Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Đề cương pháp luật kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.21 KB, 26 trang )

Đề cương
PHÁP LUẬT KINH TẾ

Câu 1:
Theo học thuyết Mác-Lênin về nguồn gốc nhà nước thì nhà nước không phải là hiện tượng xã hội vĩnh
cửu, bất biến mà là một phạm trù lịch sử, có quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong. Lịch sử xã hội
loài người đã trải qua một thời kì chưa có nhà nước đó là chế độ công xã nguyên thủy và sẽ phát triển đến
gia đoạn không cần đến nhà nước. Nhà nước nảy sinh từ trong đời sống xã hội, nó xuất hiện khi xã hội
loài người phát triển đến một trình độ nhất định, và khi những điều kiện khách quan của sự tồn tại nhà
nước không còn nữa thì nhà nước sẽ tiêu vong.
Trong đó, quá trình hình thành nhà nước bao gồm các giai đoạn:
1. Công xã nguyên thủy và tổ chức thị tộc – bộ lạc
- Cơ sở kinh tế: Chế độ sở hữu chung về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động.
-

Tổ chức xã hội: Thị tộc là cơ sở cấu thành xã hội. Trong thị tộc, các thành viên có quan hệ huyết
thống với nhau và được tổ chức theo nguyên tắc bình đẳng. Lúc đầu huyết thống được xác lập
theo dòng họ mẹ gọi là mẫu hệ, về sau được xác lập theo dòng họ cha gọi là phụ hệ.

-

Phân công lao động: đã xuất hiện sự phân công lao động, thường mang tính tự nhiên giữa các
thành viên thị tộc.

-

Hệ thống quản lý:

+ Hội đồng thị tộc: gồm tất cả các thành viên đã trưởng thành của thị tộc, là tổ chức quyền lực cao nhất
của thị tộc và là tổ chức quyết định những vấn đề quan trọng nhất trong đời sống thị tộc.
+ Tù trưởng, thủ lĩnh quân sự: Do hội đồng thị tộc bầu ra, được lựa chọn từ những người nhiều tuổi,


không có đặc quyền và có quyền lực lớn dựa trên sự ủng hộ, đồng tình rộng rãi của tất cả thành viên bộ
tộc.
2. Quyền lực xã hội và quy phạm xã hội trong công xã nguyên thủy
- Bản chất: là quyền lực xã hội, chưa mang tính giai cấp và hệ thống quản lý còn rất đơn giản.
- Các hình thức tổ chức trong công xã nguyên thủy:
+ Thị tộc
+ Bào tộc: bao gồm nhiều thị tộc hợp thành
+ Bộ lạc: bao gồm nhiều bào tập hợp thành
+ Liên minh bộ lạc: bao gồm một số bộ lạc có quan hệ thân thuộc với nhau




Tóm lại: Trong xã hội công xã nguyên thủy đã có quyền lực, nhưng đó là thứ quyền lực xã hội,
được tổ chức và thực hiện dựa trên cơ sở của những nguyên tắc dân chủ thực sự. Quyền lực đó
xuất phát từ xã hội và phục vụ cho lợi ích của cả cộng đồng.

3. Phân hóa giai cấp và sự xuất hiện nhà nước
Do năng suất lao động ngày một tăng lên, vào thời kì cuối của chế độ công xã nguyên thủy lần lượt diễn
ra ba lần phân công lao động xã hội, kéo theo sự phân hóa giai cấp làm tiền đề cho sự xuất hiện nhà nước.
+ Lần thứ nhất: Chăn nuôi tách khỏi trồng trọt.
Trong lao động và cùng với lao động, con người phát triển, hoạt động của con người ngày càng phong
phú, chủ động và tự giác hơn. Việc con người thuần dưỡng động vật đã mở ra một kỉ nguyên mới trong sự
phát triển của xã hội loài người. Chính những đàn gia súc được thuần dưỡng đã trở thành nguồn tích lũy
tài sản quan trọng, là mầm mống sinh ra chế độ tư hữu. Nghề chăn nuôi phát triển mạnh, dần dần trở
thành một ngành kinh tế độc lập tách ra khỏi trồng trọt.
Sau lần phân công lao động lần thứ nhất, xã hội đã có những biến đổi sâu sắc. Năng suất lao động tăng
nhanh, sản phẩm lao động làm ra ngày càng nhiều, và xuất hiện sản phẩm dư thừa, làm phát sinh khả
năng chiếm đoạt của cải dư thừa ấy.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của ngành chăn nuôi và trồng trọt, nảy sinh nhu cầu mới – nhu cầu về

sức lao động. Tù binh bị bắt trong chiến tranh giờ đây được giữ lại làm nô lệ để bóc lột sức lao động.
 Như vậy, sau lần phân công lần thứ nhất, mầm mống của chế độ tư hữu đã xuất hiện, xã hội dần phân
chia thành người giàu, kẻ nghèo. Chế độ tư hữu xuất hiện làm thay đổi quan hệ hôn nhân gia đình:
chế độ hôn nhân một vợ một chồng thay thế chế độ quần hôn. Gia đình cá thể trở thành một lực
lượng đe dọa thị tộc.
+ Lần phần công lao động lần thứ hai: Thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp thành một ngành độc lập
Việc con người tìm ra kim loại, đã tạo ra khả năng có thể trồng trọt trên những diện tích lớn hơn, khai phá
các miền đất bỏ hoang. Nghề dệt, nghề chế tạo đồ kim loại và những nghề thủ công khác ngày được
chuyên môn hóa làm cho sản phẩm làm ra ngày càng nhiều loại và hoàn hảo hơn. Chính hoạt động nhiều
mặt này đã dẫn đến lần phân công lao động lần thứ hai.
Sự tăng trưởng không ngừng của sản phẩm lao động đã nâng cao sức lao động của con người. Từ nay, nô
lệ đã trở thành một bộ phận cấu thành chủ yếu của hệ thống xã hội; nô lệ không còn là kẻ phụ giúp đơn
thuần nữa mà đã trở thành một lực lượng xã hội với số lượng ngày càng tăng.
Điều này đã đẩy nhanh quá trình phân hóa xã hội, làm cho sự phân biệt giữa kẻ giàu và người nghèo, giữa
chủ nô và nô lệ ngày càng sâu sắc, mâu thuẫn giai cấp ngày càng gia tăng.
+ Lần phân công lao động xã hội lần thứ ba: Sản xuất hàng hóa phát triển, tầng lớp thương nhân ra đời.

