Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Giải pháp sáng kiến đổi mới phương pháp bình giảng thơ trong chương trình THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.08 KB, 14 trang )

Giải pháp sáng kiến Đổi mới phương pháp bình giảng thơ trong chương
trình THPT
.
I. Mục đích đề tài
1.1 Bản chất của đề tài
Bình giảng thơ là kiểu bài thuộc phân môn Làm văn của bộ môn Ngữ văn, cũng là
kỹ năng không thể thiếu trong giờ Đọc văn. Thể loại thơ chiếm địa vị quan trọng
trong chương trình, sách giáo khoa Ngữ văn từ cấp Tiểu học đến Trung học phổ
thông. Việc cảm thụ tác phẩm luôn là một yêu cầu hàng đầu giúp các em nâng cao
năng lực cảm thụ tác phẩm, thẩm thấu được các giá trị Chân, Thiện, Mỹ của cuộc
sống và văn chương, bồi đắp và nâng cao tâm hồn.
Tuy nhiên, công việc này đòi hỏi không chỉ có năng lực sư phạm, kiến thức chuyên
môn mà còn đòi hỏi người giáo viên phải tự nâng cao năng lực cảm thụ, bình giảng
tác phẩm. Trong các kỹ năng phân tích, bình giảng luôn đòi hỏi phải phát hiện cái
hay, cái đẹp. gây hứng thú cho học sinh, giúp các em yêu thích môn Văn hơn. Thế
nhưng, nhiều giáo viên chưa thật sự quan tâm đến khía cạnh này, việc tiếp cận văn
bản chủ yếu dựa vào sách hướng dẫn cho giáo viên và tài liệu tham khảo có sẵn, do
vậy việc sáng tạo, đầu tư chiều sâu trong bài giảng không khỏi hạn chế và có phần
làm khô cứng và chai mòn cảm xúc khi tiếp xúc các bài đọc hiểu thể loại. Việc vận
dụng các kỹ năng phân tích, bình giảng cũng không tránh khỏi máy móc và nhiều
bất cập khi tiếp xúc với các văn bản văn xuôi và thơ phức tạp, đa thanh đa nghĩa.
Trong phạm vi đề tài nhỏ này, người viết xin nêu một số kinh nghiệm của bản thân
trong quá trình giảng dạy xung quanh kỹ năng bình giảng thể loại thơ, nhằm đổi
mới cách thức tiếp cận bài học của giáo viên và học sinh.
1.2 Nhiệm vụ của đề tài
Đề tài nhằm nêu lên một số kinh nghiệm riêng trong việc vận dụng kỹ năng bình
giảng cũng như tìm tòi những cách thức để bình giảng một bài thơ hiệu quả nhất.
Mong muốn của người viết cũng chỉ nhằm gíup phần nhỏ trong việc làm cho môn
Văn thật sự là một môn học hứng thú với học sinh và giáo viên, làm giờ dạy đọc
hiểu các tác phẩm thơ sinh động và cuốn hút hơn, trên cơ sở đó mở rộng sang việc
dạy và tiếp cận các thể loại Văn học khác trong chương trình THPT. Về phía giáo


viên có thể tự mình hướng dẫn các em học sinh thực hiện các thao tác bình giảng
một cách thuần thục và tránh khuôn sáo, phát huy cao độ tính tích cực sáng tạo của
học sinh trong quá trình học tập bộ môn Ngữ Văn.
II. Nội dung đề tài
2.1 Thực trạng việc dạy và học thơ ở nhà trường phổ thông
2.1.1 Cấu trúc chương trình, sách giáo khoa
Thời lượng dành cho các tiết học thơ thường giới hạn trong một tiết học, cá biệt có
một tiết phải học cả hai bài thơ. Phần lớn các bài thơ dài mới có thời lượng 2
tiết/bài. Cấu trúc của sách giáo khoa hiện nay chú trọng dạy theo thể loại một cách
tập trung, vì vậy các em học tập trung đọc hiểu văn bản thơ rồi mới học sang các
văn bản thuộc thể loại khác. Cấu trúc như vậy vừa có thuận lợi khi có thể so sánh


các văn bản thơ cùng một cảm hứng, khuynh hướng nhưng lại có hạn chế là các em
chủ yếu tiếp xúc văn bản theo thể loại mà khó hệ thống hoá kiến thức văn học sử vì
sự đan xen tác phẩm của nhiều chặng đường, giai đoạn văn học khác nhau, dễ hệ
thống về đặc điểm thể loại nhưng khó hệ thống các vấn đề tư tưởng thuộc về thời
đại, lịch sử.
2.1.2 Những thuận lợi và khó khăn
+ Giáo viên
Nắm vững phương pháp, kỹ năng bình giảng trên cơ sở định hướng dạy học, sách
giáo viên. Có quá trình nghiên cứu sâu trên nhiều khía cạnh khác nhau của bài
giảng, có quá trình tích lũy tư liệu trong nhiều năm. Tuy nhiên thời lượng định cho
tiết dạy thơ hạn chế, khó phát huy hết các thao tác bình giảng trong tiết dạy.
+ Học sinh
Thể loại bình giảng thơ thích hợp với đặc điểm tâm lý lứa tuổi, kích thích óc sáng
tạo và trí tưởng tượng phong phú của tuổi học trò. Tuy nhiên, thiên hướng các năm
gần đây ngả về phía các bộ môn tự nhiên hơn bộ môn xã hội nên các em không
mặn mà với môn Văn. Kỹ năng bình giảng lại là một kỹ năng khó, nhiều em chưa
nắm được phương pháp, năng lực cảm thụ yếu. Hạn chế của học sinh tập trung chủ

