mổ,
ống thuốc tiêm vỡ lọ thuỷ tinh.
- Các dược liệu: khái niệm về các dược chất bao gồm các loại dược liệu, thuốc
tân dược sử dụng trong việc phòng tránh, chuẩn đoán, chăm sóc và chữa bệnh,
đau ốm, thương tích hoặc khuyết tật ở người hoặc động vật.
- Các độc chất đối với tế bào: các độc chất đối với tế bào bao gồm các dược
chất, thuốc chữa bệnh bảng độc có khả năng gây ung thư, làm ngưng trệ tế
bào, đầu độc tế bào, gây biến dị… Chúng được sử dụng trong việc điều trị ung
thư và có khả năng gây tổn thương cho da hoặc các mô tế bào nếu tiếp xúc với
chúng. Chất thải thuộc loại này cũng bao gồm cả các dụng cụ dùng để chứa
đựng và xử lý các độc chất đối với tế bào chẳng hạn như các vật sắc nhọn,
SVTH: Đồng Thị Phiên 6
Đồ án tốt nghiệp GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
bơm tiêm, dụng cụ, tiêm truyền tĩnh mạch, ống thuốc tiêm, chai lọ nhỏ đựng
thuốc, găng tay và băng gạc.
Ngoài ra, trong lĩnh vực y tế còn phát sinh các ô nhiễm khác:
- Chất thải rắn y tế phát sinh từ các lĩnh vực chăm sóc bệnh nhân, giải phẫu,

nghiên cứu, các phương tiện chuyên chở hoặc y tế và từ các công việc khám
nghiệm, xử lý tử thi, giải phẫu học, bệnh lý học cũng như khám chữa bệnh thú
y.
- Nước thải bệnh viện bao gồm nước thải sinh hoạt của cán bộ công nhân viên
làm việc trong bệnh viện, bệnh nhân và thân nhân bệnh nhân.
- Môi trường không khí tại các phòng xét nghiệm, kho hóa chất, dược phẩm,
các khí phóng xạ cũng như môi trường tại các lò đốt chất thải rắn y tế.
1.2 Thành phần và tính chất của chất thải rắn y tế
1.2.1 Thành phần
Chất thải rắn y tế bao gồm:
- Kim tiêm;
- Bơm tiêm kèm kim tiêm
- Thiết bị giải phẫu;
- Bông băng vệ sinh;
- Mô tế bào người hoặc động vật;
- Xương;
- Nội tạng;
- Bào thai hoặc các bộ phận xủa cơ thể;
- Bình, túi hoặc ống dẫn chứa các chất lỏng từ cơ thể;
- Tất cả các vật dụng và vật chất khác bị loại bỏ trong khuôn khổ quá trình thăm
khám và điều trị chuyên khoa, trong thực tế nghiên cứu về răng miệng hoặc
thú y, có nguy cơ tiềm tàng đối với sức khỏe của con người khi tiếp xúc với
chúng.
SVTH: Đồng Thị Phiên 7
Đồ án tốt nghiệp GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
Bảng 1.1: Thành phần trong chất thải rắn bệnh viện ở Việt Nam được thống kê
Thành phần Lượng
Giấy các loại 3%
Kim loại, vỏ hộp 0.7%
Thủy tinh, ống kiêm, chai lọ thuốc,bơm kim tiêm nhựa 3.2%

Bông băng, bột bó gãy xương 8.8%
Chai, túi nhựa các loại 10.1%
Bệnh phẩm 0.6%
Rác hữu cơ 52.57%
Đất đá và các loại vật rắn khác 21.03%
(Nguồn: Theo một số kết quả điều tra của dự án hợp tác giữa Bộ y tế và WHO, năm
2002)
1.2.2 Phân loại chất thải rắn y tế
Theo nguồn phát sinh chất thải y tế trong các cơ sở y tế được phân thành 5
loại như sau:
- Chất thải lâm sàng;
- Chất thải phóng xạ;
- Chất thải hóa học;
- Các bình chứa khí có áp suất;
- Chất thải sinh hoạt;
Chất thải lâm sàng: gồm có 5 nhóm:
- Nhóm A là chất thải nhiễm khuẩn, chất thải thuộc nhóm này có thể chứa các
mầm bệnh với số lượng và mật độ để có thể gây bệnh cho cơ thể vật chủ nhạy
cảm. chất thải loại này có thể bị nhiễm khuẩn bởi bất kỳ một loại vi khuẩn,
virus, ký sinh trùng, nấm.
 Chất thải nhóm A bao gồm vật liệu bị thấm máu, thấm dịch, các chất bài
tiết của người bệnh như băng, gạc, bông găng tay, bột bó trong gãy xương
hở, đồ vải, các túi hậu môn nhân tạo, dây truyền máu, các ống thông, dây
và túi đựng dịch dẫn lưu …
SVTH: Đồng Thị Phiên 8
Đồ án tốt nghiệp GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
- Nhóm B là các vật sắc nhọn, bao gồm: Bơm tiêm, kim tiêm, lưỡi và cán dao
mổ, đinh mổ, cưa, các ống tiêm, mảnh tủy tinh vỡ và mọi vật liệu có thể gây
ra các vết cắt hoặc chọc thủng, cho dù chúng có thể bị nhiễm khuẩn hoặc
không nhiễm khuẩn.