Đây là lần phân công lao động xã hội giữ vai trò rất quan trọng và có ý nghĩa quyết định cho sự ra đời của
nhà nước. Nền sản xuất tách ra thành những ngành sản xuất riêng, làm xuất hiện nhu cầu trao đổi và sản


xuất hàng hóa ra đời. Nền sản xuất hàng hóa xuất hiện thì đồng thời thương nghiệp cũng phát triển. Sự
phân công lao động xã hội này làm nảy sinh một giai cấp không còn tham gia vào quá tringh sản xuất
nữa, mà chỉ làm công việc trao đổi sản phẩm, đó là giai cấp thương nhân. Giai cấp này tuy không tham
gia trực tiếp vào quá trình sản xuất, nhưng lại chiếm toàn bộ quyền lãnh đạo sản xuất và bắt những người
sản xuất phụ thuộc vào mình về mặt kinh tế và bóc lột cả hai.
Điều này kéo theo sự xuất hiện của đồng tiền – hàng hóa của các loại hàng hóa. Nạn cho vay nặng lãi,
quyền tư hữu về ruộng đất và chế độ cầm cố… đã làm cho sự tích tụ và tập trung của cải vào trong tay
một số ít người giàu có, đồng thời thúc đẩy sự bần cùng hóa của quần chúng và sự tăng nhanh của đám
đông dân nghèo. Số nô lệ tăng lên rất đông cùng với sự cưỡng bức và bóc lột ngày càng nặng nề của giai

cấp chủ nô đối với họ.
Những yếu tố mới làm đảo lộn đời sống thị tộc, chế độ thị tộc tỏ ra bất lực. Những hoạt động thương
nghiệp, sự thay đổi nghề nghiệp và sự nhượng quyền sở hữu đất đai đã đòi hỏi phải di động và thay đổi
chỗ ở, phá vỡ cuộc sống định cư của thị tộc, làm mất đi điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại của chế độ thị
tộc – đó là các thành viên của một thị tộc, bộ lạc phải cùng chung sống trên cùng một lãnh thổ mà chỉ
mình họ cư trú mà thôi. Hơn thế nữa, những xung đột về lợi ích giữa kẻ giàu và người nghèo, giữa chủ nợ
và con nợ cũng diễn ra ngày càng gay gắt trong mỗi tổ chức thị tộc.
 Như vậy, tổ chức thị tộc đã sinh ra từ một xã hội không biết đến mâu thuẫn nội tại và chỉ thích hợp
với một xã hội kiểu đó thì nay, khi một xã hội mới ra đời, một xã hội mà toàn bộ những điều kiện
kinh tế của sự tồn tại của nó đã phân chia xã hội thành các giai cấp đối lập nhau, luôn luôn mâu thuẫn
với nhau và đấu tranh gay gắt với nhau để bảo vệ lợi ích của giai cấp mình. Tổ chức thị tộc tỏ ra bất
lực, không thể phù hợp được nữa. Xã hội đòi hỏi phải có một tổ chức mới đủ sức dập tắt cuộc xung
đột công khai giữa các giai cấp ấy. Tổ chức đó là nhà nước và nhà nước xã hội xuất hiện.
Tóm lại, nhà nước xuất hiện là kết quả của sự vận động, phát triển nội tại của xã hội loài người, nó
xuất hiện dựa trên hai tiền đề: tiền đề kinh tế là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, của cải và tiền đề
xã hội là sự phân hóa xã hội thành các giai cấp, các tầng lớp có lợi ích đối lập nhau và mâu thuẫn
giữa các giai cấp, các tầng lớp ấy gay gắt đến mức không thể điều hòa được. Nhà nước xuất hiện
một cách khách quan, là sản phẩm của một xã hội đã phát triển đến một giai đoạn nhất định. Nhà
nước không phải là một *quyền lực từ bên ngoài áp đặt vào xã hội* mà là *một lực lượng nảy sinh
từ xã hội*, một lực lượng tựa hồ đứng trên xã hội, có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho
sự xung đột đó nằm trong vòng trật tự.

Câu 2:
Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, có bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và
thực hiện chức năng quản lý nhằm duy trì trật tự xã hội, bảo vệ địa vị là lợi ích của giai cấp thống trị trong
xã hội có giai cấp.
1. Bản chất giai cấp
a, Bản chất giai cấp:
*Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được*, nhà nước
trước hết là *bộ máy trấn áp đặc biệt của giai cấp này đối với giai cấp khác*. Trong xã hội có giai cấp, xét



về nội dung, thể hiện ở ba mặt: Kinh tế, chính trị và tư tưởng. Bằng nhà nước, giai cấp thống trị về kinh tế
trở thành giai cấp thống trị về chính trị, ý chí của giai cấp thống trị được thể hiện một cách tập trung và
biến thành ý chí nhà nước, bắt buộc mọi thành viên trong xã hội phải tuân theo, các giai cấp, các tầng lớp
dân cư phải hành động trong một giới hạn và trật tự phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị.
Trong các xã hội bóc lột, nhà nước có thuộc tính chung là bộ máy đặc biệt duy trì sự thống trị về kinh tế,
chính trị và tư tưởng của thiểu số đối với đa số nhân dân lao động, thực hiện nền chuyên chính của giai
cấp bóc lột. Nhà nước XHCN là nhà nước kiểu mới, là công cụ thực hiện nền chuyên chính và bảo vệ lợi
ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nhà nước XHCN là một bộ máy thống trị của đa số với
thiểu số.
b, Bản chất xã hội:
Nhà nước ra đời và tồn tại trong xã hội với cơ cấu gồm giai cấp thống trị và các giai cấp, các tầng lớp dân
cư khác nhau. Bản thân giai cấp thống trị cũng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với các giai cấp, các tầng lớp
dân cư khác. Do vậy, nhà nước ngoài việc là công cụ duy trì thống trị và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống
trị, còn phải là một tổ chức quyền lực công bằng, đảm bảo lợi ích chung của các giai cấp, tầng lớp khác
trong xã hội, khi những lợi ích đó không mâu thuẫn căn bản với lợi ích của giai cấp thống trị.
Vai trò xã hội là một thuộc tính khách quan, phổ biến của nhà nước, nhưng biểu hiện cụ thể và mức độ
thực hiện vai trò này không giống nhau ở những kiểu nhà nước khác nhau. Trong một kiểu nhà nước, ở
các giai đoạn phát triển khác nhau của nó, vai trò xã hội của nhà nước cũng có những nội dung cụ thể
không giống nhau.
2. Đặc điểm
Với tư cách là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, nhà nước có một số đặc điểm sau đây:
-

Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị công cộng đặc biệt, có bộ máy chuyên
làm nhiệm vụ cưỡng chế và quản lý những công việc chung của xã hội.
Nhà nước thực hiện quản lý dân cư theo lãnh thổ.
Nhà nước có chủ quyền quốc gia: thể hiện ở quyền tự quyết của nhà nước về tất cả các vấn đề
thuộc chính sách đối nội và đối ngoại, không phụ thuộc vào lực lượng bên ngoài.

Nhà nước ban hành pháp luật và thực hiện quản lý bắt buộc với công dân.
Nhà nước quy định các loại thuế và thực hiện thu thuế dưới hình thức bắt buộc.