yếu ở sự nghèo nàn về vốn sống, thiếu kiến thức về lịch sử cũng như văn chương.
Hơn nữa, cách ra đề thi những năm gần đây liên quan đến văn bản thơ thường cho
sẵn văn bản, học sinh không thuộc tác phẩm, không hiểu nội dung cũng như
phương pháp tiếp cận văn bản thơ, vì vậy thường bình tán, suy diễn chủ quan vô
căn cứ.
2.2 Hướng vận dụng sáng tạo kỹ năng bình giảng thơ trong thực tế giảng dạy
2.2.1 Chuẩn bị tư liệu
Để bình giảng tốt một tác phẩm thơ, khâu quan trọng là chuẩn bị tư liệu, càng có
nhiều cách tiếp cận, người giáo viên càng có nhiều cảm hứng và hướng xử lý văn
bản, chọn lọc được chi tiết bình giảng đắt gía. Tư liệu được sắp xếp theo nhiều
mảng đề tài khác nhau, sắp xếp dựa theo phân kỳ văn học từng thời kỳ, giai đoạn,
chặng đường văn học. Bên cạnh đó, các hồ sơ tư liệu còn phân loại theo thể loại
thơ, tác giả, đề tài, chủ đề. Một số tư liệu sưu tầm được vi tính hóa để tiện việc sử
dụng, tra cứu. Trong thời đại hiện nay, môi trường làm việc có internet là công cụ
hỗ trợ hiệu quả để tham khảo các nguồn bài bình giảng, các bản ghi âm giọng đọc,
giọng ngâm, các bài bình giảng hay xung quanh tác phẩm ở trên mạng tồn cầu. Do
vậy, giáo viên thành thục thao tác tra cứu trên mạng, sẽ tiết kiệm được khá nhiều
thời gian. Tuy nhiên việc chuẩn bị tư liệu chỉ là bước khởi đầu cần thiết, không
phải là nhân tố quyết định để đánh gía chất lượng của bài bình giảng.
2.2.2 Đọc văn bản
Bước tiếp theo, đọc văn bản là một khâu không thể thiếu đối với giáo viên. Với
văn bản thơ cần đọc đi đọc lại theo nhiều cách khác nhau, từ đọc thầm đến đọc
diễn cảm để chọn ra cách đọc đúng tinh thần văn bản nhất. Nhiều giáo viên không
chú ý khâu đọc, không thuộc văn bản, lệ thuộc vào sách giáo khoa nên không tránh
khỏi lúng túng khi diễn đạt cũng như bình vào chi tiết không chính xác. Thực tế
cho thấy việc đọc rõ ràng, chính xác và truyền cảm một bài thơ trên lớp sẽ giúp ích


rất nhiều cho giáo viên truyền thụ cảm xúc vào bài giảng, tạo hứng thú cho các em
cùng khám phá cái hay cái đẹp của tác phẩm.

2.2.3 Bình giảng trên lớp
Thao tác bình giảng trên lớp tỏ ra có ưu thế hơn so với phương pháp phân tích,
diễn giảng theo lối truyền thống. Trước kia, giáo viên thường phải “làm thay” việc
cảm thụ tác phẩm cho học sinh, cách dạy ấy không tránh khỏi những áp đặt mà học
sinh cũng không dám phát biểu tranh luận với giáo viên. Còn dạy theo phương
pháp bình giảng, theo tôi cần phải tạo môi trường thân thiện, hướng học sinh cùng
tham gia cảm thụ tác phẩm theo định hướng và những gợi ý từ giáo viên.
Theo người viết, một tiết bình giảng thơ trên lớp cần thực hiện được các thao tác
cơ bản sau đây:
- Giao viên giới thiệu khái quát những vấn đề trọng tâm, cơ bản của tác phẩm,
nhấn mạnh vào các trọng tâm cần khai thác trong bài thơ.
- Trên cơ sở câu hỏi hướng dẫn học bài, giáo viên xây dựng lại hệ thống câu hỏi
theo hướng bình giảng, bám sát những đặc trưng thể loại của tác phẩm để học sinh
hình dung tổng thể kết cấu nghệ thuật cũng như nội dung tư tưởng cần phải khai
thác. Trong khâu này, giáo viên cần khuyến khích học sinh mạnh dạn phát biểu suy
nghĩ riêng của bản thân, trên cơ sở chỉ định ngẫu nhiên học sinh phát biểu ý kiến
(không theo cách truyền thống lâu nay là chờ học sinh giơ tay phát biểu, sẽ chỉ có
một nhóm nhỏ làm việc trong khi phần lớn không chú ý vào bài!). Học sinh qua đó
cũng tập được thói quen chủ động và tự tin nêu những cảm nhận ban đầu, dù rất
chủ quan hoặc suy diễn ý vô căn cứ thì giáo viên cũng hình dung được cách tiếp
cận của học sinh để điều chỉnh, định hướng kịp thời.
- Giáo viên chọn lọc những ý thơ, đoạn thơ trọng tâm bình giảng mẫu, sau đó yêu
cầu học sinh dựa vào cách trình bày, diễn đạt của giáo viên để bình giảng các đoạn
thơ, ý thơ tương tự. Đây chính là khâu quan trọng nhất vì học sinh được truyền đạt
phương pháp như là “chìa khóa” để mở những cánh cửa vào thế giới nghệ thuật
của tác phẩm.
- Cuối cùng, giáo viên hệ thống hóa, chốt lại những trọng tâm.
Trong điều kiện hạn chế về thời lượng hiện nay, có những bài thơ giảng theo
phương pháp bình giảng sẽ giúp cho giáo viên truyền thụ được những kiến thức cơ
bản đầy đủ đồng thời tạo hứng thú cho học sinh tiếp cận tác phẩm, kích thích năng

lực sáng tạo cho các em tiếp tục tìm hiểu tác phẩm theo cảm nhận riêng của mình.
Muốn vậy, giáo viên phải nắm chắc kết cấu tác phẩm, chọn lọc được những từ ngữ,
hình ảnh đắt gía, đúng trọng tâm để bình thật trúng ý, vừa mang tính bao quát vừa
thể hiện chiều sâu trong bài giảng.
2.2.4 Viết bài bình giảng
Không chỉ thực hiện thao tác bình giảng trên lớp, giáo viên phải có khả năng tự
viết bài bình giảng để giúp học sinh thật sự nắm được phương pháp bình giảng và
đủ tự tin thực hiện các bài tự luận bình giảng. Trong thực tế giảng dạy, giáo viên
có thể giới thiệu cho học sinh những bài bình giảng hay của các cây bút chuyên
nghiệp để học sinh tham khảo cách viết. Tuy nhiên nhiều khi điều này dẫn đến việc
học sinh bị rập khuôn, không dám sng tạo, thể hiện những suy nghĩ riêng nhiều khi


