Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Nghiên cứu một số chỉ số thể lực và trí tuệ của trẻ em lứa tuổi mầm non tại một số xã, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (445.42 KB, 96 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em là một trong những nhiệm vụ hàng
đầu trong chiến lược phát triển con người của Đảng và Nhà nước ta. Muốn
thực hiện tốt nhiệm vụ này, cần nắm vững các đặc điểm về thể lực, trí tuệ, và
tâm sinh lý của trẻ em. Vì vậy, nghiên cứu các chỉ số thể lực và trí tuệ của trẻ
em luôn có ý nghĩa quan trọng.
Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy các chỉ số thể lực, trí tuệ của con
người có thể thay đổi và phụ thuộc vào các kỳ điều tra, điều kiện kinh tế xã
hội và môi trường tự nhiên [12], [23], [44], [58], [63], [67], [71], [74], [75].
Do đó, các chỉ số thể lực, trí tuệ của con người nói chung, của trẻ em nói
riêng cần được tiến hành nghiên cứu thường xuyên và có sự tổng kết trong
một khoảng thời gian nhất định.
Đến nay, đã có một số tác giả nghiên cứu về thể lực, chức năng sinh lý,
năng lực trí tuệ của người Việt Nam [6], [10], [20], [23], [24], [28], [34], [40],
[43],… Tuy nhiên, những nghiên cứu trên đối tượng trẻ em lứa tuổi mầm non
còn ít và chủ yếu là nghiên cứu về chức năng sinh lý, tình trạng dinh dưỡng.
Việc nghiên cứu các chỉ số thể lực, sinh lý và trí tuệ ở trẻ em lứa tuổi mầm
non là cần thiết. Nó cung cấp dẫn liệu cho công tác nuôi dạy trẻ em ở bậc học
mầm non, cũng như tạo cơ sở khoa học để đề xuất các biện pháp hữu hiệu
nhằm phát triển thế hệ tương lai của đất nước một cách tốt nhất.
Kiến Xương là một huyện thuần nông của tỉnh Thái Bình. Trong những
năm gần đây, mức sống của người dân đã được nâng cao, nhưng ở một số xã,
đời sống của người dân vẫn còn nhiều khó khăn. Đến nay, chưa có một đề tài
nào nghiên cứu về thể lực, trí tuệ của trẻ em lứa tuổi mầm non của huyện để có
thể dựa vào đó đề ra biện pháp góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục và
chăm sóc sức khỏe cho trẻ em ở địa bàn này.



2

Xuất phát từ tình hình thực tế trên, chúng tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu
một số chỉ số thể lực và trí tuệ của trẻ em lứa tuổi mầm non tại một số xã,
huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình”.
2. Mục đích nghiên cứu
Xác định được một số chỉ số về thể lực, về chức năng của một số hệ cơ
quan, về trí tuệ và mối liên quan giữa một số chỉ số nghiên cứu của trẻ em lứa
tuổi mầm non.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu một số chỉ số về thể lực của trẻ em lứa tuổi mầm non
(chiều cao đứng, cân nặng, vòng ngực, vòng đầu, chỉ số pignet, BMI).
- Nghiên cứu một số chỉ số về chức năng của một số hệ cơ quan của trẻ
em lứa tuổi mầm non (tần số tim, tần số thở).
- Nghiên cứu chỉ số thông minh (IQ) và các mức trí tuệ của trẻ em lứa
tuổi mầm non.
- Nghiên cứu khả năng ghi nhớ của trẻ em lứa tuổi mầm non (trí nhớ thị
giác ngắn hạn, trí nhớ thính giác ngắn hạn).
- Nghiên cứu mối liên quan giữa một số chỉ số nghiên cứu của trẻ em lứa
tuổi mầm non.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là trẻ em lứa tuổi mầm non của xã Bình Thanh
và xã Hồng Tiến thuộc huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Đối tượng được
nghiên cứu ở trạng thái khoẻ mạnh, tâm sinh lý bình thường, không có dị tật
về hình thể hoặc các bệnh mạn tính.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu một số chỉ số về thể lực, về chức
năng của một số hệ cơ quan, về năng lực trí tuệ, khả năng ghi nhớ và mối liên
quan giữa một số chỉ số nghiên cứu của trẻ em lứa tuổi mầm non ở xã Bình
Thanh và xã Hồng Tiến, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.



3

5. Phương pháp nghiên cứu
+ Các chỉ số: chiều cao, cân nặng, vòng ngực, vòng đầu, tần số tim, tần
số thở được xác định theo các phương pháp hiện hành.
+ Các chỉ số pignet, BMI được tính theo công thức:
Pignet = chiều cao đứng (cm) - [cân nặng (kg) + vòng ngực(cm)]
BMI = cân nặng (kg) / [chiều cao đứng (m)]2
+ Năng lực trí tuệ được xác định bằng test Ravent màu dùng cho trẻ em
từ 6 tuổi trở xuống.
+ Trí nhớ được xác định bằng phương pháp Nechaiev.
Kết quả nghiên cứu được phân tích và xử lý trên máy vi tính bằng
chương trình Microsoft Excel.
6. Những đóng góp mới của đề tài
- Là đề tài đầu tiên xác định được một số chỉ số về thể lực và trí tuệ của
trẻ em lứa tuổi mầm non tại xã Bình Thanh và xã Hồng Tiến của huyện Kiến
Xương, tỉnh Thái Bình.
- Bước đầu nghiên cứu mối liên quan giữa một số chỉ số nghiên cứu ở trẻ
em lứa tuổi mầm non.
- Kết quả trong luận văn có thể góp phần vào việc bổ sung số liệu cho
hướng nghiên cứu về thể lực, sinh lý, trí tuệ của trẻ em lứa tuổi mầm non,
cung cấp dẫn liệu cho quá trình giảng dạy, nghiên cứu khoa học và là dẫn liệu
cho công tác nuôi dạy trẻ em mầm non được tốt hơn.


4

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Khái quát các giai đoạn phát triển của trẻ em lứa tuổi mầm non
Mỗi giai đoạn phát triển cá thể của con người có những đặc điểm riêng
về mặt cấu tạo và chức năng. Chính các đặc điểm này đã xác định sự khác
nhau trong quá trình phát triển giữa các lứa tuổi [36], [42].
Hiện nay có nhiều cách phân chia các thời kỳ phát triển cá thể của con
người. Các tác giả như Tạ Thúy Lan, Trần Thị Loan [36], Đức Minh và một
số tác giả khác (theo [42]) chấp nhận cách phân chia của Viện Hàn Lâm sư
phạm Liên Xô, vì nhận thấy cách phân chia này phù hợp với đặc điểm lứa
tuổi của người Việt Nam và có thể ứng dụng trong hệ thống giáo dục trẻ em
Việt Nam. Theo các tác giả, thì lứa tuổi mầm non gồm hai giai đoạn: giai
đoạn từ 1 đến 3 tuổi (giai đoạn tuổi thơ sớm hay tuổi vườn trẻ) và giai đoạn từ
3 đến 6 tuổi (giai đoạn tuổi thơ đầu hay tuổi mẫu giáo). Ở mỗi giai đoạn, sự
phát triển của trẻ em có những đặc điểm riêng.
Đặc điểm nổi bật của trẻ em từ 1đến 3 tuổi là sự phát triển và hoàn chỉnh
hoá các hệ cơ quan trong cơ thể, đặc biệt là hệ thần kinh. Trẻ em trong giai
đoạn này được làm quen với nhiều loại thức ăn và đồ vật khác nhau của môi
trường. Kết quả của sự tiếp xúc đa dạng đó không chỉ dẫn tới những thay đổi
về mặt hình thái thể lực mà cả sự phát triển trí tuệ cũng thay đổi [36].
Đặc điểm của trẻ em từ 3 đến 6 tuổi là chiều cao và khối lượng cơ thể
phát triển chậm hơn giai đoạn trước. Tốc độ tăng vòng đầu và vòng ngực
cũng chậm hơn [36]. Về hoạt động tư duy, theo Piaget, quá trình phát triển
của trẻ em ở giai đoạn từ 2 đến 6 tuổi có thể phân thành ba pha: tư duy lặp lại
- hình thành các khái niệm tư duy - hình thành các khái niệm phân lập [54].
Tóm lại, chức năng sinh học và xã hội cơ bản của trẻ em lứa tuổi mầm
non là sinh trưởng và phát triển [36].


