Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu hàng hoá của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (524.96 KB, 42 trang )

LỜI MỞ ĐẦU.
Xu thế tự do hoá thương mại và toàn cầu hoá nền kinh tế với sự xuất hiện
của nhiều hình thức liên kết kinh tế khu vực và toàn cầu đang diễn ra rất mạnh mẽ.
Quốc gia nào đi ngược lại với xu thế ấy chắc chắn sẽ tụt hậu và trở nên kém phát
triển. Ngược lại, nếu quốc gia nào biết tận dụng thời cơ đó sẽ nhận được những lợi
ích vô cùng to lớn mà điển hình đó là tốc độ phát triển và đời sống xã hội, người
dân sẽ được nâng cao. Tuy nhiên, để có thể nhận được những lợi ích đó thì trước
tiên các quốc gia phải thực hiện các cam kết, trong đó có các cam kết về thuế nhập
khẩu.
Đảng và Nhà nước ta ngay từ đầu đã có chủ trương Việt Nam chủ động
hội nhập vào nền kinh tế quốc tế có nghĩa là cần phải có sự chuẩn bị kỹ ngay từ
đầu rồi hội nhập từng bước. Vì vậy, trong một khoảng thời gian dài thuế nhập
khẩu đã được quan tâm và được cải cách ngày càng phù hợp hơn với tình hình
mới. Các chính sách thuế nhập khẩu đã góp phần tích cực vào việc ổn định, phát
triển kinh tế, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Tuy nhiên, so với yêu
cầu phát triển và hội nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) của nước ta, chính
sách thuế nhập khẩu của Việt Nam hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều bất cập. Vì vậy,
việc tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu là vô cùng cần
thiết.
Nhận thức được vấn đề trên, tôi đã tham gia tìm hiểu, nghiên cứu về chính sách
thuế nhập khẩu và thực hiện đề tài: Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu hàng
hóa của Việt Nam, với mong muốn góp một phần sức nhỏ bé của mình vào sự
nghiệp phát triển kinh tế của Việt Nam.

1


CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG
HÓA CỦA VIỆT NAM.
A. Một số vấn đề cơ bản của thuế nhập khẩu hàng hóa
1. Khái niệm và phân loại thuế nhập khẩu


a) Khái niệm
Theo Bách khoa toàn thư mở wikipedia: thuế nhập khẩu là một loại thuế
mà quốc gia hay vùng lãnh thổ đánh vào hàng hóa có nguồn gốc từ nước ngoài
trong quá trình nhập khẩu.Khi phương tiện vận tải (tàu thủy, máy bay, phương tiện
vận tải đường thủy hay đường sắt) đến cửa khẩu biên giới (cảng hàng không quốc
tế, cảng sông quốc tế hay cảng biển quốc tế,của khẩu biên giới bộ) thì các công
chức hải quan sẽ tiến hành kiểm tra hàng hóa so với khai báo trong tờ khai hải
quan đồng thời tính số thuế nhập khẩu phải thu theo những công thức tính thuế
nhập khẩu đã quy định trước. Về nguyên tắc, thuế nhập khẩu phải nộp trước khi
thông quan để nhà nhập khẩu có thể đưa mặt hàng nhập khẩu vào lưu thông trong
nội địa,trừ khi có những chính sách ân hạn thuế hay bảo lãnh nộp thuế, nên đây có
thể coi là loại thuế dễ thu nhất, và chi phí để thu thuế nhập khẩu là khá nhỏ. Trong
thời cổ đại và trung cổ ,thuế nhập khẩu còn được các chính quyền địa phương thu,
nhưng hiện nay điều này là rất hiếm và thường được nhà nước giao cho một tổ
chức nhà nước chuyên trách về thuế xuất-nhập khẩu là hải quan thực hiện công
việc kiểm tra, tính và thu thuế.Trong thời đại ngày nay, các chính sách về thương
mại, thuế và thuế quan ( trong đó có thuế nhập khẩu ) thường được xếp cùng nhau
do ảnh hưởng chung của chúng đối với các chính sách công nghiệp, chính sách
nông nghiệp và chính sách đầu tư.
b) Phân loại thuế nhập khẩu hàng hóa
Có nhiều cách để phân loại thuế nhập khẩu hàng hóa.
Thứ nhất, theo phương thức tính thuế có những loại thuế quan sau:
Thuế quan theo đơn giá hàng : là một tỷ lệ phần trăm nào đó của mặt hàng,
chẳng hạn 10% trên giá CIF của hàng nhập khẩu, được coi là thuế suất thuế nhập
khẩu. Đôi khi ở đây cũng có vấn đề do giá cả trên thị trường quốc tế giảm xuống
thì thuế nhập khẩu cũng bị giảm theo và các ngành sản xuất trong nước dễ bị tổn
thương hơn trong cạnh tranh.Ngược lại , khi giá hàng hóa tăng lên trên thị trường
quốc tế thì thuế nhập khẩu hàng hóa cũng tăng lên , nhưng khi đó sản xuất mặt
hàng đó thông thường cũng ít quan tâm đến việc bảo hộ khi giá cả là cao hơn.
Thuế quan theo trọng lượng: được tính theo trọng lượng mặt hàng chẳng

hạn 200 ngàn đồng trên 1 tấn. Kiểu tính thuế nhập khẩu này có thể là khó khăn
hơn trong việc quyết định số thuế phải nộp, do nó cần sự cập nhật thường xuyên
vì các thay đổi trên thị trường hay vì lạm phát.
Thứ hai, theo mục đích đánh thuế, có các kiểu thuế quan sau:
Thuế quan tăng thu ngân sách: là một tập hợp các mức thuế được đưa ra mà
mục đích chính là làm tăng nguồn thu chính cho ngân sách nhà nước, còn mục
đích bảo hộ cho sản xuất trong nước chỉ là thứ yếu. Chẳng hạn thuế quan mà một
nước không trồng hay chế biến cà phê đánh vào và phê nhập khẩu có mục đích

2


chủ yếu là tăng thu cho ngân sách.
Thuế quan bảo hộ : được đưa ra với mục đích làm tăng giá một cách nhân
tạo đối với hàng hóa nhập khẩu nhằm bảo hộ cho sản xuất trong nước trước sự
cạnh tranh khốc liệt từ nước ngoài.Chẳng hạn, một thuế suất 20% trên giá trị máy
móc nhập khẩu với giá nhập khẩu của chiếc máy là 2.000.000 VNĐ sẽ cho giá trị
của nó sau thuế là 2.400.000 VNĐ. Giả sử không có khoản thuế nào khác nữa thì
các nhà nhập khẩu phải bán chiếc máy này ít nhất ở mức giá trên 2.400.000 VNĐ
để đảm bảo có lãi. Khi không có thuế nhập khẩu thì các nhà sản xuất trong nước
nếu muốn bán được mặt hàng tương tự chỉ có thể tính giá ở mức khoảng 2.000.000
VNĐ cộng với một số lợi nhuận hợp lý; nhưng do nhà nước đã áp thuế nhập khẩu
đối với máy móc nhập khẩu nên họ hiện nay có thể tính giá ở mức cao hơn, có thể
ở ngưỡng như giá bán ta của hàng nhập khẩu (sau khi chịu thuế) và như vậy họ sẽ
có khat năng thu được nhiều lợi nhuận hơn cũng như ổn định hơn về mặt tài chính.
Nói chung thuế quan bảo hộ được tính toán và đưa ra khi người ta cho rằng ở mức
thuế suất thấp hơn thì sản xuất trong nước sẽ gặp phải sự cạnh tranh rất quyết liệt
từ hàng nhập khẩu và thị phần về cơ bản sẽ nằm trong tay các nhà nhập khẩu.
Thuế quan cấm đoán: là thuế quan đưa ta với thuế suất rất cao, gần như
không còn nhà nhập khẩu nào dám nhập mặt hàng đó nữa.

Ranh giới giữa thuế quan tăng thu ngân sách và thuế quan bảo hộ là khá
mong manh và nhiều khi không thể phân biệt được. Thuế quan tăng thu ngân sách
thuần túy chỉ có thể có khi quốc gia đó không có bất kỳ cơ sở sản xuất, gia công,
chế biến nào có liên quan đến mặt hàng nhập khẩu đó. Ngoài trường hợp này ra thì
các loại thuế quan tăng thu ngân sách không nhiều thì ít đều có tính chất bảo hộ
cho sản xuất trong nước, ngoài chức năng tăng thu cho ngân sách, nhưng tính chất
bảo hộ không rõ nét như ở thuế quan bảo hộ.
2. Vai trò của thuế nhập khẩu hàng hóa
Đánh thuế nhập khẩu sẽ tác động làm tăng giá hàng nhập khẩu và giá của
mặt hàng tương tự sản xuất trong nước từ đó gây ảnh hưởng đến tổng cung, tổng
cầu của nhiều loại sản phẩm được mua bán trên thị trường. Quy mô đầu tư vì thế
cũng sẽ thay đổi và gây tác động đến mô hình tăng trưởng của cả nền kinh tế. Qua
đó, có thể khẳng định được chính sách thuế nhập khẩu là vô cùng quan trọng trong
chính sách ngoại thương. Vai trò quan trọng của chính sách thuế nhập khẩu được
thể hiện cụ thể như sau:
a) Kiểm soát hàng hóa nhập khẩu
Khi mở cửa thị trường, vì mục tiêu lợi nhuận nên hoạt động mua bán hàng
hóa, dịch vụ có thể diễn ra ở bất cứ nơi nào và với bất cứ loại hàng hóa gì. Trong
nhiều trường hợp, mở cửa thị trường không kiểm soát có thể dẫn tới tình trạng
nhập khẩu hàng hóa một cách ồ ạt, dẫn đến cán cân thương mại bị thâm hụt
nghiêm trọng. Do đó để đảm bảo lợi ích cho đất nước thuế nhập khẩu đã được
nhiều nước sử dụng như là một công cụ hữu hiệu để kiểm soát hàng nhập khẩu.
Thuế nhập khẩu được áp đặt với những mức khác nhau trên cơ sở thuế suất cao
đối với những mặt hàng hạn chế nhập khẩu và mức thuế suất thấp đối với những
mặt hàng khuyến khích nhập khẩu. Từ đó, góp phần kiểm soát lượng hàng hóa

3


nhập khẩu đồng thời ổn định thị trường trong nước.