- Nhóm C là chất thải có nguy cơ lây nhiễm cao phát sinh từ các phòng xét
nghiệm, bao gồm: găng tay, lam kính, ống nghiệm, bệnh phẩm sau khi sinh
thiết/xét nghiệm/nuôi cấy, túi đựng máu…
- Nhóm D là chất thải dược phẩm bao gồm: Dược phẩm quá hạn, dược phẩm bị
nhiễm khuẩn, dược phẩm bị đổ, dược phẩm không còn nhu cầu sử dụng. Chú
ý những vỏ thuốc, vỉ thuốc không còn thuốc, các chai nhựa và thủy tinh đựng
dịch truyền huyết thanh là chất thải sinh hoạt.
 Thuốc gây độc cho tế bào, các thuốc gây suy giảm miễn dịch chủ yếu dùng
tại các chuyên khoa ung bướu. Chúng là các thuốc ung thư hoặc các thuốc
hóa trị liệu ung thư. Thuốc có khả năng phá hủy hoặc ngừng sự tăng
trưởng của các tế bào, các thuốc này đóng vai trò quan trọng trong việc
điều trị các bệnh ung thư song cũng là các thuốc gây suy giảm miễn dịch
trong việc ghép các phủ tạng hoặc điều trị các bệnh có liên quan tới miễn
dịch. Thuốc thông thường được sử dụng bằng đường tiêm, đường truyền
và đôi khi bằng đường uống dưới dạng viên nén, viên nang hoặc các thuốc
nước uống.
Các chất gây độc cho tế bào bao gồm:
 Các vật liệu bị ô nhiễm trong quá trình chuẩn bị và dùng thuốc cho người
bệnh như bơm tiêm, kim tiêm, gạc, các lọ thuốc, hộp đóng gói…
 Các thuốc qua hạn, các dung dịch còn thừa lại, các độc chất tế bào từ các
buồng bệnh đưa về.
 Nước tiểu, phân, chất nôn có thể gây nguy hại do chứa thuốc gây độc tế
bào hoặc các sản phẩm chuyển hóa của chúng. Các chất thải của người
bệnh được diều trị bằng các thuốc gây độc tế bào cần xem như các chất
SVTH: Đồng Thị Phiên 9
Đồ án tốt nghiệp GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
gây độc trong vòng ít nhất là 48 giờ hoặc đôi khi hàng tuần sau khi dùng
thuốc.
 Tại các bệnh viện chuyên khoa ung thư, các chất thải gây độc tế bào có thể
chiếm tới 1% toàn bộ chât thải của bệnh viện.

- Nhóm E là các mô và cơ quan người – động vật, bao gồm: tất cả các mô của
cơ quan cơ thể (dù nhiễm khuẩn hoặc không nhiễm khuẩn ); các cơ quan,
chân tay, bào thai, xác xúc vật thí nghiệm.
Chất thải phóng xạ
- Tại các cơ sở y tế, chất thải phóng xạ phát sinh từ các hoạt động chuẩn đoán,
hóa trị liệu và nghiên cứu. Chất thải phóng xạ bao gồm: chất thải rắn, lỏng,
khí.
- Chất thải phóng xạ rắn bao gồm: các vật liệu sử dụng trong các xét nghiệm,
chuẩn đoán, điều trị, như ống tiêm, bơm tiêm, kim tiêm, kính bảo hộ, giáy
thấm, gạc sát khuẩn, ống nghiệm, chai lọ đựng chất phóng xạ…
- Chất thải phóng xạ lỏng bao gồm: dung dịch có chứa nhân phóng xạ phát sinh
trong quá trình chuẩn đoán, điều trị như nước tiểu của người bệnh, các chất
bài tiết, nước súc rửa các dụng cụ có chứa phóng xạ…
- Chất thải phóng xạ khí bao gồm: các chất khí dùng trong lâm sàng như 133
Xe, các khí thoát ra từ các kho chứa chát phóng xạ…
Bảng 1.2: Các hạt nhân phóng xạ sử dụng trong các cở sở y tế
Hạt nhân
nguyên tử
Các hạt phóng
xạ
Thời gian bán
phân rã
Ứng dụng
3H
14C
32P
51Cr
57Co
59Fe
67Ga

75Se
99mTc
123I
125I
Hạt beta
Hạt beta
Hạt beta
Tia gamma
Hạt beta
Hạt beta
Tia gamma
Tia gamma
Tia gamma
Tia gamma
Tia gamma
12,3 năm
5730 năm
14,3 ngày
27,8 ngày
270 ngày
45,5 ngày
72 giờ
120 ngày
6 giờ
13 giờ
60 ngày
Nghiên cứu
Nghiên cứu
Trị liệu
Chuẩn đoán in viro

Chuẩn đoán in viro
Chuẩn đoán in viro
Chuẩn đoán hình ảnh
Chuẩn đoán hình ảnh
Chuẩn đoán hình ảnh
Chuẩn đoán hình ảnh
Chuẩn đoán hình ảnh
SVTH: Đồng Thị Phiên 10
Đồ án tốt nghiệp GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
131I
133Xe
Hạt beta
Hạt beta
8 ngày
5,3 ngày
Trị liệu, nghiêm cứu
Chuẩn đoán hình ảnh
(Nguồn: Tổ chức y tế thế giới, “ Quản lý chất thải rắn y tế” (WHO 1991).)
Chất thải hóa học phát sinh từ các nguồn khác nhau trong các hoạt động của
các cơ sở y tế nhưng chủ yếu là từ các phòng xét nghiệm và các hoạt động liên
quan như xét nghiệm, vệ sinh, khử khuẩn. Chất thải hóa học bao gồm các chất
thải rắn, lỏng và các hóa chất ở dạng khí.
Các chất hóa học có thể gây ra hàng loạt các nguy hại trong quá trình tiêu hủy
dưới dạng đơn chất hoặc kết hợp với các chất hóa học. Vì vậy, phải phân loại
chất thải hóa học thành hai loại, chất thải hóa học không nguy hại và chất thải hóa
học nguy hại.
Chất thải hóa học được coi là nguy hại nếu có ít nhất một trong các đặc tính
sau:
- Gây độc
- Ăn mòn như axít có độ pH < 2 hoặc có độ kiềm >12