5

1.2. Đặc điểm về thể lực và chức năng của một số hệ cơ quan của trẻ em

lứa tuổi mầm non
1.2.1. Các chỉ số về thể lực của trẻ em lứa tuổi mầm non
Thể lực là một chỉ tiêu dùng để đánh giá sức khoẻ, tầm vóc, sự tăng
trưởng, phát triển và khả năng học tập, lao động của con người [63]. Để đánh
giá sự phát triển thể lực, người ta thường dùng các chỉ số về hình thái như
chiều cao, cân nặng, vòng ngực, vòng đầu… Trong đó, ba chỉ số cơ bản là
chiều cao đứng, cân nặng và vòng ngực đóng vai trò quan trọng nhất. Từ các
chỉ số cơ bản này, người ta có thể suy ra các chỉ số tổng hợp khác như chỉ số
pignet, BMI [36], [42], [66].
Chiều cao của cơ thể là dấu hiệu được nhận xét sớm nhất trong hầu hết
các lĩnh vực ứng dụng của nhân trắc học. Chiều cao của mỗi người được
quyết định bởi đặc điểm di truyền, giới tính và chịu ảnh hưởng nhất định của
điều kiện sống [2], [10], [12], [36], [42], [48], [63], [74].
Ở trẻ em lứa tuổi mầm non, chiều cao phát triển rất nhanh, nhất là trong
những năm đầu. Chiều cao của các em tăng trung bình 7cm/năm ở giai đoạn
từ 1 đến 3 tuổi, và tăng trung bình 6 cm/năm từ 3 đến 6 tuổi [4], [7], [36].
Để theo dõi sự tăng trưởng về chiều cao ở trẻ em, có thể áp dụng công
thức tính gần đúng chiều cao trung bình cho trẻ em trên một tuổi [36], [72].
X (cm) = 75 + 5.n
Trong đó: X - chiều cao đứng (cm); n - số tuổi (năm); 75 - chiều cao trẻ
1 năm; 5 - chiều cao tăng trung bình/năm.
Cùng với chiều cao, cân nặng cũng được coi là một chỉ số quan trọng để
đánh giá sự phát triển của cơ thể. Cân nặng biểu thị mức độ và tỷ lệ giữa hấp
thụ với tiêu hao năng lượng của con người. So với chiều cao, cân nặng của cơ
thể ít phụ thuộc vào yếu tố di truyền hơn mà có liên quan chủ yếu tới điều
kiện dinh dưỡng [2], [12], [19], [27], [48]...


6


Thông thường ở cùng một lứa tuổi, những trẻ em cao hơn thường nặng
cân hơn. Trong vòng ba năm đầu, khối lượng cơ thể của các em tăng rất
nhanh. Từ 3 đến 6 tuổi, khối lượng cơ thể của các em tăng chậm hơn, tăng
trung bình 1,5 kg/năm, nhưng tốc độ tăng tương đối đồng đều [4], [36].
Cân nặng của trẻ em trên một tuổi có thể tính gần đúng như sau:
X (kg) = 9 + 1,5 (n - 1) hay X = 9,5 + 2(n -1)
Trong đó: X - cân nặng của trẻ trên một tuổi (kg); 9 - cân nặng của trẻ
lúc một tuổi (kg); n - số tuổi của trẻ (năm).
Vòng ngực và vòng đầu của trẻ em cũng là những chỉ số có ý nghĩa khi
đánh giá sự phát triển cơ thể. Vòng ngực và vòng đầu của trẻ em đều tăng
nhanh ở giai đoạn từ 1 đến 3 tuổi, và tăng chậm hơn ở giai đoạn từ 3 đến 6
tuổi. Vòng ngực nhỏ hơn vòng đầu lúc 1 tuổi, sau đó đuổi kịp và cao hơn [3].
Từ các chỉ số chiều cao đứng, cân nặng và vòng ngực có thể tính thêm
được chỉ số pignet, BMI của cơ thể. BMI được dùng để đánh giá mức độ gầy
hay béo của một người [78], [80]. Từ chỉ số pignet, có thể đánh giá thể lực
theo thang phân loại của Nguyễn Quang Quyền và cs [56], (theo [83]).
Từ 1 đến 6 tuổi, chiều cao của trẻ em tăng nhanh, còn cân nặng và vòng
ngực tăng chậm hơn, nên chỉ số pignet của trẻ em ở giai đoạn này tăng dần.
Từ năm tháng tuổi đến 6 tuổi, BMI của trẻ em giảm dần, do ở giai đoạn này
tốc độ tăng chiều cao của trẻ em nhanh hơn so với tốc độ tăng khối lượng cơ
thể [36].
1.2.2. Các chỉ số về chức năng của hệ tuần hoàn, hệ hô hấp của trẻ em lứa
tuổi mầm non
1.2.2.1. Tần số tim của trẻ em lứa tuổi mầm non
Hệ tuần hoàn có chức năng cơ bản là cung cấp oxi và chất dinh dưỡng
cho toàn bộ hoạt động của cơ thể. Tim có chức năng vừa hút máu vừa đẩy
máu, là động cơ chính của hệ tuần hoàn. Công suất của tim phụ thuộc vào tần