b) Bảo vệ và phát triển sản xuất trong nước
Giảm thuế nhập khẩu hàng hóa là “đầu vào” của quá trình sản xuất và một
số những mặt hàng tiêi dùng sẽ góp phần phát triển sản xuất trong nước. Việc
đánh thuế nhập khẩu thấp đối với hàng hóa là tư liệu sản xuất, nguyên vật liệu sẽ
làm giảm giá cả đầu vào, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đổi mới công nghệ từ
đó giảm giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như là sức cạnh tranh về
sản phẩm và giá trên thị trường quốc tế. Còn khi nhà nước đánh thuế nhập khẩu
thấp đối với một mặt hàng tiêu dùng nào đó tức là khuyến khích nhập khẩu mặt
hàng đó, người tiêu dùng sẽ có cơ hội tiêu dùng sản phẩm nhập khẩu với giá rẻ,
chất lượng cao và đó cũng là động lực giúp các doanh nghiệp trong nước phải cải
tiến công nghệ, chất lượng sản phẩm, mẫu mã, hạ giá thành sản phẩm để tăng khả
năng cạnh tranh với hàng nhập khẩu.
Mặt khác thuế nhập khẩu còn là công cụ được nhà nước sử dụng để bảo vệ
sản xuất trong nước. Thông thường để bảo vệ sản xuất trong nước thì thuế nhập
khẩu hay được quy định ở mức cao nhằm đẩy giá hàng hóa nhập khẩu lên cao góp
phần hạn chế lường tiêu dùng hàng nhập khẩu đồng thời trong điều kiện đó hàng
sản xuất trong nước sẽ có điều kiện cạnh tranh hơn hàng nhập khẩu nhờ giá thành
hạ so với hàng nhập khẩu. Việc áp dụng thuế nhập khẩu vảo hộ là vô cùng quan
trọng trong quá trình phát triển của các nước đặc việt đối với các mặt hàng chủ
lực, xương sống của nền kinh tế khi đang ở giai đoạn phát triển ban đầu.
Tuy nhiên, trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và kinh tế quốc tế hiện
nay thì vai trò bảo hộ của thuế nhập khẩu sẽ vị hạn chế do phải thưch hiện các cam
kết trong khu vực mà phần lớn là phải giảm thuế đếm mứ tối thiểu. Hơn nữa, nếu
chúng ta quá nhấn mạnh vào vai trò bảo hộ của thuế nhập khẩu đối với các ngành
sản xuất trong nước sẽ có thể dẫn tới tình trạng tiêu cực là không những không
thực hiện được đường lối chính sách đối ngoại của nhà nước trong bối cảnh mới
mà còn làm cho nền sản xuất trong nước thiếu cơ hội cạnh tranh quốc tế dẫn đến
việc các doanh nghiệp được bảo hộ trở nên ỷ lại, sản xuất kém phát triển.
c) Là nguồn thu cho ngân sách nhà nước
Tại Việt Nam nguồn thu cho ngân sách nhà nước chủ yếu là các loại thuế

mà theo quốc hội khóa 8 thông qua thì có 8 loại thuế chính và lệ phí. Trong đó thì
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước do chúng
ta vẫn cần thực hiện chính sách bảo hộ sản xuất trong nước.
d) Thuế nhập khẩu góp phần thực hiện chính sách đối ngoại của nhà
nước
Với tầm nhìn chiến lược, xác định rõ tình hình và xu thế thế giới, trên cơ sở
yêu cầu phát triển của đất nước, Đại hội Đảng 8 đã khẳng định chính sách đối
ngoại của ta trong thời gian tới: “xây dựng một nền kinh tế mở”,”đẩy nhanh quá
trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”. Tuy nhiên, việc thực hiện những cam
kết cơ bản sao cho phù hợp với thông lệ quốc tế trong đó cam kết về giảm thuế

4


nhập khẩu lại chiếm một phần cơ bản và vô cùng quan trọng. Do đó thực hiện
thành công các cam kết về giảm thuế nhập khẩu trong quá trình hội nhập cũng
chính là yếu tố góp phần thực hiện thành công chính sách đối ngoại của Đảng và
Nhà nước đã đề ra
e) Thuế nhập khẩu góp phần hướng dẫn tiêu dùng
Người tiêu dùng là lực lượng lớn nhất trong xã hội,với họ luôn tìm mọi
cách để mua được những hàng hóa rẻ với chất lượng cao. Chính vì vậy đánh thuế
nhập khẩu sẽ tác động vào giá cả cà cũng sẽ góp phần hướng dẫn tiêu dùng. Đối
với những mặt hàng thiết yếu cho đời sống người dân, những mặt hàng nâng cao
đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân thì mức thuế sẽ được áp dụng thấp để
khuyến khích tiêu dùng. Còn ngược lại, đối với những mặt hàng không thiết yếu,
không phù hợp với mức sống của nhân dân như: rượu, thuốc lá, …mức thuế nhập
lhaaur áp dụng sẽ rất cao để hạn chế tiêu dùng.
f) Thuế nhập khẩu góp phần tiết kiệm ngoại tệ
Việt Nam là một nước đang phát triển vì thế chúng ta rất cần nguồn ngoại
tệ phục vụ nhập khẩu. Có nhiều cách để phát huy được nguồn ngoại tệ trong đó

Nhà nước cũng sử dụng thuế nhập khẩu như một công cụ hữu hiệu góp phần quản
lý ngoại tệ. Đối với những mặt hàng trong nước không sản xuất được hay quản lý
không hiệu quả Nhà nước áp dụng mức thuế thấp để khuyến khích nhập khẩu. Còn
ngược lại đối với những mặt hàng nước ta đã sản xuất có hiệu quả và đối với
những mặt hàng tiêu dùng không thiết yếu dễ gây ra lãng phí ngoại tệ thì Nhà
nước đánh thuế với mức cao để hạn chế nhập khẩu.
B. Đánh giá tác động của việc thực hiện những cam kết về thuế nhập
khẩu khi Việt Nam gia nhập WTO
1. Sơ lược về tổ chức Thương Mại thế giới WTO
Việt Nam đã chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO vào
ngày 7 tháng 11 năm 2006.Đến ngày 23 tháng 8 năm 2008,tổ chức thương mại thế
giới đã có 153 thành viên và chiếm khoảng 95% tổng giá trị thương mại thế giới.
WTO có những yêu cầu rất vao về minh bạch hóa các qui định thương mại, về cắt
giảm thuế quan nhập khẩu, tiến tới xóa bỏ thuế quan, tự do hóa thương mại hàng
hóa, dịch vụ đầu tư, sở hữu trí tuệ, về thực hiện qui chế tối huêh quốc hay thương
mại bình thường, xóa bỏ biện pháp phi thuế quan như hạn ngạch, giấy phép xuất,
nhập khẩu, trợ cấp xuất khẩu và về thực hiện các biện pháp đầu tư có liên quan
đến thương mại như không vi phạm nguyên tắc đãi ngộ quốc gia nhằm thu hút đầu
tư nước ngoài, tăng cường xuất khẩu hàng hóa và nâng cao khả năng phát triển
kinh tế… Tổng cộng khi hội nhập WTO các quốc gia sẽ phải tuân thủ một hệ
thống các luật lệ, qui tắc nhằm điều chỉnh hầu hất các lĩnh vực thương mại quốc tế
với tổng cộng khoảng 60 hiệp định, phụ lục và các văn bản giải thích.
Tham gia vào WTO sẽ mang lại cho các quốc gia nhiều cơ hội lớn về mở
rộng thị trường xuất-nhập khẩu, tiếp nhận hàng hóa dịch vụ, công nghệ, kỹ thuật
quản lý… Mặt khác, nếu chuẩn bị không tốt thì quốc gia đó có thể chịu nhiều tổn

5


tất thương mại nặng nề do tình trạng nhập siêu , chấn động thị trường, tình trạng

phá sản gia tăng…Bởi vậy, kinh nghiệm nhiều nước cho thấy cần phải chủ động
tích cực chuẩn bị đi đôi với thận trọng có cân nhắc lộ trình thích hợp và khai thác
tối đa các ưu đãi giành cho các nền kinh tế đang phát triển khi hội nhập WTO.
2. Các nguyên tắc, nội dung cam kết về thuế nhập khẩu hàng hóa khi gia
nhập WTO
a) Các nguyên tắc

Nguyên tắc không phân biệt đối xử
Đây là nguyên tắc bao trùm nhất của WTO và được áp dụng như một
nguyên tắc cơ bản trong mậu dịch khu vực và các hiệp định thương mại song
phương. Nguyên tắc này thể hiện dưới hai dạng đó là nguyên tắc tối huệ quốc và
nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (NT).
Thứ nhất, nguyên tắc tối huệ quốc (MFN) là quy chế mà một nước dành
cho một nước khác các điều kiện đối xử tốt nhất trong quan hệ thương mại, nghĩa
là nước được hưởng MFN phải được hưởng tất cả những ưu đãi về các mặt như
thuế quan, mặt hàng, điều kiện thương mại, quyền lợi pháp nhân,… mà quốc gia
áp dụng MFN dành cho bất kỳ nước thứ ba khác. Ví dụ: nếu Hoa Kỳ áp dụng
MFN đối với Việt Nam thì giả sử Hoa Kỳ có chính sách giảm thuế nhập khẩu đồ
len dạ Australia từ 20% xuống 10%, điều đó có nghĩa là Việt Nam cũng được
hưởng chính sách ưu đãi đó.
Điều I của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại ghi rõ: MFN phải
được coi là nguyên tắc cơ bản đầu tiên trong quan hệ thương mại quốc tế: “Với
mọi khoản thuế quan và khoản thu thuộc bất cứ loại nào nhằm vào hay có liên hệ
tới nhập khẩu và xuất khẩu… hoặc phương thức đánh thuế, hoặc thủ tục xuất nhập
khẩu…mọi lợi thế, biệt đãi, đặc quyền hay quyền miễn trừ được bấy kỳ bên ký kết
nào dành cho bất cứ một sản phẩm có xuất xứ từ hay được giao tới bất kỳ một
nước nào khác sẽ được áp dụng cho sản phẩm tương tự xó xuất xứ từ hay giao tới
mọi bên ký kết khác ngay lập tức và không điều kiện”.
MFN hiện nay được áp dụng tự động giữa các thành viên WTO hoặc cùng
là thành viên của một số tổ chức khu vực.

Một vấn đề quan trọng nữa là MFN chỉ áp dụng đối với “sản phẩm tương
tự”. Điều XV: 2 – Hiệp định về xác định trị giá tính thuế hải quan của WTO đưa
ra những quy tắc để xác định hàng hóa là “giống hệt nhau” hoặc “tương tự nhau”.
Hàng hóa là “giống hệt nhau” nếu chúng giống nhau về mọi mặt, kể cả các đặc
tính vật lý, chất lượng và danh tiếng. Hàng hóa “tương tự nhau” nếu chúng gần
giống với hàng hóa đang được xác định trị giá về thành phần, vật liệu và các đăc
điểm, bên cạnh đó, chúng có thể thực hiện những chức năng giống nhau và có thể
thay thế nhau về mặt thương mại. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết tranh chấp trong
khuôn khổ WTO cho thấy việc giải thích thế nào là “sản phẩm tương tự” không đề
đơn giản.
Tùy theo cách thức áp dụng MFN, người ta thường phân biệt các hình thức
sau: loại không điều kiện (kiểu châu Âu); MFN đa phương (nhiều nước áp dụng
lẫn nhau); MFN không hạn chế và có hạn chế (thường hạn chế ở mặt hàng hay
lĩnh vực áp dụng).