táo bạo và bất ngờ, mới mẻ của chính các em. Bởi vậy, khả năng viết bài bình
giảng của giáo viên còn làm tăng sức thuyết phục đối với học sinh về cách thức
tiếp cận, cảm thụ tác phẩm theo nhiều hướng khác nhau. Đồng thời giúp học sinh
nhận thức sự khác biệt giữa cách diễn đạt bình giảng dạng nói với cách diễn đạt
bình giảng dạng viết. Để làm tốt điều này, cần phải trải qua hai khu chính:
+ Xây dựng đề cương bình giảng: xác định đúng trọng tâm bình giảng, định hướng
tiếp cận văn bản. Việc tìm ý và lập ý của giáo viên tuân thủ định hướng về kỹ năng
bình giảng, học tập thêm một số kinh nghiệm của các nhà giáo sở trường ở thể loại
bình giảng như Đỗ Kim Hồi, Nguyễn Đăng Mạnh đã đúc kết trong các tài liệu
đồng thời rút tỉa từ kinh nghiệm của bản thn để xây dựng thành đề cương. Bản thân
tôi thường chú trọng phát triển đề cương theo hướng Tổng – Phân - Hợp. Trong
đó:
- Phần Tổng: xác định đặc điểm đề tài, cảm hứng chủ đạo. So sánh những cách
hiểu quen thuộc về bài thơ trước đây, từ đó đề xuất hướng tiếp cận phù hợp, có thể
tiếp thu và phát triển, bổ sung hòan chỉnh ý cần bình giảng.
- Phần Phân: chia nội dung bình giảng thành nhiều khía cạnh nhỏ, dựa trên định
hướng ở phần Tổng. Bám sát các tiêu chí về ngôn ngữ thơ, hình ảnh thơ, khai thác

lối diễn đạt độc đáo của tác giả. Phân đoạn bình giảng trên cơ sở chọn lọc chi tiết
đắt giá nhất để chỉ ra vẻ đẹp tiêu biểu trong ý thơ, câu thơ, kết cấu…
- Phần Hợp: đánh giá tổng quát, nhấn mạnh vào những khám phá riêng để khái
quát gi trị của đoạn thơ được bình giảng. Liên hệ mở rộng làm rõ tư tưởng, phong
cách của tác giả và chỉ ra những đóng góp nâng cao gía trị của tác phẩm.
+ Viết bài bình giảng thơ: Công việc này phục vụ trực tiếp việc giảng dạy, giúp
học sinh nắm được các thao tác làm bài trong khuôn khổ nhà trường, có thể vận
dụng phương pháp bình giảng theo cảm nhận của chính các em. Điều quan trọng
nhất là phải tìm ra được tác phẩm tâm đắc thật sự, chọn lựa phương pháp diễn đạt
thể hiện được cách cảm, cách đánh gía của bản thân. Việc viết bài bình giảng
không đòi hỏi giáo viên phải thể hiện năng lực cảm thụ, diễn đạt như một nhà phê
bình chuyên nghiệp mà cần chú trọng đáp ứng các yu cầu sau:
- Bảo đảm truyền đạt các ý trọng tâm trong bài giảng theo định hướng chuẩn kiến
thức cần đạt của bài.
- Linh hoạt trong cách diễn đạt, cần chọn lọc được những chi tiết trọng tâm của tác
phẩm để viết bình giảng. Các ý bình giảng phải thể hiện được sự tìm tòi thật sự của
giáo viên, không rập khuôn lối diễn đạt trong các bài văn mẫu, bài tham khảo trong
các tài liệu của người khác.
- Giáo viên cần đầu tư chọn lọc từ ngữ diễn đạt “trúng” ý, tạo được ấn tượng và
cảm xúc mạnh đối với học sinh. Điều này đòi hỏi chính người giáo viên phải trau
dồi vốn từ, năng lực diễn đạt đa dạng, tránh theo lối mòn câu chữ có sẵn, dễ dãi
thiếu sự đầu tư (vốn là “bệnh nghề nghiệp” của giáo viên lâu năm).
Sau quá trình viết xong một bài bình giảng luôn luôn phải có kiểm định bằng pháp
thử - sai để điều chỉnh các ý bình giảng cho phù hợp, có thể vận dụng vào trong
quá trình giảng dạy và hướng dẫn được cho học sinh phương pháp triển khai ý.
Công việc này hoàn tòan không phải là viết sẵn bài văn mẫu mà chỉ mang tính


tham khảo, gợi mở cho học sinh.
Viết bài bình thơ: Đây là khâu bổ sung kỹ năng, kỹ xảo cho chính giáo viên, nhằm

tự kiểm tra năng lực cảm thụ của bản thân, phát hiện những chi tiết đắt gi trong văn
bản thơ, luyện tập phương pháp diễn đạt. Bên cạnh một bài bình giảng theo định
hướng chuẩn, cần có những ý cô đọng nhất để viết lại thành bài bình thơ, mang dấu
ấn cá nhân của giáo viên. Có thể thực hiện bằng cách rút gọn văn bản bình giảng
hoặc viết bài bình thơ độc lập. Công việc này đòi hỏi lòng kiên trì và sự say mê của
giáo viên, là cách giúp giáo viên không bị nhàm chán vì phải lặp đi lặp lại những
thao tác quen thuộc khi phải bình giảng lặp đi lặp lại một tác phẩm cho nhiều lớp
học sinh khác nhau. Một tác phẩm thơ luôn ẩn chứa những gía trị, vẻ đẹp độc đáo
trong nội dung và nghệ thuật, luôn luôn chứa đựng những yếu tố bất ngờ mà nếu
giáo viên chịu khó đọc đi đọc lại thì sẽ có nhiều phát hiện mới mẻ, sâu sắc. Giáo
viên nên tiến hành một cách thường xuyên sẽ tạo được thói quen tốt trong tư duy
cũng như nâng cao kỹ năng viết, suy luận phán đoán vấn đề theo nhiều hướng khác
nhau. Tuy nhiên, bình thơ là một công việc hứng thú nhưng cũng mang đậm dấu ấn
chủ quan, có lúc không tránh khỏi ngộ nhận, sai lầm nên giáo viên cần thận trọng
cân nhắc trước khi giới thiệu cho học sinh. Giáo viên cần có sổ ghi chép để tập
bình những ý thơ, đoạn thơ mình tâm đắc nhất trong bài giảng, nhằm tích lũy và bổ
sung làm phong phú thêm bài bình giảng cho học sinh.
Phần minh họa kỹ năng xây dựng đề cương, viết bài bình giảng và bình giảng thơ
Một số bài bình giảng minh hoạ việc xây dựng đề cương, viết bài bình giảng, bình
thơ của tác giả, đã in trong sách Bồi dưỡng Ngữ văn 12(Đỗ Kim Hảo - Trần H
Nam), được in lại trong quyển Những bài làm văn tiêu biểu lớp 12 (TS. Nguyễn
Xuân Lạc - Đặng Hiển),NXB ĐHQG Hà Nội, 9.2008.
Bình giảng Tây Tiến (Quang Dũng)
Đề tham khảo: Bình giảng ngắn gọn vẻ đẹp của bài thơ Tây Tiến (Quang Dũng)
Dàn ý:
I. Đặt vấn đề:
Giới thiệu ngắn gọn, nêu ấn tượng đậm nét nhất của bản thân về một vẻ đẹp mà
bản thân cảm nhận được từ bài thơ.
II. Giải quyết vấn đề:
A. Tổng:

Nêu khái quát về nội dung, cảm hứng bao trùm của bài thơ - vẻ đẹp cuộc sống
kháng chiến và con người kháng chiến, nét lãng mạn, hào hùng và hào hoa của
người lính cách mạng.
B. Phân:
1. Chọn lọc ý trong đoạn thơ tâm đắc nhất (phần này tùy thuộc vào cảm nhận chủ
quan của từng học sinh, ở đây chỉ có tính chất gợi ý!). Lưu ý đoạn thơ được chọn
lọc cần phải thể hiện được những hiểu biết của học sinh về nội dung tư tưởng cũng
như nghệ thuật của tác phẩm.
2. Phân tích sâu vào vẻ đẹp trong giọng điệu, nhịp điệu, âm hưởng của đoạn thơ.


Thấy được nét độc đáo trong cách dùng từ ngữ, hình ảnh, các thủ pháp nghệ thuật
được sử dụng.
3. Cảm nhận các ý cơ bản của tác phẩm, nêu được nhận xét về vẻ đẹp của không
gian Tây tiến, con người Tây tiến, sự kết hợp hài hoà cảm hứng lãng mạn và hiện
thực đem lại cái nhìn chân thật và đặc sắc về người chiến sĩ Tây tiến.
C. Hợp:
Rút ra giá trị tư tưởng, giá trị thẩm mỹ của tác phẩm
III. Kết thúc vấn đề:
Nêu gía trị của tác phẩm, ý nghĩa thực tiễn với cuộc sống hiện nay. Nêu bật ấn
tượng sâu sắc nhất của bản thân.
Bài viết tham khảo:
Đọc lại Tây Tiến của Quang Dũng
Giữa cái bộn bề của thị trường thơ hôm nay, lật trang sách cũ, gặp Tây Tiến của
Quang Dũng, chợt xôn xao cơi ḷòng theo những vần thơ đượm màu kiêu bạc hào
hoa: Sông Mă xa rồi Tây Tiến ơi...
Thơ hay có sức rung động mănh liệt là vậy. Không cần tỉ mẩn bóc từng câu từng
chữ mà thấm vào ḷòng người sự rung cảm chân thật đến run rẩy từng làn da thớ
thịt. Tây Tiến đă thực sự chinh phục người đọc bằng tâm trạng của người trai ra đi
cứu nước trong buổi đầu kháng chiến – với tâm tư in bóng trong dáng hình sông

núi:
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi...
Cảnh ấy cũng là tình. Cũng là sương, là hoa, là mây, là mưa – những chi tiết
thường gặp trong thơ cổ – nhưng còn
c đượm thêm không khí trầm hùng của thời đại
được diễn tả bằng những từ ngữ, thanh điệu khi đọc lên ta cảm thấy ngang tàng.
Hình ảnh của một đoàn quân mỏi đi trong cái khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút, giữa
cái bồng bềnh sương khói chơi vơi được tác giả phác hoạ bằng những nét chấm phá
tài tình. Con mắt thơ không dừng lại ở trong không gian rừng núi mà c còn mở ra
một không gian – tâm trạng của một hồn thơ chiến sĩ. Phảng phất một chút Lư
Bạch trước Hoàng Hà – ngút ngát chí tang bồng của người trai thời loạn. Trong
gian nan của người chiến sĩ Tây Tiến, ta vẫn gặp chút hóm hỉnh ở hh nh ảnh
súng ngửi trời. Chạm mặt với thực tế khắc nghiệt – song chất hào hoa lăng tử
không mất đi mà lại càng được tô đậm thêm, chân thật sống động trong những câu
thơ đượm tình quê, tình đồng đội, tình quân dân. Một hiện thực về người lính Tây
Tiến – anh Bộ đội Cụ Hồ trong những năm đầu chiến đấu gian khổ. Đó là cơn mưa


gợi nỗi nhớ nhà sâu thẳm, là sợi khói cơm thơm quyện chặt tình người, một bóng
hình đong đưa làm xao xuyến những trái tim trai trẻ...
Bài thơ có nói đến hy sinh, mất mát, gian khổ nhưng cảm xúc hào hùng của lớp
người “ra đi bảo tồn sông núi” đă lấn át cái bi luỵ buồn thương. Đoàn binh Tây
Tiến trong thơ Quang Dũng như một sự kết tụ của tráng khí muôn đời, pha chút
lăng mạn kiểu Kinh Kha “một đi không trở lại”. Phải chăng với tinh thần “coi cái