7


số tim và thể tích co tim. Vì vậy, tần số tim là một trong các chỉ số quan trọng
để đánh giá hoạt động của hệ tuần hoàn [41], [42], [45], (theo [83]).
Tần số tim là số lần tim co bóp trong một phút. Tần số tim có thể thay
đổi và phụ thuộc vào các trạng thái tâm sinh lý khác nhau [36], [46], [62]. Tần
số tim của trẻ em cao hơn nhiều so với của người trưởng thành. Trong quá
trình phát triển cá thể của trẻ em, tần số tim giảm dần theo tuổi. Tốc độ giảm
tần số tim của trẻ em không đều. Ở cùng một độ tuổi, tần số tim của nam và
của nữ khác nhau. Tần số tim của trẻ em dễ thay đổi khi khóc, sốt, sợ hãi,
gắng sức... [3], [36], [52].
1.2.2.2. Tần số thở của trẻ em lứa tuổi mầm non
Cơ thể luôn cần trao đổi khí với môi trường bên ngoài. Việc đổi mới
không khí trong phổi được thực hiện qua động tác thở nhờ cử động của các cơ
hô hấp với sự luân phiên nhịp nhàng giữa động tác hít vào và thở ra. Mỗi lần
thở ra và hít vào được gọi là một nhịp thở [36], [83].
Số lần thở trong một phút gọi là tần số thở. Tần số thở phụ thuộc vào
kích thước của cơ thể, lứa tuổi, trạng thái tâm sinh lý và khí hậu [36], [62].
Tần số thở của trẻ em giảm dần theo tuổi. Một số tài liệu cho thấy, lúc 1 tuổi
tần số thở của trẻ là 30 - 35 nhịp/phút, giảm xuống còn 25 - 30 nhịp/phút lúc 3
tuổi và 20 - 25 nhịp/phút lúc 6 tuổi [3], [4], [18], [36], [52]. Tần số thở của trẻ
em vào mùa hè cao hơn vào mùa đông khoảng 2 - 6 nhịp/phút. Do trung khu
hô hấp chưa phát triển hoàn chỉnh nên tần số thở của trẻ em hay bị rối loạn, có
lúc thở nhanh, có lúc thở chậm, lúc thở nông, lúc thở sâu. Tần số thở của trẻ
em cao hơn của người lớn. Dưới 2 tuổi, trẻ em nam thở nhanh hơn trẻ em nữ
[36], [52].
1.3. Đặc điểm về trí tuệ của trẻ em lứa tuổi mầm non
Trí tuệ là khả năng hoạt động trí óc đặc trưng của con người. Theo tiếng
Latinh, trí tuệ (Intellectus) có nghĩa là hiểu biết, thông tuệ [51]. Theo từ điển



8

tiếng Việt [73], trí tuệ là khả năng nhận thức lý tính đạt đến một trình độ nhất
định. Tựu chung lại có ba khuynh hướng chính quan niệm về trí tuệ [51].
Khuynh hướng thứ nhất coi trí tuệ là năng lực nhận thức, năng lực học
tập của cá nhân. B.G. Ananhev cho rằng, trí tuệ là một đặc điểm tâm lý phức
tạp của con người mà kết quả của công việc và học tập phụ thuộc vào nó.
Theo J. Huarte, thì trí tuệ là tập hợp các khả năng lĩnh hội tri thức, phán xét,
đánh giá và sáng tạo (theo [60]). Khuynh hướng thứ hai coi trí tuệ là năng lực
tư duy trừu tượng. Terman cho rằng, chức năng của trí tuệ là sử dụng có hiệu
quả các khái niệm. Menchins kaia lại coi đặc trưng của trí tuệ là sự tích luỹ
các tri thức và các thao tác trí tuệ [31], (theo [60]). Khuynh hướng thứ ba coi
trí tuệ là năng lực thích ứng. Đại diện cho khuynh hướng này là R. Stern (theo
[60]). Ông coi trí tuệ là năng lực thích ứng chung của con người với điều kiện
và nhiệm vụ mới trong đời sống. Theo ông, trí tuệ là năng lực suy luận và khả
năng sáng tạo trên cơ sở kết hợp những kinh nghiệm khác nhau để giải quyết
vấn đề mới.
Ngoài ra, còn có nhiều thuật ngữ khác dùng để mô tả năng lực trí tuệ
như: trí khôn, trí lực, trí thông minh, trí năng… nhưng chúng đều xuất phát từ
chữ tiếng Anh là intelligence [11], [26]. Rõ ràng là không có một khái niệm
nào chứa đựng hết bản chất của các hiện tượng phức tạp như trí tuệ.
Theo J. Piaget [54] thì sự phát sinh, phát triển của trí tuệ cá nhân chịu
ảnh hưởng của bốn yếu tố. Thứ nhất là sự tăng trưởng của cơ thể, đặc biệt là
sự chín muồi của hệ thần kinh và nội tiết. Thứ hai là vai trò của sự tập luyện
và kinh nghiệm thu được thông qua hoạt động của đối tượng. Thứ ba là sự
tương tác và chuyển giao xã hội. Thứ tư là tính chủ thể và phối hợp chung các
hành động cá nhân.
Để đánh giá trí tuệ của con người, có nhiều phương pháp như: quan sát,
điều tra, trắc nghiệm, tìm hiểu biến đổi điện - hoá trong hệ thần kinh và cơ



9

thể...[30], [61]. Phương pháp phổ biến hiện nay là dựa vào trắc nghiệm tâm
lý. Trong đó trắc nghiệm khả năng trí tuệ được dùng phổ biến hơn cả. Mục
đích của các trắc nghiệm trí tuệ là xác định chỉ số thông minh, mức trí tuệ...
Năm 1912, W. Stern đã đưa ra cách tính chỉ số thông minh
(Intelligence Quotient) viết tắt là IQ, bằng thương số giữa tuổi trí tuệ (MA Mental Age) và tuổi thực (CA - Chrorological Age) (theo [60]).
IQ =

MA
×100
CA

Trong đó: MA - tuổi trí khôn được tính theo kết quả bài trắc nghiệm;
CA - tuổi thời gian tính theo ngày tháng năm sinh.
D. Wechsler (theo [60]) lại cho rằng, sự phát triển trí tuệ diễn ra trong
suốt đời người một cách không đồng đều nên một đại lượng như cách tính của
Stern.V không thể đánh giá được sự phát triển của trí tuệ. Ông đưa ra khái
niệm IQ bằng công thức sau:
IQ =

X−X
× 15 + 100
SD

Trong đó: X - điểm trắc nghiệm cá nhân; X - điểm trắc nghiệm trung
bình trong cùng một độ tuổi; SD - độ lệch chuẩn.
Dựa trên chỉ số IQ, D.Wechsler phân thành 7 mức trí tuệ khác nhau [77].
Để tính được chỉ số IQ, người ta thường sử dụng các loại test khác nhau

như test “trí tuệ đa dạng”, test “hình phức hợp Rey”, …(theo [42]). Một trong
số đó là test Raven. Test Raven được xây dựng trên cơ sở thuyết tri giác hình
thể của Tâm lý học Gestal và thuyết tân phát sinh của Spearman [21]. Sau hai
lần chuẩn hóa vào những năm 1954 và 1956, test Raven đã được UNESCO
công nhận và chính thức đưa vào sử dụng để chẩn đoán trí tuệ con người từ
những năm 1960 [76].
Trí tuệ của mỗi người đều là sự kết hợp hữu cơ của trí tuệ ngôn ngữ, tư
duy vận động thân thể, tư duy logic toán học, trí tuệ không gian, trí tuệ âm


10

nhạc, trí tuệ giao tiếp... Trí tuệ của trẻ em lứa tuổi mầm non cũng không nằm
ngoài quy luật đó [79].
Đặc điểm chủ yếu về tư duy của trẻ em từ 12 - 18 tháng tuổi là tư duy
được thực hiện qua các thao tác. Bằng cách tác động trực tiếp với đồ vật, trẻ
dần tìm ra được các thuộc tính đơn giản của đồ vật. Từ 2 - 3 tuổi, song song
với sự phát triển về thể chất, sự tập trung của trẻ cũng phát triển nhanh. Ba
tuổi, trẻ đã có khả năng tổng hợp các tính chất của vật thể mà trẻ nắm được,
đồng thời có thể sử dụng các vật thể đó để thực hiện các trò chơi theo trí
tưởng tượng [79].
Từ 4 - 5 tuổi, trẻ đã có thể tìm ra đặc điểm, thuộc tính của đồ vật bằng
những phép thử, phép so sánh trong óc. Trẻ còn biết sử dụng các hệ thống kí
hiệu khác nhau, như kí hiệu về đồ vật, hành động, kí hiệu về con người. Trẻ
cũng có thể xếp các đồ vật từ nhỏ nhất đến to nhất, ngắn nhất đến dài nhất…
Sáu tuổi, ở trẻ đã hình thành tư duy sơ đồ và tư duy logic. Từ việc học thông
qua quan sát và kinh nghiệm, trẻ đã có thể chuyển sang học bằng ngôn ngữ và
logic. Trẻ có khái niệm về thời gian và các ngày trong tuần, khái niệm về con
số, không gian, hình dáng, mầu sắc. Tuy nhiên, khả năng chú ý của trẻ 6 tuổi
vẫn là chú ý ngắn hạn, trong khoảng 15 phút là nhiều nhất [79].

