Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Tài liệu dạy nghề kỹ thuật trồng, chăm sóc và thu hoạch bông KS trần đức hảo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (722.16 KB, 64 trang )

BỘ CÔNG THƯƠNG
TẬP ĐOÀN DỆT - MAY VIỆT NAM
---*---

VIỆN NGHIÊN CỨU BÔNG & PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP NHA HỐ

TÀI LIỆU DẠY NGHỀ

KỸ THUẬT TRỒNG, CHĂM SÓC
VÀ THU HOẠCH BÔNG

Người biên soạn: KS Trần Đức Hảo

Ninh Thuận - 2011


CHƯƠNG 1. NGHỀ TRỒNG BÔNG TRÊN THẾ GIỚI
VÀ VIỆT NAM
1.1. Nghề trồng bông trên thế giới
Bông (Gossypium sp.) là loại cây trồng cho năng suất kinh tế lớn. Sản phẩm
của cây bông vừa là nguyên liệu chủ yếu của ngành Dệt – May, vừa là nguyên liệu
quan trọng của nhiều ngành công nghiệp khác như công nghiệp nhẹ, công nghiệp hóa
chất … Do vậy, cây bông được trồng ở hơn 80 quốc gia, với diện tích hàng năm
khoảng 33-34 triệu ha và sản lượng đạt khoảng 20-25 triệu tấn bông xơ, có giá trị
trên 20 tỷ USD. Cây bông chủ yếu được trồng tập trung ở các nước châu Á và châu
Mỹ, trong đó châu Á chiếm 61% diện tích và đạt 63% sản lượng, châu Mỹ chiếm
24% diện tích và đạt 25% sản lượng bông thế giới.
Các nước có diện tích bông đứng hàng đầu thế giới là Ấn Độ, Mỹ, Trung
Quốc, Uzbekistan, Pakistan, Brazil, Argentina, Thổ Nhĩ Kỳ, … Năng suất bông hạt
trung bình trên toàn thế giới là 16,19 tạ/ha. Các nước có năng suất bông cao là Israel
(40 – 50 tạ/ha), Úc (29 – 38 tạ/ha), Tây Ban Nha (30 – 36 tạ/ha), Syria (29 – 35 ta


̣/ha), Hy Lạp (22 – 29 tạ/ha), Trung Quốc (24 – 27 tạ/ha), Uzbekistan (22 – 27 tạ/ha),
Ai Cập (21 – 25 tạ/ha) và Mỹ (18 – 20 tạ/ha).
Trong 10 năm trở lại đây bình quân năng suất và giá bông xơ có tăng nhưng
với tốc độ chậm so với xu hướng tăng ngày càng nhanh của chí phí sản xuất do tăng
giá vật tư đầu vào, chi phí lao động và một số chi phí thiết bị bổ sung và phụ trợ khác.
Hiện tại, chi phí sản xuất trung bình khoảng 500 - 2500USD/ha tùy thuộc vào điều
kiện sản xuất và mức năng suất đạt được (ICAC, 2008). Từ đó, thu nhập của người
trồng giảm và khả năng cạnh tranh của cây bông so với các cây trồng khác thấp.
Bảng 1. Tình hình sản xuất bông của Thế giới
Năm

Diện tích (ha)

1961
1962
1963
1964
1965

31.857.883
32.177.124
33.001.179
33.681.776
33.699.120

Năng suất bông hạt
(tạ/ha)
8,58
9,09
9,79

9,99
10,58
2

Sản lượng bông
hạt (tấn)
27.343.803
29.253.188
32.306.425
33.656.757
35.663.641

Sản lượng bông xơ
(tấn)
9.461.084
10.214.767
11.234.035
11.730.610
12.433.163


Năm

Diện tích (ha)

1966
1967
1968
1969
1970

1971
1972
1973
1974
1975
1976
1977
1978
1979
1980
1981
1982
1983
1984
1985
1986
1987
1988
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000

2001
2002
2003
2004
2005
2006

31.529.967
32.719.697
33.114.197
34.002.507
34.149.528
34.874.043
35.529.533
34.969.988
34.904.334
32.492.229
31.844.570
35.369.512
35.434.971
34.301.351
34.327.779
34.527.462
33.175.254
31.699.945
34.551.169
33.425.210
30.857.976
30.236.102
33.936.770

32.320.262
33.139.217
35.000.869
33.920.953
30.444.812
32.084.313
35.555.813
34.606.395
34.102.460
33.553.490
32.579.317
31.926.649
34.587.018
30.702.710
31.790.187
35.168.021
35.085.742
32.918.000

Năng suất bông hạt
(tạ/ha)
10,66
10,06
10,77
10,10
10,38
10,61
10,92
11,60
11,82

11,08
11,00
11,53
10,93
12,21
12,01
13,16
13,29
13,56
15,87
15,16
14,36
16,09
15,64
15,47
16,39
17,22
15,35
15,61
16,43
15,94
16,08
16,01
15,54
16,27
16,62
17,30
17,23
17,40
19,84

19,19

3

Sản lượng bông
hạt (tấn)
33.624.329
32.915.847
35.678.502
34.324.005
35.443.518
37.013.388
38.803.536
40.549.462
41.245.475
36.007.550
35.038.715
40.779.863
38.729.247
41.867.618
41.214.185
45.430.872
44.104.451
42.981.162
54.823.538
50.655.212
44.309.614
48.646.557
53.081.294
49.982.157

54.308.340
60.283.497
52.053.558
47.536.036
52.717.205
56.669.014
55.648.196
54.608.495
52.126.163
53.000.520
53.058.192
59.827.446
52.887.009
55.298.055
69.768.305
67.335.376

Sản lượng bông xơ
(tấn)
11.629.122
11.315.295
12.287.730
11.843.495
12.045.372
12.790.555
13.413.730
13.989.857
13.985.104
12.387.593
11.966.689

13.957.111
13.237.829
13.918.964
13.920.955
15.316.640
14.845.532
14.240.690
18.133.682
17.362.956
15.172.916
16.581.279
18.274.352
17.021.608
18.638.103
20.764.489
17.985.155
16.485.674
18.362.689
19.664.626
19.391.284
19.091.025
18.213.727
18.190.395
18.626.772
20.776.703
18.378.623
19.379.689
24.374.857
23.528.543
22.208.000



Năm

Diện tích (ha)

2007
2008

34.400.000
33.500.000

Năng suất bông hạt
(tạ/ha)

Sản lượng bông
hạt (tấn)

Sản lượng bông xơ
(tấn)
26.740.000
25.700.000

2.2. Nghề trồng bông ở Việt Nam
Cây bông được loài người sử dụng rất sớm. Ở Việt Nam, nghề trồng bông dệt
vải đã có từ thời xa xưa, trên 2.000 năm với chủng bông Cỏ (Gossypium arboreum
L.). Chủng bông Luồi (Gossypium hirsutum L.) và bông Hải đảo (Gossypium
barbadense L.) chỉ mới được du nhập vào nước ta hơn một thế kỷ nay.
Đối với Việt Nam, phát triển bông hiện tại cũng nằm trong xu thế chung của
thế giới. Năng suất bông bình quân cả nước thấp (440 – 460kg xơ/ha) và tăng chậm.

Hơn nữa, chi phí sản xuất cao, ước tính 11 – 12 triệu đồng/ha (570 – 600 USD/ha).
Trung bình chi phí khoảng 1,1USD/1kg xơ, thuộc nhóm nước có chi phí sản xuất cao
nhất (ICAC, 2008) và đang có xu hướng tăng theo giá cả vật tư, nhân công... hiện tại
và sắp tới. Chính vì thế, các đơn vị sản xuất khó có thể dùng biện pháp tăng giá mua
để kích thích người trồng, đồng thời, hiệu quả sản xuất bông thấp, rủi ro cao, cây
bông mất ưu thế cạnh tranh so với cây trồng khác. Hơn nữa, một trong những hạn
chế năng suất bông Việt Nam và làm tăng chi phí đầu vào là sâu hại (sâu đục quả,
chích hút) và bệnh hại (như đốm lá, phấn trắng...) phổ biến ở các vùng.