6


Trong những năm gần đây, Việt Nam rất quan tâm đến quy chế MFN trong
quan hệ kinh tế quốc tế. Từ ngày 11/01/2007, khi trở thành thành viên chính thức
của WTO Việt Nam được hưởng MFN đồng thời việc áp dụng MFN cho tất cả các
thành viên WTO mang tính bắt buộc.
Thứ hai, nguyên tắc đối xử quốc gia(NT): là nguyên tắc quan trọng được
quy định trong nhiều hiệp định thương mại song phương và đa phương. Nguyên
tắc này đòi hỏi những sản phẩm nước ngoài và nhiều khi cả các nhà cung cấp nước
ngoài được đối xử trên thị trường nội địa ngang bằng với sản phẩm nội địa cùng
loại và các nhà cung cấp nội địa.Trên thực tế, việc áp dụng nguyên tắc đối xử quốc
gia thường gây nên những tranh cãi phức tạp do cách hiểu và giải thích cụ thể về
chế độ này có thể rất khác nhau.
Nguyên tắc này cũng có những ngoại lệ quan trọng đối với hàng hóa mậu

dịch biên giới, hàng hóa do chính phủ mua…
Trong thời gian trước khi trở thành thành viên của WTO, nguyên tắc đối xử
quốc gia để bảo vệ sản xuất nội địa hoặc thực hiện một số mục đích khác trong các
lĩnh vực như: áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế VAT, trong chính sách đầu tư
nước ngoài, chính sách thương mại dịch vụ. Nhưng kể từ khi gia nhập WTO, theo
lộ trình cam kết thì những chính sách này sẽ bị bãi bỏ.


Nguyên tắc công khai minh bạch

Nguyên tắc này được thực hiện nhằm bảo đảm cho môi trường chính sách
kinh tế nói chung, chính sách thương mại và đầu tư quốc tế nói riêng ổn định và có
thể dự đoán được. Hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế chịu sự phụ thuộc rất
lớn vào chính sách kinh tế của các quốc gia. Nếu chính sách không ổn định hoặc
không thể dự đoán được sẽ làm gia tăng rủi ro trong hoạt động kinh tế, do vậy gây
thiệt hại cho các bạn hàng nước ngoài. Nguyên tắc này đòi hỏi:
Chính sách thương mại, đầu tư quốc tế và các chính sách liên quan khác
phải được soạn thảo và thực hiện theo quy trình dân chủ, có sự tham gia của các
chủ thể liên quan.
Phải có lộ trình soạn thảo chính sách.
Khi ban hành phải có thời gian để chuẩn bị thực hiện.
Phải có những biện pháp bảo đảm đầu tư phù hợp, trong đó đặc biệt quan
trọng là cơ chế bảo hộ đầu tư và cơ chế tránh đánh thuế hai lần.


Nguyên tắc có đi có lại và tôn trọng những cam
kết quốc tế về thuế

Đây là nguyên tắc mang tính thông lệ trong quan hệ kinh tế quốc tế.
Nguyên tắc này đòi hỏi các quốc gia trong quan hệ kinh tế quốc tế phải dành cho

nhau những ưu đãi và nhượng bộ tương xứng nhau. Sự nhượng bộ tương xứng này
tạo nên cân bằng ưu đãi giữa các quốc gia, và là nền tảng cho quan hệ kinh tế quốc
tế bền vững. Đó là biểu hiện của nguyên tắc có đi có lại theo hướng thiện chí. Bên
cạnh đó, trong thực tiễn quan hệ kinh tế quốc tế, nguyên tắc có đi có lại còn được
biểu hiện theo hướng không thiện chí, được gọi là trả đũa thương mại.
Theo quy định của WTO, biện pháp trả đũa thương mại chỉ được coi là hợp
pháp nếu biện pháp này được thực hiện trên cơ sở phán quyết của cơ quan giải

7


quyết tranh chấp của WTO.


Nguyên tắc tự do hóa và ràng buộc cắt giảm về
thuế quan

Nhìn chung WTO hay các tổ chức kinh tế không đòi hỏi việc tự do hóa một
cách nhanh chóng mà yêu cầu các nước thành viên tạo điều kiện dễ dàng cho quá
trình đàm phán thương mại nhằm mục đích tự do hóa thông qua việc giảm cơ bản
mặt hàng cơ bản nói chung và các khoản chi phí đối với xuất-nhập khẩu hàng hóa,
đặc biệt là giảm mức thuế suất cao đối với hàng hóa nhập khẩu. Đây là một yếu tố
quan trọng mang tính nền tảng trong thương mại quốc tế. Những nhượng bộ về
thuế quan trong những cuộc đàm phán có thể là các cam kết giảm thuế hay khống
chế mức thuế trần.


Nguyên tắc bảo hộ phòng ngừa bất trắc

Hiệp định thương mại của WTO qui định về vấn đề bảo hộ phòng ngừa

trong những trường hợp có bất trắc. Những qui định này cho phép các nước thành
viên được sử dụng hành động tự vệ trong một số những trường hợp đặc biệt như
các trường hợp khẩn cấp về bảo hộ cho nền công nghiệp trong nước nếu việc tăng
lượng hàng nhập khẩu có thể đe dọa hoặc gây tổn hại nghiêm trọng cho các nhà
sản xuất trong nước. Trường hợp có các hoạt động bán phá giá, hoặc nước xuất
khẩu áp dụng các biện pháp trợ cấp mà không được phép. Căn cứ vào đó, các biện
pháp có thể áp dụng là nâng cao mức thuế quan, ban hành các loại thuế chống bán
phá giá, thuế đối kháng, thực hiện phụ thu đối với hàng nhập khẩu, hoặc những
qui định về hạn chế định lượng.
b) Các cam kết về thuế nhập khẩu của Việt Nam khi gia nhập WTO
Bộ tài chính đã công bố toàn bộ các cam kết về thuế quan của Việt Nam
trong Tổ chức thương mại thế giới. Theo đó, Việt Nam cam kết ràng buộc với toàn
bộ biểu thuế nhập khẩu hiện hành với 10.600 dòng thuế. Những điểm chính trong
cam kết về thuế quan khi là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới khái quát
như sau:
Một là, thuế suất bình quân giảm 23%.
Với việc thực hiện cam keeurt về thuế quan theo các văn bản đàm phán khi
Việt Nam gia nhập WTO, thuế suất cam kết cuối cùng có mức bình quân giảm đi
23% so với mức thuế bình quân hiện hành(thuế suất MFN) của biểu thuế (từ 17,4
% xuống còn 13,4%) . Tuy nhiên, chúng ta sẽ có một thời gian để thực hiện lộ
trình này từ 5 đến 7 năm.
Trong toàn bộ biểu cam kết, Việt Nam sẽ cắt giảm thuế với khoảng 3.800
dòng thuế (chiếm 35,5 % số dòng của biểu thuế); ràng buộc ở biểu thuế hiện hành
với khoảng 3.700 dòng(chiếm 34,5% số dòng của biểu thuế); ràng buộc với mức
thuế trần- cao hơn mức thuế suất hiện hành với 3.170 dòng thuế(chiếm 30% số
dòng của biểu thuế), chủ yếu là đối với các nhóm hàng như xăng dầu, kim loại,
hóa chất, một số phương tiện vận tải.
Một số mặt hàng đang có thuế suất cao từ trên 20%,30% sẽ được cắt giảm

8



khi gia nhập. Những nhóm mặt hàng có cam kết cắt giảm thuế nhiều nhất bao
gồm: dệt may, cá và sản phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế tạo khác, máy móc thiết bị
điện-điện tử.
Hai là, vẫn áp dụng cơ chế hạn ngạch đối với 4 mặt hàng nông nghiệp.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, mức cam kết bình quân là 25,2% vào thời
điểm gia nhập và 21% sẽ là mức cắt giảm cuối cùng. So sánh với mức thuế MFN
bình quân đối với lĩnh vực nông nghiệp hiện nay là 23,5% thì mức cắt giảm đi sẽ
là 10%.
Việt Nam sẽ được áp dụng cơ chế hạn ngạch đối với 4 mặt hàng bao gồm:
trứng, đường, thuốc lá, muối.Đối với 4 mặt hàng này, mức thuế trong hạn ngạch
tương đương mức thuế MFN hiện hành(trứng 20%, đường thô 25%, đường tinh
50-60%, thuốc lá 30%, muối ăn 30%), thấp hơn nhiều so với mức thuế ngoài hạn
ngạch.
Ba là, đối với lĩnh vực công nghiệp, mức cam kết bình quân vào thời điểm
gia nhập là 16,1%, và nức cắt giảm cuối cùng là 12,6%. So sánh với mức thuế
MFN bình quân của hàng công nghiệp hiện nay là 16,6% thì mức cắt giảm đi sẽ là
23,9%. Áp dụng thuế suất 0% các sản phẩm điện tử.
Đối với những cam kết đấy đủ thuộc Hiệp định tự do hóa theo ngành bao
gồm: sản phẩm công nghệ thông tin(ITA), dệt may, thiết bị y tế và những ngành
mà Việt Nam tham gia một phần là thiết bị máy bay, hóa chất và thiết bị xây dựng
thời gian để thực hiện cam kết giảm thuế sẽ được thực hiện từ 3 đến 5 năm.
Trong các hiệp định trên, tham gia ITA là quan trọng nhất, theo đó khoảng
330 dòng thuế thuộc diện công nghệ thông tin sẽ phải có thuế suất 0% sau 3 đến 5
năm.
Sau đây là Bảng tổng hợp cam kết thuế theo ngành:
Bảng I- Mức thuế cam kết bình quân theo nhóm ngành hàng chính
Thuế suất cam kết tại thời Thuế suất cam kết cắt giảm
Nhóm mặt hàng

điểm gia nhập WTO(%)
cuối cùng cho WTO(%)
1. Nông sản
25,2
21,0
2. Cá, sản phẩm cá
29,1
18,0
3. Dầu khí
36,8
36,6
4. Gỗ, giấy
14,6
10,5
5. Dệt may
13,7
13,7
6. Da, cao su
19,1
14,6
7. Kim loại
14,8
11,4
8. Hóa chất
11,1
6,9
9. Thiết bị vận tải
46,9
37,4
10. Máy móc thiết bị cơ

9,2
7,3
khí
11. Máy móc thiết bị điện 13,9
9,5
12. Khoáng sản
16,1
14,1
13. Hàng chế tạo khác
12,9
10,2
Cả biểu thuế
17,2
13,4

9


Bảng 2- Cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu theo một số nhóm mặt hàng chính
Cam kết với WTO
Thuế suất Thuế suất Thuế suất
STT
Mặt hàng
Thời hạn
MFN(%)
khi gia
cuối
thực hiện
nhập(%)
cùng(%)

1
Một số sản phẩm nông nghiệp
Thịt bò
20
20
14
5 năm
Thịt lợn
30
30
15
5 năm
Sữa nguyên liệu
20
20
18
2 năm
Sữa thành phẩm
30
30
25
5 năm
Thịt chế biến
50
40
22
5 năm
Bánh kẹo(t/s bình quân)
39,3
34,4

