Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

KỸ THUẬT NUOI CÁ LÓC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.79 KB, 12 trang )

KỸ THUẬT NUÔI CÁ LÓC ĐEN
(Channa striata Bloch, 1793)
Hiện nay cá lóc được nuôi phổ biến trong các ao và bè gồm các loài sau: cá Lóc
bông Channa micropletes, cá Lóc đen C. striata và cá Lóc môi trề Channa sp. Cá lóc
là đối tượng nuôi quan trọng và là nguồn thực phẩm tốt cho người dân
I. Đặc điểm sinh học
1. Phân bố và thích nghi
Cá lóc sống phổ biến ở đồng ruộng, kênh rạch, ao hồ, đầm, sông, thích nghi được
cả với môi trường nước đục, tù, nươc lợ, có thể chịu đựng được ở nhiệt độ trên 30 0C.
Cá thích ở nơi có rong đuôi chó, cỏ, đám bèo, vì ở nơi đây cá dể ẩn mình rình mồi.
Vào mùa hè cá thường hoạt động và bắt mồi ở tầng nước mặt. Mùa đông cá hoạt động
ở tầng nước sâu hơn.
Cá lóc là loài cá dữ có kích thước tròn dài. Lược mang dạng hình núm. Thực
quản ngắn, vách dầy, bên trong thực quản có nhiều nếp nhăn. Dạ dày to hình chử Y.
Cá là loài cá dữ, ăn động vật điển hình. Quan sát ống tiêu hóa của cá cho thấy cá
chiếm 63.01%, tép 35.94 %, ếch nhái 1.03 % và 0.02 % là bọ gạo, côn trùng và mùn
bã hữu cơ.

Hình 1: Cá lóc đen
2. Đặc điểm sinh sản
Cá lóc 1 - 2 tuổi bắt đầu đẻ trứng, mùa vụ sinh sản từ tháng 4 - 8, tập trung vào
tháng 4 - 5. Cá thường đẻ vào sáng sớm sau những trận mưa rào một hai ngày nơi yên
tĩnh có nhiều thực vật thủy sinh. Ở nhiệt độ 20 – 35 0C sau 3 ngày trứng nở thành cá
bột, khoảng 3 ngày sau cá tiêu hết noãn hoàng và bắt đầu ăn được thức ăn tự nhiên
bên ngoài
II. Kỹ thuật nuôi thương phẩm cá lóc


Thông thường mùa vụ nuôi kéo dài từ tháng 2 – 9
A. Kỹ thuật nuôi cá lóc trong ao đất
1.Chuẩn bị ao nuôi.


Nên chọn ao ở những nơi gần sông rạch lớn, có nguồn nước sạch, ít bị ảnh hưởng
của lũ lụt, thuốc trừ sâu và ô nhiễm hữu cơ, hóa chất khác.
• Diện tích ao từ 200 - 2000 m2
• Độ sâu 1,5 - 2 m
• pH 6,5 – 8
• Nhiệt độ 23 – 32 0C
Ao nuôi có hình chữ nhật có chiều ngang 15 - 20 m là thích hợp nhất cho việc nuôi
và thu hoạch. Ao nuôi nên có cống cấp và thoát nước, đáy ao có lớp bùn dày không
quá 20 cm và nghiêng về cống thoát.

Hình 2: Ao nuôi thâm canh cá lóc đen tại Đồng Tháp
2.Cải tạo ao nuôi
Tháo cạn nước trong ao, dọn sạch cỏ cây xung quanh bờ ao, vét bớt bùn đáy
ao, đắp lại bờ ao cho chắc chắn, sửa sang lại cống cấp và thoát nước.
Dùng vôi bột rãi đều khắp đáy và bờ ao để diệt hết sinh vật hại cá và vi
khuẩn gây mầm bệnh, lượng vôi bón 10 -15 kg/100m 2, những nơi nước còn đọng
lại và khu vực cửa cống thì bón lượng vôi nhiều hơn, dùng trang san bằng đáy ao.
Nếu ao mới đào, hoặc vùng nước chua, phèn thì bón lượng vôi tăng lên từ 15 - 20
kg/100m2. Bón vôi xong, phơi nắng 1 - 2 ngày cho các loại cá tạp và mầm bệnh chết
hết, tiến hành cấp nước vào ao.