4


Bảng 2. Tình hình sản xuất bông của Việt Nam
Niên vụ
1975
1976
1977
1978
1979
1980
1981
1982
1983
1984
1985
1986
1987
1988
1989
1990

1991

-1976
-1977
-1978
-1979
-1980
-1981
-1982
-1983
-1984
-1985
-1986
-1987
-1988
-1989
-1990
-1991
-1992

DT
(ha)
6.753
11.660
10.258
6.661
6.525
7.008
11.329
13.443

14.065
13.777
12.904
13.171
13.216
10.356
11.863
23.831
15.434

NS bông
hạt (tạ/ha)
3,34
2,48
2,94
3,36
3,24
3,93
3,07
3,05
3,22
2,53
2,83
2,96
2,95
3,63
3,72
3,03
4,92


SL bông
hạt (tấn)
2.256
2.892
3.016
2.238
2.114
2.754
3.478
4.100
4.529
3.486
3.652
3.899
3.899
3.759
4.413
7.221
7.594

Niên vụ
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000

2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007

-1993
-1994
-1995
-1996
-1997
-1998
-1999
-2000
-2001
-2002
-2003
-2004
-2005
-2006
-2007
-2008

DT
NS bông SL bông
(ha)
hạt (tạ/ha) hạt (tấn)
4.487

4,75
2.131
6.559
4,76
3.122
10.700
7,91
8.464
11.755
7,22
8.487
10.676
6,43
6.865
11.716
9,38
10.990
19.963
8,14
16.250
17.705
9,93
17.581
23.250
8,75
20.344
26.766 10,91
29.202
32.265 10,11
32.620

23.633 12,12
28.643
20.260
9,55
19.348
23.098
9,20
21.250
15.389 10,90
16.774
7.446
9,83
7.324

Bảng 3. Tình hình sản xuất bông của Việt Nam trong những năm qua
5


Vụ nước trời

Vụ có tưới

Tổng niên vụ

Niên vụ

D.tích
(ha)

N.suất

(tạ/ha)

S.lượng
(tấn)

D.tích
(ha)

N.suất
(tạ/ha)

S.lượng
(tấn)

D.tích
(ha)

N.suất
(tạ/ha)

S.lượng
(tấn)

01/02

24.112

11,01

26.552


2.654

9,94

2.638

26.766

10,91

29.190

02/03

28.931

9,81

28.367

3.334

12,78

4.260

32.265

10,11


32.627

03/04

19.316

11,48

22.169

4.317

15,01

6.481

23.633

12,12

28.650

04/05

18.647

8,75

16.308


1.613

18,91

3.050

20.260

9,55

19.358

05/06

21.223

8,12

17.233

1.673

20,32

3.400

22.896

9,00


20.623

06/07

14.145

10,39

14.700

1.300

20,00

2.600

15.445

11,20

17.300

07/08

6.830

9,00

6.122


616

19,51

1.202

7.446

9,83

7.324

CHƯƠNG 2. TÌNH HÌNH CHỌN TẠO VÀ SỬ DỤNG
GIỐNG BÔNG TẠI VIỆT NAM
2.1. VAI TRÒ CỦA CHỌN TẠO GIỐNG BÔNG
Về chọn tạo giống: Cùng với các phương pháp truyền thống (nhập nội, chọn
lọc quần thể, chọn lọc cá thể đối với giống thuần; lai đơn, lai ba… và phân tích di
truyền số lượng đối với giống lai), ứng dụng công nghệ sinh học đã được đẩy mạnh
với các công nghệ chuyển gen, chọn giống nhờ chỉ thị phân tử….; hiện tại, diện tích
bông biến đổi gen chiếm đến hơn 40% tổng diện tích bông thế giới (chủ yếu bông
kháng sâu đục quả, chịu thuốc trừ cỏ và bông kết hợp hai tính trạng trên.
Công tác chọn tạo giống bông có các vai trò sau:
2.1. 1. Tăng giá trị đầu ra


Tăng năng suất xơ: chủ yếu dựa trên cơ sở tổ hợp hợp lý các yếu tố cấu thành
năng suất nhằm tăng số hạt cây và trên một đơn vị diện tích – tức tăng số
quả/cây hoặc/và tăng số hạt/quả.
6





Cải tiến chất lượng xơ: tiêu chuẩn các chỉ tiêu chính gồm chiều dài > 30mm,
độ bền > 32gr/tex, độ mịn < 4,5M; trong đó, chú trọng sử dụng trực tiếp gen
chất lượng xơ tốt của loài bông hải đảo hoặc chuyển các gen này vào loài bông
luồi.



Tăng giá trị sử dụng của hạt bông như là một sản phẩm phụ: chủ yếu tạo
giống có hàm lượng gossypol thấp trong hạt để sử dụng sản phẩm chế biến từ
hạt như dầu, protein.



Tính thích ứng sinh thái phù hợp: đi kèm với tính thích ứng rộng trồng được
nhiều vùng, vụ, cần chú trọng loại hình giống thích ứng hẹp để trồng ở những
điều kiện cụ thể (chín sớm, chịu bất lợi ngoại cảnh như nóng, hạn cục bộ, mặn,
ứng…) nhằm tận dụng quỹ đất, thời vụ gieo trồng, khai thác triệt để tiềm năng
của giống để đạt năng suất và chất lượng cao nhất.

2.2.2. Giảm chi phí sản xuất đầu vào


Chín sớm: với tổng thời gian một vụ < 135 ngày, giống chín sớm giúp tiết
kiệm chi phí đầu vào (phân bón, nước tưới, phòng trừ sâu bệnh, công lao
động), tạo cơ chế trốn tránh rủi ro do áp lực sâu bệnh hại tích lũy cao và bất lợi
ngoại cảnh (hạn, mưa muộn...) vào cuối vụ, giúp rút ngắn thời gian một vụ

bông từ 155 – 170 ngày hiện nay xuống dưới 135 ngày, nhờ đó, dễ bố trí thời
vụ bông sau cây trồng khác vụ 1 (ngô, đậu) trên các vùng trồng bông vụ mưa,
thời vụ chiếm phần lớn diện tích trồng bông hiện tại cả nước (>85%). Mặt
khác, thời vụ ngắn là giải pháp kỹ thuật tiền đề để phát triển các vùng bông tập
trung, trang trại trong cả 2 vụ có hiệu quả nhất.



Khả năng chống chịu sâu bệnh cao: tăng cường ứng dụng công nghệ sinh học
kết hợp với phương pháp truyền thống, tập trung chủ yếu các loại sâu bệnh hại
chính, sâu đục quả (sâu xanh đục quả, sâu xanh da láng, sâu hồng…), sâu
chích hút (rầy, rệp, bọ trĩ, nhện đỏ…), bệnh đốm cháy lá, phấn trắng…; ưu tiên
phát triển tính chống chịu nhiều mặt để tạo tính kháng bền vững và giảm thiểu
chi phí phòng trừ.

2.2. TÓM TẮT TÌNH HÌNH CHỌN TẠO VÀ SỬ DỤNG GIỐNG BÔNG TẠI
VIỆT NAM
2.2.1. Giai đoạn trước năm 1980

7


 Chọn tạo và phóng thích các giống bông thường (TH1, TH2, MCU9, TM1,
M456-10, D16-2).
2.2.2. Giai đoạn 1980 - 1995
 Tiếp tục chọn tạo và sử dụng các giống bông thường (điển hình là giống
C118).
 Bắt đầu nghiên cứu tạo giống lai trong nước.
 Nhập nội và thử nghiệm một số giống lai Ấn Độ, Israel (H4, Bioseed-7…).
2.2.3. Giai đoạn 1995 - 2000

 Đẩy mạnh chọn tạo giống bông lai F1 (theo định hướng nâng cao khả năng
kháng rầy, tỷ lệ xơ và chất lượng xơ).
- Phóng thích và trồng phổ biến thế hệ giống lai thứ nhất (chủ lực là 03 giống
L18, VN20, VN35: không kháng sâu, kháng rầy trung bình → cao, tỷ lệ xơ
trung bình khá, chất lượng xơ cấp I hoặc cao hơn;
- Bước đầu NC tạo giống lai cải tiến tỷ lệ xơ nhưng không thành công do các
giống như NH14, NH38 kháng rầy yếu và chất lượng xơ không đạt yêu cầu).
2.2.4. Giai đoạn từ 2000 đến nay
 Định hướng tạo giống: Tiếp tục chọn tạo và phổ biến giống bông lai và bước
đầu thử nghiệm thế hệ giống bông thường mới:
- Đẩy mạnh hướng chọn tạo giống lai kết hợp kháng sâu và kháng rầy đồng
thời nâng cao dần tỷ lệ xơ, chất lượng xơ và đưa tính chịu thuốc cỏ vào.
- Tạo giống bông thường kháng rầy, kháng sâu và chịu thuốc trừ cỏ
Roundup.
 Thành tựu:
- Chọn tạo và phóng thích thành công các giống lai kháng sâu thế hệ thứ hai
(điển hình là 02 giống quốc gia VN15, VN01-2: kháng sâu cao, kháng rầy
trung bình (VN15), cao (VN01-2), tỷ lệ xơ trung bình khá và chất lượng xơ
tốt; sai quả nhưng quả nhỏ).
- Chọn tạo, công nhận tạm thời và cho phổ biến các giống lai kháng sâu thế
hệ thứ ba (VN04-3, VN04-4 và VN04-5 (kháng sâu cao, kháng rầy trung
bình-khá, quả to, tỷ lệ xơ cao và chất lượng xơ rất tốt).
8