25,3
3-5 năm
Bia
80
65
35
5 năm
Rượu
65
65
45-50
5-6 năm
Thuốc lá điếu
100
150
135
3 năm
Xì gà
100
150
100
5 năm
Thức ăn gia súc
10
10
7
2 năm
2
Một số sản phẩm công nghiệp
Xăng dầu(t/s bình quân)

0-10
38,7
38,7
Sắt thép(t/s bình quân)
17,7
13
5-7 năm
Xi măng
40
40
32
4 năm
Phân hóa học
6,5
6,4
2 năm
Giấy
22,3
20,7
15,1
5 năm
Tivi
50
40
25
5 năm
Điều hòa
50
40
25

3 năm
Máy giặt
40
38
25
4 năm
Dệt may
37,3
13,7
13,7
Thực hiện ngay
Giày dép
50
40
30
5 năm
- Xe ôtô con
+ Xe từ 2.500 cc trở lên, chạy
xăng
90
90
52
12 năm
+ Xe từ 2.500 cc trở lên, chạy
xăng, 2 loại cầu
90
90
47
10 năm
+ Xe dưới 2.500 và những loại

khác
90
90
70
7 năm
- Xe tải
+ Loại không quá 5 tấn
100
80
50
10 năm
+ Loại khác có t/s hiện hành là
80%
80
80
70
7 năm
+ Loại khác có t/s hiện hành là
60%
60
60
50
5 năm
Phụ tùng ôtô
20,9
24,3
20,5
3-5 năm
- Xe máy
+ Loại từ 800 cc trở lên

100
100
40
8 năm
+ Loại khác
100
95
70
7 năm
Chính sách thuế quan trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế có ý nghĩa

10


rất quan trọng đối với mỗi quốc gia. Xu hướng chung chính sách thuế quan các
nước khi mở cửa nền kinh tế đều hướng tới nới lỏng các hạn chế thương mại tự
do, giảm dần các mức thuế trên cơ sở đàm phán với các đối tác theo nguyên tắc có
đi có lại. Việt Nam đã có quan hệ với hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, là thành
viên của WTO và ASEAN, chúng ta thành công bước đầu trên con đường hội
nhập kinh tế quốc tế. Chính sách thuế của Việt Nam đã có nhiều đổi mới và hoàn
thiện, góp phần tích cực vào thực hiện đường lối mở cửa, chủ động hội nhập của
Đảng và nhà nước. Trong thời gian tới chính sách thuế quan của nước ta sẽ tiếp
tục được bổ sung, cải cách để vừa phát triển thương mại quốc tế, tăng thu cho
ngân sách nhà nước, vừa bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, thực hiện thắng lợi
mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
c) Đánh giá những tác động khi Việt Nam thực hiện những cam kết về
thuế nhập khẩu hàng hóa theo WTO

Tác động chung tới nền kinh tế


Tác động tới việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Trong điều kiện tham gia hội nhập, khi giảm thuế nhập khẩu sẽ dẫn đến tác
động giảm giá và tăng số lượng hàng hóa nhập khẩu. Do đó khả năng cạnh tranh
của hàng nhập khẩu cũng được tăng cường so với hàng hóa cùng chủng loại được
sản xuất trong nước. Trong nhiều trường hợp, mức cung của sản phẩm sản xuất
trong nước sẽ giảm đi do chi phí sản xuất hàng trong nước cao hơn hàng nhập
khẩu. Điều đó làm cho qui mô sản xuất và đầu tư của sản phẩm trong nước bị thu
hẹp. Gắn liền với quá trình đó là sự phân bổ lại nguồn lực của xã hội và cải tổ cơ
cấu sản xuất trong nước. Do sản lượng cung cấp của các doanh nghiệp sản xuất
trong nước giảm đi, nguồn lực của xã hội trước được tập trung nhiều ở những
ngành này sẽ di chuyển sang các ngành khác. Đến lượt mình, các ngành đó lại tiếp
tục tác đông tới những ngành có liên quan và sự tác động lan truyền này chỉ dừng
lại khi thị trường tổng thể tự điều tiết để đạt đến một diểm cân bằng mới. Bởi vậy,
hạ thấp thuế nhập khẩu hiển nhiên có tác động phân bổ lại nguồn lực xã hội và cơ
cấu sản xuất.
Dưới tác động của tiến trình hội nhập kinh tế thông qua tự do hóa thương
mại, sự tăng trưởng một số ngành sản xuất của Việt Nam diễn ra theo những xu
hướng không giống nhau.
Những ngành hướng về xuất khẩu như dệt may, dịch vụ tăng trưởng mạnh
khi Việt Nam tham gia vào tổ chức thương mại toàn cầu do có lợi thế xuất khẩu
sang khu vực này, nhưng lại giảm tốc độ tăng trưởng hoặc tăng trưởng chậm hơn
so với trong khu vực ASEAN vì phải cạnh tranh với sản phẩm của các nước trong
khu vực.
Những ngành sử dụng nhiều lao động và trình độ lao động còn lạc hậu như
nông nghiệp, khai khoáng dẽ gặp nhiều bất lợi khi tham gia vào WTO.
Các ngành chế tạo máy móc thiết bị bao gồm cả điện tử khi hội nhập sẽ có
tốc độ phát triển tăng không đáng kể, do tốc độ phát triển của các ngành này trong
thời gian qua đã khá nhanh nên năng lực cạnh tranh của các ngành này không còn
tăng mạnh nữa.
Một số những ngành khác như hóa chất, kim loại là những ngành công


11


nghiệp còn non trẻ nên trong giai đoạn đầu hội nhập chưa thể cạch tranh được với
sản phẩm của những nước đã có ngành công nghiệp phát triển lâu đời.
Nhóm ngành phương tiện giao thông vận tải sẽ vô cùng bất lợi khi tham gia
hội nhập, nhất là trong hội nhập WTO vì công nghiệp giao thông vận tải thế giới
đã đạt đến đỉnh cao, Việt Nam không có lợi thế so sánh đối với những ngành công
nghiệp hiện đại này.
Như vậy, việc tham gia vào WTO đã có tích cực đến nền kinh tế Việt Nam
là tăng trưởng kinh tế nhưng mức độ tác động lại không giống nhau lên các ngành
sản xuất.


Tác động tới nguồn thu Ngân sách nhà nước

Cắt giảm thuế quan sẽ làm giảm khả năng thu Ngân sách nhà nước trong
ngắn hạn nhưng trong dài hạn sẽ làm thay đổi cơ cấu nguồn thu Ngân sách nhà
nước và tổng số thu thay đổi không đáng kể.
Việc giảm thu Ngân sách nhà nước được thể hiện:
Do thuế nhập khẩu giảm, mức cung hàng nhập khẩu tăng sẽ tác động đến
khả năng cạnh tranh của hàng cùng một chủng loại trong nước. Mức cung của một
số mặt hàng trong nước có thể sẽ vì thế mà phải giảm đi do chi phí sản xuất trong
nước cao hơn. Điều này dẫn tới quy mô và phạm vi kinh doanh của các doanh
nghiệp trong nước sẽ bị thu hẹp. Kết quả là khả năng thu thuế từ các doanh nghiệp
này cũng sẽ giảm đi tương ứng.
Khi gia nhập WTO thuế nhập khẩu của rất nhiều mặt hàng sẽ được điều
chỉnh giảm dần theo cam kết. Vì vậy, nguồn thu từ những mặt hàng nhập khẩu từ
những khu vực này sẽ giảm đi.

Giảm thuế nhập khẩu cũng sẽ làm giảm một số các loại thuế khác có cùng
cơ sở thuế như thuế GTGT, thuế TTĐB thu từ khâu nhập khẩu. Ta có công thức
tính thuế GTGT và công thức tính thuế TTĐB như sau:
Thuế tiêu thụ
đặc biệt phải nộp

Số lượng hàng
=
hóa
x
nhập khẩu

Giá tính thuế
tiêu thụ đặc
biệt

Giá tính thuế
nhập khẩu

Giá tính thuế
nhập khẩu

x

Thuế suất
thuế
tiêu thụ đặc
biệt

x


Thuế suất
thuế
nhập khẩu

Trong đó:
Giá tính thuế
tiêu thụ đặc biệt

=

+

12


Thuế GTGT
phải nộp

=

Số lượng hàng hóa
nhập khẩu

x

Giá tính thuế
GTGT

x


Thuế suất thuế
GTGT

Trong đó:
Giá tính
thuế
GTGT

=

Giá tính thuế
nhập khẩu

+

Giá tính
thuế
nhập khẩu

x

Thuế suất thuế
nhập khẩu

+

Giá tính thuế
TTĐB


x

Thuế suất
thuế
TTĐB

Nhìn vào công thức trên ta có thể thấy, khi thuế suất thuế nhập khẩu giảm
sẽ kéo theo thuế GTGT và thuế TTĐB giảm khi các yếu tố khác thay đổi không
đáng kể hay không thay đổi.
Mặt khác, trong dài hạn việc cắt giảm thuế quan dẫn đến thay đổi cơ cấu
nguồn thu NSNN và tăng cường cho NSNN.Cụ thể như sau:
Việc thực hiện những cam kết giảm thuế khi gia nhập WTO sẽ giúp các
doanh nghiệp Việt Nam được hưởng lợi ích trong giao lưu thương mại quốc tế.
Điều này tác động làm cho kim ngạch xuất khẩu tăng và tỷ kệ nhập siêu giảm dần
do được hưởng thuế suất ưu đãi từ các nước. Xuất khẩu tăng sẽ thúc đẩy sản xuất
trong nước phát triển, tăng doing thu của các doing nghiệp, tăng tích lũy và tạo ta
khả năng tăng thu của NSNN.
Giảm thuế nhập khẩu đối với các nguyên vật kiệu sẽ làm giảm chi phí đầu
vào của các ngành sản xuất, từ đó làm giảm giá thành sản phẩm và tăng sản lượng
sản xuất sản phẩm. Điều đó dẫn tưới tăng thu ngân sách ở một số sắc thuế khác
như thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân.Đó là
tác động căn bản và mang lại lợi ích trong dài hạn.
C. Yêu cầu và nguyên tắc hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu hàng hóa
của Việt Nam
Hệ thống thuế của Việt Nam mới được hình thành vào cuối những năm 80
cùng với sự chuyển đổi của nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền
kinh tế thị trường nhiều thành phần kinh tế. Mặc dù đã có nhiều sự sửa đổi nhưng
hiện nay chính sách thuế vẫn còn nhiều vướng mắc cần tiếp tục cải cách và điều
chỉnh để phù hợp với những nguyên tắc của WTO.
Một là, hệ thống chính sách thuế hiện nay còn phức tạp và thiếu tính ổn

định làm cho chi phí quản lý thu thuế lớn, ảnh hưởng tới hiệu quả thu thuế, tạo
điều kiện cho việc trốn thuế và bóp méo hệ thống thu thuế.
Hai là, việc quy định các sắc thuế thiếu tính rõ ràng, còn lẫn lộn trong chức
năng của từng sắc thuế, thể hiện ở phạm vi của đối tượng chịu thuế, các mức thuế
suất quá cao vì gặp nhiều loại thuế trong một sắc thuế. Ví dụ, thuế tiêu thụ đặc
biệt, ngoài chức năng điều tiết tiêu dùng với một số mặt hàng đặc biệt còn đảm
đương cả chức năng của thuế VAT, vì đối tượng chịu thuế VAT không áp dụng
đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Vì vậy, thuế suất
cao
của
thuế
tiêu
thụ
đặc
biệt
đã
gồm
thuế
VAT.
Thuế tiêu thụ đặc biệt còn được sử dụng cho chức năng bảo hộ sản xuất trong
nước, nên có sự phân biệt đối xử giữa một số mặt hàng nhập khẩu và sản xuất

13


trong nước (như ô tô, thuốc lá…) dẫn đến vi phạm nguyên tắc của WTO. Mặt
khác, có một số mặt hàng tiêu dùng có tính chất xa xỉ lại không thuộc diện điều
chỉnh của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, nên trong biểu thuế nhập khẩu đang được áp
dụng mức thuế suất cao, tạo sự hiểu lầm của dư luận quốc tế về thuế nhập khẩu
không phù hợp thông lệ quốc tế.