chết nhẹ tựa lông hồng” mà toàn bài thơ mặc dù có nói đến chết chóc nhưng giọng
điệu rất bh nh thản: anh về đất? Phải chăng khi xác định chiến trường đi chẳng tiếc
đời xanh, người chiến sĩ đă nhận ra mục đích của cuộc chiến đấu còn
c lớn hơn gấp
vạn lần những gian khổ , hy sinh?
Bài thơ không cường điệu hoá cảm xúc dẫu trong âm điệu gân guốc, khoẻ khoắn
của toàn bài có những từ ngữ mang hơi hướng cổ điển như xiêm áo, dữ oai hùm,
mồ viễn xứ, áo bào, khúc độc hành và cách diễn đạt tưởng chừng lạ lẫm tràn ngập
không khí lăng mạn. Nếu chỉ chăm chăm đi tìm chất thép trong bài thơ theo quan
điểm xă hội học thiển cận thì chẳng khác nào cầm dao đâm vào cái đẹp. Cái đẹp
của bài thơ viết ra từ lửa máu đă làm rung lên những cảm xúc đồng điệu của bao
thế hệ.
1994 - 2005
Trần Hà Nam
Bình thơ Đàn ghi ta của Lorca (Thanh Thảo)
(Khối vuông Rubic – NXB TPM – 1985)
Tôi đã yêu bài thơ này bằng tình yêu nguyên thủy của một chàng trai mới lớn, vì
có chất lãng tử cứ hiện ra trên từng dòng thơ. Tưởng như Thanh Thảo đã thật sự có
những khoảnh khắc hóa thân, nhập vai để sống tận cùng chất nghệ sĩ của G. Lorca.
Trong một tập thơ mà anh từng tuyên bố : “Tôi thích tỉnh rụi, tỉnh khô, tỉnh như
sáo ...» thì bài thơ như một hiện hữu đối lập của Khối vuông rubic. Nhưng đến giờ,
ngẫm kỹ lại thì bài thơ vẫn rất tỉnh vì đã đem lại cho người đọc một chân dung thật
nhất, rõ nhất về G.Lorca – nhà thơ, nhạc sĩ tài hoa của xứ sở bò tót và đấu sĩ.
Thanh Thảo là người có biệt tài ám ảnh người khác bằng cái tỉnh rụi như không,
khi viết những câu thơ tưởng không có gì mà nếu muốn bắt chước anh viết thử như
vậy thì chẳng khác nào nàng Đông Thi bắt chước Tây Thi nhăn mặt để tự biến
mình thành ngớ ngẩn. Từ một Đêm trên cát viết về Cao Bá Quát bắt đầu với những
mắt cá ngủ mê trong điện Thái Hoà - một ẩn dụ để hiện lên sau đó một nhân vật
đầy suy tư về thời đại, rất xưa mà rất mới – cho đến một nỗi niềm ta như chú nghé
thèm đám cỏ trong một bài thơ nho nhỏ Đất Cù Trâu cũng vẫn là một ẩn ức được

diễn tả một cách rất qui theo kiểu Thanh Thảo. Dài dòng như vậy vì sau này tôi
mới đọc anh nhiều để nghiệm ra, còn lúc ấy dù rất ngạo mạn hay phê bậy bạ vào
các trang thơ của các tiền bối những lời chê phạm thượng (tất nhiên chẳng loại trừ
anh), tôi đã phải ghi ngay một chữ “Hay !” bên lề trang sách ngay khi vừa đọc
“những tiếng đàn bọt nước ...». Ám ảnh sắc màu đỏ gắt, âm thanh li-la li-la li-la cứ
theo tôi suốt một thời gian dài (sau này tôi mới kịp hiểu li-la còn là tên một loài


hoa theo tiếng Ty Ban Nha). Để rồi, theo bước chân chàng lãng tử, theo câu thơ
lãng tử, tôi chứng kiến một sự sống G.Lorca đi lang thang về miền đơn độc, đi như
người mộng du, tôi thả hồn theo tiếng ghi-ta nâu, tiếng ghi-ta l xanh biết
mấy, tiếng ghi-ta tròn bọt nước vỡ tan, tiếng ghi-ta ròng ròng máu chảy. Tưởng
chừng tôi thấy rõ G.Lorca đối diện với họng súng mà tâm hồn còn mải miết hướng
về bầu trời cô gái ấy, không mang cái chết cận kề. Tôi theo tiếng ghi-ta, theo hành
trình Lorca bơi sang ngang trên chiếc ghi-ta màu bạc... Tất cả làm thành một cảm
tính thơ không thể cắt nghĩa cho đến tận bây giờ đã hai mươi năm trôi qua vẫn còn
nguyên vẹn. Giọt nước mắt vầng trăng làm nên phút thăng hoa âm thanh bất diệt
li-la li-la li-la cứ ngân mãi, hòa quyện cả màu sắc, âm thanh, ánh sáng, sự sống
thành một thể thống nhất. Định Mệnh – lá bùatrôi vào xoáy nước khép lại một
cuộc đời người chiến sĩ chống phát-xít kiên cường, chàng ném trái tim mình vào
lặng im bất chợt, nhưng tiếng đàn – hồn thơ vẫn như lan toả trên dòng sông cuộc
sống vĩnh cửu, mà mỗi giọt – âm - thanh ấy tan hồ thành sắc li-la tím mãi màu
tưởng vọng.
Thanh Thảo đã từng viết : “Lorca là nhà thơ của những giấc mơ, của những linh
cảm nhoi nhói, một nhà thơ có thể biến những giấc mơ thành nhịp điệu, có thể biến
những linh cảm thành ngôn từ. Lorca siêu thực một cách tự nhiên, và hiện thực một
cách tự nhiên” (Lorca trong tôi – Mãi mãi là bí mật, NXB Lao động, 2004). Một
nhà thơ đã có một Lorca trong lòng như vậy, nên Đàn ghi-ta của Lorca có thể xem
như là một gặp gỡ đẹp tạo thành phút “bùng nổ” của năng lượng sáng tạo Thanh
Thảo. Với những bài thơ như vậy, dường như mọi lời bình giải bỗng thành... vô

duyên !
Trần Hà Nam
Bài bình giảng Đàn ghita của Lorca
Đề tham khảo: Bình giảng bài thơ Đàn ghi ta của Lorca (Thanh Thảo)
Bài viết tham khảo:
Đất nước Tây Ban Nha xinh đẹp với những trận đấu bò rực lửa, với tiếng ghi ta say
lòng đã đi vào trong thơ của Garcia Lorca, nhà thơ nhân dân, người chiến sĩ chống
phát xít. Sự hy sinh anh dũng của ông trước họng súng của bọn phát xít Franco đã
để lại nhiều tiếc thương cho nhân dân Tây Ban Nha. Sức ám ảnh của những bài thơ
đầy chất lãng tử của người nghệ sĩ Tây Ban Nha ấy đã gặp gỡ với hồn thơ Thanh
Thảo làm nên bài thơ độc đáo Đàn ghi ta của Lorca trong tập thơ Khối vuông
rubic.
Trước hết cần phải thấy không phải ngẫu nhiên mà Thanh Thảo lại chọn hình
tượng đàn ghi ta gắn với giây phút cuối cùng của F.G.Lorca. Bởi lẽ người chiến sĩ
này đã dùng tiếng ghi ta cất lên lời ca tranh đấu chống lại chủ nghĩa phát xít. Đàn
ghi ta là tâm hồn Lorca, là khí phách kiên cường của những người chiến sĩ yêu tự
do hòa nhịp trái tim mình với quần chúng nhân dân. Bởi vậy, nỗi xúc động của
Thanh Thảo làm nên cảm hứng của bài thơ cũng bắt đầu từ câu thơ của Lorca:
“Khi tôi chết hy chôn tôi với cây đàn ghi ta”.