Cấp nước vào ao cho đạt 1 m, nước lấy vào ao phải trong sạch, không bị ô
nhiễm bởi các chất thải công nghiệp, nông nghiệp và sinh hoạt, có lưới chắn ở cống để
ngăn các loại rác, cá tự nhiên theo vào ao nhằm hạn chế mầm bệnh và làm sạch nước
ao nuôi.
Tiến hành bón phân gây màu nước, dùng phân chuồng hay phân xanh liều
lượng từ 30- 40 kg/100m 2 , phân chuồng rải đều đáy ao, còn phân xanh bó từng bó
dìm ở 4 góc ao khi lá cây phân huỷ hết thì vớt hết cọng lên. Để 2-3 ngày, khi nước
có màu xanh lá chuối non thì thả cá giống.

3. Quy cách giống và mật độ thả nuôi
Cá giống chọn thả nuôi phải có kích cở đồng đều, khỏe mạnh, nhiều nhớt, không
bị thương tích hay bệnh tật
Mật độ nuôi trung bình 30 - 50 con/m2, không nên nuôi quá dày ảnh hưởng đến
sức lớn của cá. Mật độ nuôi tùy thuộc vào kích cở cá giống thả, có thể thực hiện theo
bảng đề nghị sau
Bảng 1: Mật độ cá lóc thả nuôi trong ao đất
Kích thước cá giống ( cm )
3
5
7
10
15
25
>25

Mật độ thả nuôi( con/ m2 )
100
50
20
10
5
3
2

Thả cá vào lúc sáng sớm hay chiều mát, trước khi thả cá nên ngâm bao chứa cá
trong nước ao 15 phút để nhiệt độ trong bao và trong ao cân bằng nhau, sau đó mở
miệng bao thả cá ra
4.Thức ăn và cách cho ăn
Thành phần thức ăn: Cá lóc là loài cá ăn động vật, thành phần thức ăn bao gồm

nhiều loại động vật tươi sống như: cá, tép, ếch nhái... Trong quá trình nuôi, có thể tập
luyện cá giống quen dần với loại thức ăn chế biến từ cá nguồn nguyên liệu địa
phương như cá tạp tấm cám, bắp, và VitaminC ... có hàm lượng protein cao
hơn 20 % hoặc sử dụng thức ăn công nghiệp hay thức ăn tự chế biến để nuôi cá.


Hình 3: thức ăn là cá tạp
Khẩu phần ăn: Khẩu phần thức ăn cho cá hàng ngày sẽ được định lượng cho
phù hợp với các nhu cầu dinh dưỡng và tình hình sức khỏe cá. Trường hợp vào những
ngày quá nắng, thời tiết thay đổi, sức khỏe cá không tốt thì ta nên giảm khẩu phần ăn
lại
Thức ăn cho cá con chủ yếu là cá tạp được xay nhuyễn, sau khoảng một tháng
nuôi có thể cắt nhỏ từng miếng mồi hoặc nguyên con. Tùy vào kích thước cá trong ao
mà định lượng khẩu phần thức ăn mỗi ngày cũng như kích thước thức ăn cho phù hợp.
Có thể dựa vào bảng sau:
Bảng 2: Khẩu phần ăn, số lần cho cá lóc ăn trong ao nuôi thương phẩm:
Tuổi cá

Khẩu phần (%)

Số lần cho ăn/ ngày

Trọng lượng
trung bình (g)

Tháng thứ nhất

8

3 (8h, 16h, 18h)


100

Tháng thứ hai

7

3(8h, 16h, 18h)

200

5

2 (8h và 17h)

400

5

2 (8h và 17h)

500

4

2 (8h và 17h)

600

3


2 (8h và 17h)