Câu 3:
1. Khái niệm bộ máy nhà nước
Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương, được tổ chức và hoạt
động theo những nguyên tắc chung, thống nhất nhằm thực hiện những nhiệm vụ và chức năng của nhà
nước, vì lợi ích của giai cấp thống trị.
(Bổ sung: Cần phân biệt bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị. Bộ máy nhà nước là một khái niệm hẹp hơn, chỉ
bao gồm các cơ quan nhà nước như: quân đội, cảnh sát, các cơ quan hành chính, ngoại giao, tư pháp… còn hệ


thống chính trị không chỉ có nhà nước mà còn có các tổ chức chính trị - xã hội khác cùng thực hiện nền chuyên
chính của giai cấp cầm quyền).

2. Cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam

-

-

Quốc hội: Cơ quan có quyền lực cao nhất trong bộ máy nhà nước, là cơ quan có quyền lập hiến
và lập pháp. Quốc hội có quyền giám sát tối cao về các hoạt động của nhà nước.
Được tổ chức theo nguyên tắc bỏ phiếu, và quyết định những vấn đề trọng đại nhất của đất nước.
Chính phủ: là cơ quan chấp hành của Quốc hội, nắm quyền hành pháp.
Đây là cơ quan liên quan trực tiếp đến đời sống xã hội, chính trị, kinh tế.
Thủ tướng Chính phủ được lập nên dựa trên sự tín nhiệm của Chủ tịch nước và phiếu bầu Quốc
hội.
Giúp việc cho Thủ tướng có các Phó thủ tướng.
Mỗi Bộ phụ trách những mảng khác nhau trong các lĩnh vực đời sống.

Chủ tịch nước: là người đứng đầu nhà nước, đại diện cho nhà nước về vai trò đối nội, đối ngoại.
Tòa án nhân dân tối cao: là cơ quan tư pháp lãnh việc xét xử, bảo vệ pháp luật.
Đứng đầu là Chánh án tòa án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu ra, chịu trách nhiệm báo cáo công
tác.
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kiểm sát đối với các
bộ máy nhà nước, có quyền công tố.
Kiểm toán nhà nước (trực thuộc Quốc hội) Đứng đầu là Tổng kiểm toán nhà nước.

Câu 4: Nguồn gốc của pháp luật
Theo học thuyết Mác-Lênin, nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng lịch sử cơ bản nhất của đời sống
chính trị - xã hội. cùng xuất hiện, cùng tồn tại và phát triển và cùng tiêu vong khi nhân loại tiến tới chủ
nghĩa cộng sản.
Nguyên nhân xuất hiện nhà nước cũng là nguyên nhân làm xuất hiện pháp luật: Một là tiền đề kinh tế, đó
là sự xuất hiện chế độ tư hữu, hai là tiền đề xã hội, đó là sự phân hóa xã hội thành những giai cấp, tầng
lớp có lợi ích đối kháng nhau và mâu thuẫn, đấu tranh giai cấp phát triển tới mức không thể điều hòa
được.
Nguồn gốc của pháp luật từ 3 con đường:


-

Tập quán pháp:

Khi nhà nước ra đời, giai cấp thống trị chỉ thừa nhận những quy phạm xã hội nào phù hợp với lợi ích của
mình, các quy phạm xã hội được thừa nhận ấy gọi là tập quán pháp. Đây là con đường thứ nhất, sớm nhất
hình thành nên pháp luật trong lịch sử. Sự thừa nhận nói trên được thực hiện bằng hai cách: Một là, các
quy phạm đó được chỉ ra dưới dạng chung, được nhắc tới tên loại quy tắc đó trong văn bản của cơ quan
lập pháp; hai là, các quy phạm xã hội được cơ quan hành pháp và xét xử dựa vào để giải quyết vụ việc cụ
thể. Những quy phạm pháp luật này trở thành pháp luật và được gọi là tập quán pháp.
-


Tiền lệ pháp:

Cùng với sự xuất hiện của nhà nước, các quan hệ xã hội tăng đột biến cả về nội dung và số lượng, trong
đó đáng chú ý là sự xã hội những quan hệ mới, đặc thù cho xã hội có giai cấp mà chưa có tập quán điều
chỉnh và nhiều quan hệ trong số đó chưa có quy định của nhà nước do khả năng ban hành pháp luật còn
hạn chế. Trong trường hợp đó, cơ quan hành pháp và xét xử phải tự mình phán xét những vụ việc cụ thể
phát sinh trên cơ sở lợi ích giai cấp và năng lực cá nhân. Những cách phán xét đó nếu tốt, phù hợp, có thể
trở thành khuôn mẫu cho chính cơ quan đó hoặc các cơ quan khác để giải quyết những vụ việc tương tự
sau đó. Cách phán xét, giải quyết đó gọi là tiền lệ pháp. Đây là con đường thứ hai hình thành nên pháp
luật.
-

Văn bản pháp luật:

Trong quá trình tồn tại và phát triển, nhà nước ngày càng chú trọng xây dựng và ban hành những quy tắc
xử sự mới để điều chỉnh các quan hệ xã hội quan trọng mới phát sinh. Cũng có những loại quy định điều
chỉnh bằng tập quán nay không còn phù hợp với lợi ích giai cấp thống trị, cần thiết phải quy định lại cho
chặt chẽ hơn. Đây là con đường thứ ba hình thành bằng con đường này có thể tồn tại dưới dạng bất thành
văn, sau đó cùng với sự hoàn thiện của chữ viết và văn bản, chúng được thể hiện văn bản pháp luật.

Câu 5:
1. Khái niệm pháp luật:
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và đảm bảo
2. Bản chất của pháp luật
- Bản chất giai cấp:
+ Bản chất giai cấp của pháp luật thể hiện trước hết ở chỗ, pháp luật phản ánh ý chí nhà nước của giai cấp
thống trị. Giai cấp thống trị thông qua nhà nước, thể hiện ý chí của mình bằng việc ban hành pháp luật, là
những quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung đối với mọi người. Những quy tắc xử sự ấy khi đã trở thành
pháp luật được nhà nước bảo đảm thực hiện.

+ Mức độ thể hiện tính giai cấp là đậm hay nhạt phụ thuộc vào kiểu pháp luật, tương quan so sánh, đối
sánh lực lượng, giai cấp, tính khốc liệt hay không khốc liệt của mâu thuẫn giai cấp.
-

Bản chất xã hội:


Pháp luật là công cụ điều chỉnh hành vi của con người có hiệu lực nhất. Vì vậy pháp luật, ngoài những
thuộc tính thể hiện bản chất giai cấp, nó còn là phương tiện ghi nhận những quy luật khách quan của
những xử sự hợp lý. Trong chừng mực nhất định, nó là chân lý khách quan, mang tính chuẩn mực và ổn
định.
Ngoài ra, pháp luật còn là thước đo hành vi con người, là công cụ kiểm nghiệm các quá trình, các hiện
tượng xã hội.
Pháp luật còn truyền tải những giá trị nhân đạo to lớn đến với từng cá nhân, là công cụ nhận thức và giáo
dục, cải biến bản thân con người.
Ở mỗi kiểu pháp luật khác nhau, bản chất xã hội là không giống nhau.