- Dễ cháy
- Hoạt hóa (gây nổ, hoạt hóa trong nước)
- Chất thải hóa học không nguy hại như đường, a xít béo, một số muối vô cơ và
các hữu cơ.
Chất thải hóa học nguy hại là Formaldehyde: đây là chất thường được dùng
trong bệnh viện, nó được sử dụng để là vệ sinh, khử khuẩn dụng cụ (như dụng cụ
lọc màng bụng hoặc dụng cụ phẫu thuật), để bảo quản các bệnh phẩm hoặc khử
khuẩn các chất thải lỏng nhiễm khuẩn. nó được sử dụng tại các khoa giải phẩu
bệnh lọc máu, ướp xác và dùng để bảo quản các mẫu xét nghiệm ở một số khoa
khác.
Các hóa chất quang hóa học: các chất này có trong các dung dịch dùng cố
định và tráng phim được dùng trong các khoa X-quang. Các chất cố định thường
chứa 5 – 10% hydroquynone, 1 – 5% kalihydroxide, dưới 1% bạc. Các chất tráng
chứa khoảng 45%glutaraldehyde.
SVTH: Đồng Thị Phiên 11
Đồ án tốt nghiệp GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
Các dung môi: Các dung môi dung trong cơ sở y tế bao gồm: các hợp chất
halogen như methylene chloride, chloroform, freons, trichloro ethylene, các thuốc
mê bốc hơi như halothane; các hợp chất không có halogen như xylen, acetone,
isopropanol, toluen, ethyl acetate và acetonitrile.
Oxit ethylene: Oxit ethylene được sử dụng để tiệt khuẩn các thiết bị y tế,
phòng phẫu thuật nên được đóng thành bình và gắn với thiết bị tiệt khuẩn. Loại
khí này có thể gây ra nhiều độc tính và có thể gây ra ung thư ở người.
Các chát hóa học hỗn hợp: Bao gồm các dung dịch làm sạch và khử khuẩn
như phenol, dầu mỡ và các dung môi làm vệ sinh…
Các bình chứa khí áp suất: các cơ sở y tế thường có các bình chứa khí có áp
suất như bình đựng oxy, CO
2
, bình gas, bình khí dung và các bình đựng khí dùng
một lần. Các bình này đễ gây cháy, nổ khi thiêu đốt vì vậy phải thu gom riêng.

Chất thải sinh hoạt: chất thải sinh hoạt không bị nhiễm các yêu tố nguy hại,
phát sinh từ các buồng bệnh, phòng làm việc, hành lang, các bộ phận cung ứng,
nhà kho, nhà giặt, nhà ăn… bao gồm: giấy bao, tài liệu, vật liệu đóng gói, thùng
cát tông, túi nilon, túi đựng phim, vật liệu gói thực phẩm, thức ăn dư thừa của
người bệnh và chất thải quét dọn từ các sàn nhà.
Chất thải ngoại cảnh: lá cây và chất thải từ các khu vực ngoại cảnh.
1.3 Lượng chất thải phát sinh tại các cơ sở y tế
1.3.1 Lượng chất thải phát sinh tại các nước trên thế giới
Theo tài liệu của Tổ chức Y tế thế giới, lượng chất thải phát sinh tại các nước
như sau:
Bảng 1.3: Lượng chất thải phát sinh tại tại các nước theo tuyến bệnh viện
SVTH: Đồng Thị Phiên 12
Đồ án tốt nghiệp GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
(Nguồn: Tổ chức Y tế thế giới, năm 2002)
Bảng 1.4: Lượng chất thải y tế phát sinh tại các châu lục
(Nguồn: Tổ chức Y tế thế giới, năm 2002)
1.3.2 Lượng chất thải y tế phát sinh tại các bệnh viện ở Việt Nam
Theo kết quả khảo sát của bộ y tế tại các bệnh viện lượng chất thải phát sinh
tại các bệnh viện như sau:
Bảng 1.5: Lượng chất th ải phát sinh tại các bệnh viện
(Nguồn: Quy chế quản lý chất thải y tế, năm 2004)
SVTH: Đồng Thị Phiên 13
Tuyến bệnh viện
Tổng lượng chất thải
(Kg/giường bệnh/Ngày)
CTRYT nguy hại
(Kg/giường bệnh/Ngày)
Bệnh viện TW 4,1 – 8,7 0,4 – 1,6
Bệnh viện tỉnh 2,1 – 4,2 0,2 –1,1
Bệnh viện huyện 0,5 – 1,8 0,1 – 0,4

Châu lục
Tổng lượng chất thải
(Kg/giường bệnh/Ngày)
CTRYT nguy hại
(Kg/giường bệnh/Ngày)
Bắc Mỹ 7 – 10 0,7 – 2,0
Mỹ Latinh 3 – 6 0,3 – 1,2
Đông Á
Các nước có thu nhập cao
Các nước có thu nhập trung
bình
2,5 – 4
1,8 – 2 2
0,3 – 0,8
0,2 – 0,5
Đông Âu 1,4 – 2 0,2 – 0,4
Trung Đông 1,3 – 3 0,2 – 0,6
Tuyến bệnh viện
Tổng lượng chất thải
(Kg/giường bệnh/ ngày)
CTRYT nguy hại
(Kg/giường bệnh/ ngày)
Bệnh viện TW 0,97 0,16
Bệnh viện tỉnh 0,88 0,14
Bệnh viện huyện 0,73 0,11
Chung 0,86 0,14
Đồ án tốt nghiệp GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
Hiện nay ở Việt Nam có khoảng hơn 1000 bệnh viện, hằng ngày các bệnh
viện sẽ phát sinh ra trung bình mỗi ngày 30 tấn chất thải rắn y tế cần phải xử lý
để đảm bảo vệ sinh cũng như an toàn cho môi trường xung quanh.