Ba là, hệ thống chính sách thuế được xây dựng để phục vụ nhiều mục tiêu
trong từng sắc thuế, làm mất đi tính trung lập – một yếu tố dẫn tới hiệu quả trong
phân bổ nguồn lực. Có nhiều mục tiêu trong chính sách thuế không thống nhất với
nhau, do đó nếu đạt được mục tiêu này thì lại gây thiệt hại tới mục tiêu khác. Một
số mặt hàng nhập khẩu như: phân bón, sắt xây dựng, kính xây dựng, đường… có
thuế suất thuế nhập khẩu thấp vì là đầu vào của một số ngành sản xuất, nhưng biện
pháp quản lý lại là bảo hộ phi thuế quan (hạn chế số lượng nhập khẩu), rõ ràng là
vi phạm quy định của WTO. Một số mặt hàng thuế nhập khẩu quá cao sẽ kính
thích sản xuất hàng hóa thay thế hàng nhập khẩu; đồng thời cũng sẽ chiếm mất
nguồn vốn, lao động, công nghệ của những hoạt động sản xuất hàng hóa khác có
hiệu quả cao hơn. Việc kết hợp các mục tiêu của chính sách xã hội trong các sắc
thuế xét về khía cạnh xã hội là tốt, tuy nhiên nó thực sự làm chính sách thuế trở
nên phức tạp, tạo ra sự bất bình đẳng trong kinh doanh, ảnh hưởng đến sự minh
bạch của hệ thống thuế.
Từ những bất cập trên đã đặt ra yêu cầu cấp thiết hoàn thiện hệ thống chính
sách thuế nói chung và chính sách thuế nhập khẩu hàng hóa nói riêng để phù hợp
với những nguyên tắc của WTO trong bối cảnh nước ta đã gia nhập tổ chức này.
Đồng thời, phải đảm bảo được nguồn thu cho ngân sách nhà nước, tăng cường sức
cạnh tranh cho các Doanh nghiệp trong nước, và phải có sự bảo hộ hợp lý cho một
số ngành then chốt trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước.
Xuất phát từ những yêu cầu trên chúng ta có một số nguyên tắc hoàn thiện
chính sách thuế nhập khẩu hàng hóa trong quá trình hội nhập cụ thể như sau:
Thứ nhất, để chủ động trong tiến trình hội nhập WTO, đảm bảo sự nhất
quán trong các cam kết với các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế và các cam kết
khi gia nhập WTO, cần phải hoạch định một phương án cam kết tổng thể, trọn gói
tất cả các lĩnh vực (cho thương mại, dịch vụ, hàng hóa). Đó là cam kết về tiến
trình sửa chữa các điểm chưa phù hợp với WTO trong chính sách; cam kết về mở
cửa thị trường (ràng buộc về thuế quan, cam kết về các vấn đề trợ cấp, cam kết về
các loại phí, cam kết về quản lý giá thành trong nước…). Trong đó, cam kết về
thuế phải được xác định sau cùng khi đã có đầy đủ những cân nhắc, tính toán và

dự kiến cho các cam kết khác, để đảm bảo rằng hàng rào thuế quan là hàng rào
bảo hộ cuối cùng được phép cho các Doang nghiệp trong nước, theo đúng quy
định của WTO. Các cam kết về thuế cần được tính toán để đảm bảo khi đưa ra
đàm phán phải đạt được mục tiêu cuối cùng là sản xuất trong nước có thể đứng
vững và phát triển khi thực hiện hội nhập WTO, mở cửa thị trường, tự do hóa
thương mại.
Thứ hai, việc sửa đổi các quy định trong hệ thống chính sách thuế và trong
từng sắc thuế theo quy định của WTO là một đòi hỏi bắt buộc. Tuy nhiên việc sửa
đổi này phải được tiến hành một cách thận trọng trong một khoảng thời gian xác
định để đảm bảo không gây hụt hẫng nguồn thu ngân sách, đồng thời tạo điều kiện
cho các Doanh nghiệp có đủ thời gian chuẩn bị thích ứng với những thay đổi trong

14


chính sách cũng như trong cạnh tranh. Việc sửa đổi này có thể cần thực hiện trong
một thời kỳ quá độ từ 8 - 10 năm. Mặt khác, việc cải cách chính sách thuế cho
công cuộc hội nhập quốc tế của Việt Nam sẽ đòi hỏi một thời hạn dài hơn, thậm
chí đến 2020, vì chính sách thuế này đòi hỏi đáp ứng các yêu cầu đặt ra cho một
hệ thống chính sách có chức năng điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế thị trường theo
định hướng XHCN.
Thứ ba, việc xây dựng hoàn chỉnh chính sách thuế xuất nhập khẩu phải trên
nguyên tắc khuyến khích xuất khẩu và bảo hộ có trọng điểm, có thời hạn một số
ngành sản xuất trong nước. Thông qua hệ thống các mức thuế được xác định một
cách khoa học, hợp lý và phù hợp với trình độ phát triển sản xuất, hệ thống chính
sách thuế sẽ thực hiện vai trò khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ hữu hiệu và đúng
hướng cho những ngành có lợi thế cạnh tranh, hay những ngành sản xuất mũi
nhọn
trong
kế

hoạch
công
nghiệp
hóa
đất
nước.
Tuy nhiên, các mức độ ưu tiên hay bảo hộ phải xác định một cách cụ thể và phải
có lịch trình giảm dần phù hợp với các cam kết WTO và các hiệp định khu vực và
quốc tế mà chúng ta cam kết, nhằm tạo áp lực buộc các Doanh nghiệp trong nước
vươn lên, nâng cao năng lực cạnh tranh gay gắt khi thực hiện mở cửa thị trường,
tự do hóa thương mại, dịch vụ. Đồng thời cần thiết nghiên cứu và ban hành một số
loại thuế mới nhằm bảo vệ thị trường nội địa và đảm bảo cạnh tranh lành mạnh
như: thuế chống bán phá giá, thuế đối kháng,…
Tóm lại, việc gia nhập WTO và thực hiện những cam kết cắt giảm thuế
quan sẽ mang lại cho Việt Nam nhiều cơ hội và không ít những thách thức. Vì
vậy, để có thể chủ động trong quá trình hội nhập kinh tế Việt Nam cần chủ động
nghiên cứu và hoàn thiện chính sách thuế nói chung và chính sách thuế nhập khẩu
hàng hóa nói riêng. Trên đây là một số yêu cầu và nguyên tắc chung về việc hoàn
thiện chính sách thuế nhập khẩu hàng hóa, vấn đề này sẽ được đề cập chi tiết và rõ
hơn trong chương II.

15


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH THUẾ NHẬP KHẨU HÀNG
HÓA CỦA VIỆT NAM
A. Quá trình hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu hàng hóa của Việt
Nam từ khi ban hành luật thuế xuất nhập khẩu
1. Từ năm 1986 đến năm 1991
Thuế nước ta từ năm 1986 trở về trước, hàng hóa nhập khẩu mậu dịch thực

hiện chế độ thu bù chênh lệch ngoại thương và thu kết hối ngoại tệ từ 5% đến 20%
tùy theo nhóm hàng. Đối với hàng hóa xuất nhập khẩu ơhi mậu dịch thì thực hiện
theo chế độ thuế hàng hóa.
Năm 1986 đánh dấu sự đổi mới trong chính sách kinh tế đối ngoại của ta chuyển
sang đa phương hóa, đan dạng hóa. Trong đó có việc chuyển các hoạt động kinh tế
đối ngoại từ cơ chế tập trung quan lieu bap cấp sang cơ chế hạch toán kinh doanh.
Xóa bỏ tỷ giá kết toán nội bộ, xóa bỏ bao cấp và bù lỗ cho kinh doanh xuất, nhập
khẩu. Mở rộng quyền kinh doanh trực tiếp cho các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế. Năm 1987 luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu lần đầu tiên được chính
thức ban hành. Nhà nước quản lý xuất, nhập khẩu chủ yếu thông qua các chính
sách thuế, giảm thiểu các biện pháp phi thuế quan như hạn ngạch, giấy phép xuất
khẩu, nhập khẩu.
Nội dung của chính sách thuế nhập khẩu:

Đây là lần đầu tiên chính sách thuế nhập khẩu được thể chế hóa bằng văn
bản pháp luật cao nhất đó là luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng mậu
dịch.

Đối tượng chịu thuế bao gồm tất cả các hàng hóa mua bán với nước ngoài
khi xuất nhập khẩu qua biên giới Việt Nam. Tất cả các tổ chức được phép
xuất nhập khẩu đều phải nộp thuế xuất khẩu hoặc thuế nhập khẩu.

Thuế suất được chia làm 2 mức là thuế suất tối thiểu và thuế suất phổ
thông.

Giá tính thuế là giá mua tại cửa khẩu đến kể cả chi phí cận tải, bảo hiểm
theo hợp đồng. Trong trường hợp giá mua theo phương thức khác thì căn
cứ vào giá ghi trên chứng từ hợp lệ.

Biểu thuế được xây dựng căn cứ vào chính sách khuyến khích xuất, nhập

khẩu đối với khu vực và đối với nhóm mặt hàng xuất khẩu hoặc nhập khẩu.
Với mức thuế suất tối thiểu áp dụng đôié với hàng hóa xuất khẩu hoặc nhập
khẩu với các nước có ký kết điều khoản ưu đãi trong quan hệ buôn bán với
Việt Nam, thuế suất phổ thông áp dụng đối với hàng hóa còn lại. Mức thuế
suất thấp nhất là 0% và cao nhất là 50%. Cụ thể như sau:

Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nói trên chỉ áp dụng đối với hàng xuất,
nhập khẩu mậu dịch. Hàng hóa nhập khẩu phi mậu dịch được áp dụng theo
biểu thuế qui định trong biểu thuế hàng hóa với mức thuế suất từ 35% đến
50%. Cơ cấu thuế suất xây dựng quá chi tiết, khó phân biệt, khung thuế suất
quá rộng, chủng loại hàng hóa trong biểu thuế còn sơ sài. Biểu thuế được
áp dụng theo danh mục của Hội đồng tương trợ về kinh tế xã hội chủ nghĩa.