700 - 900

Tháng thứ ba
Tháng thứ tư
Tháng thứ năm
Tháng thứ sáu


Cho ăn và quản lý chăm sóc: Dùng sàng để cho cá ăn và để theo dõi cá. Ngày
cho ăn hai lần vào buổi sáng và buổi chiều. Thường xuyên kiểm tra hệ thống công
trình nuôi và hoạt động của cá. Theo dõi sự biến động chất lượng nước trong ao nuôi,
cần giữ nước sạch, định kỳ 2-3 tuần thay nước một lần. Nếu có điều kiện thì cho nước
lưu thông nhẹ thường xuyên.
5. Thu hoạch: Để đạt kích thước thương phẩm, thời gian nuôi cá Lóc thường ít nhất
là 6 tháng, thông thường là 7 - 8 tháng. Trọng lượng cá khi thu hoạch có thể đạt kích
cở trung bình 1,2 - 1,5 kg/con. Trước khi thu hoạch 1-2 ngày không nên cho cá ăn
nhằm hạn chế cá bị chết trong quá trình vận chuyển. Hạ mực nước ao khoảng còn 40 –
50cm, lấy lưới kéo đánh bắt dàn. Khi thu hoạch toàn bộ thì phải tát cạn.
B. Kỹ thuật nuôi cá lóc trong hồ xi măng
1. Xây bể
Bể có thể xây nửa nổi, nửa chìm để giảm chi phí, diện tích từ 30-60m 2/bể, có thể
xây riêng rẽ hoặc liên hoàn để dễ bề chăm sóc, thu hoạch. Tường xây bằng gạch cao
0,8m, chỉ cần láng trơn phần nền và tường cao khoảng 0,5m để vệ sinh được dễ dàng
và tránh xây xước cho cá. Phía trên tường có thể cắm cọc chắn bằng phên, gỗ hoặc
nilon để tránh cá nhảy ra ngoài. Những nơi có điều kiện có thể tận dụng các vách
tường sân, bờ rào, bờ ao có sẵn để xây bể nuôi nơi góc vườn, trong sân để dễ quản lý,
vừa tiết kiệm diện tích, chi phí. Nên xây gần nguồn nước sạch (ao, hồ, sông suối

không bị ô nhiễm) để tiện cho việc thay nước thường xuyên. Đáy bể nên thiết kế sao
cho nghiêng về 1 phía để dễ dàng tháo cạn nước. Đặt cống thoát nước sát đáy bể và
đầu cống có lưới chắn để không cho cá ra ngoài.
Mực nước trung bình trong bể là từ 0,8 – 1 m. Lưu ý trong những ngày nhiệt độ
không khí tăng cao các hộ nuôi cần nâng mực nước trong bể lên cao để nhiệt độ nước
trong bể được mát. Làm giàn lưới che nắng cho bể cá vào những ngày nắng nóng.
Cần có hệ thống máy bơm nước để cung cấp nước khi cần thay nước
Nếu nuôi bằng bể xi măng chúng ta cần lưu ý vệ sinh chà rửa bể thật kỹ trước khi
đưa vào sử dụng như dùng phèn chua, thân cây chuối chặt nhỏ để ngâm bể, hoặc dùng
khoai lang sống cắt lát để chà bể…(cần ngâm bể nhiều lần để đảm bảo là có thể đưa
vào sản xuất tốt )


Hình 4: Nuôi cá lóc trong bể xi măng
2. Quy cách giống và mật độ thả nuôi.
Cá giống chọn thả nuôi phải có kích cở đồng đều, khỏe mạnh, nhiều nhớt, không
bị thương tích hay bệnh tật
Cá giống có trọng lượng khoảng 60g/con, mật độ thả khoảng 50 con/m2
Đặc biệt trước khi thả cá nên tắm cho cá bằng nước muối có nồng độ 5% (5g
muối/lít nước) và thả vào sáng sớm hay chiều mát.
3. Cho ăn và chăm sóc
Thức ăn gồm: cám ngô, cám gạo, bột đậu tương, khô dầu trộn với 95% cá tạp
xay nhỏ cho ăn giai đoạn mới thả; giai đoạn sau thì cắt khúc, khi cá lớn có thể để
nguyên con. Mỗi ngày cho ăn 2 lần vào sáng và chiều bằng cách thả ngay xuống đáy
bể, nơi gần lỗ nước thải. Sau mỗi lần cho ăn nên vệ sinh, tháo hết chỗ nước bẩn do
thức ăn thừa và thay nước hoặc bổ sung nước sạch. Lượng thức ăn bình quân 5% khối
lượng cá. Cũng có thể tự chế biến thức ăn theo công thức sau : gồm 60% cá tạp hoặc
phế phẩm ở cơ sở chế biến thủy sản như đầu, đuôi, xương… xay nhuyễn sau đó trộn
với 20% bột đậu tương, 10% cám, 5% men và 5% vitamin và muối khoáng
Cá lóc nuôi trên bể, môi trường nước rất dễ nhiễm bẩn cần được vệ sinh bể và