1.4 Phân tích nguy cơ và ảnh hưởng của chất thải y tế đến cộng đồng và môi
trường
1.4.1 Những nguy cơ của chất thải y tế
1.4.1.1 Bản chất mối nguy cơ của chất thải y tế
Việc tiếp xúc với các chất thải y tế có thể gây nên bệnh tật hoặc tổn thương.
Bản chất mối nguy cơ của chất thải ytế có thể được tạo ra do một hoặc nhiều đặc
trưng cơ bản sau:
- Chất thải y tế chứa đựng các yếu tố truyền nhiễm;
- Là chất độc hại có trong rác thải y tế;
- Các loại hoá chất và dược phẩm nguy hiểm;
- Các chất thải phóng xạ;
- Các vật sắc nhọn.
1.4.1.2 Những đối tượng có thể tiếp xúc với nguy cơ
Tất cả các cá nhân tiếp xúc với chất thải y tế nguy hại là những người có nguy
cơ tiềm tàng, bao gồm những người làm việc trong các cơ sở y tế, những người ở
ngoài cơ sở y tế làm nhiệm vụ vận chuyển các chất thải y tế và những người trong
cộng đồng bị phơi nhiễm với chất thải do hậu quả của sự sai xót trong khâu quản
lý. Dưới đây là những nhóm chính có nguy cơ cao:
- Bác sỹ, y tá, hộ lý, và các nhân viên hành chính của bệnh viện;
- Bệnh nhân điều trị ngoại trú hoặc nội trú;
- Khách tới thăm hoặc người nhà nuôi bệnh nhân;
- Những công nhân làm việc trong các dịch vụ hỗ trợ phục vụ cho các cơ sở
khám chữa bệnh và điều trị, chẳng hạn như giặt là, lao công, vận chuyển bệnh
nhân…
SVTH: Đồng Thị Phiên 14
Đồ án tốt nghiệp GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
- Những người làm việc trong các cơ sở xử lý chất thải (tại các bãi đổ rác thải,
các lò đốt rác) và những người bới rác.
Ngoài ra còn có các mối nguy cơ liên quan với các nguồn chất thải y tế quy
mô nhỏ, rải rác, dễ bị bỏ quên. Chất thải từ những nguồn này có thể sản sinh ra từ

những tủ thuốc gia đình hoặc do những kẻ tiêm chích ma tuý vứt ra.
1.4.1.3 Nguy cơ các vi khuẩn gây bệnh
Với hầu hết mọi người trong chúng ta, thì các vi khuẩn gây bệnh là mối đe
dọa lớn nhất từ môi trường đối với sức khỏe. Chúng ta cần nhận biết và luôn cảnh
giác với các nguy cơ sinh học do mối đe dọa của chúng ta đối với đa số dân số
trên hành tinh. Hiện nay có nhiều dịch bệnh do vi khuẩn gây ra bệnh hàng lọt,
chúng ta phải khổ sở phòng và chữa bệnh.
Bảng 1.6: Một số bệnh truyền nhiễm và ký sinh thường gặp
Bệnh Số ca mới mỗi năm Số tử vong hàng năm
Hô hấp (bao gồm viêm phổi, lao,
cúm và ho)
1 tỷ 5 – 7 triệu
Tiêu chảy 1 tỷ 5 triệu
Sốt rét 500 triệu 2 triệu
Sởi 200 triệu 2 triệu
AIDS 2 triệu 1 triệu
Uốn ván 1 triệu 600.000
Bại liệt 2 triệu 200.000
Giun sán 1 tỷ 200.000
(Nguồn: Theo trung tâm dữ liệu quốc tế)
Trên thế giới, các bệnh hô hấp (viêm phổi, lao, cúm và ho) là nhóm có thể gây
tử vong cao hơn các nhóm bệnh khác. Các bệnh truyền nhiễm liên quan với hệ
tiêu hóa (như tiêu chảy, lỵ và tả) gây bởi các vi khuẩn hoặc vi sinh vật đơn bào
đứng thứ 2 về số ca mỗi năm và số tử vong.
Các bệnh truyền nhiễm và thiếu dinh dưỡng tạo ra một vòng lẩn quẩn. những
người thiếu dinh dưỡng có nguy cơ bị lây nhiễm bệnh tật cao trong khi đó các
bệnh lây nhiễm thường gây tiêu chảy và nôn, như vậy làm cho người đó khó khăn
hơn trong việc thu nhận, hấp thụ và lưu giữ thức ăn. Cải thiện điều kiện vệ sinh
SVTH: Đồng Thị Phiên 15
Đồ án tốt nghiệp GVHD: ThS. Vũ Hải Yến

và chất lượng thực phẩm có thể ngăn ngừa hầu hết các bệnh truyền nhiễm và tiêu
hóa.
Bệnh lao và các bệnh đường hô hấp khác là nguyên nhân hàng đầu gây tử
vong ở các nước cận nhiệt đới. Căn bệnh khủng khiếp này đã bị đẩy lùi nhờ việc
cải thiện điều kiện vệ sinh và tiêm chủng. Tuy vậy, ngày nay các vi khuẩn lao đã
trở nên kháng thuốc và đang xuất hiện trở lại tại rất nhiều quốc gia.
Ở bệnh sốt rét, các tế bào hồng cầu bị nhiễm ký sinh trùng dạng đơn bào. Đây
có thể là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu tại các nước nhiệt đới có độ ẩm cao,
nơi muỗi Anpheles – trung gian gây bệnh phát triển mạnh mẽ. Việc phun thuốc
diệt muỗi đã làm giảm đáng kể số ca sốt rét. Tuy nhiên, từ đó các loài muỗi cũng
bắt đầu trở nên kháng với các hoá chất và bệnh sốt rét đã xuất hiện trở lại, trong
một số trường hợp với mức độ cao hơn.
1.4.1.4 Nguy cơ nghề nghiệp đối với các chất gây bệnh có nguồn gốc từ máu
Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS) và bệnh viêm gam siêu vi B
đáng được sự quan tâm nghiêm túc của những người trong nghề nghiệp phải tiếp
xúc với máu, các vật phẩm và chất liệu có nguy cơ lây nhiễm tiềm tàng khác,
cũng như một số chất lỏng từ cơ thể người có chứa các chất gây bệnh có nguy cơ
nguồn gốc từ máu như virus suy giảm miễn giảm ở người (HIV) và virus viêm
gan B (HBV). Theo ước tính của tổ chức quản lí sức khoẻ và an toàn lao động
(OSHA), có tới trên 5,6 triệu người làm việc trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ và
an toàn xã hội có nguy cơ tiềm tàng đối với các virus này.
Theo thống kê thì những người này bao gồm (tuy nhiên không chỉ giới hạn ở
các đối tượng nào) bác sỹ Y khoa, nha sĩ, những người làm công tác chăm sóc
răng miệng, y tá chuyên tiêm truyền tĩnh mạch, điều dưỡng viên, nhân viên lễ
tang, trợ giúp y tế, bác sĩ thăm khám, nhân viên kỹ thuật và công nghệ tại các
ngân hàng máu, nhân viên quản gia, công nhân giặt là, nhân viên trong các dịch
vụ chăm sóc sức khoẻ dài hạn cũng như chăm sóc sức khoẻ tại gia.
Các đối tượng khác, tuỳ theo dạng thức và hợp đồng làm việc, cũng chịu
những nguy cơ tiềm tàng đối với các chất gây bệnh có nguồn gốc từ máu và lây
SVTH: Đồng Thị Phiên 16