Viết về một nhà thơ hiện đại, một người con của đất nước Tây Ban Nha, Thanh
Thảo đã dựng nên một chân dung bằng thơ sống động. Không gian mở đầu bài thơ
là những biểu tượng đặc trưng của văn hóa xứ sở những trận đấu bò, hiện hữu tất
cả chất say phóng cuồng nghệ sĩ:
những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li-la li-la li-la
đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếnh choáng

trên yên ngựa mỏi mòn...
Cái độc đáo của bài thơ này chính là ở những thủ pháp hiện đại mà hình ảnh không
hề cầu kỳ xa lạ vẫn giúp người đọc hình dung chất Tây Ban Nha không trộn lẫn.
Thanh Thảo có lối diễn đạt câu thơ không viết hoa đầu dòng, tạo mạch thơ liên tục,
xâu chuỗi với nhau để nối kết các biểu tượng đầy sức ám ảnh : đất nước của những
làn điệu ghi ta – Tây Ban cầm, của áo choàng matador - đấu sĩ, của những giấc mơ
hiệp sĩ của chàng Đôn Kihôtê đã cuốn hút người đọc bằng chất men say chếnh
chống cả vầng trăng. Không chỉ có thế, ghi ta của chàng nghệ sĩ còn vang những
âm điệu rất lạ “li-la li-la li-la” gọi về sắc tím của hoa tử đinh hương, âm thanh và
màu sắc hồ quyện, dìu dịu vẻ đẹp của một nỗi buồn trữ tình. Bài thơ cuốn người
đọc vào cái âm hưởng li-la ngân mãi không dứt ấy. Đó cũng là những gì đã xuất
hiện trong thơ Lorca, ca ngợi một đất nước Tây Ban Nha tươi đẹp và hào hiệp với
khát vọng công lý, tự do.
Tây Ban Nha của thời Lorca còn là đất nước sôi sục những cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa phát xít, ghi ta của Lorca cất lên lời ca tranh đấu : «Ghi ta bần bật khóc –
Không thể nào - dập tắt” (thơ Lorca). Bởi vậy diễn tả khoảnh khắc người chiến sĩ
ấy bị bọn phát xít sát hại, Thanh Thảo cũng đã dựng nên bầu không gian kinh
hoàng những ấn tượng chết chóc : Tây Ban Nha hát nghêu ngao - bỗng kinh hoàng
–áo choàng bê bết đỏ-Lorca bị điệu về bãi bắn – chàng đi như người mộng du…
Những câu thơ tiếp nối diễn tả tột cùng cho cảm giác đau đớn uất nghẹn trước sự
tàn bạo của bọn độc tài phát xít :
tiếng ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi ta
ròng ròng máu chảy…
Điệp khúc dồn dập qua nhịp thơ Thanh Thảo như đã lột tả được cái bàng hoàng



căm phẫn trong bản ghi ta bi tráng! Màu nâu của đất, của làn da rám nắng, màu
xanh của lá của bầu trời như tương phản gay gắt và dữ dội với màu đỏ ròng ròng
máu chảy. Cảm giác vỡ oà đau đớn uất nghẹn trong tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ
tan. Nỗi kinh hoàng trong cảm giác mất mát cũng nhân lên gấp bội, nỗi đau như xé
lòng khi hình dung ra cảnh kẻ thù sát hại người nghệ sĩ tranh đấu cho tự do.
Những câu thơ tiếp theo như đặc tả cho một sự sống khác, mãnh liệt, âm thầm mà
bất tử :
không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng
Đoạn thơ tái hiện khoảnh khắc kẻ thù của Lorca hèn hạ thủ tiêu chàng, ném xác
xuống giếng, nhưng qua hình tượng âm thanh tiếng đàn ta nhận ra một sức sống
mãnh liệt vẫn tiếp tục. Cảm giác bi tráng hiện hữu qua những liên tưởng về cỏ mọc
hoang, giọt nước mắt vầng trăng, đáy giếng tạo cảm giác trống vắng sau sự hy sinh
anh dũng của Lorca. Thanh Thảo rất có ý thức khi so sánh tiếng đàn với cỏ mọc
hoang để cảm nhận về sức lan toả của sự sống mãnh liệt không gì có thể hủy hoại
được. Có khoảng lặng sau ánh sáng vầng trăng nhưng đủ diễn tả nỗi tiếc
thương long lanh trong đáy giếng, nơi kẻ thù tưởng có thể vùi chôn tinh thần tự do
bất tử của Lorca.
Vì lẽ đó, những câu thơ Thanh Thảo đã tái hiện sự sống của Lorca thật kỳ diệu và
xúc động, con người đã hóa thân vào âm thanh của đàn ghi ta, tan chảy hoà cùng
dòng sông bất tận:
Lorca bơi sang ngang
Trên chiếc ghi ta màu bạc
Chàng ném lá bùa cô gái di gan
Vào xoáy nước
Chàng ném trái tim mình
Vào lặng yên bất chợt
li-la li-la li-la...

Những câu thơ diễn tả một hành trình đối mặt với định mệnh của người nghệ sĩ tài
hoa người Tây Ban Nha, như một thái độ bình thản trước số phận. Lá bùa - định
mệnh, trái tim lặng yên để làm nên một sự sống trường tồn vượt qua và vút lên
vang động khắp không gian. Khúc đàn tự do ấy lại vang lên : li-la li-la lila... Tiếng đàn mang tên loài hoa theo tiếng Tây Ban Nha như một sự sống lặng lẽ
toả hương, hiện hữu giữa cuộc đời. Hai lần Thanh Thảo dùng động từ ném để diễn
tả nhằm làm nổi bật lên vẻ đẹp của con người từ lâu dám coi khinh cái chết, bởi cái