- Chọn tạo và công nhận tạm thời một số giống lai bông thuần TM1KS và
VN36PKS.
- Chọn tạo và đưa khảo nghiệm sản xuất một giống lai có mẹ là dòng bất dục đực
gen; một số dòng/giống bông thường kháng rầy và kháng sâu.
2.3. ĐẶC ĐIỂM CỦA MỘT SỐ GIỐNG BÔNG TRỒNG PHỔ BIẾN Ở TÂY

NGUYÊN

* Giống bông lai VN04-3
- Nguồn gốc: VN04-3 (TL.0034/D.20-20) là giống bông lai F1 cùng loài bông
luồi (Gossypium hirsutum L./ Gossypium hirsutum L.), mẹ là dòng TL00-34 chọn lọc
trong nước và bố là dòng D20-20 nhập nội từ Trung Quốc; được chọn lọc từ kết quả so
sánh năm 2001-2003, khảo nghiệm và sản xuất thử từ 2004-2009; được công nhận
giống quốc gia năm 2010.
- Đặc tính sinh trưởng, thực vật học: Chín tập trung, thời gian sinh trưởng trung
bình sớm (từ gieo đến nở quả 100-105 ngày. Cây sinh trưởng khỏe, dạng hình cân đối,
lá to trung bình, xanh đậm, ít lông, có từ 2-3 cành đực. Hoa to trung bình, cánh hoa
màu trắng và phấn màu trắng.
- Đặc tính năng suất, phẩm chất xơ: Giống sai quả, quả to (5,5-6.0g).. Tiềm năng
năng suất cao, có thể đạt 35-45tạ/ha trong điều kiện thuận lợi. Tỷ lệ xơ cao (40-43%);
giống có chất lượng xơ tốt với chiều dài xơ trung bình 32 - 33mm, độ bền 32 - 33g/tex,
độ mịn 4,0 – 4,5M, độ đều >85% và độ chín tốt (>0.9%).
- Khả năng chống chịu sâu bệnh: kháng rầy xanh trung bình yếu (cấp 3 – 4 theo
thang 5 cấp), kháng sâu xanh cao, nhiễm nặng bệnh đốm cháy lá và nhiễm bệnh mốc
trắng trung bình.
- Đặc tính nông học: Giống trồng thích hợp trong điều kiện trồng nhờ nuớc trời
hoặc có tuới bổ sung, dễ trồng và có thể sử dụng ở hầu hết các vùng; lưu ý khả năng
kháng rầy yếu khi trồng trong vụ khô và ở các vùng/vụ có áp lực rầy xanh cao.
* Giống bông lai VN04-4
- Nguồn gốc: VN04-4 (TL.0035/D.20-9) là giống bông lai F1 cùng loài bông luồi
(Gossypium hirsutum L./ Gossypium hirsutum L.), mẹ là dòng TL00-35 chọn lọc trong
nước và bố là dòng D20-9 nhập nội từ Trung Quốc; được chọn lọc từ kết quả so sánh
9


năm 2001-2003, khảo nghiệm và sản xuất thử từ 2004-2009; được công nhận giống

quốc gia năm 2010.
- Đặc tính sinh trưởng, thực vật học: Chín rất tập trung, thời gian sinh trưởng
trung bình sớm (từ gieo đến nở quả 100-105 ngày). Cây sinh trưởng khỏe, dạng hình
cân đối, đốt thân cành nhặt, lá to trung bình, xanh đậm, ít lông, có từ 1-2 cành đực. Hoa
to trung bình, cánh hoa màu trắng và phấn màu trắng.
- Đặc tính năng suất, phẩm chất xơ: Giống sai quả, quả to (6,0-6,5g).. Tiềm năng
năng suất cao, có thể đạt 35-45tạ/ha trong điều kiện thuận lợi. Tỷ lệ xơ cao (40-43%);
giống có chất lượng xơ tốt với chiều dài xơ trung bình 32 - 33mm, độ bền 32 - 33g/tex,
độ mịn 4,0 – 4,5M, độ đều >85% và độ chín tốt (>0.9).
- Khả năng chống chịu sâu bệnh: kháng rầy xanh trung bình yếu (cấp 3 – 4 theo
thang 5 cấp), kháng sâu xanh cao, nhiễm nặng bệnh đốm cháy lá và nhiễm bệnh mốc
trắng trung bình.
- Đặc tính nông học: Giống trồng thích hợp trong điều kiện trồng nhờ nuớc trời
hoặc có tuới bổ sung, dễ trồng và có thể sử dụng ở hầu hết các vùng; lưu ý khả năng
kháng rầy yếu khi trồng trong vụ khô và ở các vùng/vụ có áp lực rầy xanh cao.
* Giống bông lai VN01-2
- Nguồn gốc: VN01-2 (CS.95/VN36P) là giống lai F1 cùng loài bông luồi (G.
hirsutum x G. hirsutum) giữa giống mẹ CS.95 (nhập nội từ Mỹ)và giống bố VN36P
(nhập nội từ Israel); được chọn lọc từ kết quả so sánh năm 1998, khảo nghiệm và sản
xuất thử từ 2000-2004; được công nhận giống quốc gia năm 2004.
- Đặc tính sinh trưởng, thực vật học: Thời gian sinh trưởng trung bình (từ gieo
đến nở quả 110-115 ngày. Cây sinh trưởng rất khỏe, dạng hình cân đối và thoáng, lá to
trung bình, xanh nhạt, nhiều lông, có từ 2-3 cành đực, cành quả nhiều và v ươn dài. Hoa
to trung bình, cánh hoa màu trắng và phấn màu trắng.
- Đặc tính năng suất, phẩm chất xơ: Giống rất sai quả, quả to trung bình (4,55.0g). Giống biểu hiện ưu thế lai cao cả về sinh trưởng và năng suất so với bố mẹ và đối
chứng trong các thí nghiệm so sánh và khảo nghiêm. Tiềm năng năng suất cao, có thể đạt
30-40tạ/ha trong điều kiện thuận lợi. Tỷ lệ xơ khá (36-38%); phẩm chất xơ tốt với chiều
dài >30mm; độ mịn khá (4-4,5g); độ bền >30g/tex; độ đều >85% và độ chín tốt (>0.9%).
- Đặc tính nông học: Giống trồng thích hợp trong điều kiện trồng nhờ nuớc trời
hoặc có tuới bổ sung, dễ trồng và có thể sử dụng ở hầu hết các vùng; khả năng kháng

10


rầy xanh và sâu xanh khá, nhiễm bệnh mốc trắng. Giống rất sai hoa, quả, thời gian nở
quả, thu hoạch kéo dài. Mặt khác, khả năng tái sinh và tự đền bù cao, nếu trong thời gian
đầu gặp điều kiện không thuận lợi (sinh trưởng kém, sâu bệnh phá hại …), cần tiếp tục
chăm sóc thời kỳ sau để tận dụng bông tái sinh.
*. Giống bông thuần VN36PKS
- Nguồn gốc: là giống bông thuần thuộc loài bông luồi (Gossypium hirsutum L.),
được chọn lọc từ quần thể hồi giao (D97-5/TM1)BC 4 ở thế hệ thứ 5; trong đó, giống mẹ
nhận D97-5 được nhập nội từ Mỹ, nhiễm rầy xanh chích hút, kháng sâu xanh đục quả
cao, tỷ lệ xơ cao, chất lượng xơ tốt và giống bố hồi qui TM1 nguồn gốc trong nước,
nhiễm sâu đục quả, kháng rầy xanh khá, cứng cây, quả to, năng suất cao. Giống được
công nhận tạm thời và cho phép sản xuất thử ở các vùng bông trong nước theo Quyết
định số 210/QĐ-TT_CCN ngày 30/6/2010.
- Đặc tính sinh trưởng, thực vật học: thuộc nhóm chín trung bình muộn (thời gian nở
quả 115 – 120 ngày); có khả năng sinh trưởng khỏe, tái sinh mạnh, thân lá rất nhiều lông, lá
to trung bình, màu xanh bạc, quả dài nhọn, cuống quả dài, cánh hoa và hạt phấn trắng.
- Đặc tính năng suất, phẩm chất xơ: Sai quả, quả to trung bình (khối lượng quả
5,0 – 5,5g), tỷ lệ xơ khá (37 – 38%); chất lượng xơ đạt yêu cầu nguyên liệu công nghiệp
Dệt May (chiều dài > 28mm; độ bền >28g/tex và độ mịn 4,6 -5,0M); cho năng suất
bông hạt cao. Tại các vùng khảo nghiệm, năng suất trung bình VN36PKS đạt 26,4 tạ/ha
(năm 2007); 30,7tạ/ha (năm 2008) và 27,3tạ/ha, tương đương với đối chứng đang trồng
phổ biến là các giống bông lai VN15 và VN01-2. Trong điều kiện trồng mật độ cao, sử
dụng các giống thường này mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn do giảm chi phí đầu vào
và tăng năng suất quần thể.
- Khả năng chống chịu sâu bệnh: kháng rầy xanh chích hút cao (cấp 0 – 1 theo
thang 5 cấp), kháng sâu xanh đục quả cao, nhiễm bệnh mốc trắng.
* Giống bông thường TM1
- Nguồn gốc: Thuộc loài bông luồi (G. hirsutum), chọn lọc từ quần thể lai tự

nhiên giữa giống TH1 (chọn từ Camd 1-2 của Mỹ) và giống luồi địa phương Baghe
(Bình Thuận); được chọn lọc và thuần hóa từ năm 1982-1985 tại Viện NCCB&CCS,
khảo nghiệm từ 1986 và công nhận giống quốc gia năm 1992
- Vùng/vụ sản xuất: Thích hợp ở các vùng Nam Trung bộ (Ninh Thuận, Phú Yên,
Khánh Hòa trong vụ Mưa và vụ Đông Xuân.