thay nước thường xuyên. Lúc cá còn nhỏ số lần thay nước sẽ ít hơn so với cá lớn.
Định kỳ xử lý vôi cho nguồn nước trong bể nuôi từ 7 - 10 ngày/lần với 2 - 3kg
vôi/100m3. Trong quá trình nuôi nếu có hiện tượng nhiễm nấm, ký sinh trùng nên
dùng các hóa chất diệt ký sinh trùng như Fresh water ( Cty Vemedim, Cần Thơ)
….liều lượng theo hướng dẫn của nhà sản xuất để xử lý rất hiệu quả.
5. Thu hoạch


Khi thu hoạch có thể dùng vợt nhằm hạn chế cá bị sây sát. Vợt thu hoạch cá phải
không có gút, các phương tiện khác phải nhẳn. Sau khi thu hoạch có thể dùng thùng
chứa để vận chuyển.
III. Phòng và trị bệnh cho cá nuôi
Phòng bệnh có tính chất quyết định đến kết quả nuôi, trong đó tẩy dọn ao, bể
nuôi theo đúng qui trình kỹ thuật để diệt các tác nhân gây bệnh là rất quan trọng. Quản
lý tốt môi trường nuôi, cung cấp nước nuôi cá bằng nước sạch. Ổn định môi trường,
kìm hãm sự phát triển của mầm bệnh bằng cách xử lý định kì 15 ngày/lần bằng vôi bôt
với liều lượng 2 – 4 kg/100m 2, vôi được hòa tan và lấy nước trong tạt đều khắp ao.
Tránh làm cá bị xây xát, không để cá bị nhiễm các loại bệnh ngoài da sẽ tạo điều kiện
cho bệnh cá phát triển.
Cho cá ăn đủ thức ăn với hàm lượng dinh dưỡng cao làm cá khỏe sẽ có sức đề
kháng tốt. Thường xuyên trộn thức ăn với men tiêu hóa, vitamin C, premix.
Khoa Thủy sản (ĐH Cần Thơ) khuyến cáo cách phòng trị bệnh ghẻ cá, xử lý ao
nuôi bằng vôi, giữ cho môi trường ổn định, dùng hóa chất formon và thuốc tím làm
giảm bớt mật độ vi khuẩn và diệt nấm ký sinh trùng, dùng kháng sinh diệt vi khuẩn
làm lành vết thương trên da cho cá.
Trị bệnh.
Khi cá có dấu hiệu bị bệnh cần thay 50% nước bằng nước sạch, vệ sinh xung
quanh ao nuôi. Xử lý nước bằng Fresh Water với lượng 1 kg (650 gói A + 350 gói B)
cho 1.000-1.500m3 nước. Trộn thuốc kháng sinh vào thức ăn cho cá liên tục trong 7
ngày theo liều 250 g Desery+50 ml Vime-Fenfish 2000 cho 1 tấn cá.

1- Bệnh lở loét :
* Triệu chứng :
- Cá ít ăn hoặc bỏ ăn, bơi nhô đầu khỏi mặt nước, da sậm xuất hiện những vết loét
màu đỏ , khi bị nặng các vết loét ăn sâu đến xương, thịt thối và cá chết.
* Phương pháp phòng bệnh :
- Định kỳ dùng vitaminC trộn vào thức ăn (5-10g/kg thức ăn)
- Thả lá xoan: cột thành từng bó cắm xuống ao (bó lá dầm thành từng bó, khoảng
30kg /100m2).
* Trị bệnh:
- Dùng vôi bột liều lượng 5-7 kg/100m2, hoà tan vào nước và tạt đều xuống ao.
- Dùng 2 viên Oxytetraxyline + 01 viên Cotrimfor /1kg TA
2- Bệnh trắng da:


* Triệu chứng:
- Đuôi cá xuất hiện vết trắng lan dần về phía đầu , cá mất nhớt, bong da vây.
* Trị bệnh :
- Hoà tan vôi bột : 5-10 kg/100 m2, tạt đều khắp ao : 2-3 lần /tuần.
- Bắt cá bệnh lên tắm thuốc Streptomycine (1 lọ/10 lít nước), tắm trong 30 phút .
3- Bệnh nấm thuỷ mi:
* Dấu hiệu bệnh lý :
Trên da xuất hiện những vùng trắng xám, trên đó có sợi nấm nhỏ, mềm, tua tủa như
bông gòn. Sau vài ngày sợi nấm phát triển đan chéo vào nhau thánh túi trắng như
baông có thể nhìn thấy bằng mắt thường.
* Trị bệnh:
- Dùng Xanh metylen 2-3g/m3, liên tục tạt xuống ao 2-3 lần/tuần .
- Dùng thuốc tím 2-5 ppm tắm cho cá trong khỏang 10 phút.
4- Bệnh do sán lá đơn chủ : Ký sinh ở mang và da
* Triệu chứng: Mang bị viêm và sưng to, các tia mang bị đứt rời, mang tiết ra nhiều
nhớt làm cho cá nghẹt thở và chết , cá thường nổi đầu và tập trung nơi có dòng nước

chảy.
* Phòng bệnh :
- Cá giống trước khi thả nuôi tắm cho cá bằng nước muối 2-3% trong thời gian 10-15
phút.
- Thừơng xuyên thay nước ao, tránh thức ăn thừa gây bẩn.
* Trị bệnh :
- Dùng muối liều lượng 0,5-1kg/100 lít nước (đối với cá nhỏ), 3-4 kg/100 lít nước đối
với cá lớn , tắm trong 15-30 phút.
5. Bệnh trùng mỏ neo :
* Dấu hiệu bệnh lý : Trùng thường ký sinh ở da, mang, vây, mắt... của cá. Khi nhiễm
bệnh cá kém ăn, gầy dần, xung quanh chỗ trùng bám bị viêm và xuất huyết. Bị bệnh
trùng mỏ neo ký sinh là yếu tố đầu tiên dẫn đến bệnh nhiễm khuẩn .


* Phòng trị bệnh:
- Dùng lá xoan bó thành bó hoặc băm nhỏ thả xuống ao với liều lượng 30 - 50
kg/1.000m2.
- Tắm cho cá bằng thuốc tím 10-25ppm trong 1 giờ.
6. Bệnh viêm ruột
Cá ương giai đoạn trên 25 ngày tuổi: Bệnh thường gặp là bệnh viêm ruột do giai
đoạn này cá chuyển thức ăn. Rửa thức ăn bằng muối hột, trộn thuốc Sunfadimezin: 2g
+ Vitamine C: 1g /1kg thức ăn cho cá ăn liên tục 3 ngày mỗi tháng. Định kỳ tạt nước
vôi khắp ao.
Cá giai đoạn nuôi thịt: Bệnh thường gặp là bệnh viêm ruột, ghẻ lở. Sử dụng
Sunfadimezin: 20g + Oxytetra 5g/100kg cá. Dùng liên tục trong 6 ngày. Định kỳ tạt
nước vôi khắp ao.
CÁC BỆNH THƯỜNG GẶP
Hiện nay phong trào nuôi cá lóc phát triển khá mạnh ở các tỉnh ĐBSCL, nhất là vào
mùa nước nổi. Bà con thường nuôi cá trong ao, trong bể lót bạt nylon hay trong bè. Cá
lóc trong tự nhiên thường rất khỏe, ít bệnh tật, nhưng trong điều kiện nuôi nhân tạo