chết do kẻ thù gây ra cũng không thể ngăn cản tư tưởng, tâm hồn Lorca hoà vào
với sự sống bất tử của nhân dân.
Đàn ghi ta của Lorca là một bài thơ hay của Thanh Thảo, không chỉ đã tạo dựng
chân dung người nghệ sĩ - chiến sĩ Garcia Lorca một cách trung thực, mà còn khiến
người đọc cảm nhận rõ vẻ đẹp tâm hồn, tính cách đậm chất Tây Ban Nha của
Lorca. Bài thơ giàu nhạc điệu, ngỡ như chính tác giả đã để lòng mình đồng điệu
với sự sống Lorca trong giờ phút đối mặt với họng súng quân thù.
Tiếng đàn ấy, sức sống ấy vẫn ngân vang những tiếng li-la li-la li-la để hiện hữu
sống động hình ảnh một Lorca với chiếc ghi ta màu bạc, vẫn rong ruổi trên hành
trình dân tộc Tây Ban Nha, hát lên bài ca tranh đấu, bài ca tình yêu sự sống. Phút
gặp gỡ của nhà thơ Việt Nam Thanh Thảo với Lorca đã làm nên một bài thơ còn
nặng hổi hơi thở cuộc sống hiện đại, ca ngợi người chiến sĩ trong đội ngũ đấu tranh
vì tự do công lý, quyết không cúi đầu trước các thế lực bạo tàn./.
Trần Hà Nam
2.2.5 Đổi mới việc kiểm tra đánh giá học sinh
Kiểm tra trên lớp: đổi mới cách ra đề theo hướng kích thích hứng thú của học sinh,
tạo điều kiện cho các em phát triển cảm xúc và kỹ năng diễn đạt ý, tăng cường chất
văn cho đoạn nghị luận, bài nghị luận.
Các dạng đề có thể ra cho học sinh: “Cảm nhận vẻ đẹp của đoạn thơ…”, “Ấn
tượng đậm nét nhất về đoạn thơ, bài thơ….”, “Sắc thái tạo hình và biểu cảm trong
hình tượng thơ…”. Các yêu cầu của bài làm không bó buộc khả năng sáng tạo của
học sinh, giúp các em có khả năng nhận diện các chi tiết, tình tiết trong một bài

thơ. Trên cơ sở đó, các em có thể có những lựa chọn hướng tiếp cận riêng, khuyến
khích những bài viết thể hiện tìm tòi sáng tạo trong diễn đạt ý, trong cách hiểu
khác với giáo viên nhưng có lý hoặc trình bày theo hệ thống lập luận rõ ràng. Giáo
viên cần mạnh dạn cho điểm khá, giỏi trong bài làm của học sinh, phần lời phê cần
chỉ rõ những ưu khuyết điểm trong lập luận, diễn đạt, hành văn… Công việc kiểm
tra này có thể tiến hnh bằng nhiều hình thức khác nhau như kiểm tra viết 15 phút
đầu giờ, luyện tập viết trong thời gian 5 phút – 10 phút – 15 phút giữa giờ hoặc
kiểm tra 1 tiết, 2 tiết…tùy theo điều kiện thời gian và phân phối chương trình cho
phép.
Bài viết về nhà: phát huy năng lực sáng tạo của học sinh, hạn chế tối đa việc sao
chép các tài liệu tham khảo có sẵn. Trong xu thế đổi mới phương pháp dạy học
hiện nay, giáo viên có thể cho các dạng đề mở, không gò bó sự sáng tạo của học
sinh, đây cũng là dạng đề thích hợp nhất với thao tác bình giảng, không bắt buộc
học sinh gò vào khuôn trình bày hết nội dung bài giảng trên lớp. Một trong những
biện pháp hạn chế việc sao chép mẫu của học sinh là yêu cầu các em lập dàn ý
trước khi viết bài, khi nộp bài đồng thời với nộp dàn ý sẽ tập cho học sinh có thói
quen tìm tòi, xây dựng hệ thống lập luận của riêng mình và hạn chế sự trùng lặp ý
tưởng, lời văn, rập khuôn theo tài liệu có sẵn.
2.3 Hệ thống hóa các bước bình giảng thơ


Bình giảng thơ là công việc đầy hứng thú và không bị gò bó vào một khuôn khổ
chuẩn mực nào nhất định. Tuy nhiên, để có những định hướng tốt cho bình giảng
thơ, thiết tưởng mỗi giáo viên cũng hình thành hệ thống các bước bình giảng cơ
bản để tránh lan man tùy hứng khi tiếp cận văn bản thơ.
Đối với giảng dạy theo hướng bình giảng trên lớp:
- Trước hết là xây dựng khung bình giảng, tạo cái nhìn tổng thể cho học sinh.
- Bước tiếp theo là phân ý bình giảng, bám sát các đặc trưng thể loại thơ như ngôn
ngữ thơ, hình ảnh thơ, bút pháp, thủ pháp tiêu biểu của tác giả. Chú trọng bám sát
văn bản, tránh lối bình tán vô căn cứ.

- Tiến hành bình giảng trên lớp chủ yếu là mang tính gợi mở, không nên sa đà quá
nhiều vào chi tiết dù cho bản thân thật sự tâm đắc mà có thể đề nghị học sinh phát
biểu cảm nhận, sau đó giáo viên điều chỉnh cách hiểu cách cảm phù hợp nhất.
Xây dựng hệ thống bài viết bình giảng phải lưu ý:
- Tính thống nhất, cân đối giữa các phần trong bài viết.
- Chú trọng từ khâu mở bài, có thể đưa ra cùng lúc nhiều cách mở đề khác nhau để
chọn lựa cách mở đề phù hợp với định hướng của người viết.
- Xây dựng thân bài bảo đảm theo kết cấu lập luận Tổng – Phân - Hợp, trong đó:
phần Tổng giữ vai trò định hướng tìm hiểu xung quanh tác phẩm (hòan cảnh sáng
tác, ý nghĩa, mối quan hệ với cuộc đời tác giả, những đặc điểm cảm hứng trong
thời đại), phần Phân chỉ ra từng khía cạnh cụ thể. Phần Hợp là rút ra những đánh
giá nhận xét trên cơ sở phân tích ở phần trên.
- Kết bài phải thể hiện được ấn tượng đậm nét nhất, sâu sắc và chân thành nhất với
tác phẩm.
3.Khả năng áp dụng
Nắm vững nguyên tắc bình giảng thơ, vận dụng thành thục kỹ năng bình giảng là
yêu cầu không thể thiếu đối với giáo viên dạy Văn trong nhà trường phổ thông. Vì
vậy mỗi giáo viên cần tự trau dồi nâng cao trình độ, kiến thức và kỹ năng bình
giảng.
Vận dụng bình giảng thơ một cách hợp lý sẽ giúp giờ học trở nên sinh động, môn
Văn có sức cuốn hút và phát huy được tính tích cực chủ động trong giờ học môn
Văn của cả giáo viên và học sinh.
Bình giảng thơ là công việc khó khăn đòi hỏi sự nỗ lực của bản thân giáo viên để
tự nâng cao trình độ chuyên môn, rèn luyện năng lực tiếp nhận và cảm thụ văn
chương nói chung và thể loại thơ nói riêng.
Phương pháp bình giảng thơ theo hướng đổi mới cách thức tiếp cận của giáo viên
và học sinh cĩ thể p dụng khơng chỉ trong cấp học THPT m cả THCS.
Hiện tại chúng tôi vẫn áp dụng có hiệu quả phương pháp này trong các đợt tập
trung bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi dự thi quốc gia của tỉnh, đạt kết quả tốt và
đồng đều trong những năm học vừa qua.