11


- Đặc điểm sinh trưởng, thực vật học: Thời gian sinh trưởng trung bình (từ gieo
đến nở quả 105-110 ngày). Cây khỏe, dạng hình tháp cân đối, thoáng, số cành quả vừa,
có 1-2 cành đực, lá to trung bình, có nhiều lông cả 2 mặt do vậy trên ruộng nhìn có màu
trắng bạc hơn so với các giống khác. Cành quả gấp khúc, mắt cuống lá thô, có nhiều
cành nách, quả nách.
- Đặc điểm năng suất, phẩm chất xơ: Giống có quả to (khối lượng 5,0-5,5g); tiềm
năng năng suất cao, trong điều kiện thuận lợi có thể đạt 20-25tạ/ha; tỷ lệ xơ trung bình
khá (35-37%); xơ dài 25-27mm, độ mịn tốt (4,2Mi), độ bền 18-20g/tex, độ đều 47-48%
và độ chín tốt (>90%).
- Đặc tính nông học: Giống có bộ rễ phát triển mạnh, chịu hạn tốt, có thể cho
năng suất cao hơn các giống khác tại các vùng khô hạn; khả năng tái sinh, tự đền bù cao
và kháng rầy.

CHƯƠNG 3. KỸ THUẬT CANH TÁC BÔNG
BÀI 1. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC VÀ SINH THÁI
CỦA CÂY BÔNG
1. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA CÂY BÔNG
1.1. Rễ bông
Rễ bông là bộ phận sinh trưởng sớm nhất của cây và thuộc loại rễ cọc, rễ chính có
thể ăn sâu xuống đất 2 - 3 m và rễ ngang có thể ăn xa gốc tới 0,6 - 1 m, mạng lưới rễ tập
trung chủ yếu ở tầng đất 5 - 30 cm tùy theo từng loại đất. Bộ rễ bông phát triển mạnh

hay yếu tùy theo giống và điều kiện đất đai và kỹ thuật canh tác. Khi đủ ẩm, hạt bông
nảy mầm và rễ bắt đầu phát triển. Sự hình thành bộ rễ bông có thể được phân thành 4
giai đoạn như sau:
12


- Thời kỳ rễ phát triển: Từ khi hạt nảy mầm đến khi cây bông bắt đầu có nụ.
Trong thời kỳ này trung bình rễ có thể dài được 2 cm/ngày đêm, trong khi các bộ phận
trên mặt đất chỉ tăng được 0,4 - 0,5 cm/ngày đêm.
- Thời kỳ rễ sinh trưởng mạnh: Kể từ khi ra nụ, mỗi ngày đêm rễ cái có thể dài
thêm 2,5 cm và rễ phụ có thể ăn rộng ra xung quanh gốc bông tới 50 cm.
- Thời kỳ rễ đạt sức hút lớn: Trong thời gian cây bông ra hoa và kết quả, về cơ bản
bộ rễ đã hoàn thiện, sức hút của rễ đạt tối đa, đây cũng là thời kỳ cây bông cần nhiều
dinh dưỡng nhất.
- Thời kỳ suy thoái của bộ rễ: Khi quả bắt đầu nở, rễ bông bắt đầu suy tàn và năng
lực hấp thụ của rễ giảm rõ rệt.
Để đạt được năng suất cao cần có những biện pháp kỹ thuật tác động để tăng khả
năng hút dinh dưỡng của bộ rễ. Các yếu tố ngoại cảnh như dinh dưỡng trong đất, thành
phần lý hóa tính đất, ... cần phải thuận lợi cho sự phát triển của bộ rễ.
1.2. Thân và cành bông
Thân chính của cây bông cao từ 0,7 - 1,5 m tùy theo giống và điều kiện môi trường.
Trên thân bông có 20-30 đốt, các lóng ở phần gốc và ngọn cây thường ngắn hơn ở giữa.
Thân cây thường có lông, riêng loài bông hải đảo có thân nhẵn. Thân thường có màu
xanh hoặc đỏ tía, màu sắc thân đậm hay nhạt tùy theo tuổi cây và giống. Người ta thấy
rằng trong một giống bông, chiều cao của thân có xu hướng tương quan thuận với tiềm
năng năng suất. Cây bông có hai loại cành là cành đực (monopodial) và cành quả
(sympodial). Cành đực thường mọc từ đoạn thân sát đất, cành đực không trực tiếp ra
hoa, quả mà từ cành đực mới mọc ra các cành thứ cấp mang quả (chúng giống như thân
chính). Cành quả là cành được mọc từ thân chính hay mọc từ cành đực.
Nhìn chung có ba dạng cây bông khác nhau đó là cây có dạng cành đực

(monopodian), cành quả (sympodian) và cành cấp 0 (không có cành quả). Tùy theo các
dạng cành khác nhau mà chúng tạo nên cây có dạng hình tháp, bụi hoặc trụ.
Dạng cây cành đực: Là dạng cây đặc trưng cho các loài bông hoang dại hay một
số giống bông một năm ở vùng nhiệt đới. Những cây có dạng cành này là loại bông có
cành quả đầu tiên mọc ở nách lá thứ 13 - 30.
Dạng cây cành quả: Những loài bông được thuần hóa và trồng trọt hiện nay chủ
yếu thuộc dạng cành quả và cành quả đầu tiên nằm ở nách lá thứ 3 - thứ 10 và các cành
13


đực hoàn toàn nằm ở nách lá dưới của những nách lá của cành quả đầu tiên. Cành đực ở
đây chỉ ra hoa và kết quả ở cành thứ cấp. Số lượng cành đực trên cây thường do đặc tính
của giống quy định, tuy nhiên cây có thể tự điều khiển số lượng cành đực, nếu mật độ
gieo trồng dày thì số lượng cành đực ít. Cành quả được hình thành từ nách lá phụ và ra
hoa, quả trực tiếp trên cành, cành quả mảnh dẻ và có dạng dích dắc. Số lượng cành
quả/cây thường do giống quy định, thông thường có 20 - 25 cành quả/cây và cành dài 20
- 60 cm.
Bông có dạng cành cấp 0 được tạo ra bởi đột biến tự nhiên, dạng này cây không
có cành quả, quả được đính trực tiếp vào các nách lá trên thân cây.
1.3. Lá bông
Bông là loại cây 2 lá mầm. Cứ mỗi đốt trên thân chính và trên cành đều có một lá
và chúng mọc theo kiểu so le. Trên lá có rất nhiều hạch độc (gossypon), đặc tính này
của cây bông nhằm chống lại sâu, bệnh. Mặt dưới lá có tuyến mật (nectary) để hấp dẫn
côn trùng trong việc thụ phấn của cây, tuy nhiên, vẫn có những giống bông không có
hạch độc và tuyến mật do đột biến tự nhiên tạo nên. Một đặc tính quan trọng nữa của lá
bông là ở 2 mặt của lá thường có lông. Độ lông trên lá có liên quan đến tính chống chịu
sâu chích hút như rầy xanh, bọ trĩ, nhện đỏ.
Thông thường lá bông có màu xanh, trong những trường hợp đột biến thì lá có
màu đỏ. Hình dạng lá bông và diện tích lá ở các giống và loài khác nhau rất khác nhau
và đa dạng. Thông thường, các loài bông trồng trọt có dạng lá xẻ thành 3 thùy nông, các