Câu 6:
Nhìn một cách tổng quát, pháp luật có những đặc trưng cơ bản sau:
1. Tính quyền lực (tính nhà nước, tính cưỡng chế)
Pháp luật do nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện mà không phải hình thành bằng bất cứ con đường
nào khác. Pháp luật được đảm bảo có hiệu lực bao trùm toàn xã hội, tác động đến tất cả mọi người.
2. Tính quy phạm
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự, đó là những khuôn mẫu, những mực thước được xác định cụ thể,
không trừu tượng, chung chung. Tính quy phạm của pháp luật nói lên giới hạn cần thiết mà nhà nước quy
định để mọi người có thể xử sự một cách tự do trong khuôn khổ cho phép, vượt quá khuôn khổ đó là trái
luật.
3. Tính ý chí
Pháp luật bao giờ cũng là hiện tượng ý chí, không phải là kết quả của sự tự phát hay cảm tính. Ý chí trong
pháp luật về bản chất là ý chí của giai cấp cầm quyền. Chỉ có lực lượng nào nắm được nhà nước mới có

khả năng thể hiện ý chí và lợi ích của mình một cách tối đa trong pháp luật. Khi ý chí đó được hợp pháp
hóa thành pháp luật thì sẽ được nhà nước đảm bảo thực hiện bằng quyền lực nhà nước.
Tính ý chí được thể hiện rõ ở mục đích xây dựng pháp luật, nội dung pháp luật và dự kiến hiệu ứng của
pháp luật khi triển khai vào thực tế đời sống xã hội. Vì vậy mọi quá trình xây dựng tổ chức thực hiện và
bảo vệ pháp luật đều được diễn ra dưới những hình thức cụ thể, theo những nguyên tắc và thủ tục chặt
chẽ. Đó là kết quả của sự tư duy chủ động, tự giác của các nhà làm luật.
4. Tính xã hội
Pháp luật muốn thực hiện được trong thực tế đời sống thì nó phải phù hợp với những điều kiện cụ thể của
xã hội ở thời điểm tồn tại của nó, nghĩa là pháp luật phản ánh đúng những nhu cầu khách quan của xã hội.
Tuy nhiên, do tính chất phức tạp của các mối quan hệ xã hội, pháp luật chỉ có khả năng mô hình hóa


những nhu cầu xã hội khách quan mang tính điển hình, phổ biến và thông qua đó để tác động tới các quan
hệ xã hội khác, hướng các quan hệ đó phát triển theo hướng đã được nhà nước xác định.

Câu 7: Chức năng của pháp luật
Chức năng của pháp luật là những phương diện, những mặt tác động chủ yếu của pháp luật. Về cơ bản,
pháp luật có ba chức năng cơ bản sau đây:
1. Chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội:
Là sự tác động trực tiếp của pháp luật tới các quan hệ xã hội bằng cách ghi nhận, củng cố những quan hệ
xã hội cơ bản, quan trọng và tạo lập hành lang pháp lý để hướng các quan hệ xã hội phát triển trong trật tự
ổn định theo mục tiêu mong muốn. Đây là hướng tích cực, là chức năng cơ bản của pháp luật. Chức năng
này thể hiện ở hai khía cạnh sau đây:
-

Chức năng tĩnh: Quy định các chủ thể pháp luật những nghĩa vụ phải kiềm chế những hành động
nhất định.
- Chức năng động: Buộc các chủ thể phải tiến hành những hành động tích cực nhất định.
2. Chức năng bảo vệ:
Thể hiện ở việc quy định những phương tiện nhằm mục đích bảo vệ những quan hệ xã hội là cơ sở, nền

tảng của xã hội trước các vi phạm và loại trừ những quan hệ xã hội lạc hậu không còn phù hợp với bản
chất của chế độ (chủ yếu là những quy định về xử phạt).
3.

Chức năng giáo dục:

Thể hiện ở tác động gián tiếp của pháp luật tới các quan hệ xã hội thông qua ý thức con người, hướng dẫn
con người những cách xử sự hợp lý, phù hợp với các xử sự ghi trong quy phạm pháp luật, phù hợp với lợi
ích của xã hội và của bản thân.

Câu 8: Văn bản pháp luật
1. Khái niệm
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình
tự luật định, trong đó có các quy tắc xử sự chung, được nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các
quan hệ xã hội và được áp dụng nhiều lần trong thực tế đời sống.
2. Các loại văn bản quy phạm pháp luật:
Theo quy định của luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, hiện nay nước ta có các loại văn
bản quy phạm pháp luật sau đây:
i)

Văn bản luật: Là văn bản do quốc hội, cơ quan có quyền lực cao nhất của nước CHXHCN
Việt Nam ban hành theo trình tự, thủ tục và hình thức do hiến pháp quy định. Văn bản luật có
giá trị pháp lý cao nhất, tất cả các văn bản dưới luật phải có nội dung phù hợp với nội dung
của văn bản luật. Văn bản luật gồm:


-

Hiến pháp: Là đạo luật gốc, đạo luật cơ bản nhất, có giá trị pháp lý cao nhất, quy định những vấn
đề cơ bản nhất của đất nước.

- Luật (đạo luật): Là văn bản quy phạm pháp luật cụ thể hóa hiến pháp, trong đó quy định các vấn
đề cơ bản thuộc lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
- Nghị quyết của Quốc hội: Được ban hành để quyết định các vấn đề thuộc thẩm quyền của Quốc
hội.
ii)
Văn bản dưới luật: Là văn bản do các cơ quan có thẩm quyền khác trong bộ máy nhà nước
ban hành theo trình tự, thủ tục, hình thức và tên gọi nhất định, bao gồm các loại sau:
- Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Quy định những vấn đề được Quốc hội giao.
- Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Được ban hành để giải thích Hiến pháp, luật, pháp
lệnh và quyết định những vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
- Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước
- Nghị định của Chính phủ
- Quyết định của Thủ tướng Chính phủ
- Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
- Nghị quyết của Hồi đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
- Thông tư của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
- Thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
- Quyết định của Tổng Kiểm toán Nhà nước
- Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc giữa Chính phủ với cơ quan trung
ương của tổ chức chính trị - xã hội.
- Thông tư liên tịch giữa Chán án Tòa án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao; giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao,
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
- Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân gồm có: Nghị quyết của
Hội đồng nhân dân các cấp; Quyết định, chỉ thị của Ủy ban nhân dân các cấp.
3. Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật:
a, Hiệu lực về thời gian
-

Thời điểm phát sinh hiệu lực:


Thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật được quy định trong văn bản nhưng không sớm
hơn bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày công bố hoặc lý ban hành.
Trường hợp văn bản quy phạm pháp luật quy định các biện pháp thi hành trong tình trạng khẩn cấp, văn
bản được ban hành để kịp thời đáp ứng yêu cầu phòng, chống thiên tai, dịch bệnh thì có thể có hiệu lực kể
từ ngày công bố hoặc ký ban hành.
Văn bản quy phạm pháp luật phải được đăng Công báo; văn bản quy phạm pháp luật không đăng Công
báo thì không có hiệu lực thi hành, trừ trường hợp văn bản có nội dung thuộc bí mật nhà nước và các
trường hợp quy định nêu trên.
Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng từ thời điểm bắt đầu có hiệu lực. Văn bản quy phạm pháp luật
được áp dụng đối với hành vi xảy ra tại thời điểm mà văn bản đó đang có hiệu lực. Trong trường hợp văn
bản có hiệu lực trở về trước thì áp dụng theo quy định đó.