với mật số cao thì cá lóc cũng có nhiều bệnh gây hại. Nhiều gia đình mới nuôi cá lóc,
chưa có nhiều kinh nghiệm đã thất bại do dịch bệnh gây ra.
Trong mùa lũ, các ao, hồ nuôi cá thường tích tụ nhiều phù sa, nhiễm bẩn, mùn bã, rác
và các chất thải làm ô nhiễm nguồn nước và tiềm ẩn những mầm bệnh cho cá nuôi. Cá
lóc nuôi trong mùa lũ thường hay xuất hiện các loại bệnh do các loại kí sinh như trùng
bánh xe, sán lá đơn chủ, xuất huyết do nhiễm virus, đốm đỏ do vi khuẩn, bệnh do
nhóm giáp xác gây ra. Tuy nhiên, bệnh thường gặp nhất với cá lóc nuôi là bệnh ghẻ
hay còn gọi là hội chứng lở loét. Bệnh lở loét xảy ra trên cá lóc nuôi không chỉ có ở
nước ta mà còn có nhiều ở các nước Đông Nam Á, các nước trong khu vực Thái Bình
Dương.
Nguyên nhân.
Những tác nhân gây bệnh cho cá gồm virus, vi khuẩn, nấm, kí sinh trùng và các yếu tố
môi trường. Nguyên nhân gây bệnh trước nhất là virus, nấm cũng được coi là yếu tố
quan trong gây ra hội chứng lở loét. Có thể chúng cùng với các loại kí sinh trùng làm
cá bị thương tổn tạo điều kiện cho các tác nhân chính gây bệnh cho cá.
Ngoài các yếu tố môi trường như nhiệt độ thay đổi, môi trường nước quá dơ bẩn, sự ô
nhiễm có thể gây sốc và làm cá nhiễm bệnh, nhiều quan điểm cho rằng nấm ký sinh
trong nội tạng Aphanomyces được coi là tác nhân chính gây ra bệnh này. Bệnh thường
xuất hiện vào cuối mùa mưa (tháng 10-12) và đầu mùa khô (tháng 1-2).


Dấu hiệu đầu tiên của bệnh là cá ăn ít hoặc bỏ ăn, bơi nhô đầu khỏi mặt nước, nổi lờ
đờ, da xám, có vết loét hoặc các đốm đỏ phát triển ở đầu, thân, vây và đuôi. Sau một
thời gian bị bệnh cá kiệt sức và chết.
Quan sát bên ngoài cá thấy xuất hiện nhiều vết nhỏ màu xám hay đỏ. Mang, quanh
mắt và da xuất huyết, toàn thân có màu xám tối. Thương tổn lan rộng thành những vết
loét lớn trên vẩy, thân cá... Khi cá bệnh nặng sẽ thấy máu chảy ở hậu môn. Giải phẫu
cá sẽ thấy bóng hơi xuất huyết và teo dần, gan thận cũng xuất huyết. Khoang bụng có
dấu hiệu tích nước, có nhiều dịch nhờn và xuất huyết.
Phòng bệnh cho cá.

Phòng bệnh có tính chất quyết định đến kết quả nuôi, trong đó tẩy dọn ao, bể nuôi
theo đúng qui trình kỹ thuật để diệt các tác nhân gây bệnh là rất quan trọng. Quản lý
tốt môi trường nuôi, cung cấp nước nuôi cá bằng nước sạch. Ổn định môi trường, kìm
hãm sự phát triển của mầm bệnh bằng cách xử lý định kì 15 ngày/lần bằng dung dịch
Vimekon (1g/1m3 nước). Tránh làm cá bị xây xát, không để cá bị nhiễm các loại bệnh
ngoài da sẽ tạo điều kiện cho bệnh cá phát triển.
Cho cá ăn đủ thức ăn với hàm lượng dinh dưỡng cao làm cá khỏe sẽ có sức đề kháng
tốt. Thường xuyên trộn thức ăn với men tiêu hóa, vitamin C, premix.
Khoa Thủy sản (ĐH Cần Thơ) khuyến cáo cách phòng trị bệnh ghẻ cá, xử lý ao nuôi
bằng vôi, giữ cho môi trường ổn định, dùng hóa chất formon và thuốc tím làm giảm
bớt mật độ vi khuẩn và diệt nấm ký sinh trùng, dùng kháng sinh diệt vi khuẩn làm
lành vết thương trên da cho cá.
Trị bệnh.
Khi cá có dấu hiệu bị bệnh cần thay 50% nước bằng nước sạch, vệ sinh xung quanh ao
nuôi. Xử lý nước bằng Fresh Water với lượng 1 kg (650 gói A + 350 gói B) cho
1.000-1.500m3 nước. Trộn thuốc kháng sinh vào thức ăn cho cá liên tục trong 7 ngày
theo liều 250 g Desery+50 ml Vime-Fenfish 2000 cho 1 tấn cá.
Một số bệnh thường gặp ở cá lóc và cách phòng trừ bệnh
Viết bởi bantuyenhuan
Thứ ba, 27 Tháng 7 2010 09:43
Hiện nay phong trào nuôi cá lóc thương phẩm đang phát triển mạnh ở một số địa
phương trong tỉnh (phổ biến nhất là nuôi cá lóc trong bạt). Bên cạnh đó tình hình
dịch bệnh cũng diễn ra rất nhanh ở các vùng nuôi làm ảnh hưởng lớn đến hiệu quả
kinh tế của bà con. Để góp phần hạn chế rủi ro, dịch bệnh chúng tôi xin giới thiệu đến
người nuôi cách phòng và trị bệnh một số bệnh thường gặp ở cá lóc .
1- Bệnh lở loét :