Một trong các điều kiện cần thiết để phát huy trí tuệ là khả năng ghi
nhớ. Có nhiều cách hiểu về trí nhớ. Theo nhiều tác giả, nhớ là sự tiếp nhận,
gìn giữ và tái hiện những sự vật, hiện tượng mà con người đã cảm giác, đã
suy nghĩ, tưởng tượng ra. Trí nhớ phản ánh những sự vật, những hiện tượng
trước đây đã tác động vào cơ thể mà hiện tại không cần sự tác động đó nữa
[32], [33], [36]. Trí nhớ được xem như là một bước chuyển tiếp từ nhận thức
cảm tính lên nhận thức lí tính vì trong quá trình nhớ, não đã thực hiện việc
khái quát hoá các hình ảnh đã cảm giác, tri giác trước đây thành các biểu
tượng [13].


11

Căn cứ vào thời gian tồn tại của trí nhớ, người ta phân biệt hai loại trí
nhớ là trí nhớ ngắn hạn và trí nhớ dài hạn. Trí nhớ ngắn hạn là sự lưu thông
hưng phấn trong các vùng nơron, chỉ tồn tại trong vòng vài giây hoặc một
phút sau khi tiếp nhận một sự kiện hay hiện tượng nào đó. Trí nhớ dài hạn tồn
tại trên cơ sở sự hình thành các prôtêin hoạt hoá vùng xinap, có khả năng lưu
giữ hình ảnh trong vòng nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm [33].
Về cơ chế nhớ, có nhiều quan điểm khác nhau. Theo Anôkhin, trí nhớ
là một hệ thống chức năng phức tạp. Cùng quan điểm với Anôkhin, Luria cho
rằng, trí nhớ được thực hiện bằng sự phối hợp hoạt động của cả một loạt các
vùng trên vỏ não, mỗi vùng giữ một nhiệm vụ chuyên biệt [15]. Theo Pavlov,
cơ sở sinh lý của trí nhớ là sự hình thành, lưu giữ và tái hiện lại những đường
liên hệ thần kinh tạm thời. Hyden lại cho rằng, cơ sở của trí nhớ là sự thay đổi
trong cấu trúc phân tử của axit ribonucleic. Còn theo Conell và Jacobson, thì
trí nhớ có liên quan đến lượng axit deoxyribonucleic [33]. Cơ chế của sự lưu
giữ thông tin ngày càng được nghiên cứu sâu hơn. Tuy nhiên, chưa có một cơ
chế lý thuyết thống nhất về cơ chế của trí nhớ.
Trẻ sơ sinh chưa có trí nhớ, đến cuối tháng thứ sáu, trẻ mới bắt đầu tái

nhận lại. Trẻ một tuổi có thể tái nhận lại sự vật hiện tượng sau vài ngày. Đến
hai tuổi, trẻ không những tái nhận lại sự vật, hiện tượng diễn ra sau vài tuần
mà còn nhớ được những gì mới xảy ra trong vài ngày. Ở lứa tuổi này trẻ mới
chỉ có trí nhớ không chủ định, nghĩa là trẻ chưa đặt ra cho mình mục đích,
chưa có kế hoạch nhớ những điều cần ghi nhớ mà thường chỉ nhớ những ấn
tượng riêng biệt, những ấn tượng đượm màu sắc xúc cảm (theo [14], [59]).
Trong lứa tuổi mẫu giáo các quá trình ghi nhớ của trẻ em tiếp tục phát
triển và hoàn thiện. Trẻ tham gia vào các hoạt động phức tạp hơn, đòi hỏi phải
nhớ được luật chơi, nội dung chơi hoặc kể lại được câu chuyện, thuộc thơ…
nên ở trẻ đã bắt đầu xuất hiện trí nhớ có chủ định (theo [14], [59]).


12

1.4. Những nghiên cứu về các chỉ số thể lực và trí tuệ
1.4.1. Những nghiên cứu về các chỉ số thể lực
Năm 1919, nhà nhân trắc học người Đức, Rudoll Martin đã đề xuất một
hệ thống các dụng cụ và phương pháp đo để xác định kích thước của cơ thể.
Từ đó đến nay, phương pháp Martin tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện về cả
lý thuyết và thực tiễn (theo [20]).
Năm 1964, trong cuốn “Nhân trắc học”, F. Vaneler Rael đã đưa ra những
nhận xét toàn diện về các quy luật phát triển thể lực theo giới tính, lứa tuổi,
nghề nghiệp và xây dựng thang phân loại thể lực của con người theo các chỉ
số đánh giá thể lực (theo [28]).
Tại hội nghị lần thứ bảy toàn Liên Xô về vấn đề sinh thái, sinh lý và hình
thái lứa tuổi, B.A. Nhikitic và V.P. Tresov đã công bố sơ đồ phát triển cá thể
sau khi sinh của con người. Sơ đồ cho biết khá chi tiết về sự tăng trưởng phát
triển của con người ở mỗi giai đoạn và đã được áp dụng rộng rãi trong nhân
trắc học, giáo dục học, nhi khoa (theo [28]).
Ở Việt Nam, những công trình nghiên cứu đầu tiên về thể lực con người

là của một số tác giả Mondiere (1875), Huard, Bogot (1938) và Đỗ Xuân Hợp
(1943) (theo [42]). Sau năm 1954, đã có nhiều tác giả tiến hành nghiên cứu
các đặc điểm hình thái, giải phẫu, sinh lý của người Việt Nam. Năm 1975,
cuốn “Hằng số sinh học của người Việt Nam” do giáo sư Nguyễn Tấn Gi
Trọng chủ biên được xuất bản. Đây là một công trình khá hoàn chỉnh về các
chỉ số sinh học, sinh lý, sinh hóa của người Việt Nam [68]. Năm 1976 - 1980,
Vũ Thị Chín nghiên cứu về các chỉ số phát triển sinh lý, tâm lý của trẻ em từ
0 đến 3 tuổi và đã xây dựng được biểu đồ phát triển về chiều cao, cân nặng
của trẻ [5].
Năm 1980, 1982, 1987, Đoàn Yên và cộng sự (cs) [74] nghiên cứu một
số chỉ số sinh học của người Việt Nam từ 3 đến 110 tuổi. Phân tích kết quả