-

Thời điểm chấm dứt hiệu lực:

Văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực toàn bộ hoặc một phần trong các trường hợp sau đây:
+ Hết thời hạn có hiệu lực đã được quy định trong văn bản
+ Được sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế bằng văn bản mới của chính cơ quan nhà nước đã ban hành văn
bản đó
+ Bị hủy bỏ hoặc bãi bỏ bằng một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
-

Hiệu lực hồi tố:

Chỉ trong những trường hợp thật cần thiết, văn bản quy phạm pháp luật mới được quy định hiệu lực trở về
trước. KHÔNG được quy định hiệu lực trở về trước đối với các trường hợp sau đây:
+ Quy định trách nhiệm pháp lý mới đối với hành vi mà vào thời điểm thực hiện hành vi đó pháp luật

không có quy định trách nhiệm pháp lý
+ Quy định trách nhiệm pháp lý nặng hơn.
b, Hiệu lực về không gian và đối tượng áp dụng
Văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước trung ương có hiệu lực trong phạm vi cả nước và
được áp dụng đối với mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân, trừ trường hợp văn bản có quy định khác hoặc điều
ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác. Văn bản quy phạm
pháp luật ở địa phương thông thường có hiệu lực đối với các tổ chức cá nhân tại địa phương đó.
c, Hiệu lực của văn bản pháp luật trong một số trường hợp đặc biệt
Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng
văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn.
Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành mà có quy định khác
nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định này của văn bản được ban hành sau.
Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật mới không quy định trách nhiệm pháp lý hoặc quy
định trách nhiệm pháp lý nhẹ hơn đối với hành vi xảy ra trước ngày văn bản có hiệu lực thì áp dụng văn
bản mới.
d, Ngưng hiệu lực văn bản quy phạm pháp luật
Văn bản quy phạm pháp luật bị đình chỉ việc thi hành thì ngưng hiệu lực cho đến khi có quyết định xử lý
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định hủy bỏ
thì văn bản hết hiệu lực, nếu không hủy bỏ thì văn bản tiếp tục có hiệu lực.

Câu 9: Quan hệ pháp luật


Là những quan hệ xã hội được các quy phạm pháp luật điều chỉnh, được cấu thành bởi chủ thể, nội dung
và khách thể.
1. Chủ thể
Chủ thể quan hệ pháp luật là những cá nhân hoặc tổ chức có năng lực chủ thể, tức là được nhà nước trao
cho những quyền và nghĩa vụ chủ thể nhất định.
Năng lực chủ thể bao gồm:
+ Năng lực pháp luật là khả năng thừa hưởng các quyền và nghĩa vụ pháp lý mà nhà nước quy đinh cho

cá nhân hoặc tổ chức. Đây không phải là một thuộc tính tự nhiên mặc dù là thuộc tính không tách rời của
mỗi công dân và nó xã hội khi mỗi con người được sinh ra.
+ Năng lực hành vi là khả năng của công dân được nhà nước thừa nhận mà với nó, người đó có thể bằng
chính hành vi của bản thân tạo ra cho mình các quyền và nghĩa vụ pháp lý hoặc tự thực hiện chúng một
cách độc lập, đồng thời phải gánh chịu những trách nhiệm pháp lý do những hành vi đó mang lại.
Năng lực pháp luật và năng lực hành vi tạo thành năng lực chủ thể pháp luật vì thế chúng có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Đối với cá nhân, năng lực pháp luật và năng lực hành vi xuất hiện không đồng thời, đối
với pháp nhân thì chúng xuất hiện cùng một lúc từ khi pháp nhân ra đời.
(Bổ sung: Các loại chủ thể quan hệ pháp luật:
Cá nhân (trong đó công dân là phổ biến nhất) là các chủ thể của quan hệ pháp luật khi theo quy định pháp luật họ
có năng lực chủ thể. Chỉ có cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trong những điều kiện, trình tự nghiêm ngặt do pháp
luật quy định mới có thể hạn chế năng lực chủ thể của công dân.
Pháp nhân là những tổ chức do nhà nước thành lập hoặc thừa nhận, có cơ cấu thống nhất và hoàn chỉnh, có tài sản
riêng và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó, phải nhân danh mình tiến hành các hoạt động và phải chịu trách
nhiệm về hậu quả phát sinh từ những hành động đó.
Nhà nước là chủ thể đặc biệt của quan hệ pháp luật. Đặc điểm cơ bản trong năng lực chủ thể pháp luật của nhà
nước XHCN thể hiện ở chỗ nhà nước là chủ thể quyền lực chính trị của toàn xã hội, là chủ sở hữu lớn nhất.)

2. Nội dung
Bao gồm quyền và nghĩa vụ của chủ thể.
-

Quyền chủ thể: là khả năng của chủ thể xử sự theo cách thức nhất định được pháp luật cho phép.

Quyền chủ thể có những đặc tính sau:
+ Khả năng của chủ thể xử sự theo cách thức nhất định mà pháp luật cho phép.
+ Khả năng yêu cầu các chủ thể khác chấm dứt các hành động cản trở họ thực hiện quyền và nghĩa vụ
hoặc yêu cầu các chủ thể khác tôn trọng các nghĩa vụ phát sinh từ quyền và nghĩa vụ này.
+ Khả năng của chủ thể yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ lợi ích của mình.



-

Nghĩa vụ chủ thể: là cách xử sự mà chủ thể bắt buộc phải tiến hành nhằm đáp ứng việc thực hiện
quyền của các chủ thể khác.

Nghĩa vụ pháp lí gồm hai yếu tố:
+ Phải tiến hành các xử sự bắt buộc (phải tiến hành một hành động nhất định hoặc kiềm chế không để
xảy ra các hành động nhất định).
+ Phải chịu trách nhiệm pháp lý khi không thực hiện các xử sự bắt buộc.
3. Khách thể quan hệ pháp luật
Là những gì mà các bên chủ thể mong muốn đạt được khi tham gia vào quan hệ pháp luật.