Đồ án tốt nghiệp GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
nhiễm khác chẳng hạn như cán bộ, nhân viên phòng thí nghiệm và những người
làm việc trong lĩnh vực an toàn xã hội (nhân viên cứu hoả, cảnh sát …).
Nguy cơ nghề nghiệp qua sự tiếp xúc với chất gây bệnh từ máu có thể xảy qua
rất nhiều cách. Mặc dù các vết thương do bị bơm kim tiêm chích thường xảy ra
nhiều nhất đối với các nhân viên chăm sóc sức khoẻ, thì các chất gây bệnh có
nguồn gốc từ máu cung có thể được lan truyền qua sự tiếp xúc của màng nhầy
hoặc phần da không nguyên vẹn của các nhân viên đó.
Tổ chức quản lý sức khoẻ và an toàn lao động (OSHA) nhận thấy sự cần thiết
của một quy phạm bảo vệ các nhân viên thuộc diện nói trên trước các nguy cơ về
sức khoẻ liên quan với các chất gây bệnh có nguồn gốc từ máu. Bởi vậy, qua việc
ban hành sâu rộng các tiêu chuẩn của mình, tổ chức này nhằm giảm bớt các rủi
ro nghề nghiệp đối với các bệnh có nguồn gốc từ máu.
1.4.1.5 Những nguy cơ từ chất thải truyền nhiễm và các vật sắc nhọn
Các vật thể trong thành phần của chất thải rắn y tế có thể chứa đựng một
lượng rất lớn các tác nhân vi sinh vật gây bệnh truyền nhiễm nào. Các tác nhân
gây bệnh này có thể xâm nhập vào cơ thể người thông qua các cách thức sau:
- Qua da (qua một vết thủng, trầy xước hoặc vết cắt trên da).
- Qua các niêm mạc (màng nhầy).
- Qua đường hô hấp (do xông, hít phải).
- Qua đường tiêu hoá.
Các ví dụ về sự nhiễm khuẩn gây ra do tiếp xúc với chất thải y tế được liệt kê
trong bảng dưới đây qua đường truyền là các dịch thể như: máu, dịch não tuỷ,
chất nôn, nước mắt, tuyến nhờn,…
Có một mối liên quan đặc biệt giữa sự nhiễm khuẩn do virus gây suy giảm
miễn dịch người (HIV) và virus viêm gan B, C đó là những bằng chứng của việc
lan truyền các bệnh truyền nhiễm qua đường rác thải y tế. Những virus này
thường lan truyên qua vết tiêm hoặc các tổn thương do kim tiêm có nhiễm máu
người bệnh.
SVTH: Đồng Thị Phiên 17

Đồ án tốt nghiệp GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
Trong các cơ sở y tế, tính đề kháng của khuẩn đối với các loại thuốc kháng
sinh và các hoá chất sát khuẩn cũng có thể góp phần tạo ra những mối nguy cơ do
sự quản lý yếu kém các chất thải y tế. Điều này đã được chứng minh, chẳng hạn
từ các plasmit từ các động vật thí nghiệm có trong chất thải y tế đã được truyền
cho vi khuẩn gốc qua hệ thống xử lý chất thải. Hơn nữa, vi khuẩn E.Coli kháng
thuốc đã cho thấy nó vẫn sống trong môi trường bùn hoạt tính mặc dù ở đó có vẻ
như không phải là môi trường thuận lợi cho sinh vật này trong điều kiện thông
thường của hệ thống thải bỏ và xử lý rác, nước.
Độ tập trung của các tác nhân gây bệnh và các vật sắc nhọn bị nhiễm các vi
sinh vật gây bệnh (đặc biệt là những mũi kim tiêm qua da) hầu như là những mối
nguy cơ tiềm ẩn sâu sắc đối với sức khoẻ trong các loại chất thải bệnh viện. Các
vật sắc nhọn có thể không chỉ là những nguyên nhân gây ra các vết, vết đâm
thủng mà còn gây nhiễm trùng các vết thương nếu nó bị nhiễm các tác nhân gây
bệnh.
Tóm lại, những vật sắc nhọn được coi là một rác thải rất nguy hiểm bởi nó
gây những tổn thương kép: vừa gây tổn thương lại vừa lây truyền các bệnh
truyền nhiễm. Những vấn đề đáng lưu tâm là sự nhiễm trùng có thể được lây
truyền bởi sự xâm nhập của các tác nhân gây bệnh, ví dụ như nhiễm khuẩn huyết
do virus. Các loại kim tiêm đã tiêm qua da là một phần quan trọng của loại hình
chất thải sắc nhọn và là mối nguy hiểm đặc biệt bởi chúng thường bị dính máu
bệnh nhân.
Bảng 1.7: Nguy cơ mắc bệnh sau khi bị bơm kim tiêm bẩn xuyên qua da
Nhiễm khuẩn Nguy cơ
HIV 0,3%
Viêm gan B 3%
Viêm gan C 3 – 5%
Bảng 1.8: Các loại vi sinh vật và phương tiện lây truyền
Loại nhiễm khuẩn Vi sinh vật gây bệnh Phương tiện lây truyền
Nhiễm khuẩn tiêu hoá Nhóm Enterbacteria: Phân và chất nôn