13

nghiên cứu, các tác giả nhận thấy chiều cao và cân nặng trung bình của người
Việt Nam thấp hơn của người Âu, Mỹ ở mọi lứa tuổi.
Năm 1989, Thẩm Thị Hoàng Điệp và cs [10] đã nghiên cứu chiều cao,
vòng đầu, vòng ngực, chỉ số dài chi dưới... trên 8000 người Việt Nam từ 1
đến 55 tuổi ở ba miền Bắc - Trung - Nam. Các tác giả nhận thấy có quy luật
gia tăng về chiều cao của người Việt Nam, tăng 4 cm/20 năm.
Năm 1993, Nghiêm Xuân Thăng [58] đã tiến hành nghiên cứu 17 chỉ số
hình thái của người Việt Nam từ 1 - 25 tuổi ở Nghệ Tĩnh. Kết quả nghiên cứu
cho thấy, các chỉ số về chiều cao, cân nặng, vòng ngực, vòng đầu… của cư
dân Nghệ Tĩnh phần lớn thấp hơn so với các chỉ số này của dân cư vùng đồng
bằng Bắc Bộ. Tác giả còn nhận thấy, có sự khác biệt về các chỉ số hình thái
thể lực theo giới tính. Theo tác giả, điều kiện sống đã ảnh hưởng đến sự sinh
trưởng và phát triển các chỉ số hình thái của con người.
Trong hai năm 1995 - 1996, Hàn Nguyệt Kim Chi và cs nghiên cứu
trên 10339 trẻ em từ 1 - 36 tháng tuổi và 11985 trẻ em từ 37 - 72 tháng tuổi

tại Hà Nội, Hà Tây, Hà Bắc, Ninh Bình, Nam Hà. Kết quả cho thấy từ 5 đến
72 tháng tuổi, mức tăng chiều cao nhanh hơn so với mức tăng cân nặng [4].
Từ năm 1998 - 2002, Trần Thị Loan [39], [42] nghiên cứu trên trẻ em
Hà Nội từ 6 - 17 tuổi cho thấy, các chỉ số chiều cao, cân nặng của trẻ em lớn
hơn so với các kết quả nghiên cứu của các tác giả từ những thập kỷ 80 trở về
trước và so với trẻ em Thái Bình, Hà Tây cùng thời điểm nghiên cứu. Điều
này chứng tỏ, điều kiện sống đã có ảnh hưởng tới sự sinh trưởng và phát triển
các chỉ số hình thái của trẻ em.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về các chỉ số thể lực trên người
Việt Nam khá phong phú. Các công trình có ít nhiều khác nhau nhưng cùng
xác định được hình thái thể lực phụ thuộc vào điều kiện sống, địa bàn nghiên
cứu, thời gian nghiên cứu...và có sự biến đổi theo lứa tuổi, theo giới tính.


14

1.4.2. Những nghiên cứu về các chỉ số chức năng của một số hệ cơ quan
1.4.2.1. Những nghiên cứu về tần số tim
Năm 1993, Đoàn Yên và cs [74] nghiên cứu tần số tim của người Việt
Nam cho thấy, sau khi sinh, tần số tim biến đổi có tính chất chu kỳ. Tần số
tim giảm dần đến tuổi 25 và ổn định đến 69 tuổi.
Nghiêm Xuân Thăng [58] nghiên cứu một số chỉ số chức năng sinh lý
của người Nghệ Tĩnh cho thấy, tần số tim chịu sự tác động của môi trường
sống, đặc biệt là tác động của khí hậu. Tần số tim biến đổi theo ngày, mùa và
phụ thuộc vào mức độ bức xạ. Ngoài ra, chỉ số này còn chịu sự chi phối của
các yếu tố khác như lao động, trạng thái tâm lý...
Nghiên cứu của Trần Thị Loan ở học sinh [41], [42] cho thấy tần số tim
giảm dần theo tuổi, sự biến đổi nhịp tim của nam và của nữ khác nhau.
Nguyễn Thị Thúy Hằng khảo sát sự biến đổi huyết áp, tần số tim, điện tim
qua nghiệm pháp gắng sức trên các vận động viên trình độ cao ở thành phố Huế

cho thấy, việc rèn luyện thể chất có ý nghĩa rất lớn đối với chức năng của hệ
tim - mạch [17].
Nhiều công trình nghiên cứu khác cho thấy, tần số tim thay đổi theo tuổi
và theo trạng thái chức năng của cơ thể. Những thay đổi này có liên quan đến
sự giảm hoạt động của nút xoang và giảm ảnh hưởng của dây thần kinh ngoài
tim [50], [62], [66].
Nhìn chung, tần số tim đã được nhiều tác giả nghiên cứu và đạt được
những kết quả nhất định, nhưng nghiên cứu chưa nhiều ở trẻ em lứa tuổi
mầm non.
1.4.2.2. Những nghiên cứu về tần số thở
Nghiêm Xuân Thăng [58] nghiên cứu một số chỉ số chức năng sinh lý
của người Nghệ Tĩnh cho thấy, khí hậu có ảnh hưởng đến chức năng hô hấp,
trong đó tần số thở và dung tích sống chịu ảnh hưởng nhiều nhất của khí hậu.


15

Vương Thị Hòa [20] nghiên cứu trên trẻ em từ sơ sinh đến 4 tuổi ở một
số xã vùng nông thôn của tỉnh Thái Bình nhận thấy, mức chênh lệch giữa tần
số thở của trẻ em nam và của trẻ em nữ không đáng kể. Dưới 3 tuổi, tần số
thở của trẻ em nam cao hơn của trẻ em nữ.
Nhìn chung, những nghiên cứu về chức năng hô hấp của người Việt
Nam khá phổ biến, nhưng chủ yếu là trên đối tượng người trưởng thành
với các chỉ tiêu phân áp các chất khí trong máu, khuếch tán khí, chỉ tiêu
chức năng thông khí phổi như dung tích sống, dung tích sống thở mạnh,
thể tích khí lưu thông, thể tích khí cặn... [8], [22], [25], [49], [66], [70], ít
thấy những nghiên cứu về tần số thở.
1.4.3. Những nghiên cứu về trí tuệ
Mở đầu cho những nghiên cứu đầy đủ, khoa học về trí tuệ là những
nghiên cứu theo thuyết liên tưởng về tư duy, đại diện là các nhà triết học Anh

như O. Ghatli, D.S. Miler, H. Spencer… [37].
Ở Việt Nam, từ những năm 80 trở lại đây, các công trình nghiên cứu về trí
tuệ ngày càng nhiều. Trần Trọng Thủy là người đầu tiên nghiên cứu sự phát
triển trí tuệ của học sinh Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy, chiều
hướng, cường độ và chất lượng phát triển trí tuệ của học sinh qua các lứa tuổi
khác nhau [59].
Năm 1996, Tạ Thúy Lan và Trần Thị Loan đã nghiên cứu đánh giá sự
phát triển trí tuệ của học sinh thành phố và học sinh nông thôn. Kết quả
nghiên cứu cho thấy, học sinh thành phố có mức trí tuệ cao hơn học sinh nông
thôn [35], [38].
Năm 2002, Trần Thị Loan nghiên cứu trí tuệ của học sinh từ 6 - 17 tuổi
ở quận Cầu Giấy - Hà Nội. Kết quả nghiên cứu cho thấy, quá trình phát triển
trí tuệ của học sinh diễn ra liên tục, tương đối đồng đều và không có sự khác
biệt về giới tính [42].