loài hoang dại có dạng lá xẻ thùy sâu.
1.4. Nụ, hoa và quả bông
Nụ bông được ra trên cành quả. Nụ bông xuất hiện cùng với cành quả thứ nhất.
Nụ hình tháp cân được bao bọc bằng 3 lá bắc. Thời gian từ khi hạt nảy mầm đến khi nụ
thứ nhất xuất hiện kéo dài 20 - 30 ngày tùy theo giống và điều kiện môi trường. Thông
thường mỗi nụ được mọc ra từ một nách lá ở trên cành quả. Những giống bông có kiểu
nụ mọc chùm hoặc mọc ở thân chính là những trường hợp được tạo ra do đột biến hoặc
do kết quả của sự kết hợp giữa những giống bông dạng cành quả bình thường với những
giống bông có dạng cành cấp không.
Hoa bông là loại hoa lưỡng tính, bao gồm các phần chính là nhụy, nhị, bầu và 5
cánh hoa. Hoa bông có nhiều đặc điểm đặc trưng cho giống và loài. Cánh hoa và hạt
14


phấn hoa của 2 loài bông cỏ và hải đảo có màu vàng đậm, còn ở loài bông luồi có màu
trắng sữa hoặc vàng nhạt. Trong tràng hoa của loài bông hải đảo và 2 loài bông cỏ có
vết sắc tố antoxian (antocyanin - màu đỏ tía), còn ở loài bông luồi không có sắc tố này.
Ở gốc hoa có tuyến mật. Những đặc điểm trên của hoa bông nhằm để hấp dẫn côn trùng
giúp cho sự thụ phấn của hoa được dễ dàng. Thời gian khi hạt nảy mầm đến khi hoa thứ
nhất nở kéo dài 45-70 ngày tùy theo giống và điều kiện môi trường.
Hoa bông thường bắt đầu nở vào thời gian từ 7 - 9 giờ sáng tùy theo nhiệt độ và
ẩm độ môi trường, nếu nhiệt độ cao thì hoa nở sớm. Bình thường hạt phấn có sức sống
tốt trong 24 giờ kể từ sau khi hoa nở. Sau khi hoa nở được 24 - 48 giờ thì quá trình thụ
tinh được hoàn thiện. Bông được coi là cây tự thụ phấn, song tỷ lệ giao phấn chéo khá
cao 1-12%, thậm chí có thể lên tới 20%.
Quả bông thuộc loại quả nang, được hợp thành bởi 3 - 5 lá noãn, mỗi lá noãn
chiếm một phòng của quả. Vỏ quả có chứa hạch độc và diệp lục, song khả năng quang
hợp của vỏ quả hầu như không có. Khối lượng của quả bông thường đạt 3-6 g, thông
thường các giống thuộc loài bông luồi có khối lượng quả lớn nhất, tiếp đến loài bông hải
đảo và sau cùng là bông cỏ. Loài bông cỏ châu Á, châu Phi và hải đảo có dạng quả dài

và đầu quả nhọn hơn so với loài bông luồi. Quả bông có từ 3-5 múi, các múi bông có
hạt bông và xơ dính quanh hạt. Quả bông có hình cầu, khi chín các múi bung ra.
1.5. Hạt bông
Hạt bông có màu nâu đen và hình bầu dục, nhọn một đầu, bao gồm lông áo, vỏ và
nội nhũ. Lông áo là phần ngoài cùng bám vào vỏ hạt và có màu trắng nhạt hoặc nâu
vàng. Mức độ lông áo đặc trưng cho các loài bông trồng trọt hiện nay. Các giống thuộc
loài bông cỏ và bông luồi thường có lớp lông áo dày, loài bông hải đảo thường có lông
áo rất mỏng, thậm chí không có lông áo (hạt nhẵn). Khối lượng hạt bông là một chỉ tiêu
quan trọng để đánh giá chất lượng của hạt và cấu thành nên tỷ lệ xơ của giống. Thông
thường khối lượng 100 hạt của các giống thuộc loài bông hải đảo là 8 - 10 g, của 2 loài
bông cỏ là 7 - 8 g và của loài bông luồi là 8 - 13g. Trên cùng một cây thì quả ở gần thân
chính và gần gốc có khối lượng hạt lớn hơn khối lượng hạt ở những quả tại các vị trí
khác trên cây.
1.6. Xơ bông
Xơ bông là sản phẩm chính của cây bông. Cùng với năng suất, sự phát triển của sản
xuất bông phụ thuộc rất lớn vào phẩm chất xơ bông. Phẩm chất xơ bông rất khác nhau ở
15


mỗi giống cũng như ở các loài, thông thường các giống thuộc loài bông hải đảo có phẩm
chất xơ tốt nhất, tiếp đến loài bông luồi và cuối cùng là 2 loài bông cỏ châu Á và châu Phi.
Tuy nhiên, xơ của mỗi loài bông có vai trò khác nhau trong việc sản xuất các sản phẩm
khác nhau không thể thay thế cho nhau được. Xơ bông được hình thành chủ yếu từ xenlulô
(90%), ngoài ra còn một tỷ lệ rất thấp các chất khác chiếm 10%.
Bản chất của xơ bông là một tế bào có dạng hình ống dẹp, rỗng giữa chứa đầy chất
nguyên sinh, được sinh trưởng từ tế bảo biểu bì ngoài của vỏ hạt, có độ dài bằng 1000 5000 lần so với bề rộng của nó. Xơ bông chín có dạng xoắn hình ống, từ ngoài vào
trong có 3 lớp: Lớp biểu bì bằng cutin, lớp sơ cấp và lớp thứ cấp, trong cùng là một
khoang rỗng.
Một cấu trúc điển hình của xơ bông là hệ thống rỗng bao gồm nhiều lỗ nhỏ tạo
thành dạng xốp như tổ ong. Đặc tính cấu tạo tự nhiên này của xenlulô tạo nên tính hút,

bám và trơ đối với độ ẩm, không khí, ... của xơ bông. Cấu tạo ở hệ thống tổ ong này khác
nhau ở các giống, loài là một trong những nguyên nhân tạo nên tính chất cơ lý của xơ
khác nhau giữa các giống, loài.
Một cấu trúc quan trọng khác nữa của xơ là sự đồng đều kết dính với nhau giữa các
mắt xích phân tử trong các vi sợi, tạo nên tính bền của xơ tạo nên khả năng co giãn và tính
dẻo của sợi được kéo từ xơ bông tự nhiên. Sự sắp xếp có định hướng của các phân tử quyết
định đến độ xoăn các vi sợi trong lớp thứ cấp của xơ và ảnh hưởng đến độ bền và sức căng
của xơ bông.
2. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH THÁI CỦA CÂY BÔNG
Bông là cây trồng cạn ưa nóng có nguồn gốc từ những vùng khác nhau trên thế giới
tùy theo loài, song chúng đều xuất xứ ở các vùng có khí hậu nhiệt đới hoặc á nhiệt đới.
Mặc dù có nguồn gốc xứ nóng, song hiện nay bông được trồng trải dài từ 47 - 48 vĩ độ
Bắc (Bắc Biển Đen) đến 30 vĩ độ Nam, gần Narrabri- Úc và Áchentina. Hơn 50% diện
tích bông được trồng từ 30 vĩ độ Bắc trở lên. Điều này đã nói lên tính thích nghi rộng
của cây bông. Tuy nhiên, hiện nay những vùng có năng suất bông cao đều là những
vùng có khí hậu lục địa và bông được trồng trong điều kiện có tưới, thâm canh cao và
trên các loại đất trung tính (pHKCl = 6,5 - 7,5) có kết cấu viên bền vững, thoát nước tốt.
2.1. Yêu cầu về nhiệt độ của cây bông
Để cho cây bông sinh trưởng và phát triển bình thường, kể cả giai đoạn nảy mầm,
nhiệt độ không khí tối thích là 25 - 30 0C. Yêu cầu tổng tích ôn của cây bông biến động từ
16


15600C - 20000C tùy theo giống. Nếu nhiệt độ thấp hơn 25 0C thì cây bông sinh trưởng
chậm lại và gần như ngừng sinh trưởng khi nhiệt độ giảm xuồng 17 0C. Nhiệt độ tối thiểu
để cho hạt nảy mầm là 120C và để hình thành lá sò là 160C. Nếu nhiệt độ cao (37-400C)
thì cây bông ngừng sinh trưởng. Nhiệt độ cao ảnh hưởng mạnh nhất ở giai đoạn cây bông
ra hoa rộ, trong những ngày mùa hè cây bông chủ yếu phát triển vào ban đêm khi nhiệt độ
đã giảm xuống. Tuy nhiên, vẫn có những loài bông hoang dại có thể phát triển được trong
điều kiện nhiệt độ 400C, những loài bông này nhiệt độ tối cao cho chúng là 450C.