Câu 10:
1. Khái niệm doanh nghiệp
Tại điều 3 Luật doanh nghiệp 2005 quy định “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có
trụ sở giao dịch ổn định, được đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện
các hoạt động kinh doanh”.
2. Điều kiện để được cấp giấy chứng nhận kinh doanh
Theo điều 24 chương II Luật doanh nghiệp 2005, doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận kinh doanh khi
có đủ các điều kiện sau đây:
-

Ngành, nghề đăng kí kinh doanh không thuộc lĩnh vực cấm kinh doanh.
Tên của doanh nghiệp được đặt theo đúng quy định.
Có trụ sở chính theo quy định của pháp luật.
Có hồ sơ đăng kí kinh doanh hợp lệ theo quy định của pháp luật.
Nộp đủ lệ phí kinh doanh theo quy định của pháp luật.

Câu 11: Khái niệm và đặc điểm của công ty cổ phần

1. Khái niệm
Công ty cổ phần là loại hình đặc trưng cho công ty đối vốn, vốn của công ty được chia thành nhiều phần
bằng nhau gọi là cổ phần, người sở hữu cổ phần gọi là cổ đông, chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của
công ty cho đến hết giá trị cổ phần mà họ sở hữu.
2. Đặc điểm
- Về thành viên công ty: Trong suốt quá trình hoạt động ít nhất phải có 3 thành viên tham gia công
ty cổ phần. Ở hầu hết các nước trên thế giới đều có quy định số thành viên tối thiểu của công ty
cổ phần.
- Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Giá trị mỗi cổ
phần gọi là mệnh giá cổ phần và được phản ánh trong cổ phần. Một cổ phiếu có thể phản ánh
mệnh giá của một hoặc nhiều cổ phần. Việc góp vốn vào công ty được thực hiện bằng cách mua
cổ phần, mỗi cổ đông có thể mua một hoặc nhiều cổ phần. Luật không hạn chế mỗi thành viên


-

-

-

-

được mua tối đa bao nhiêu phần trăm vốn điều lệ nhưng các thành viên có thể thỏa thuận trong
điều lệ giới hạn tối đa số cổ phần mà một thành viên có thể mua nhằm chống lại việc một thành
viên nào đó có thể nắm quyền kiểm soát công ty.
Vốn góp (cổ phần) của cách thành viên được tự do chuyển nhượng trên thị trường chứng khoán,
nó thể hiện dưới hình thức cổ phiếu. Các cổ phiếu do công ty phát hành là một loại hàng hóa,
người có cổ phần có thể tự do chuyển nhượng theo quy định của pháp luật.
Về chế độ trách nhiệm: công ty cổ phần chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty bằng tài
sản của công ty. Các cổ đông chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty

trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty (tức là đến hết giá trị cổ phần mà họ sở hữu).
Trong quá trình hoạt động, công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán (cổ phần, trái phiếu)
ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán để huy động vốn. Điều này thể hiện
khả năng huy động vốn lớn của công ty cổ phần.
Công ty cổ phần là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận
đăng kí kinh doanh.

Câu 12:
Công ty TNHH có 2 thành viên trở lên là loại hình công ty gồm không quá 50 thành viên góp vốn thành
lập và công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty bằng tài sản của mình.
Theo điều 38 Luật doanh nghiệp thì công ty TNHH có 2 thành viên có những đặc điểm cơ bản sau:
-

-

-

Là doanh nghiệp có không quá 50 thành viên trong suốt quá trình hoạt động. Thành viên của công
ty không nhiều và thường là những người quen biết nhau. Chính sự tin cậy, tín nhiệm giữa các
thành viên là cơ sở hình thành và tồn tại công ty (ưu điểm của công ty đối nhân).
Có tư cách pháp nhân độc lập, địa vị pháp lý này quyết định chế độ trách nhiệm của công ty.
Chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty bằng tài sản của mình
(trách nhiệm hữu hạn). Thành viên công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài
sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào công ty. Như vậy, trong công ty
TNHH 2 thành viên trở lên có sự tách bạch về tài sản của công ty với tài sản của các thành viên.
Nguyên tắc phân tách tài sản được áp dụng trong mọi quan hệ tài sản, nợ nần và trách nhiệm của
công ty (ưu điểm của công ty đối vốn).
Vốn điều lệ chia thành từng phần, mỗi thành viên có thể góp nhiều, ít khác nhau và bắt buộc phải
góp đủ khi công ty thành lập, công ty phải bảo toàn số vốn ban đầu.
Phần góp vốn không thể hiện dưới hình thức cổ phiếu và rất khó chuyển nhượng ra bên ngoài,

phải tuân theo quy định của pháp luật.
Trong quá trình hoạt động, không được phép công khai huy động vốn trong công chúng (không
được phát hành cổ phiếu).
Về tổ chức, điều hành ở công ty TNHH đơn giản hơn so với công ty cổ phần. Về mặt pháp lý,
công ty TNHH thường chịu sự điều chỉnh bắt buộc ít hơn so với công ty cổ phần.

Có thể nói công ty TNHH 2 thành viên là mô hình lý tưởng để kinh doanh ở quy mô vừa và nhỏ.

Câu 13: Công ty hợp danh
1. Khái niệm


Là loại hình công ty đối nhân đặc trưng trong đó các thành viên cùng nhau tiến hành hoạt động thương
mại dưới một hãng chung và cùng liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của công ty.
2. Đặc điểm
- Xét về mặt lịch sử thì công ty hợp danh ra đời sớm nhất, trên thực tế công ty này được thành lập
trong dòng họ gia đình. Do tính chất liên đới chịu trách nhiệm vô hạn nên các thành viên phải
thực sự hiểu biết nhau, tin tưởng nhau.
- Việc thành lập công ty trên cơ sở hợp đồng giữa các thành viên. Hợp đồng thành lập công ty nói
chung được lập thành văn bản, tuy nhiên pháp luật không bắt buộc. Các bên có thể thỏa thuận
miệng, thậm chí không cần tuyên bố rõ, mà chỉ cần có những hoạt động chung thì công ty cũng
được coi là đã thành lập. Trong hợp đồng điều quan trọng là sự thỏa thuận về trách nhiệm của các
thành viên. Một công ty hợp danh được thành lập nếu có ít nhất hai thành viên thỏa thuận với
nhau cùng chịu trách nhiệm vô hạn. Điều này thể hiện ở các đặc trưng:
+ Các thành viên chịu trách nhiệm một cách trực tiếp cơ bản, vì chủ nợ có quyền đòi bất kỳ ai với
toàn bộ số tiền nợ.
+ Trách nhiệm này không thể bị giới hạn đối với bất kì thành viên nào. Nếu họ có thỏa thuận
khác, lập tức công ty sẽ chuyển sang loại hình công ty hợp vốn đơn giản.
+ Trong công ty hợp danh không có sự phân biệt rõ rang giữa tài sản công ty và tài sản cá nhân.
Sự chuyển dịch quyền sở hữu đối với khối tài sản chung sang tài sản riêng rất đơn giản và nói

chung khó kiểm soát. Về nguyên tắc, ngay khi một thành viên chưa được hưởng chút lợi nhuận
nào thì vẫn phải chịu trách nhiệm. Vì vậy, khả năng rủi ro và nguy hiểm đối với từng thành viên
rất lớn, nếu công ty thua lỗ họ rất dễ bị khánh kiệt gia sản.
-