SVTH: Đồng Thị Phiên 18
Đồ án tốt nghiệp GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
Salmonella; Shigella spp; Vibrio
cholerae; các loại giun sán
Nhiễm khuẩn hô hấp
VK lao, vius sở, Streptococcus
pneumoniae
Các loại dịch tiết, đờm
Nhiểm khuẩn mắt Vius herpes Dịch tiết của mắt
Nhiễm khuẩn sinh dục
Neisseria gonorrhoeae, vius
herpes
Dịch tiết sinh dục
Nhiễm khuẩn da Streptococcu spp Mủ
Bệnh than Bacillus anthracis
Chất tiết của da ( mồ hôi,
chất nhờn…)
Viêm màng não
Não mô cầu (Neisseria
meningitidis)
Dịch não tủy
AIDS HIV Máu, chất tiết sinh dục
Sốt xuất huyết
Các virus: Junin, Lassa, Ebola,
Marburg
Tất cả các sản phẩm máu
và dịch tiết
Nhiễm khuẩn huyết do
tụ cầu
Staphylococcus spp Máu

Nhiễm khuẩn huyết
( do các loại vi khuẩn
khác nhau )
Nhóm tụ cầu khuẩn
(Staphylococcus spp. chống
đông; Staphylococcus arueus);
Enterobacter; Enterococcus;
Klebssiflla; Streptococcus spp.
Máu
Nấm Candida Candida albican Máu
Viêm gan A Virus viêm gan A Phân
Viêm gan B,C Virus viêm gan B, C Máu, dịch thể
1.4.1.6 Những mối nguy cơ từ loại chất thải hóa chất và dược phẩm
Nhiều loại hóa chất và dược phẩm được sử dụng trong các cơ sở y tế là những
mối nguy cơ đe dọa sức khỏe con người (các độc dược, các chất gây độc gen,
chất ăn mòn, chất đễ cháy, các chất gây phản ứng, gây nổ, gây sốc phản vệ ).
Các loại chất này thường chiếm số lượng nhỏ trong chất thải y tế, với số lượng
lớn hơn có thể tìm thấy khi chúng quá hạn, dư thừa hoặc hết tác dụng cần vứt bỏ.
Chúng có thể gây nhiễm độc do tiếp xúc cấp tính và mạn tính, gây ra các tổn
thương như bỏng. Sự nhiễm độc này có thể là kết quả của quá trình hấp thụ hoá
chất hoặc dược phẩm qua da, qua niêm mạc, qua đường hô hấp hoặc đường tiêu
hoá. Việc tiếp xúc với các chất dễ cháy, chất ăn mòn, các hoá chất gây phản ứng
(formandehyd và các chất đễ bay hơi khác) có thể gây nên những tổn thương tới
SVTH: Đồng Thị Phiên 19
Đồ án tốt nghiệp GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
da, mắt hoặc niêm mạc đường hô hấp. Các tổn thương phổ biến hay gặp nhất là
các vết bỏng.
Các chất khử trùng là những thành phần đặc biệt quan trọng của nhóm này,
chúng thường được sử dụng với số lượng lớn và thường là những chất ăn mòn.
Cũng cần phải lưu ý rằng những loại hoá chất gây phản ứng có thể hình thành nên

các hỗn hợp thứ cấp có độc tính cao.
Các loại hoá chất diệt côn trùng quá hạn lưu trữ trong các thùng bị rò rỉ hoặc
túi rách thủng có thể ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sức khoẻ của bất cứ
ai tới gần và tiếp xúc với chúng. Trong những trận mưa lớn, các hoá chất diệt côn
trùng bị rò rỉ có thể thấm sâu vào đất và gây ô nhiễm nước ngầm. Sự nhiễm độc
có thể xảy ra do tiếp xúc trực tiếp với sản phẩm, do hít phải hơi độc hoặc do uống
phải nước hoặc ăn phải thức ăn đã bị nhiễm độc. Các mối nguy cơ khác có thể là
khả năng dẫn đến các vụ hoả hoạn hoặc gây ô nhiễm do việc xử lý chất thải
không đúng cách chẳng hạn như thiêu huỷ hoặc chôn lấp.
Các sản phẩm hoá chất được thải thẳng vào hệ thống cống thải có thể gây nên
các ảnh hưởng bất lợi tới hoạt động của hệ thống xử lý nước thải sinh học hoặc
gây ảnh hưởng độc hại tới hệ sinh thái tự nhiên nhận được sự tưới tiêu bằng
nguồn nước này. Những vấn đề tương tự như vậy cũng có thể bị gây ra do các sản
phẩm của quá trình bào chế dược phẩm bao gồm các kháng sinh và các loại thuốc
khác, do các kim loại nặng như thuỷ ngân, phenol và các dẫn xuất, các chất khử
trùng và tẩy uế.
Những nguy cơ từ chất thải gây độc gen ( genotoxic )
Đối với các nhân viên y tế chịu trách nhiệm tiếp xúc và xử lý và loại chất thải
gây độc gen, mức độ ảnh hưởng của những mối nguy cơ bị chi phối bởi sự kết
hợp giữa bản chất của chất độc và phạm vi, khoảng thời gian tiếp xúc với chất
độc đó. Quá trình tiếp xúc với các chất độc trong công tác y tế có thể xảy ra trong
lúc chuẩn bị hoặc trong quá trình điều trị bằng các thuốc đặc biệt hoặc bằng hoá
trị liệu. Những phương thức tiếp xúc chính là hít phải dạng bụi hoặc dạng phun
sương qua đường hô hấp ; hấp thụ qua da; qua đường tiêu hoá do ăn phải thực
phẩm nhiễm thuốc, hoá chất hoặc chất bẩn có tính độc. Việc nhiễm độc qua
SVTH: Đồng Thị Phiên 20
Đồ án tốt nghiệp GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
đường tiêu hoá là kết quả của những thói quen xấu chẳng hạn như dùng miệng để
hút ống pipet trong khi định lượng dung dịch. Mối nguy hiểm cũng có thể xảy ra
khi tiếp xúc với các loại dịch thể và các chất tiết của những bệnh nhân đang được