Nếu nhiệt độ vượt khỏi nhiệt độ tối ưu ở giai đoạn cây bông ra nụ - giai đoạn đầu
của chu kì sinh trưởng phát triển thì cây bông sinh trưởng nhanh hơn so với ở điều kiện
nhiệt độ tối thích, tuy nhiên cây bông có thể xuất hiện một số biến thể về hình thái như
vị trí ra cành quả thứ nhất thấp hơn hoặc số lượng cành đực/cây tăng hơn. Nhiệt độ cao
hơn nhiệt độ tối đa của cây cũng làm giảm khả năng thụ phấn, trong trường hợp này quả
bông thường rụng nhiều và có nhiều hạt lép. Nếu nhiệt độ cao hơn 40 0C thì hạt phấn mất
khả năng thụ phấn hoàn toàn.
Nhiệt độ môi trường cao hay thấp ảnh hưởng rất lớn đến quá trình quang hợp, hô
hấp, khả năng hút dinh dưỡng và vận chuyển các chất trong cây dẫn đến thực tế là thúc
đẩy hoặc làm chậm lại sự sinh trưởng và phát triển của cây bông. Nhiệt độ cao hay thấp
cũng ảnh hưởng đến sự hình thành xơ bông. Trong giới hạn nhiệt độ không khí tối thích
cho sự sinh trưởng của cây bông, nếu nhiệt độ tăng thì sự sinh trưởng về chiều dài xơ
kém, song sự sinh trưởng về bề rộng của xơ được tăng lên.
2.2. Yêu cầu về ánh sáng của cây bông
Bản chất của cây bông là ưa ánh sáng, không chịu được rợp, trong một ngày lá
bông luôn thay đổi vị trí để làm cho phiến là vuông góc với hướng của ánh sáng mặt trời
để lá nhận được nhiều ánh sáng. Ánh sáng được coi là yếu tố sống còn đối với sự sinh
trưởng và phát triển của cây bông.
Trong điều kiện thiếu ánh sáng, cường độ quang hợp của cây giảm, cây bông sinh
trưởng và phát triển chậm và vóng, thời gian phát dục qua các giai đoạn kéo dài, nụ, hoa
và quả rụng nhiều.
Thời gian chiếu sáng trong ngày cũng ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển
của cây bông. Cây bông sinh trưởng và phát triển tốt trong điều kiện đêm dài và ngày
ngắn. Trong điều kiện ngày dài, cây bông phát triển chậm và bước vào giai đoạn sinh

17


trưỏng sinh thực chậm so với điều kiện ngày ngắn. Ngược lại, thời gian chiếu sáng trong
ngày dài, cây bông phát triển nhanh và bước vào giai đoạn sinh trưởng sinh thực sớm.

2.3. Yêu cầu về nước của cây bông
Nghiên cứu về nhu cầu nước của cây bông, nhiều tác giả đã ví bông là cây “chân
ướt đầu khô”, điều đó cho thấy cây bông cần nhiều nước cùng với ẩm độ không khí thấp
cho sinh trưởng và phát triển của mình, tuy nhiên, bông là cây chịu hạn tốt. Để sinh
trưởng và phát triển bình thường và cho năng suất cao thì cây bông đòi hỏi phải có chế
độ nước thích hợp.
Trong chu kỳ sinh trưởng, cây bông cần 500 - 800m3 nước/ha. Nhu cầu nước của
cây bông khác nhau ở những giai đoạn sinh trưởng và phát triển của cây. Khi diện tích
quang hợp của lá còn ít (giai đoạn trước khi cây có nụ), bình quân 1 ha đất trồng bông
cần 10 - 12 m3. Nhu cầu nước của cây bông tăng nhanh và cao ở giai đoạn cây có hoa và
hình thành quả (giai đoạn nụ 1 ha cần 30 - 35 m 3, giai đoạn hoa nhu cầu này là 90 - 100
m3 và nhu cầu nước giảm đi ở giai đoạn nở quả là 30 - 40 m 3/ha). Những vùng có lượng
mưa thấp hơn 500 mm/6 tháng chỉ có thể trồng được bông nếu có tưới.
Tuy cây bông cần nhiều nước nhưng lại không chịu úng. Khi bị úng, đất thiếu oxy, sự
hô hấp của rễ bị trở ngại, quá trình trao đổi ion bị đình trệ, rễ ngừng sinh trưởng và chết.
Cây bông yêu cầu độ ẩm không khí thấp. Nếu độ ẩm không khí cao, nấm bệnh dễ
xâm nhiễm, phát triển làm cho cây bông dễ bị rụng nụ, rụng đài, quả bông dễ thối, chín
muộn và khó nở quả.
2.4. Yêu cầu về đất đai và dinh dưỡng của cây bông (trình bày chuyên đề riêng)

BÀI 2. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH LÝ CÂY BÔNG
DÙNG LÀM CƠ SỞ CHO KỸ THUẬT CANH TÁC BÔNG
1. Sinh lý hạt bông
* Hạt bông: Hạt màu nâu đen hình bầu dục nhọn một đầu. Cấu tạo hạt bông gồm:
- Lông áo
- Vỏ
- Nhân

Nội nhũ
Phôi


Lông áo là lớp xơ ngắn bao quanh vỏ hạt. Cũng từ vỏ hạt các tế bào biểu bì
ngoài phân hóa ra tế bào xơ bông chiếm 31-40%/trọng lượng bông hạt.
18


Thành phần hóa học của hạt bông:
Protein

21,7%

N

3,0%

CaO

0,2%

Gluxit

45,6%

P2O5 1,1%

MgO

0,54%

Lipit


21,4%

K2O

Tro

3,96%

1,25%

Hạt bông khi gia công thu được:
Lông áo

5%

Nhân 40%

Vỏ hạt

32%

Dầu bông 18% trọng lượng

Trọng lượng 100 hạt: Bông cỏ

5-7 gam

Bông luồi 8-13 “
Hải đảo


8-10 “

* Giai đoạn ngủ nghỉ và nảy mầm
Hạt bông mới thu hoạch xong có năng lực và sức nảy mầm thấp, vì trong những
hạt bông đó có một số chất làm cản trở sự nảy mầm của hạt, mặt khác sự chín của hạt
giống bông chưa đạt mức độ cao (chưa hoàn toàn chín) Thí dụ: Acide absisic và
Paracunaric tồn tại trong vỏ hạt. Các thí nghiệm cho thấy, nếu loại bỏ vỏ hạt thì sự nảy
mầm hạt bông đến sớm hơn thường lệ, hoặc nếu tác động liên tục lên hạt bông trong
những ngày ở nhiệt độ 50oC thì cũng làm cho sự nảy mầm đến sớm, vì quá trình này
làm cho các chất cản trở bị loại trừ. Trong khi bảo quản trong điều kiện thích hợp thì
cũng làm cho hàm lượng các acide này giảm xuống đáng kể.
Trong hạt bông độ ẩm thường là 7% nước. Qua kết quả nghiên cứu của nhiều
nước cho thấy, với lượng nước trong hạt bông như trên, trong điều kiện 20-32 oC thì
sự nảy mầm có thể bảo quản được đến tháng thứ 28.
Nếu ẩm độ hạt 14% và nhiệt độ 21oC thì sau 17 tháng sẽ hoàn toàn mất khả
năng nảy mầm, nhiệt độ 32oC thì sau 4 tháng khả năng nảy mầm mất hoàn toàn.
Nguyên nhân là do độ ẩm cao kết hợp với sự tăng nhiệt độ dẫn đến sự giảm đột ngột
hàm lượng đường, các chất chứa phospho, các Nuclotit, protein và các vitamin, và sự
tăng lên của các acid béo tự do. Ví dụ: ở trong hạt bông có độ ảm 15% thì hàm lượng
acide béo tự do tăng lên 24 lần so với hạt có độ ẩm 7%.
Trong thời gian bảo quản 1-2 năm, trong hạt bông hàm lượng một số Amino
acide tăng lên (Cerin, Sistin) và acide Asparagin và Glutamic cũng tăng lên 2 lần.
19


Nhiều loại protein có hoạt tính men hoàn toàn mất đi, những điều tra nêu trên cho
thấy đó là những nguyên nhân làm cho sự nảy mầm của hạt giống giảm đi trong quá
trình bảo quản.
Chúng ta thấy rằng sự hút nước của bất kỳ loại hạt giống nào cũng phụ thuộc vào