-

-

Tuy nhiên lợi thế của công ty hợp danh là khả năng dễ dàng được ngân hàng cho vay vốn hoặc
hoãn nợ, bởi tích chịu trách nhiệm vô hạn đã là sự đảm bảo rồi. Do tính an toàn pháp lý cao đối
với công chúng nên công ty hợp danh ít chịu sự ràng buộc của những quy định pháp lý. Pháp luật
dành quyền rộng rãi cho các thành viên thỏa thuận, quy định ràng buộc duy nhất là tính chịu trách
nhiệm vô hạn.
Về tổ chức công ty hợp danh rất đơn giản, các thành viên có quyền thỏa thuận trong hợp đồng về
việc tổ chức, điều hành, đại diện của công ty. Công ty hợp danh được tổ chức dưới hình thức một
hãng chung, hãng này thường mang tên của một vài thành viên hoặc của tất cả thành viên. Dưới
hình thức một hãng, công ty hợp danh có tư cách thương gia độc lập, mỗi thành viên vẫn có tư
cách thương gia riêng, các thành viên có thể cùng nhau điều hành và đại diện cho công ty hoặc
thỏa thuận phân công trách nhiệm và quyền đại diện cho từng người.
Luật không quy định vốn tối thiểu, các bên có thể thỏa thuận các hình thức góp vốn.
Trong công ty hợp danh, việc thay đổi thành viên là rất khó khăn, chỉ cần một thành viên chết, xin
ra khỏi công ty là lý do quan trọng để giải thể.

Câu 14: So sánh giữa công ty TNHH 1 thành viên và doanh nghiệp tư nhân
-

-

Giống nhau:

+ Đều thuộc nhóm các doanh nghiệp 1 chủ sở hữu
+ Không được quyền phát hành bất kì một loại chứng khoán nào
+ Có thể tăng giảm vốn điều lệ theo quy định của pháp luật
Khác nhau:
Công ty TNHH 1 thành viên

Doanh nghiệp tư nhân


Chủ sở hữu
Tư cách pháp nhân
Trách nhiệm
(Nguy cơ rủi ro khi
lâm vào tình trạng
phá sản)
Tổ chức quản lý

Là tổ chức hoặc cá nhân làm chủ sở
hữu

Chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm
hữu hạn, chỉ chịu trách nhiệm về các
khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của
công ty trong phạm vi số vốn điều lệ.
Chủ sở hữu công ty bổ nhiệm một số
người đại diện theo pháp luật của công
ty theo quy định tại điều lệ công ty.

Chế độ vốn và
+ Có sự phân biệt rõ ràng giữa hai khối

tài chính, phân phối tài sản của chủ sở hữu công ty và của
lợi nhuận.
công ty.
+ Không được rút lợi nhuận khi công
ty không thanh toán đủ các khoản nợ
và các nghĩa vụ tài sản khác đến hạn
trả.

Chỉ do một cá nhân duy nhất làm chủ sở
hữu
Không
Chủ doanh nghiệp chịu trách nhiệm vô
hạn, bằng toàn bộ tài sản của mình trong
trường hợp phần vốn đầu tư đã đăng kí
không đủ để trang trải các khoản nợ của
doanh nghiệp tư nhân.
Cá nhân có quyền quyết định mọi vấn đề
liên quan đến tổ chức và hoạt động của
doanh nghiệp. Chủ doanh nghiệp có thể
tự mình quản lý hoặc thuê người quản lý,
nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi
hoạt động của doanh nghiệp.
+ Không có sự phân biệt rõ ràng giữa hai
khối tài sản của doanh nghiệp tư nhân với
chủ sở hữu doanh nghiệp.
+ Toàn bộ lợi nhuận thuộc về một mình
chủ doanh nghiệp tư nhân

Câu 15: Hợp đồng kinh doanh thương mại
1. Khái niệm

Hợp đồng trong thương mại là hợp đồng được giao kết giữa thương nhan với nhau hoặc giữa thương nhân
với các chủ thể khác nhằm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý với mục đích
tìm kiếm lợi nhuận hoặc ít nhất một bên là thương nhân có mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
2. Đặc điểm
Với tư cách là hình thức pháp lý của quan hệ thương mại, hợp đồng trong thương mại có một số những
đặc điểm nhất định, xuất phát từ bản chất thương mại của giao dịch như sau:
i)

Về chủ thể:

Hợp đồng trong thương mại được thiết lập giữa các chủ thể chủ yếu là thương nhân hoặc ít nhất một bên
là thương nhân. Theo quy định của Luật thương mại 2005, thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được
thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng kí kinh
doanh. Về cơ bản, thương nhân có một số đặc điểm như sau:
+ Thương nhân phải thực hiện hành bi thương mại.
+ Thương nhân phải thực hiện hành vi thương mại độc lập, mang danh nghĩa chính mình và vì lợi ích của
bản thân mình.
+ Thương nhân phải thực hiện hành bi thương mại mang tính nghề nghiệp thường xuyên.


+ Thương nhân phải có năng lực hành vi thương mại.
+ Thương nhân phải có đăng kí kinh doanh.
Thương nhân là chủ thể của hợp đồng trong thương mại có thể là thương nhân Việt Nam hoặc thương
nhân nước ngoài. Ngoài chủ thể là thương nhân, các tổ chức, cá nhân không phải là thương nhân cũng có
thể trở thành chủ thể của hợp đồng trong thương mại. Hoạt động của bên chủ thể không phải là thương
nhân không nhằm mục đích lợi nhuận trong quan hệ hợp đồng trong thương mại.
ii)

Về luật áp dụng:


Theo quy định của Luật thương mại 2005, trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng trong thương mại,
thương nhân phải áp dụng luật thương mại và pháp luật có liên quan.
Nếu hoạt động thương mại của thương nhân là hoạt động đặc thù được quy định trong luật khác thì áp
dụng quy định của luật đó.
Trong trường hợp hoạt động thương mại không được quy định trong Luật thương mại và trong các luật
khác thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự. Các chủ thể khác có hai sự lựa chọn: một là được áp dụng
trực tiếp luật thương mại trong việc giao kết và thực hiện hợp đồng nếu họ đồng ý lựa chọn luật thương
mại; hai là áp dung trực tiếp bộ luật dân sự trong việc giải quyết tranh chấp dưới góc độ là các hợp đồng
dân sự thông thường nếu họ không lựa chọn áp dụng luật thương mại.
iii)

Về hình thức:

Hợp đồng trong thương mại có thể được thiết lập theo cách thức do hai bên thỏa thuận. Theo quy định của
Luật thương mại năm 2005, hợp đồng trong thương mại có thể được thể hiện dưới hình thức lời nói, bằng
văn bản hoặc hành vi cụ thể của các bên giao kết. Trong những trường hợp nhất định, pháp luật bắt buộc
các bên phải thiết lập hợp đồng bằng hình thức văn bản thì các bên phải tuân theo quy định đó.
iv)