Về thủ tục nộp thuế: chưa xác định rõ ràng thời gian và địa điểm nộp thuế
nhập khẩu. Vì vậy, vấn đề kiểm soát hàng hóa nhập khẩu gặp nhiều khó

16


khăn khi hàng nhập khẩu lưu thông trên thị trường nội địa, khó khăn cho
công tác đấu tranh chống buôn lậu và bảo vệ sản xuất trong nước.
Tóm lại, về chính sách thuế nhập khẩu thời kỳ này ta có thể nhận xét như
sau: Đây là giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế bước
đầu trong việc sử dụng chính sách thuế làm công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế của
nhà nước ta. Trong đó, lần đầu tiên trong lịch sử, nhà nước ta ban hành Luật thuế
xuất khẩu, nhập khẩu hàng mậu dịch thay thế chế độ thu bù chênh lệch ngoại
thương trước đây. Luật này ban hành nhằm phục vụ yêu cầu tăng cường quản lý
các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu góp phần tích cực vào việc mở rộng và nâng
cao hiệu quả hoauj động kinh tế đối ngoại. Bước đầu thuế xuất khẩu, nhập khẩu đã
góp một phần đáng kể vào nguồn thu cho Ngân sách nhà nước. Chỉ trong vòng 4

năm thuế xuất khẩu, nhập khẩu mà chủ yếu là thuế nhập khẩu đã đóng góp cho
nguồn thu ngân sách nhà nước từ chỗ chiếm tỷ troạng 6,1% năm 1988 lên 12,7 %
năm 1991 trong tổng thu ngân sách nhà nước( tăng bình quân 1,65%/ năm)
Bảng III- Tình hình thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu từ năm 1988 đến năm
1991:
Năm
Chỉ tiêu
Tổng thu NSNN
- Thuế xuất
khẩu, thuế NK
- Tỷ lệ trên tổng
thu NSNN

1988

1989

1990

1991

2.126,4

4.971

6.490

8.630

131


382,767

746,35

1096,01

6,1%

7,7%

11,5%

12,7%

2. Thời kỳ từ năm 1992-1995.
Thời kỳ này chính sách kinh tế đối ngoại của nước ta là tiếp tục thực hiện
chính sách đổi mới kinh tế giai đoạn trước đó nhưng mức thay đổi toàn diện hơn,
hoạt động xuất, nhập khẩu được xác định là những mắt xích quan trọng của hoạt
động kinh tế đối ngoại. Hoạt động nhập khẩu có những tác động tích cực đến việc
thúc đẩy xuất khẩu do nó có vai trò là đảm bảo các yếu tố đầu vào của quá trình
xuất nhập khẩu kỹ thuật, vật tư, nguyên liệu, nhiên liệu cho quá trình sản xuất để
xuất khẩu. Đồng thời, thông qua nhập khẩu chúng ta có thể đáp ứng được các yêu
cầu tiêu dùng trong nước đối với những loại hàng hóa mà trong nước còn thiếu
hay sản xuất không được hiệu quả.
Nội dung cơ bản của chính sách thuế nhập khẩu.

Để đáp ứng cho yêu cầu mới này vào ngày 26/12/1991, Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật thuế xuất khẩu,
nhập khẩu với những nội dung đã được thay đổi cơ bản. Luật thuế mới này

không chỉ điều chỉnh hàng mậu dịch mà tất cả các hình thức xuất nhập khẩu
mậu dịch chính ngạch, tiểu ngạch, phi mậu dịch, đi du lịch, thăm thân nhân
ở nước ngoài.

Biểu thuế nhập khẩu đã có những thay đổi cơ bản với việc đưa vào áp dụng
danh mục hàng hóa xuất, nhập khẩu dựa trên danh mục HS để xây dựng
biểu thuế thay cho danh mục hàng hóa của Hội đồng tương trợ kinh tế. Hội

17




đồng nhà nước nay là Ủy ban thường vụ quốc hội ban hành biểu khung thuế
suất đối với nhóm mặt hàng, Hội đồng bộ trưởng nay là Chính phủ ban
hành biểu thuế cụ thể theo từng mặt hàng và có quyền điều chỉnh mức thuế
suất này trong giới hạn khung thuế suất cho phép của Ủy ban thường vụ
Quốc Hội.
Thuế nhập khẩu có tới 36 mức thuế suất áp dụng cho hơn 3000 nhóm mặt
hàng, từ 0% đến 200%, cơ cấu biểu thuế vẫn hết sức phức tạp. Mức thuế
suất nhập khẩu được hiểu như là sự cộng gộp thuế nhập khẩu và thuế tiêu
thụ đặc biệt. Trong biểu thuế có quá nhiều mức thuế suất dưới 5%( 55,8%
tổng danh mục trong biểu thuế nhập khẩu). Thuế suất cao và quá cao đánh
vào một số mặt hàng tiêu dùng trong nước chưa sản xuất được hoặc sản
xuất với giá thành cao dẫn đến tình trạnh buôn lậu trở nên phổ biến và khó
có thể kiểm soát triệt để do khả năng siêu lơi nhuận có được nhờ vào sự
chênh lệch giá giữa hàng buôn lậu và hàng chịu thuế nhập khẩu. Tuy nhiên,
việc đổi mới kinh tế về khả năng điều tiết vĩ mô cũng như đóng góp cho
nguồn thu ngân sách Nhà nước tự thuế nhập khẩu trong thời kỳ này đã góp
phần quan trọng trong việc ổn định kinh tế và tăng trưởng kinh tế. Chúng ta

có thể xem xét thông qua bảng số liệu dưới đây:
Bảng IV- Tình hình thu thuế nhập khẩu từ năm 1992 đến 1995:

Năm
1992
1993
1994
1995

Tỷ lệ % thu thuế nhập
khẩu so với tổng thu NS
Tổng thu NSNN từ thuế Thuế nhập khẩu
từ thuế
18,514
2,914
15,73
28,623
6,398
22,35
36,520
7,868
21,54
53,931
10,988
20,37
Nguồn: Báo cáo thống kê thuế xuất nhập khẩu, Tổng cục Hải Quan.

Qua bảng số liệu ta có thể thấy với mức đóng góp thuế nhập khẩu từ
15,73% vào năm 1992 đã không ngừng tăng lên qua các năm 1993, 1994. Tuy có
giảm về tỷ trọng trên tổng thu ngân sách Nhà nước từ thuế nhưng số thu tuyệt đối

vẫn tăng qua các năm 1995, 1996.
Tóm lại, ta có thể nhận xét về chính sách thuế nhập khẩu thời kỳ này như
sau:
Thống nhất chính sách thuế nhập khẩu đối với hàng mậu dịch và phi mậu
dịch bằng việc ban hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 1991.
Biểu thuế xây dựng trên nguyên tắc nặng về bảo hộ sản xuất trong nước,
tăng thu ngân sách, ổn định giá cả, khuyến khích đầu tư nước ngoài.
Thuế suất rất cao và thường xuyên thay đổi theo sự biến động của thị
trường; thuế nhập khẩu bao gồm vả thuế tiêu thụ đặc biệt một số nhóm mặt hàng
nhập khẩu cho nên thuế suất rất cao, có những mặt hàng thuế suất lên tới 200%
(xe ôtô, rượu).
Tỷ lệ động viên của thuế nhập khẩu so với tổng thu ngân sách từ thuế rất

18


cao (năm 1993 lên đến 22,35%).
Giá tính thuế chủ yếu áp dụng theo bảng giá tối thiểu.
3. Thời kỳ thực hiện cải cách chính sách thuế bước 2 ( từ năm 1996 đến
nay)
Về cơ bản nước ta vẫn tiếp tục thực hiện chính sách tổ chức và quản lý hoạt
động xuất khẩu và nhập khẩu giai đoạn (1992-1995) nhưng nét nổi bật của thời kỳ
này là Việt Nam đã bắt đầu thực hiện các cam kết quốc tế song phương và đa
phương chủ yếu ở cấp độ khu vực và liên khu vực như việc đẩy mạnh quan hệ
kinh tế với trên 140 nước và vùng lãnh thổ; đặc biệt là việc thực hiện chương trình
cắt giảm thuế quan để hội nhập WTO . Cơ chế quản lý đổi mới ngày càng triệt để
hơn nhằm đáp ứng điều kiện hội nhập mới.
B. Thực trạng chính sách thuế của Việt Nam trong điều kiện hội nhập
WTO
1. Về biểu thuế

a) Danh mục hàng hóa ghi trong biểu thuế
Để phù hợp với biểu thuế quan hài hòa ASEAN tháng 9/2003 với quyết
định số 82/2003/QĐ/BTC của Bộ Tài Chính, danh mục biểu thuế với những điều
chỉnh mới đã được ra đời với 10721 dòng thuế tăng lên hơn 4000 dòng thuế so với
biểu thuế trước kia. Đáng chú ý là biểu thuế này đã được xây dựng trên nguyên tắc
phân loại của danh mục hài hòa mô tả và mã hóa hàng hóa của Tổ chức Hải Quan
Thế Giới. Mỗi mặt hàng sau khi phân loại phải có mã số đầy đủ là 8 chữ số và chỉ
được xếp vào một mã số duy nhất theo danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu
Việt Nam. Biểu thuế với những sửa đổi mới ngày càng phù hợp hơn với thông lệ
quốc tế giúp Việt Nam tiến tốt hơn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
b) Về cấu trúc biểu thuế và thuế suất
Cấu trúc biểu thuế bao gồm thuế suất ưu đãi, thuế suất ưu đãi đặc biệt và
thuế suất phổ thông hay còn gọi là thuế suất thông thường.
Thuế suất ưu đãi là thuế suất chỉ áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu có xuất
xứ từ nước hoặc khối nước đã có thỏa thuận về đối xử tối huệ quốc trong quan hệ
thương mại với Việt Nam được quy định cụ thể cho từng mặt hàng trong biểu thuế
nhập khẩu ưu đãi với điều kiện : hàng hóa nhập khẩu phải có giấy chứng nhận
xuất xứ từ nước hoặc khối nước có thỏa thuận với Việt Nam. Nước hoặc khối
nước nằm trong danh sách của Bộ Thương Mại thông báo đã có thỏa thuận về đối
xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt Nam. Bên cạnh đó, giấy chứng
nhận xuất xứ phải phù hợp với quy định của Bộ Thương Mại.
Thuế suất ưu đãi đặc biệt là thuế suất được áp dụng cho hàng hóa nhập
khẩu từ nước và khối nước mà Việt Nam và nước hoặc khối nước đó đã có thỏa
thuận ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu theo thể chế khu vực thương mại tự do,
liên minh thuế quan hoặc để tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu thương mại biên
giới và các trường hợp ưu đãi khác. Thuế suất này sẽ được áp dụng với điều kiện:
thứ nhất, phải có giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa của nước hoặc khối nước có
thỏa thuận với Việt Nam. Thứ hai, phải là những mặt hàng ghi cụ thể trong thỏa