2 yếu tố chính: Hàm lượng nước trong hạt và độ ẩm không khí nơi cất giữ hạt giống.
Vấn đề bảo quản đòi hỏi phải thiết lập được sự cân bằng độ ẩm có thể được. Với
độ ẩm không khí cao, mà hạt giống có độ ẩm thấp, đương nhiên phải có sự hút nước,
và sự cân bằng đó bị phá vỡ, trong hạt xuất hiện nước tự do và các quá trình trao đổi
tăng nhanh. Lượng nước trong hạt tăng lên đến 12-13%, sự hô hấp bắt đầu tăng lên,
quá trình trao đổi tăng nhanh chóng, dẫn đến mất sức nảy mầm của hạt giống. Nếu
bảo quản ở điều kiện có ẩm độ không khí 70% thì sau tháng thứ 20 khả năng nảy
mầm bị mất, Ngược lại, trong điều kiện tối ưu với độ ẩm 20% khả năng nảy mầm có
thể bảo quản đến tháng thứ 70. Rõ ràng rằng độ ẩm trong quá trình bảo quản ảnh
hưởng lớn đến sự nảy mầm của hạt giống bông.
Nếu đối với hạt sử dụng vào quá trình công nghiệp khác (ép dầu,…), để tránh mất
các chất dinh dưỡng tiêu tốn vào quá trình hô hấp, thì hạt bông cần phải đem sấy khô.
Đối với hạt giống thì không được sấy, mà phải được phơi vài nắng nhẹ.
Các yếu tố ngoại cảnh chính cần thiết cho sự nảy mầm
* Nước: Nước tham gia vào nhiều phản ứng hóa học xảy ra trong hạt giống và
là môi trường để tồn tại các hoạt động sống của cây, nó là yếu tố ngoại cảnh cần thiết
để “Đánh thức” hạt giống sau một chu kỳ sinh trưởng (Seed to seed).
Sự hút nước chủ yếu qua mocropile (đầu nhỏ) và Khalaza (đầu to) của hạt,
ngoài ra nước cũng được thấm qua vỏ hạt. Sự hút nước của hạt phụ thuộc vào thành
phần của hạt (các chất hòa tan trong nước như đường, acid hữu cơ, acid amin, tinh
bột, protẻin, xenlulo, lipit, karotin…).
* Nhiệt độ: Nhiệt độ là yếu tố tạo điều kiện cho sự xâm nhập của nước vào hạt.
Ví dụ: ở nhiệt độ 15oC độ ẩm của hạt có thể đạt 50% sau 48-60 giờ, và nếu ở nhiệt
độ 30oC thì độ ẩm trên có thể đạt sau 24-36 giờ.
Đối với cây bông nhiệt độ trung bình tối thiểu để hạt bắt đầu nảy mầm là 12-14 oC, tuy
nhiên có những giống nhiệt độ này thấp hơn; nhiệt thích hợp cho nảy mầm là 25-30oC.
20


* Oxy: Ngoài nước và nhiệt độ hạt giống còn cần oxy cho quá trình nảy mầm. Sự

thiếu oxy thường xảy ra trong các trường hợp hạt bông gieo bị mưa to hoặc mưa kéo
dài tạo nên váng bề mặt hoặc giống được gieo sâu trong điều kiện khu ruộng ẩm ướt.
Thiếu oxy, trong hạt hình thành rượu Etylic (acid lactic) và các sản phẩm thải
khác gây độc hại cho sự nảy mầm của hạt bông.
Các biện pháp tăng khả năng nảy mầm
Tuy với kích thước và trọng lượng bé, nhưng hạt bông chứa đầy đủ những
thành phần cần có của hạt giống để chờ điều kiện thuận lợi phát triển thành cá thể
hoàn toàn độc lập về mọi mặt. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi hạt đều được nảy
mầm, mà nguyên nhân không nảy mầm đó rất đa dạng và phức tạp đã được các nhà
nghiên cứu tổng hợp như sau:
- Có một số hạt cứng như đá, các giống Tashkent, cản trở sự xâm nhập của
nước vào hạt, làm cho hạt chậm hoặc kém nảy mầm. Để khắc phục nguyên
nhân trên người ta sử dụng phương pháp xử lý nước nóng 100 oC trong vài
giây (làm cho vỏ hạt nứt ra) hoặc xử lý bằng rượu Etylic và Axeton trong
2-3 phút (các chất cản trở xâm nhập của nước vào hạt sẽ hòa tan trong
rượu và axeton).
- Kích thước và trọng lượng riêng của hạt giống không đồng đều, do vậy sự
nảy mầm của chúng cũng không đồng đều.
Để tăng khả năng nảy mầm hạt giống phải được chọn lọc phân loại theo trọng
lượng riêng. Hạt giống có trọng lượng lớn có nghĩa là có chứa nhiều protein, lipit và
nhiều chất khác cần thiết cho sự nảy mầm. Tất nhiên chúng sẽ nảy mầm tốt hơn các
hạt giống có trọng lượng bé hơn. Nếu loại có trọng lượng hạt lớn nảy mầm 95% thì
loại hạt có trọng lượng trung bình đạt 92% và loại hạt nhẹ chỉ đạt 73%. Có thể dùng
dung dịch Nitrat amôn (NH4NO3) với trọng lượng riêng: 1; 1,04; 1,07; 1,12; 1,14 và
1,16 để tách hạt giống. Hạt nào nhẹ hơn nổi lên trên sẽ không dùng làm hạt giống
(phương pháp này hơi khó làm).
* Bằng biện pháp canh tác cũng có thể tăng khả năng nảy mầm của hạt giống:
- Canh tác lô bông giống trên nền đầy đủ dinh dưỡng, tạo đều kiện cho hạt
bông chứa đầy đủ các chất hữu cơ và chất khoáng. Đây là yếu tố cần thiết cho hạt
nảy mầm. Theo tài liệu nhiều nước cho thấy rằng canh tác bông trong điều kiện thiếu

phospho thì trong các bộ phận tạo quả chứa ít phospho (0,3%), nếu thu làm hạt giống
21


thì tỷ lệ nảy mầm thấp (không đáng kể). Ngược lại, nếu trong bộ phận tạo quả có
chứa 0,8% phospho thì hạt giống nảy mầm bình thường.
- Độ sâu lúc gieo hạt cũng là một yếu tố quyết định sự nảy mầm của hạt giống.
Gieo nong trên bề mặt hạt thiếu ẩm, ngược lại gieo quá sâu hạt thiếu oxy và thừa ẩm.
Trường hợp gieo quá sâu, sự trao đổi khí giữa hạt đang nảy mầm và không khí bị
phá vỡ, trong đất hàm lượng acid cabonic tăng lên và oxy giảm, phá vỡ các quá trình
chuyển hóa các chất dinh dưỡng, tạo thành nhiều chất độc làm cho hạt chết. Do đó, độ
sâu khi gieo hạt phải thích hợp (phần này trình bày ở phần kỹ thuật canh tác bông).
2. Các giai đoạn phát triển của cây bông
* Giai đoạn nảy mầm (từ khi nảy mầm đến xòe lá mầm): 4-7 ngày.
Hạt tốt rồi chưa đủ, muốn mọc nhanh, mọc đều phải có nhiều điều kiện khác
mà cơ bản nhất là nhiệt, ẩm và oxy.
- Nhiệt: Tốt nhất 25-30oC, dưới 10oC và trên 40oC hạt hầu như không mọc,
55-60oC mà ẩm thì hạt chết.
- Độ ẩm: 90% độ ẩm (giữ nước) của đất.
- Oxy: Cần nhiều, đất nặng gieo xong gặp mưa, đất đóng váng là hạt không
mọc.
Ở miền Nam, nhiệt độ nói chung thích hợp, vấn đề chính là cần giải quyết tốt
mâu thuẫn giữa độ ẩm và độ thoáng (ẩm quá mất thoáng, thoáng quá mất ẩm).
Ở hạt bông lại có vấn đề trút vỏ ngoài và ngoi lên mặt đất, cho nên khi gieo
hạt phải bảo đảm độ ẩm thích hợp, làm đất nhỏ vừa phải, độ sâu thích hợp và độ nén
đất vừa phải.
* Giai đoạn cây con (từ khi xòe hai lá mầm đến khi có nụ): 24-36 ngày.
Giai đoạn này là giai đoạn rễ được phát triển ưu tiên và cuối giai đoạn cành và
lá mới bắt đầu phát triển.
a) Cũng như các sinh vật cao cấp, đây là giai đoạn thơ ấu, cây bông rất mẫn

cảm với điều kiện ngoại cảnh và nếu phát triển không tốt ảnh hưởng rất lớn đến sinh
trưởng về sau. Điều kiện để phát triển tốt là: Nước, oxy, dinh dưỡng đủ.
Điều kiện tối thích lúc này là: nhiệt độ đất > 20 oC, nhiệt độ không khí 25-30o
C. Đất đủ ẩm, thoáng, không được bão hoà nước. Từ nẩy mầm-ra lá thật đầu tiên,
22