16

Lê Minh Hà [14] sử dụng test Raven màu nghiên cứu mức độ phát triển
trí tuệ của trẻ mẫu giáo từ 5 - 6 tuổi ở Hà Nội và Yên Bái cho thấy, điểm test
Raven trung bình xấp xỉ bằng điểm chuẩn, mức độ phát triển trí tuệ của trẻ
mẫu giáo ở Hà Nội cao hơn của trẻ ở Yên Bái.
Năm 2003, Mai Văn Hưng nghiên cứu một số chỉ số thể lực và năng lực
trí tuệ của sinh viên một số trường đại học ở phía Bắc Việt Nam cho thấy,
năng lực trí tuệ có mối tương quan không chặt chẽ với các chỉ số thể lực [23].
Như vậy, trí tuệ và mối tương quan giữa năng lực trí tuệ với các chỉ
số sinh học đã được nhiều tác giả nghiên cứu và đạt được những kết quả
nhất định, nhưng chủ yếu mới được tiến hành ở học sinh, sinh viên, ít thấy
nghiên cứu ở trẻ em lứa tuổi mầm non.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu về trí tuệ, các tác giả còn nghiên

cứu về các chỉ số có liên quan với trí tuệ như trí nhớ. Trên thế giới, có rất
nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề này như L.X. Vưgotxki, A.N. Leonchiev,
A.A. Smirnov, P.M. Xêtrênov… [15]. Ở Việt Nam cũng có nhiều tác giả
nghiên cứu về trí nhớ [34], [35], [38], [40], [42], [55], [57], [59]...
Trần Trọng Thuỷ và cs nghiên cứu trí nhớ của trẻ em trung học ở thành
phố Hà Nội, Hồ Chí Minh, Huế và tỉnh Hoà Bình nhận thấy, khả năng ghi
nhớ thính giác ngắn hạn của trẻ em Việt Nam thuộc loại khá và tương đối
đồng đều, không có sự khác biệt giữa trẻ em nam và nữ nhưng có sự khác biệt
giữa trẻ em thành thị và nông thôn [59].
Nghiêm Xuân Thăng [58] nghiên cứu khả năng ghi nhớ của học sinh và
sinh viên Nghệ Tĩnh cho thấy, khả năng ghi nhớ của đối tượng nghiên cứu
biến đổi theo sự biến động của nhiệt độ, độ ẩm, cường độ bức xạ và đối lưu
không khí của môi trường.
Trịnh Văn Bảo và cs (theo [42]) nghiên cứu khả năng ghi nhớ của học
sinh lớp 6, trường Năng khiếu Marie - Curie và trường Phổ thông cơ sở Tô


17

Hoàng (Hà Nội) nhận thấy, trí nhớ của nhóm học sinh trường năng khiếu tốt
hơn của nhóm học sinh bình thường.
Trần Thị Loan [42] nghiên cứu trí nhớ của học sinh từ 6 - 17 tuổi tại
quận Cầu Giấy - Hà Nội cho thấy, khả năng ghi nhớ ngắn hạn của học sinh
tăng dần theo tuổi, nhưng tốc độ tăng không đều và không có sự khác biệt về
khả năng ghi nhớ của trẻ em theo giới tính. Từ 6 đến 11 tuổi, khả năng ghi
nhớ của cả nam và nữ đều tăng nhanh, nhanh nhất là lúc 9 - 11 tuổi.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về thể lực, sinh lý và trí tuệ của
người Việt Nam khá phong phú, nhưng chủ yếu là ở học sinh, sinh viên, thanh
niên. Ở trẻ em lứa tuổi mầm non, các nghiên cứu mới chỉ được tiến hành về
các chỉ số hình thái như chiều cao, cân nặng, vòng đầu, vòng ngực hay chức

năng của một số hệ cơ quan. Còn các công trình nghiên cứu về trí tuệ và mối
tương quan giữa năng lực trí tuệ với một số chỉ số sinh học khác của trẻ em
lứa tuổi này chưa nhiều. Việc nghiên cứu một số chỉ số thể lực và trí tuệ của
trẻ em lứa tuổi mầm non là cần thiết. Nó góp phần xây dựng các chỉ số sinh
học người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, bổ sung số liệu cho hướng
nghiên cứu về thể lực, trí tuệ của trẻ em, đồng thời là dẫn liệu cho quá trình
giảng dạy, nghiên cứu khoa học ở các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học
sư phạm mầm non và là dẫn liệu cho công tác nuôi dạy trẻ em mầm non được
tốt hơn.


18

CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là trẻ em lứa tuổi mầm non của xã Bình Thanh và
xã Hồng Tiến thuộc huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình; gồm 6 nhóm với 6 độ
tuổi khác nhau, từ 1 đến 6 tuổi.
Bình Thanh và Hồng Tiến là hai xã thuần nông nên đời sống kinh tế của
người dân còn khó khăn. Sự đầu tư cho chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em
còn hạn chế. Phần lớn trẻ em ở diện nghiên cứu đi học ở trường mầm non.
Điều kiện phục vụ cho học tập, sinh hoạt, vui chơi của trẻ chưa tốt như ở
thành phố, thị trấn. Nhưng nhà trường thực hiện đúng chế độ sinh hoạt quy
định trong một ngày của trẻ, kiến thức chăm sóc bà mẹ và trẻ em của người
dân cũng dần được nâng cao, nên đã có tác động tốt đến sự phát triển của trẻ.
Đối tượng được nghiên cứu ở trạng thái khoẻ mạnh, không có dị tật về
hình thể hoặc các bệnh mạn tính. Tuổi của các đối tượng nghiên cứu được
tính theo quy ước chung của tổ chức Y tế thế giới (theo [9]).
Tổng số đối tượng được nghiên cứu là 781 trẻ em, trong đó có 394 trẻ
em nam và 387 trẻ em nữ. Phân bố các đối tượng được nghiên cứu theo tuổi

và theo giới tính được thể hiện qua bảng 2.1.
Bảng 2.1. Phân bố đối tượng nghiên cứu
Tuổi

1
2
3
4
5
6
Tổng
số

Chung
126
134
137
128
134
122

Tổng số
Nam
63
67
67
68
68
61


781

394

Đối tượng nghiên cứu
Hồng Tiến
Nữ
Nam
Nữ
63
31
32
67
34
34
70
33
34
60
34
30
66
34
33
61
30
31

Bình Thanh
Nam

Nữ
32
31
33
33
34
33
34
30
34
33
31
30

387

204

190

199

188


19

2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp chọn mẫu và cỡ mẫu
Mẫu nghiên cứu được chọn bằng cách bắt thăm ngẫu nhiên để chọn hai

xã thuộc huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Chúng tôi sử dụng phương pháp
chọn mẫu cỡ lớn dựa vào công thức:
n = S2.t2 /d2
Trong đó: n - số cá thể của mẫu cần lấy; S - độ lệch chuẩn tính theo %
của giá trị trung bình (SD); t - trị số của tương ứng với độ tin cậy chọn trước
kết quả; d - sai số cho phép của trị số trung bình chọn trước.
Chọn sai số cho phép của kết quả nghiên cứu là ± 5% của trị số trung
bình, độ tin cậy của kết quả là 99% thì t = 2,58; SD = 10% và cỡ mẫu cần
chọn là:
n = 102 x 2,582 /52 = 27
Theo cách tính cỡ mẫu trên, chúng tôi chọn cỡ mẫu để nghiên cứu
trong công trình này có số cá thể của mỗi nhóm là từ 30 trở lên (bảng 2.1).
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu các chỉ số
2.2.2.1. Các chỉ số được nghiên cứu
- Các chỉ số về thể lực: Chiều cao, cân nặng, vòng ngực, vòng đầu, chỉ số
pignet, BMI.
- Các chỉ số về chức năng của một số hệ cơ quan: Tần số tim, tần số thở.
- Các chỉ số về trí tuệ: Chỉ số IQ và mức trí tuệ.
- Các chỉ số về trí nhớ: Điểm trí nhớ thị giác và điểm trí nhớ thính giác.
2.2.2.2. Phương pháp nghiên cứu các chỉ số về thể lực
- Chiều cao đứng
+ Trẻ em từ 1 - 2 tuổi được đo ở tư thế nằm ngửa trên bàn đo. Khi đo, để
đầu trẻ áp sát vào tấm ván đính vuông góc với bàn đo, chân trẻ duỗi thẳng,
đầu gối không cong lên, đặt thước đến gót chân của trẻ và đọc số đo.