19



thuận và phải đáp ứng đủ các điều kiện ghi trong thỏa thuận.
Thuế suất thông thường là thuế suất được áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu
có xuất xứ từ nước không có thỏa thuận về đối xử tối huệ quốc trong quan hệ
thương mại với Việt Nam. Thuế suất thông thường cao hơn thuế suất ưu đãi là
50% tương ứng với từng mặt hàng.
Thuế suất thông thường = thuế suất ưu đãi + (thuế suất ưu đãi x 50%)
Biểu thuế nhập khẩu ban hành kèm theo luật thuế xuất, nhập khẩu, thuế
nhập khẩu năm 1991, được bổ sung vào các năm 1993, 1998, cho tới nay vẫn
thường xuyên được điều chỉnh. Trong biểu thuế, do có những mặt hàng do mới
xuất hiện trên thị trường hoặc do cách hiểu khác nhau, có thể áp mã tính thuế vào
nhiều mức khác nhau. Tình trạng trên đây đã dẫn đến tình trạng cố tình áp mức
thuế suất thấp để được hưởng mức thuế phải nộp thấp hơn.
Mặt khác, trong biểu thuế có quá nhiều mức thuế suất. Điều này dẫn tới
trong cùng nhóm, cùng phân nhóm có những mặt hàng không khác nhau nhiều về
tính chất lý hóa và công dụng nhưng có mức thuế suất chênh lệch nhau rất lớn nên
khó khăn, tranh chấp trong quá trình thực hiện, thậm chí đã xảy ra tình trạng lợi
dụng để trốn thuế, gây thất thu cho nhà nước. Về phương diện quản lý vĩ mô thì
việc điều chỉnh thuế suất thuế nhập khẩu nhằm đảm bảo tính ổn định và tăng
cường sự thích ứng của nền kinh tế trước những biến động rừ bên ngoài, tuy
nhiên, trên thực tế thì việc điều chỉnh một cách thường xuyên thuế suất trong biểu
thuế nhập khẩu gây khó khăn cho các doanh nghiệp làm giảm đi tính chủ động
trong kinh doanh, gây tâm lý ỷ lại, trông chờ vào nhà nước. Ngoài ra, tình trạng
này có thể gây ra tình trạng sơ hở trong chính sách, dễ bị lợi dụng trong khi thực
hiện làm thất thu thuế nhập khẩu.
2. Về trị giá tính thuế
a) Xác định trị giá tính thuế của mỗi mặt hàng nhập khẩu không thuộc
diện nhà nước quản lý theo bảng giá tối thiểu và có xuất xứ từ những
nước hay tổ chức quốc tế mà Việt Nam cam kết thực hiện trị giá tính

thuế theo GATT
Hệ thống phương pháp xác định trị giá tính thuế đối với hàng nhập khẩu
phù hơp với các yêu cầu của WTO sẽ được chính thức áp dụng ở Việt Nam váo
tháng 1/2004 thông qua Nghị định của chính phủ số 60/2002/NĐ- CP, và thông tư
số 118/2003/TT/BTC. Đây là một cải cách rất tích cực trong chính sách thuế nhập
khẩu của Việt Nam để thực hiện yêu cầu hội nhập WTO. Theo đó các phương
pháp được sử dụng để xác định trị giá tính thuế bao gồm:

Phương pháp trị giá giao dịch của hàng hóa nhập khẩu: là giá cả của hàng
hóa thực tế được thanh toán hoặc sẽ phải thanh toán cho hàng hóa khi hàng
hóa đó được bán theo nghiệp vụ xuất khẩu đến nước nhập khẩu và được
điều chỉnh một số yếu tố liên quan đến nghiệp vụ mua, bán.

Phương pháp trị giá giao dịch của hàng giống hệt.

Phương pháp trị giá giao dịch của hàng tương tự.

Phương pháp trị giá khấu trừ.

Phương pháp trị giá tính toán.

Phương pháp khác.

20


Trị giá tính thuế đối với hàng hóa nhập khẩu được xác định bằng cách áp
dụng tuần tự các phương pháp xác định trị giá tính thuế từ trên xuống và dừng
ngay ở phương pháp xác định trị giá tính thuế.
Phương pháp xác định trị giá tính thuế theo Hiệp định trị giá WTO ngày

càng được hoàn thiện và được xem là phương pháp xác định tối ưu hiện nay. Hệ
thống các phương pháp mang tính ổn định, minh bạch đảm bảo được sự tôn trọng
của các quy luật mang tính khách quan tác động lên thị trường. Theo tổng kết của
Tổ chức Hải quan thế giới có trên 90% số lượng hàng hóa giao dịch nhập khẩu
được xác định trị giá tính thuế trên thế giới bằng phương pháp trị giá giao dịch.
Tuy nhiên, để áp dụng phương pháp xác định trị giá tính thuế trên đòi hỏi
phải có một hành lang luật pháp đầy đủ, hoàn chỉnh và chặt chẽ. Về vấn đề này thì
hệ thống luật pháp của ta cho tới nay vẫn chưa đáp ứng được. Vì vậy, trong thời
gian tới chúng ta cần hoàn thiện về mặt luật pháp để hệ thống phương pháp xác
định trị giá tính thuế theo WTO được áp dụng một cách đồng bộ và triệt để hơn
nữa.
b) Xác định trị giá tính thuế của một số mặt hàng thuộc diện nhà nước
quản lý theo bảng giá tối thiểu
Theo nghị định 60/2002/NĐ-CP, để bảo vệ lợi ích của nhà nước và sản xuất
trong nước đối với một số mặt hàng nhập khẩu nhà nước bảo lưu áp dụng giá tính
thuế tối thiểu theo danh mục do Bộ Tài Chính phối hợp các Bộ ngành liên quan
ban hành. Theo thông tư số 82/1997/TT/BTC về vấn đề này có quy định nếu giá
ghi trên hợp đồng ngoại thương của hàng hóa thuộc diện Nhà nước quản lý giá
tính thuế mà cao hơn mức giá tối thiểu thì lại áp dụng mức giá ghi trên hợp đồng.
Điều này tạo nên sự thiếu bình đẳng về lợi ích giữa doanh nghiệp và nhà nước.
Trên thực tế các doanh nghiệp vẫn tìm mọi cách để trốn thuế thông qua giá tính
thuế hàng nhập khẩu chẳng hạn như sử dụng biện pháp khai giá thấp để giảm số
thuế nhập khẩu phải nộp hay có thể bằng cách khai cao hơn để nâng giá đầu tư tài
sản cố định hoặc vì mục đích chuyển giá.
3. Về việc xác định nguồn gốc xuất xứ hàng hóa để xác định thuế suất ưu
đãi và thuế suất ưu đãi đặc biệt
Việc xác định xuất xứ hàng hóa dựa vào quy định tại thông tư liên bộ số
280/TT/LB ngày 29/11/1995 của Liên Bộ Thương Mại Tổng cục Hải Quan quy
định điều kiện cung cấp. Đây là cơ sở để làm căn cứ xác định mức thuế suất trong
biểu thuế nhập khẩu. Tuy vậy, trong điều kiện phát triển thương mại như hiện nay,

hàng hóa có thể nhập khẩu từ một nước nhưng lại có nguồn gốc xuất xứ từ nhiều
nước khác do hàm lượng giá trị cấu thành hàng hóa. Hàng hóa có thể được lắp ráp,
sản xuất với nhiều bộ phận xuất xứ từ một hay nhiều nước khác nhau. Nhà nhập
khẩu muốn được hưởng quy chế ưu đãi về thuế nhập khẩu nên đã không ngần ngại
làm những thủ tục chứng nhận xuất xứ từ những nước hưởng ưu đãi với Việt Nam
để hưởng lợi từ chênh lệch thuế suất.
4. Về việc thực hiện chính sách miễn giảm thuế nhập khẩu
Theo quy định của Luật thuế sửa đổi, bổ sung một số điều của luật thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu ngày 20/5/1998, đối tượng nộp thuế được xét miễn thuế

21


trong các trường hợp sau:

Hàng nhập khẩu chuyên dùng phục vụ trực tiếp cho an ninh, quốc phòng,
nghiên cứu khoa học và giáo dục đào tạo.

Thiết bị máy móc, phương tiện vận chuyển chuyên dùng nhập khẩu theo
quy định tại điều 47 của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và điều 25 của
luật khuyến khích đầu tư trong nước.

Hàng là quà biếu quà tặng của tổ chức, cá nhân nước ngoài cho tổ chức, cá
nhân Việt Nam và ngược lại. Mức xét miễn thuế nhập khẩu cho mỗi cá
nhân là lô hàng được tặng cho nhiều người thì mỗi cá nhân không được quá
100USD và tổng giá trị lô hàng không được vượt quá 1000USD.

Các đối tượng được miễn thuế trên đã nói lên chính sách ưu tiên của nhà
nước đối với lĩnh vực an ninh quốc phòng, nghiên cứu khoa học, giáo dục
và đào tạo, khuyến khích giao lưu giữa công dân Viêt Nam với thế giới bên

ngoài. Tuy nhiên, trên thực tế khi thực hiện chính sách miễn thuế nhập
khẩu lại thể hiện rất rõ thuế nhập khẩu đánh trên mục đích sử dụng từ đó
tạo nên kẽ hở trong hoạt động nhập khẩu. Cụ thể như sau:
Với đối tượng thứ nhất, miễn thuế nhằm vào thực hiện chính sách đảm bảo
an ninh, quốc phòng, nghiên cứu khoa học và giáo dục và đào tạo là những khoản
đầu tư tài chính mang ý nghĩa “ quốc sách”. Việc xét miễn thuế được xem là
khoảng đầu tư ngân sách cho các hoạt động trên. Nhà nước sẽ phê duyệt đầu tư
thông qua dự toán chi ngân sách hàng năm. Có nhiểu trường hợp, khi xin miễn
thuế với danh nghĩa là đầu tư cho các mục đích nghiên cứu khoa học và giáo dục
nhưng thực chất khi sử dụng lại sai mục đích mà nhà nước khó có thể quản lý
được. Chính sách miễn thuế này đã gây ra những sơ hở mà rất dễ bị lợi dụng làm
thất thoát nguồn thu thuế nhập khẩu của nhà nước.
Về đối tượng thứ hai, nhằm khuyến khích nhập khẩu thiết bị, máy móc,
phương tiện vận chuyển chuyên dùng nhập khẩu theo quy định của luật tại điều 47
của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và điểu 25 của luật khuyến khích đầu tư
trong nước. Đây là một chủ trương tốt nhằm khuyến khích phát triển đầu tư trong
nước nhưng xét đầy đủ nội dung điều 47 luật đầu tư nước ngoài thì nội dung này
rất rộng: doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được miễn thuế nhập khẩu đối
với hàng nhập khẩu để tái tạo tài sản cố định…; vật tư xât dựng trong nước vẫn
chưa sản xuất được…Với nội dung quy định trong luật đầu tư nước ngoài phạm vi
miễn thuế rộng hơn các quy định trong hệ thống chính sách thuế nhập khẩu hiện
hành.
Hàng hóa nhập khẩu phục vụ gia công phía nước ngoài rồi xuất khẩu theo
hợp đồng đã ký, được miễn thuế trong các trường hợp:
 Vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để gia công.
 Vật tư tham gia vào quá trình sản xuất, gia công nếu doanh nghiệp xây
dựng được định mức tiêu hao và tỷ lệ hao hụt.
 Hàng làm mẫu phục vụ gia công.
 Máy móc thiết bị phục vụ gia công được thỏa thuận trong hợp đồng. Hết
hạn thực hiện hợp đồng phải tái xuất; nếu không tái xuất thì phải kê khai

nộp thuế theo quy định.
 Máy móc thiết bị vận tải do các nhà thầu nước ngoài mang vào Việt Nam
theo phương thức tạm nhập tái xuất để phục vụ cho công trình, dự án sử