nếu trời ấm (25oC), ẩm thì hết 5-6 ngày, nếu trời lạnh (nhiệt độ < 15 oC) kéo dài 15 16 ngày và sau đó cứ 2 - 6 ngày ra 1 lá thật.
Thiếu nước, thiếu oxy cỏ lấn hoặc tỉa không kịp thời cây chen chúc. Thiếu dinh
dưỡng làm cho cây còi cọc, ảnh hưởng rất lớn đến các giai đoạn sau.
Các biện pháp kỹ thuật cần chú ý trong giai đoạn này là:
- Tỉa kịp thời
- Làm cỏ sớm
- Xới
- Chỉ tưới nước khi cần và tưới nhẹ, và không để úng.
b) Thường ở đốt thứ ba (lá thật thứ 3) có khi sớm hơn như ở bông cỏ đốt thứ 2 bắt
đầu ra cành và thường là cành đực, có khi là cành quả (giống không cành đực). Phân
biệt cành đực với cành quả chủ yếu ở chỗ cành đực không trực tiếp ra hoa.
Sau khi ra 1-2-3, có khi tới 12-14 cành đực (như ở bông Ba Ghe) thì đến các
cành quả. Từ thấp lên cao cành quả dài thêm, có nhiều đốt (hoa) hơn, đến mức tối đa
ở cành thứ 4-7 rồi sau đó lại ngắn dần (tán cây hình thoi). Cành quả có nhiều loại
hình 0, 1, 2, 3, 4, cũng khi do ảnh hưởng của ngoại cảnh, sau khi ra một số cành quả
rồi, cây bông lại ra 1-2 cành đực phía trên (nhiệt độ, phân bón). Đó là biểu hiện sinh
trưởng mạnh hơn phát dục.
Ở nách cành quả, ở nhiều giống còn có cành phụ, cành phụ có thể là một cành
đực (lá), một cành hoa hoặc một hoa.
Mục đích của trồng bông là ra nhiều hoa quả, vậy cây bông ra nhiều cành lá, cành
nách thì không có lợi. Nhiều cành lá khó phun sâu, quang hợp kém, rụng quả nhiều.
Muốn có nhiều quả ít lá phải chọn giống, bón phân tưới nước hoặc tháo nước đúng
cách, có khi phải can thiệp một cách cơ giới (đánh cành lá), bấm ngọn…

* Giai đoạn nụ-hoa (25-35 ngày) và ra hoa rộ
a) Từ nụ đến hoa trong điều kiện miền Nam chỉ 20-25 ngày và nếu tính từ
ngày gieo đến khi nở hoa đầu tiên chỉ cần 55-60 ngày, sau đó hoa cứ tiếp tục nở mãi
và trong thời gian này trên cây bông luôn luôn có hoa, quả non, quả già. Thời gian
cây bông có hoa có thể kéo dài 2 tháng, nhưng cũng có thể rút ngắn lại 1 tháng hay
hơn một chút bằng cách chọn giống, điều tiết nước, phân, trừ sâu tốt. Rút ngắn thời

23


gian bông có hoa rất lợi vì thời gian này cây bông rất mẫm cảm với sâu nhất, công
trừ sâu và chăm sóc khác sẽ giảm đi nếu ra hoa qủa tập trung.
b) Trình tự nở hoa: hoa nở dần theo trình tự xuất hiện nụ từ dưới lên trên (1-2
ngày) và từ trong ra ngoài (5-6 ngày). Cần chú ý quy luật này vì chất lượng xơ bông
tuỳ thuộc nhiều vào vị trí quả bông trên cây. Ở Thanh Hóa, Vũ Công Hậu đã nghiên
cứu kỹ ảnh hưởng của vị trí đến chất lượng trên những cây bông thuộc giống Quầy
Vịt (xem sách Kỹ thuật trồng bông trang 57). Nói vắn tắt: “Trừ vài quả ở sát gốc do
độ ẩm cao, đất cát dính vào, bông thu hoạch những lứa đầu (bông gốc) là những
bông tốt nhất về chất lượng hạt cũng như chất lượng xơ.
c) Quy luật nở hoa thụ phấn: Nụ hoa chiều hôm trước phồng lên, sáng hôm sau
khoảng 7-9 giờ thì nở. Hoa to, màu sặc sỡ, có nhiều tuyến mật nên hấp dẫn côn trùng
mang phấn ở cây bông khác tới. Như vậy, côn trùng, không phải là gió, là môi giới
thụ phấn. Tỷ lệ ngoại hoa thụ phấn khá cao (2-3 đến 20%), do đó gen hình của cây
bông không ổn định, khác với các cây tự hoa thu phấn chặt chẽ như lúa, đậu.. và các
cây này gen hình ổn định, độ đồng đều cao hơn.
Mặt khác, công nghiệp se sợi, dệt vải bằng xơ bông hiện nay rất hiện đại, đòi
hỏi xơ bông phải đồng đều về nhiều tính năng (độ bền, độ mịn, độ chín, độ đều
xơ…) nên bắt buộc phải có giống bông thuần, và đảm bảo độ thuần cho giống bông
khó hơn ở những cây tự hoa thụ phấn.
Muốn cho giống bông thuần, khó có thể ngăn cản ong, bướm đến lấy mật hoa

bông (ở trại thí nghiệm phải buộc túi từng hoa một). Phương pháp đơn giản là chỉ
trồng một giống. Ong, bướm có mang phấn hoa lạ đến thì cũng là phấn hoa của cùng
giống bông đó, do đó vẫn bảo đảm được độ thuần.
d) Thụ phấn tốt thì đậu quả. Không đậu quả thì hoa rụng, ta gọi là rụng đài,
nếu rụng thì quả non rụng từ ngày thứ 2-3 đến ngày thứ 10 kể từ khi hoa nở, sau
ngày thứ 10 nếu quả không rụng thì coi như quả đã đậu.
Tỷ lệ rụng đài ở cây bông thường cao, do đó phải tìm cách hạn chế. Trước hết
nếu bị sâu ăn nụ, hoa, hay quả non thì đài thế nào cũng rụng. Điều kiện tự nhiên ảnh
hưởng nhiều nhất đến rụng đài là độ ẩm không khí cao, hoa nở gặp trời mưa đầu, đất
qúa tốt, bón nhiều phân đạm bông bốc lá. Cũng có giống bông rụng đài nhiều, giống
bông rụng đài ít. Ví dụ bông luồi rụng nhiều hơn bông hải đảo. Giống chín muộn
thường rụng nhiều hơn giống chín sớm.

24


Đứng về mặt kỹ thuật canh tác, bắt đầu từ khi hoa nở, và đặc biệt trong khi nở
hoa là thời kỳ nhựa lưu thông mạnh, nhựa sống được hút từ đất qua rễ lên cành lá, chất
dinh dưỡng tập trung vào hoa, quả non, rất hấp dẫn đối với sâu. Thời kỳ này phải chú ý:
- Nụ, hoa nhiều, quả non nhiều, tập trung nhiều sâu đục quả, nhất là sâu xanh
rất phàm ăn nên phải rất cảnh giác trong việc phòng trừ sâu.
- Nước cần phải đầy đủ, tuyệt đối không để cho ruộng bông bị hạn, phải tưới
nhiều nhưng thoát nước cũng phải nhanh, nếu bị úng cũng như bị hạn, đài sẽ
rụng hàng loạt.
- Quang hợp mạnh, cần ánh sáng, cần thoáng, không để cho bông bốc lá và
nếu nhiều lá quá có thể phải bấm ngọn, đánh lá, nhưng chú ý không đánh lá
quá nhiều, “chột” cây bông.
* Giai đoạn quả nở
a) Từ khi hoa nở đến khi quả nở phải mất một thời gian từ 42-55 ngày tuỳ
giống, tuỳ quả to nhỏ. Nếu tính từ khi gieo qua các giai đoạn phát dục, trong điều

kiện thuận lợi, phải mất một thời gian như sau:
- Gieo – mọc

4-7 ngày

- Mọc – nụ

28-36 “

- Nụ - hoa

25-35 “

- Hoa – nở quả

42-55 “
99-133 ngày

Còn 40-50 ngày nữa quả tiếp tục nở hết rồi nhổ cây.
Sau khi thụ phấn tốt, đài không rụng thì quả bông lớn dần.
Nửa thời gian đầu 20-25 ngày quả lớn rất nhanh nhưng vẫn còn mầm non, sâu
xanh, sâu loang rất thích ăn, sâu hồng cũng hay đến đẻ.
Cũng nửa thời gian đầu xơ bông (tế bào lớp ngoài của biểu bì hạt) dài ra rất
nhanh nhưng vỏ xơ còn mỏng.
- Nước và nắng là hai yếu tố cần thiết nhất cho bông lúc này, nhưng càng về
sau nước càng ít đi và nắng càng cần nhiều hơn.

25



×