20

+ Trẻ em trên 2 tuổi đo ở tư thế đứng thẳng trên nền phẳng, hai gót chân
áp sát nhau, mắt nhìn thẳng, đồng thời đảm bảo 4 điểm chẩm, lưng, mông, gót

chạm vào thước đo. Thước đo bằng polyme có vạch chia độ chính xác đến 0,1
cm do Trung tâm thiết bị trường học, Bộ Giáo dục và Đào tạo sản xuất.
- Cân nặng được xác định bằng cân y học Trung Quốc, có vạch chia đến
0,1 kg. Đo xa bữa ăn. Khi đo, đối tượng chỉ mặc quần áo mỏng, không mang
giày dép. Đối tượng đứng yên ở vị trí giữa bàn cân, hai bàn chân sát nhau.
- Vòng ngực được đo bằng thước dây quấn quanh ngực qua mũi ức,
dưới núm vú sao cho mặt phẳng của thước dây tạo ra song song với mặt đất.
Đối tượng ở tư thế đứng thẳng. Thước dây không co dãn và có vạch chia độ
chính xác đến 0,1 cm.
- Vòng đầu được đo bằng thước dây vòng quanh đầu, phía trước dây
nằm trên cung lông mày, phía sau qua ụ chẩm để lấy kích thước tối đa. Đối
tượng ở tư thế đứng thẳng. Thước dây không co dãn và có vạch chia độ chính
xác đến 0,1 cm.
- Chỉ số pignet được tính theo công thức:
Pignet = Chiều cao đứng (cm) - [Cân nặng (kg) + Vòng ngực (cm)]
So sánh chỉ số pignet của trẻ với chỉ số pignet theo thang phân loại của
Nguyễn Quang Quyền và cs [56], (theo [83]) để đánh giá thể lực.
Bảng 2.2. Phân loại chỉ số pignet
STT

Chỉ số pignet

Phân loại

1

< 10

Rất tốt


2

10 - 20

Tốt

3

20 - 25

Trung bình

4

25 - 35

Yếu

5

≥ 35

Rất yếu


21

- BMI được tính theo công thức:
BMI = Cân nặng (kg) / [Chiều cao đứng (m)]2
Căn cứ vào BMI, tuổi và giới tính của trẻ em từ 2 - 6 tuổi, xác định

điểm tương ứng trên biểu đồ BMI riêng cho nam và nữ từ 2 đến 20 tuổi của
Trung tâm quốc gia phòng bệnh mạn tính và tăng cường sức khỏe (National
Center for Chronic Disease Prevention and Health Promotion), gọi tắt là
CDC, của Mỹ (phụ lục 7 và 8) để so sánh và đánh giá mức độ gầy béo của cơ
thể [81], [82].
Bảng 2.3. Phân loại BMI đối với nam từ 2 - 6 tuổi
BMI
(kg/m2)

Tuổi
2 Tuổi

3 Tuổi

4 Tuổi

5 Tuổi

6 Tuổi

< 14,8

< 14,4

< 14,0

< 13,9

< 13,8


Dưới bách
phân vị thứ 5

Suy dinh
dưỡng

14,8 - 18,2 14,4 - 17,4 14,0 - 17,0 13,9 - 16,8 13,8 - 17,0

Từ bách phân
vị thứ 5 - 85

Bình
thường

18,2 - 19,4 17,4 - 18,3 17,0 - 17,8 16,8 - 17,9 17 - 18,4

Từ bách phân
vị thứ 85 - 95

Nguy cơ
béo phì

Trên bách
phân vị thứ 95

Béo phì

> 19,4

> 18,3


> 17,8

> 17,9

> 18,4

Bảng 2.4. Phân loại BMI đối với nữ từ 2 - 6 tuổi
BMI
(kg/m2)

Tuổi
2 Tuổi

3 Tuổi

4 Tuổi

5 Tuổi

6 Tuổi

< 14,4

< 14

< 13,7

< 13,5


< 13,4

14,4 - 18

14 - 17,2

Dưới bách phân Suy dinh
vị thứ 5
dưỡng

13,7 - 16,8 13,5 - 16,8 13,4 - 17,0

Từ bách phân
vị thứ 5 - 85

Bình
thường

18 - 19,1 17,2 - 18,3 16,8 - 18,0 16,8 - 18,2 17,0 - 18,8

Từ bách phân
vị thứ 85 - 95

Nguy cơ
béo phì

> 19,1

> 18,3


> 18,0

> 18,2

> 18,8

Trên bách phân
Béo phì
vị thứ 95


22

Với trẻ em 1 tuổi, căn cứ vào tháng tuổi và cân nặng, xác định điểm
tương ứng trên biểu đồ phát triển trẻ em dành cho trẻ dưới 2 tuổi của Trung
tâm quốc gia phòng bệnh mạn tính và tăng cường sức khỏe (CDC), của Mỹ
(phụ lục 8) để so sánh và đánh giá mức độ gầy béo của cơ thể [79], [80].
Bảng 2.5. Phân loại mức độ phát triển cơ thể đối với trẻ dưới 2 tuổi
Tháng tuổi
12

13

14

15

16

17


18

< 5,4

< 5,6

< 5,8

< 5,9

< 6,0

< 6,2

< 6,4

5,4 - 6,2

5,6 - 6,4

5,8 - 6,6

5,9 - 7,8

6,0 - 7,0

6,2 - 7,1

6,4 -7,3


6,2 - 7,6

6,4 -7,8

6,6 - 7,9

7,8 - 8,0

7,0 - 8,2

7,1-8,4

7,3 - 8,7

Phân loại
Suy dinh
dưỡng rất nặng
Suy dinh
dưỡng nặng

Cân
nặng

Suy dinh
dưỡng vừa

(kg)
7,6 - 10,0 7,8 - 10,1 7,9 - 10,4 8,0 - 10,8 8,2 - 10,9 8,4 -11,1 8,7 - 11,5


> 10,0

> 10,1

> 10,4

> 10,8

> 10,9

> 11,1

Bình thường

> 11,5

Béo

2.2.2.3. Phương pháp nghiên cứu các chỉ số chức năng của một số hệ cơ
quan.
- Tần số tim được xác định bằng ống nghe. Khi đo, đối tượng ngồi ở tư
thế thoải mái. Người đo đặt ống nghe vào ngực trái của đối tượng, ở vị trí
giữa xương sườn thứ 5 và thứ 6, đếm nhịp tim trong 1 phút và đo ba lần rồi
lấy giá trị trung bình.
- Tần số thở được xác định bằng cách cho trẻ em nằm trên giường, hai
tay đặt lên ngực, vén áo của trẻ lên cao hơn bụng. Quan sát bụng của trẻ, mỗi
một lần thành bụng của trẻ nâng lên, hạ xuống thì tính là một nhịp thở.