điều trị bằng hoá trị liệu.
Độc tính đối với tế bào của nhiều loại thuốc chống ung thư là tác động đến
các chu kỳ đặc biệt của tế bào, nhằm vào các quá trình đặc biệt trong nội bào như
quá trình tổng hợp ADN hoặc phân bào nguyên phân. Các thuốc chống ung thư
khác, chẳng hạn như nhóm ankyl hoá, không phải là pha đặc biệt, chỉ biểu hiện
độc tính tại một vài điểm trong chu kỳ tế bào. Các nghiên cứu thực nghiệm cho
thấy nhiều loại thuốc chống ung thư lại gây nên ung thư và gây đột biến. Khối u
thứ phát, xảy ra sau khi ung thư nguyên phát đã bị tiêu diệt, được biết hình thành
do sự kết hợp của các công thức hoá trị liệu.
Nhiều loại thuốc có độc tính gây kích thích cao độ và gây nên những hậu quả
huỷ hoại cục bộ sau khi tiếp xúc trực tiếp với da hoặc mắt. Chúng cũng có thể
gây chóng mặt, buồn nôn, đau đầu hoặc viêm da.
Cần phải đặc biệt cẩn thận trong việc sử dụng và vận chuyển chất thải
genotoxic, việc đào thải những chất thải như vậy vào môi trường có thể gây nên
những hậu quả sinh thái thảm khốc.
Bảng 1.9 : Các thuốc độc hại tế bào gây nguy hiểm cho mắt da
Tên nhóm Loại thuốc sử dụng
Nhóm Ankyl hoá
Các thuốc gây rộp da (gây nên mụn nước): Aclarubicin,
chlormethine, cisplatin, mitomycin
Các thuốc gây kích ứng da: Carmustine,
cyclophosphamide, dacarbazine, ifosphamide, melphalan,
streptozocin, thiotepa
Nhóm thuốc xen kẽ Các thuốc gây rộp da: Asacrine, dactinomycin,
SVTH: Đồng Thị Phiên 21
Đồ án tốt nghiệp GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
daumorybicin, doxorubicin, epirubicin, pirarubicin,
zorubicin
Các thuốc gây kích ứng da: Mitoxantrone
Các alkaloid thuộc nhóm

Vinca và các dẫn xuất
Các thuốc gây rộp da: Vinblastine, vin cristine, vindesine,
vinorelbine
Epipodophyllotoxins Các thuốc gây kích ứng da: Teniposide
1.4.1.7 Những nguy cơ từ các chất thải phóng xạ
Loại bệnh gây ra do chất thải phóng xạ được xác định bởi loại chất thải và
phạm vi tiếp xúc. Nó có thể là đau đầu, hoa mắt chóng mặt và nôn nhiều bất
thường. Bởi chất thải phóng xạ, cũng như loại chất thải dược phẩm, là một loại
độc hại gen, nó cũng có thể ảnh hưởng đến các yếu tố di truyền. Tiếp xúc với các
nguồn phóng xạ có hoạt tính cao, ví dụ như các nguồn phóng xạ của các phương
tiện chuẩn đoán (máy X quang, máy chụp cắt lớp ), có thể gây ra một loạt các
tổn thương (chẳng hạn như phá huỷ các mô, từ đó đòi hỏi phải dẫn đến việc xử lý
loại bỏ hoặc cắt cụt các phần cơ thể).
Các nguy cơ từ những loại chất thải có hoạt tính thấp có thể phát sinh do việc
nhiễm xạ trên phạm vi bề mặt của các vật chứa, do phương thức hoặc khoảng thời
gian lưu giữ loại chất chất thải này. Các nhân viên y tế hoặc những người làm
nhiệm vụ thu gom và vận chuyển rác thải thải phải tiếp xúc với loại chất thải
phóng xạ này là những người thuộc nhóm nguy cơ cao.
1.4.2 Ảnh hưởng của các loại chất thải y tế
1.4.2.1 Ảnh hưởng của loại chất thải truyền nhiễm và các vật sắc nhọn
Đối với những bệnh do virút gây ra như HIV/AIDS, viêm gan B hoặc C,
những nhân viên y tế, đặc biệt là các y tế là những người có nguy cơ nhiễm cao
nhất qua những vết thương do các vật sắc nhọn bị nhiễm máu bệnh nhân gây nên.
Các nhân viên bệnh viện khác và những người vận hành quản lý chất thải xung
quanh bệnh viện cũng có nguy cơ đáng kể, chẳng hạn như những nhân viên quét
dọn, những người bới rác tại bãi đổ rác. Nguy cơ của loại bệnh truyền nhiễm này
trong số các bệnh nhân và cộng đồng thấp hơn nhiều. Đôi khi một số bệnh truyền
nhiễm lại lây truyền qua các phương tiện khác hoặc gây ra do các tác nhân cơ tính
SVTH: Đồng Thị Phiên 22
Đồ án tốt nghiệp GVHD: ThS. Vũ Hải Yến