22


dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức(ODA) được miễn thuế nhập
khẩu và thuế xuất khẩu khi tái xuất.
Về đối tượng thứ ba, chỉ xét cho mỗi cá nhân, không khống chế số lần nhận
quà tối đa trong năm. Nhiều đối tượng lợi dụng sơ hở này để trốn thuế nhập khẩu
bằng cách phân nhỏ lô hàng với nhiều tên người nhận khác nhau, với nhiều lần gửi
khác nhau.
5. Về chính sách đánh thuế bổ sung được WTO công nhận
Khoản 2 điều 9 về luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu (sau khi đã sửa đổi bổ
sung năm 1998 ) quy định: “ hàng hóa nhập khẩu trong các trường hợp sau, ngoài
việc chịu thuế theo khoản 1 của điều này(thuế suất đối với hàng hóa nhập khẩu
bao gồm: thuế suất thông thường, thuế suất ưu đãi và thuế suất ưu đãi đặc biệt)
còn phải chịu thuế bổ sung trong các trường hợp:

Hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam với giá bán của hàng hóa đó quá thấp so
với giá thông thường do được bán phá giá gây khó khăn cho sự phát triển
ngành sản xuất hàng hóa tương tự của Việt Nam.

Hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam với giá bán của hàng hóa đó quá thấp so
với giá thông thường do có sự trợ cấp của nước xuất khẩu, gây khó khăn
cho sự phát triển ngành sản xuất hàng hóa tương tự của Việt Nam.

Hàng hóa được nhập khẩu vào Việt Nam có xuất xứ tự nước mà nước đó có
sự phân biệt đối xử khác đơi với hàng hóa Việt Nam.

Dù đã có những quy định khá cụ thể trong luật nhưng trên thực tế sau 4
năm thực hiện luật sửa đổi, bổ sung luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu điều
khoản này vẫn chưa được triển khai. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc thiếu
thực thi luật nhưng chủ yếu là do thiếu hệ thống thông tin về giá cả và thị trường
đồng thời chưa có đầy đủ các văn bản pháp lý đồng bộ.
6. Việc thực hiện những nguyên tắc và cam kết về thuế nhập khẩu khi hội
nhập vào WTO
Theo điều 4 của luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu “ hàng xuất khẩu, nhập
khẩu theo điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác
về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thì thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được thực
hiện theo điều ước quốc tế”. Cụ thể hóa điều khoản này tại điều 5- Nghị định
54/CP của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành luật thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu và luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu:
“ hàng xuất khẩu, nhập khẩu theo điều ước quốc tế mà Chính phủ Việt Nam ký kết
hoặc tham gia có những quy định về miễn, giảm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
thì thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được thực hiện theo quy định này. Bộ Tài
Chính quyết định miễn hoặc giảm thuế đối với từng trường hợp cụ thể phù hợp với
quy định của điều ước quốc tế đó”. Điều khoản này thể hiện rõ quan điểm nhất
quán của nhà nước Việt Nam về việc thực hiện các cam kết quốc tế mà đặc biệt là
các cam kết về thuế nhập khẩu đã thỏa thuận khi gia nhập WTO.
C. Kết quả của việc thực hiện chính sách thuế nhập khẩu của Việt Nam
trong thời gian gần đây

23


1. Kết quả thu thuế của Việt Nam trong thời gian qua
Luật thuế xuất nhập khẩu từ khi ra đời đến nay đã góp phần quan trọng và
đóng góp rất lớn trong việc đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách nhà nước. Luật
thuế nhập khẩu luôn được sửa đổi bổ sung kịp thời nhằm tạo điều kiện thuận lợi

nhất cho những đơn vị, doanh nghiệp và những thành phần, những đối tượng trực
tiếp tham gia vào những hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa. Đóng góp ngân sách
thuế xuất, nhập khẩu mà trong đó chủ yếu là thuế nhập khẩu liên tục tăng qua các
năm và luôn giữ tỷ trọng khá cao vì vậy có thể nói vai trò vô cùng quan trọng mà
thuế nhập khẩu hiện đang đảm đương hiện nay đó là: huy động nguồn thu cho
ngân sách nhà nước.
Là một nước đang phát triển, nguồn thu cho ngân sách nhà nước của Việt
Nam chủ yếu dựa vào thuế, trong đó tổng các khoản thu về thuế đối với hàng hóa
xuất nhập khẩu chiếm một tỷ lệ lớn, khoảng từ 25-28% tổng thu Ngân sách nhà
nước. Tuy nhiên khi gia nhập WTO Việt Nam phải đưa khoảng 6300 mặt hàng
vào cắt giảm với mức thuế từ 0-5%, do đó nguồn thu ngân sách sẽ bị ảnh hưởng
lớn do số thu thuế từ các mặt hàng nhập khẩu giảm. Vì thế, Nhà nước sẽ phải đẩy
mạnh nguồn thu nội địa để có thể đáp ứng cho yêu cầu chi ngân sách.
2. Kết quả bước đầu thực hiện chương trình cắt giảm thuế quan CEPT
của Việt Nam
Tháng 12/2000, Chính phủ đã thông qua lộ trình tổng thể thực hiện CEPT
của Việt Nam giai đoạn 2001-2006 để giảm thuế cho toàn bộ 97% số mặt hàng
trong biểu thuế nhập khẩu hiện hành. Căn cứ vào lịch trình tổng thể này, hàng năm
Chính phủ ban hành danh mục CEPT thực hiện trong năm đó. Mức thuế bình quân
của riêng các mặt hàng thuộc chương trình CEPT của Việt Nam sẽ được cắt giảm
xuống tới mức bình quân 3,1% (so với mức bình quân từ 16,2%- xem đồ thị dưới.


Thuế suất bình quân các mặt hàng theo lộ trình tổng thể thực hiện CEPT của Việt Nam.

D. Đánh giá thực trạng chính sách thuế nhập khẩu hàng hóa của Việt
Nam
1. Những kết quả

24



Nguồn thu từ thuế nhập khẩu trước đây chiếm gần 1/3 trong tổng thu ngân
sách nhà nước, thực hiện chương trình cắt giảm thuế quan theo những hiệp định
cam kết với WTO sẽ làm giảm đáng kể nguồn thu ngân sách nhà nước, tuy nhiên
cũng có nhiều tác động tích cực và kết quả thu được sau những năm thực hiện
chương trình cắt giảm thuế quan theo WTO. Cụ thể như sau:
Cắt giảm thuế quan và sửa đổi chính sách thuế phù hợp với thông lệ quốc tế
và những nguyên tắc của Tổ chức thương mại thế giới là điều kiện quan trọng, chủ
yếu để Việt nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO, từ đó tạo điều kiện để
nền kinh tế nước ta phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong tương lai.
Việc mở cửa thị trường nội địa và cắt giảm thuế và rào cản phi thuế đối với
các sản phẩm đã tạo điều kiện cho nhiều hàng hóa đến tay người tiêu dùng và
doanh nghiệp trong nước với mức giá hợp lý.
2. Những bất cập trong chính sách thuế nhập khẩu hàng hóa của Việt
Nam khi gia nhập WTO và nguyên nhân
a) Những bất cập

Biểu thuế nhập khẩu còn phức tạp và thiếu sự ổn định, làm cho chi phí quản
lý và thu thuế lớn, ảnh hưởng tới hiệu quả thu thuế tạo điều kiện cho việc
trốn thuế và bóp méo hệ thống thu thuế. Việc thường xuyên thay đổi trong
chính sách thuế, quy định không rõ ràng về phạm vi của các sắc thuế và
trong một sắc thuế có quá nhiều mức thuế suất, nhiều chế độ ưu đãi miễn
giảm khác nhau đã cản trở quá trình hội nhập quốc tế trên nhiều phương
diện trong đó có việc khuyến khích xuất khẩu.

Cơ chế xác định giá tính thuế chưa hoàn toàn phù hợp với WTO. Tháng
1/2004 Việt Nam đã áp dụng hệ thống các phương pháp xác định trị giá
tính thuế theo WTO. Đây là một bước cải cách rất tích cực tuy nhiên bên
cạnh đó do yêu cầu cụ thể để bảo vệ lợi ích của nhà nước và sản xuất trong

nước chúng ta vẫn sử dụng bảng giá tối thiểu đối với một số mặt hàng nhập
khẩu (điều này trái với nguyên tắc thực hiện Hiệp định trị giá GATT). Mặt
khác, trong khi hệ thống xác định trị giá tính thuế theo WTO chính thức
được áp dụng ở Việt Nam thay thế cho các phương pháp xác định cũ theo
thông tư số 118/2003/TT/BTC của Bộ Tài Chính nhưng cho tới nay luật
thuế xuất nhập khẩu vẫn có những sửa đổi chưa thật sự phù hợp.

Chính sách thuế nhập khẩu chưa sử dụng các biện pháp tính thuế mà WTO
chấp nhận đó là thuế tương đối, hạn ngạch thuế quan. Từ khi thiết lập hàng
rào thuế quan thuế nhập khẩu thì thuế nhập khẩu tính theo tỷ lệ là loại thuế
quan duy nhất mà nước ta áp dụng. Với phương pháp này đối tượng nộp
thuế phải nộp một tỷ lệ hoàn toàn như nhau trên giá trị nhập khẩu mà
không phân biệt khối lượng nhập khẩu nhiều hay ít. Đây là phương pháp
đơn giản, dễ tính toán, tuy nhiên khi áp dụng phương pháp này có nhiều
hạn chế, đặc biệt là trong điều kiện và cấp độ thương mại khác nhau, thu
nhập từ hoạt động nhập khẩu khác nhau; cùng với sức ép của việc cắt giảm
hàng rào thuế quan nhập khẩu ngày càng lớn trong bối cảnh hội nhập WTO.
Chính vì vậy mà phương pháp tính thuế theo tỷ lệ như hiện nay đã nảy sinh
ra nhiều bất lợi trong điều kiện có thể áp dụng các loại thuế nhập khẩu khác
như thuế nhập khẩu theo lũy tiến, thuế nhập khẩu tuyệt đối và thuế nhập

25


×