Vận dụng tốt phương pháp vào trong hoạt động giảng dạy, có thể phát triển thêm
hình thức học online, hiện nay chúng tôi đang xây dựng blog học văn giúp học sinh
có nguồn tham khảo phong phú. (xin tham khảo
blog do chúng tôi xây dựng thời gian qua)


4. Hiệu quả kinh tế - xã hội
Bình giảng thơ góp phần nâng cao tâm hồn và nhận thức của học sinh, hướng các
em vào suy nghĩ sâu sắc về các sự vật hiện tượng trong đời sống được phản chiếu
trong thơ . Không những thế, bình giảng còn giúp các em rèn luyện các thao tác
phân tích bình giảng thơ, phát huy năng lực liên tưởng, có khả năng quan sát và
phát hiện những vẻ đẹp Chân - Thiện - Mỹ của cuộc sống và văn chương. Qua đó
cũng có thể phát hiện và bồi dưỡng những học sinh có chất văn, có năng khiếu trở
thành học sinh giỏi môn Ngữ văn.
Đề tài này trao đổi với đồng nghiệp nhằm cung tìm ra giải pháp nâng cao chất
lượng giờ dạy môn Ngữ văn trong nhà trường, trau dồi nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ.
Những kinh nghiệm của bản thân được nêu ra trong đề tài này đã được vận dụng
trong quá trình dạy học trên lớp, bồi dưỡng học sinh giỏi, viết sách bồi dưỡng nâng
cao Ngữ văn, tạo được hứng thú học tập cho các em và đã có nhiều học sinh thành
công trong các kỳ thi học sinh giỏi, thi tốt nghiệp phổ thông. Chỉ tính riêng trong
năm học 2008 – 2009 này, ở bốn lớp 12 và 2 lớp 11 theo Ban Khoa học tự nhiên
mà tôi dạy tại trường, phần kiểm tra về thơ của các em luôn đạt điểm khá giỏi từ 75
– 85%. Trong quá trình bồi dưỡng đội tuyển quốc gia, tôi được phân công giảng
dạy phần thơ ở chương trình lớp 11, vận dụng phương pháp này có hiệu quả. Khi
các em làm bài thi quốc gia có đề phân tích, so sánh hai tác phẩm thơ “Tự tình”
của Hồ Xuân Hương và “Sóng” của Xuân Quỳnh, tất cả các thành viên đội tuyển
đều làm tương đối tốt, vì vậy đã góp phần thành công chung cho môn Văn với
100% đạt giải (3 giải Ba, 3 giải khuyến khích).
Giải pháp đổi mới phương pháp bình giảng thơ được áp dụng trong thực tế giảng

dạy tại trường THPT chuyên Lê Quý Đôn, bồi dưỡng học sinh giỏi trong nhiều
năm. Vận dụng mở rộng phương pháp này sang việc học các thể loại văn học khác
trong chương trình phổ thơng cũng đạt hiệu quả tương tự. Từ việc học thơ, đã kích
thích học sinh có hứng thú và cảm xúc hơn đối với việc học tập bộ môn Văn, bản
thân các em không chỉ cảm thụ tốt tác phẩm mà còn phát huy năng lực trong các
hoạt động khác như CLB Văn học, viết bài đăng các báo, tạp chí văn nghệ trung
ương và địa phương. Thông qua đó, các em cũng được bồi đắp tình cảm nhân văn,
nâng cao tâm hồn và thị hiếu thẩm mỹ, có ý thức học tập bộ môn tốt hơn. Về phía
giáo viên, vận dụng phương pháp sẽ giúp cho việc hệ thống hoá bài giảng, lên lớp
chủ động hơn và có thể tự nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Trong suốt 5
năm qua, chúng tôi đã đưa các bài bình giảng, bài bình thơ vào các sách Bồi dưỡng
ngữ văn lớp 8, 9, 10, 11, 12 phổ biến rộng rãi trên toàn quốc. Bản thân người viết
cũng đã có dịp giới thiệu các bài bình giảng, phương pháp bình thơ trên một số
blog, trong đó blog Văn học (ngoisaoblog.com/tranhanam) có tới 500 ngàn lượt
truy cập (hiện đang chuyển tên miền thành www.ngoisaoblog.vn/tranhanam có tới
420 ngàn lượt truy cập) và đã từng đạt giải Nhất cuộc thi của trang weblogs này
(2007).
Các sách tham gia biên soạn:


1. Bồi dưỡng nâng cao Ngữ văn 8 – NXB Giáo dục, Hà Nội, 2004
2. Bồi dưỡng nâng cao Ngữ văn 9 – NXB Giáo dục, Hà Nội, 2005
3. Bồi dưỡng Ngữ văn 10 – NXB Giáo dục, Hà Nội, 2006
4. Bồi dưỡng Ngữ văn 11 – NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2007
5. Bồi dưỡng Ngữ văn 12 – NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2008
III. Thành tích hoạt động công đoàn
- Tham gia tích cực và đầy đủ những hoạt động công đoàn của ngành và trường tổ
chức, dự thi và đạt nhiều giải trong các đợt liên hoan văn nghệ công đoàn ngành.
- Hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao.
- Thường xuyên tham gia hoạt động khoa học công nghệ trong CNVC – LĐ, trong

đó có 01 đề tài được báo cáo và đăng trong Kỷ yếu Hội nghị bồi dưỡng học sinh
giỏi của Bộ giáo dục – Đào tạo (2001), 03 đề tài được Sở Giáo dục – Đào tạo Bình
Định công nhận xếp loại sáng kiến kinh nghiệm:
+ Năm 2003 đề tài “Thiết kế bài giảng môn Văn trên máy vi tính” (loại C)
+ Năm 2006 đề tài “Kinh nghiệm tổ chức CLB Văn học” (loại A)
+ Năm 2009 đề tài “Đổi mới phương pháp bình giảng thơ trong chương trình
THPT” (loại B), được báo cáo tại Hội nghị sáng kiến kinh nghiệm toàn ngành Giáo
dục.
Quy Nhơn, ngày 15 tháng 12 năm 2009
Người báo cáo



×