* Triệu chứng :
- Cá ít ăn hoặc bỏ ăn, bơi nhô đầu khỏi mặt nước, da sậm xuất hiện những vết loét

màu đỏ , khi bị nặng các vết loét ăn sâu đến xương, thịt thối và cá chết.
* Phương pháp phòng bệnh :
- Định kỳ dùng vitaminC trộn vào thức ăn (5-10g/kg thức ăn)
- Thả lá xoan: cột thành từng bó cắm xuống ao (bó lá dầm thành từng bó, khoảng
30kg /100m2).
* Trị bệnh:
- Dùng vôi bột liều lượng 5-7 kg/100m2, hoà tan vào nước và tạt đều xuống ao.
- Dùng 2 viên Oxytetraxyline + 01 viên Cotrimfor /1kg TA
2- Bệnh trắng da:
* Triệu chứng:
- Đuôi cá xuất hiện vết trắng lan dần về phía đầu , cá mất nhớt, bong da vây.
* Trị bệnh :
- Hoà tan vôi bột : 5-10 kg/100 m2, tạt đều khắp ao : 2-3 lần /tuần.
- Bắt cá bệnh lên tắm thuốc Streptomycine (1 lọ/10 lít nước), tắm trong 30 phút .
3- Bệnh nấm thuỷ mi:
* Dấu hiệu bệnh lý :
Trên da xuất hiện những vùng trắng xám, trên đó có sợi nấm nhỏ, mềm, tua tủa như
bông gòn. Sau vài ngày sợi nấm phát triển đan chéo vào nhau thánh túi trắng như
baông có thể nhìn thấy bằng mắt thường.
* Trị bệnh:
- Dùng Xanh metylen 2-3g/m3, liên tục tạt xuống ao 2-3 lần/tuần .
- Dùng thuốc tím 2-5 ppm tắm cho cá trong khỏang 10 phút.
4- Bệnh do sán lá đơn chủ : Ký sinh ở mang và da
* Triệu chứng: Mang bị viêm và sưng to, các tia mang bị đứt rời, mang tiết ra nhiều
nhớt làm cho cá nghẹt thở và chết , cá thường nổi đầu và tập trung nơi có dòng nước
chảy.


* Phòng bệnh :
- Cá giống trước khi thả nuôi tắm cho cá bằng nước muối 2-3% trong thời gian 10-15

phút.
- Thừơng xuyên thay nước ao, tránh thức ăn thừa gây bẩn.
* Trị bệnh :
- Dùng muối liều lượng 0,5-1kg/100 lít nước (đối với cá nhỏ), 3-4 kg/100 lít nước đối
với cá lớn , tắm trong 15-30 phút.
5. Bệnh trùng mỏ neo :
* Dấu hiệu bệnh lý : Trùng thường ký sinh ở da, mang, vây, mắt... của cá. Khi nhiễm
bệnh cá kém ăn, gầy dần, xung quanh chỗ trùng bám bị viêm và xuất huyết. Bị bệnh
trùng mỏ neo ký sinh là yếu tố đầu tiên dẫn đến bệnh nhiễm khuẩn .
* Phòng trị bệnh:
- Dùng lá xoan bó thành bó hoặc băm nhỏ thả xuống ao với liều lượng 30 - 50
kg/1.000m2.
- Tắm cho cá bằng thuốc tím 10-25ppm trong 1 giờ.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×