23


2.2.2.4. Phương pháp nghiên cứu trí tuệ
Trí tuệ được xác định bằng phương pháp trắc nghiệm và sử dụng test
Raven màu với từng trẻ mẫu giáo từ 4 - 6 tuổi vì test phù hợp với lứa tuổi này.
Test Raven màu gồm 36 khuôn hình, chia thành 3 bộ (A, AB, B), cấu trúc
theo nguyên tắc có độ khó tăng dần. Mỗi bộ gồm 12 bài tập, được bắt đầu
bằng khuôn hình đơn giản (khuôn hình 1) và kết thúc bằng khuôn hình phức
tạp (khuôn hình 12). Do đó, bài tập dễ nhất trong toàn bộ test Ravent là khuôn
hình A1 và khó nhất là khuôn hình B12 [1]. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu với
từng cá nhân trẻ. Thời gian tiến hành với mỗi trẻ không quá 15 phút.
Mỗi bài test gồm hai phần. Phần hình vẽ lớn và phần 6 hình nhỏ. Hình
vẽ lớn luôn bị thiếu một phần. Phần thiếu có cùng kích thước với các hình nhỏ
và là một trong 6 hình. Nghiệm thể cần tìm đúng hình nhỏ duy nhất đó. Để trẻ
hiểu bài tập, chúng tôi hướng dẫn cụ thể ở khuôn hình A 1. Trắc nghiệm viên
chỉ vào hình vẽ lớn và phần bị thiếu, nói hình vẽ đã bị cắt một miếng. Nếu lắp
các hình nhỏ vào phần bị cắt, thì đều đúng kích thước, nhưng không phải hình
nhỏ nào cũng phù hợp với hình vẽ lớn, chỉ có đúng một hình nhỏ phù hợp.
Nói trẻ quan sát kỹ hình lớn và các hình nhỏ, rồi chọn xem hình nhỏ phù hợp
là hình nào. Nếu trẻ còn lúng túng, trắc nghiêm viên tiếp tục giải thích cho
đến khi trẻ thực sự hiểu.
Khi trẻ làm các bài từ A 2 đến A5, AB1 đến AB5 và B1 đến B5, dù trẻ chọn
đúng hay sai, trắc nghiệm viên chỉ vào phần bị thiếu của hình vẽ lớn, hỏi hình
nhỏ trẻ đã chọn có lắp đúng vào đó không. Nếu trẻ trả lời có, trắc nghiệm viên
chấp nhận dù sai. Nếu trẻ chọn hình khác, trắc nghiệm viên hỏi trẻ hình mới
chọn cũng đúng à? Nếu trẻ nói là đúng thì trắc nghiệm viên chấp nhận. Nếu
trẻ vẫn còn do dự, trắc nghiệm viên hỏi trẻ hình nào mới đúng, và ghi lại kết
quả trẻ đã chọn. Với các bài khác, trắc nghiệm viên không hỏi đúng sai, chỉ
nhắc trẻ mỗi bài chỉ có đúng một hình phù hợp, trẻ cần chọn kỹ.



24

Trắc nghiệm viên ghi lại kết quả ở mỗi bài của trẻ, rồi chấm điểm theo
khoá điểm của test Raven màu. Căn cứ vào điểm test Raven, chỉ số IQ được
tính theo công thức của D. Wechsler. Trên cơ sở chỉ số IQ, đối chiếu với tiêu
chuẩn phân loại trí tuệ của D. Wechsler để phân loại các mức trí tuệ [77].
Bảng 2.6. Phân loại chỉ số IQ và mức trí tuệ
STT

IQ

Mức trí tuệ

Loại trí tuệ

1

≥ 130

I

Xuất sắc

2

120 - 129

II

Giỏi


3

110 - 119

III

Khá

4

90 - 109

IV

Trung bình

5

80 - 89

V

Tầm thường

6

70 - 79

VI


Kém

7

<70

VII

Ngu độn

2.2.2.5. Phương pháp nghiên cứu trí nhớ
Trí nhớ được xác định dựa theo phương pháp Nechaiev. Chúng tôi tiến
hành nghiên cứu trí nhớ ngắn hạn thị giác và trí nhớ ngắn hạn thính giác của
trẻ em từ 4 - 6 tuổi.
- Trí nhớ thị giác: Dùng giấy A 3 in 10 hình con vật mà trẻ đã biết. Ví dụ:
vịt, chó, mèo, gà, thỏ, gấu, hổ, bướm, voi, cá. Nói trẻ chú ý quan sát, cố gắng
nhớ để còn kể lại. Sau khi cho trẻ quan sát 30 giây, ghi lại tên các con vật mà
trẻ trả lời đúng, không cần theo thứ tự.
Đánh giá kết quả dựa vào số con vật trẻ nhớ đúng trong thời gian 30
giây. Mỗi tên con vật nhớ đúng, được 1 điểm.
- Trí nhớ thính giác: Phương pháp tương tự như nghiên cứu trí nhớ ngắn
hạn thị giác, nhưng bằng cách đọc cho trẻ nghe tên của mười con vật quen
thuộc ba lần, sau đó yêu cầu trẻ nhớ lại, kể tên các con vật. Trắc nghiệm viên
ghi lại kết quả.


25

2.2.3. Phương pháp xử lí số liệu

2.2.3.1. Xử lý thô
- Xử lý số liệu về thể lực: Dựa vào cân nặng, chiều cao, vòng ngực để tính
chỉ số pignet và BMI .
- Xử lý bài test Raven: Điểm được tính theo khoá chấm điểm của
Raven [1], mỗi bài tập đúng được một điểm. Tính tổng số điểm của mỗi bộ
bài tập của từng cá nhân trừ điểm trung bình kỳ vọng của từng bộ bài tập
tương ứng trong bảng kỳ vọng. Nếu hiệu này dao động trong khoảng ± 2 SD
và hiệu giữa tổng điểm làm được của cả ba bộ bài tập trừ điểm kỳ vọng của
tất cả các bài ≤ 6 thì kết quả trắc nghiệm đạt yêu cầu và được xử lý tiếp. Với
những bài đạt yêu cầu, tính chỉ số IQ theo công thức của D. Wechsler và phân
loại các mức trí tuệ theo tiêu chuẩn phân loại trí tuệ của D. Wechsler [77].
- Xử lý điểm trí nhớ: Mỗi con vật nhớ đúng được 1 điểm, tổng điểm trí
nhớ của trẻ là số các con vật mà trẻ trả lời chính xác.
2.2.3.2. Xử lý số liệu bằng phuơng pháp thống kê xác suất dùng cho y, sinh học
Các số liệu được xử lý theo toán xác suất thống kê dùng trong y, sinh
học [29], [47]. Việc tính toán số liệu được thực hiện trên máy vi tính bằng
phần mềm Microsoft Excel 2003. Các giá trị thống kê gồm có: giá trị trung
bình ( X ), độ lệch chuẩn (SD), hệ số tương quan (r).
- Tính giá trị trung bình:
n

X =

∑X
i =1

i

n


Trong đó: X - giá trị trung bình; X i - giá trị thứ i của đại lượng X; n số cá thể ở mẫu nghiên cứu.


×