bền vững hơn, đã tạo ra một nguy cơ đáng kể cho cộng đồng và cho các bệnh
nhân trong bệnh viện.
Các trường hợp tai nạn riêng lẻ hoặc nhiễm trùng thứ phát do chất thải y tế
gây ra đều được chứng minh bởi những tài liệu đáng tin cậy. Tuy vậy, nhìn chung
vẫn khó đánh giá trực tiếp ảnh hưởng của chất thải rắn y tế, đặc biệt là ở các nước
đang phát triển vẫn còn nghi ngờ đối với trường hợp nhiễm khuẩn với số lượng
lớn mà tác nhân gây bệnh do tiếp xúc với chất thải y tế.
Tỷ lệ các tổn thương hàng năm do các vật sắc nhọn trong chất thải y tế và dịch
vụ vệ sinh môi trường cả trong và ngoài các bệnh viện gây ra đã được cơ quan
Đăng ký các độc chất và bệnh tật Hoa Kỳ (ATSDN). Nhiều tổn thương gây ra do
kim tiêm trước khi vứt bỏ vào thùng chứa, do những thùng chứa đó không kín
hoặc làm bằng những vật liệu dễ bị rách, thủng.
Một báo cáo của Cơ quan Bảo vệ Môi trường (EPA) tại hội nghị chất thải y tế
đã đánh giá số trường hợp nhiễm virus viêm gan B và C hàng năm do tổn thương
gây ra bởi các vật sắc nhọn trong số các nhân viên y tế và các nhân viên quản lý
chất thải.
Ở các nước đang phát triển, việc tư vấn và huấn luyện cho những nhân viên đã
tiếp xúc với chất thải có thể không chặt chẽ lắm do vậy ngày càng có nhiều người
tiếp xúc với các loại chất thải bệnh viện cả bên trong lẫn bên ngoài cơ sở y tế.
Trong bất kỳ một cơ sở y tế nào, y tá và những nhân viên quản lý bệnh viện là
những nhóm nguy cơ chính bị tổn thương, tỷ lệ tổn thương hàng năm của những
đối tượng này vào khoảng 10-20 phần nghìn. Mặc dù các tổn thương có liên quan
đến công việc trong số các nhân viên y tế và những người thu gom rác hầu hết là
các tổn thương bong gân và căng thẳng do làm việc quá sức, vẫn có một tỷ lệ
đáng kể các tổn thương là các vết cắt, thủng do các vật sắc nhọn bị loại bỏ gây ra.
1.4.2.2 Ảnh hưởng của chất thải hoá chất và dược phẩm
Trong khi không có tài liệu khoa học nào cho thấy mức độ phổ biến của bệnh
tật gây ra do chất thải hoá chất hoặc dược phẩm từ các bệnh viện đối với cộng
đồng, thì nhiều trường hợp nhiễm độc quy mô lớn do chất thải hoá chất công
nghiệp đã xảy ra. Ngoài ra đã có nhiều vụ tổn thương hoặc nhiễm độc do việc vận

SVTH: Đồng Thị Phiên 23
Đồ án tốt nghiệp GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
chuyển hoá chất và dược phẩm trong bệnh viên không bảo đảm. Các dược sĩ, bác
sĩ gây mê, y tá, kỹ thuật viên, cán bộ hành chính có thể có nguy cơ mắc các bệnh
đường hô hấp, bệnh ngoài da do tiếp xúc với các loại chất dạng lỏng, bay hơi,
dạng phun sương và các dung dịch khác.
Để hạn chế đến mức thấp nhất loại nguy cơ nghề nghiệp này nên thay thế
hoặc giảm lượng hoá chất độc hại xuống bất cứ lúc nào có thể và cung cấp các
phương tiện bảo hộ cho tất cả những người tiếp xúc trực tiếp với hoá chất. Những
nơi sử dụng và bảo quản loại hoá chất nguy hiểm cung nên được thiết kế hệ thống
thông gió phù hợp, huấn luyện các biện pháp phòng hộ và các trường hợp cấp
cứu cho những người có liên quan.
1.4.2.3 Những ảnh hưởng của chất thải gây độc gen trong y tế
Cần phải có thời gian để thu thập những dữ liệu về ảnh hưởng lâu dài đối với
sức khoẻ con người của các chất thải gây độc gen trong y tế, bởi vì rất khó đánh
giá ảnh hưởng của loại độc chất phức tạp này lên mối nguy cơ đối với con người.
Có rất nhiều nghiên cứu đã điều tra khả năng kết hợp giữa nguy cơ đối với sức
khoẻ và việc tiếp xúc với thuốc chống ung thư, biểu hiện bằng sự tăng đột biến
các thành phần trong nước tiểu ở những người đã tiếp xúc và tăng nguy cơ xảy
thai. Mức độ tập trung các thuốc gây độc gen trong bầu không khí bên trong bệnh
viện cũng đã được xem xét và đánh giá các ảnh hưởng về sức khoẻ liên quan tới
việc tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ.
1.4.2.4 Những ảnh hưởng của chất thải phóng xạ
Nhiều tai nạn đã được ghi nhận và thanh toán xử lý các nguyên liệu trong trị
liệu hạt nhân cùng với số lượng lớn những người bị tổn thương do tiếp xúc với
mối nguy cơ. Ở Brazil, đã phân tích và có đầy đủ tài liệu chứng minh một trường
hợp ảnh hưởng của ung thư lên cộng đồng có liên quan tới việc rò rỉ chất thải
phóng xạ trong bệnh viện.
Một bệnh viện thiên về trị liệu bằng phóng xạ trong khi chuyển địa điểm đã
làm thất thoát tại địa điểm cũ một nguồn xạ trị đã được niêm phong, một người

dân chuyển đến địa điểm này đã nhặt được nó và mang về nhà. Hậu quả đã có
249 người tiếp xúc với nguồn phóng xạ này, nhiều người trong số đó đã chết hoặc
SVTH: Đồng Thị Phiên 24
Đồ án tốt nghiệp GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
gặp hàng loạt các vấn đề về sức khoẻ. Các vụ tai nạn có liên quan đến việc tiếp
xúc với các chất phóng xạ ion hoá trong các cơ sở điều trị do hậu quả từ các thiết
bị X-quang hoạt động không an toàn, do việc chuyên chở vận chuyển các dung
dịch xạ trị không đảm bảo hoặc thiếu các biện pháp giám sát trong xạ trị liệu.
CHƯƠNG 2: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN & KINH TẾ XÃ
HỘI CỦA THÀNH PHỐ QUY NHƠN
2.1 Điều kiện tự nhiên và xã hội
2.1.1 Vị trí địa lý và hành chính
Quy Nhơn là thành phố tỉnh lị tỉnh Bình Định, Trung Bộ, Việt Nam và là một
trong 6 đô thị loại I trực thuộc tỉnh của Việt Nam. Là một thành phố ven biển
miền Trung, trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học kĩ thuật và du lịch của
SVTH: Đồng Thị Phiên 25

×