Về nội dung:

Nội dung của hợp đồng trong thương mại là các điều khoản do các bên thỏa thuận, thể hiện quyền và
nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng. Trong thực tiễn, các bên thỏa thuận nội dung hợp đồng
càng chi tiết thì cành thuận lợi cho việc thực hiện hợp đồng. Trên cơ sở các quy định của Bộ luật dân sự
và Luật thương mại, xuất phát từ tính chất của quan hệ hợp đồng trong thương mại, có thể thấy những
điều khoản quan trọng của hợp đồng trong thương mại bao gồm: đối tượng, chất lượng, giá cả, phương
thức thanh toán, thời hạn và địa điểm thực hiện hợp đồng.
Ngoài ra, đối với quan hệ trong thương mại, các bên không chỉ chịu sự ràng buộc bởi những điều khoản
đã thỏa thuận với nhau (bằng lời nói hay văn bản hợp đồng) mà còn chịu sự ràng buộc bởi những quy
định của pháp luật (những điều khoản pháp luật có quy định nhưng các bên không thỏa thuận trong hợp

đồng).
v)

Về mục đích của hợp đồng:

Thông thường mục đích của các bên khi thiết lập hợp đồng trong thương mại là tìm kiếm lợi nhuận hoặc
ít nhất một bên là thương nhân giao kết và thực hiện hợp đồng với mục đích lợi nhuận.


Câu 16: Các phương thức giao kết hợp đồng trong thương mại
1. Giao kết trực tiếp
Đây là phương thức giao kết mà các bên trực tiếp đối mặt với nhau tiến hành thỏa thuận các nội dung
trong hợp đồng trong thương mại. Sau khi thống nhất được các nội dung để hình thành hợp đồng thì tiến
hành thực hiện hợp đồng trong thương mại. Phương thức này thể hiện ở các trường hợp sau:
-

Nếu hợp đồng giao kết bằng miệng: Các bên trực tiếp gặp nhau, thỏa thuận bằng miệng với nhau
các nội dung của hợp đồng để hình thành hợp đồng và sau đó tiến hành thực hiện hợp đồng.
- Nếu hợp đồng giao kết bằng văn bản: Các bên trực tiếp gặp nhau, cùng nhau thảo luận để lập ra
một hợp đồng dưới dạng văn bản. Sau khi thống nhất các nội dung trong hợp đồng, các bên cùng
kí tên hoặc ký tên đóng dấu và thực hiện hợp đồng.
- Nếu hợp đồng giao kết bằng hành vi: Một trong các bên hoặc cả hai bên có hành vi tiến hành
trong thực tế nhằm giao kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng.
Thời điểm giao kết hợp đồng đối với các phương thức giao kết trực tiếp được xác định như sau:
- Hợp đồng được giao kết trực tiếp bằng văn bản: thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm sau khi
hai bên cùng kí vào văn bản.
- Hợp đồng được giao kết bằng lời nói: thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm các bên đã thỏa
thuận về nội dung của hợp đồng. Các bên có thể sử dụng những biện pháp, chứng cứ hợp pháp
để chứng minh việc “các bên đã thỏa thuận” về nội dung của hợp đồng bằng lời nói.
2. Giao kết gián tiếp

Đây là phương thức giao kết hợp mà các bên không trực tiếp gặp nhau mà thông qua các phương tiện
trung gian để thiết lập và thực hiện hợp đồng. Thông thường phương thức giao kết này trải qua các bước
sau:
i)

Đề nghị giao kết hợp đồng

Đề nghị giao kết hợp đồng nói chung có bản chất là hành vi pháp lý đơn phương của một chủ thể, có nội
dung bày tỏ ý định giao kết hợp đồng với chủ thể khác theo những điều kiện xác định. Đề nghị giao kết
hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề
nghị đối với bên đã được xác định cụ thể.
Đề nghị hợp đồng có thể được thể hiện dưới hình thức lời nói, văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể hoặc có
thể kết hợp các hình thức này.
Đề nghị giao kết hợp đồng có thể được được gửi đến cho một hoặc nhiều chủ thể đã xác định.
Hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng thông thường được bên đề nghị ấn định. Trường hợp bên đề nghị
không ấn định thời điểm có hiệu lực của đề nghị hợp đồng thì đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực kể từ
khi bên được đề nghị nhận được đề nghị đó. Căn cứ xác định bên được đề nghị nhận được đề nghị giao
kết hợp đồng là:
-

Đề nghị được chuyển đến nơi cư trú (bên được đề nghị là cá nhân) hoặc trụ sở (bên được đề nghị
là pháp nhân).
Đề nghị được đưa vào hệ thống thông tin chính thức của bên được đề nghị.
Bên được đề nghị biết được lời đề nghị giao kết hợp đồng thông qua các phương thức khác.


Bên đề nghị phải chịu trách nhiệm về lời đề nghị của mình. Trong thời hạn đề nghị hợp đồng có hiệu lực,
nếu bên được đề nghị thông báo chấp nhận vô điều kiện đề nghị hợp đồng thì hợp đồng hình thành và
ràng buộc các bên. Nếu các bên không thực hiện các nghĩa vụ theo hợp đồng thì phải chịu các hình thức
chế tài do vi phạm hợp đồng.

Bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể thay đổi hoặc rút lại đề nghị giao kết hợp đồng trong các trường
hợp:
-

Bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị trước hoặc cùng với
thời điểm nhận được đề nghị.
Điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát sinh trong trường hợp bên đề nghị có nêu rõ việc
được thay đổi hoặc rút lại đề nghị khi điều kiện đó phát sinh.

Trong trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng thực hiện quyền hủy bỏ đề nghị do đã nêu rõ quyền
này trong đề nghị thì phải thông báo cho bên được đề nghị và thông báo này chỉ có hiệu lực khi bên
được đề nghị nhận được thông báo trước khi trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
Đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt hiệu lực trong các trường hợp:
-

Bên nhận được đề nghị trả lời không chấp nhận
Hết thời hạn trả lời chấp nhận
Thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị có hiệu lực.
Thông báo về việc hủy bỏ đề nghị có hiệu lực
Theo thỏa thuận của bên đề nghị và bên nhận được đề nghị trong thời hạn chờ bên được đề nghị
trả lời.
ii)
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị đối với bên đề nghị về việc chấp
nhận toàn bộ nội dung của đề nghị. Thời hạn trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng được xác định khác
nhau trong các trường hợp sau:
-

-


Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực khi được thực
hiện trong thời gian đó; nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết thời hạn
trả lời thì chấp nhận này được coi là lời đề nghị mới của bên chậm trả lời.
Khi các bên trực tiếp giao tiếp với nhau, kể cả trong trường hợp qua điện thoại hoặc qua các
phương tiện khác thì bên được đề nghị phải trả lời ngay có chấp nhận hoặc không chấp nhận, trừ
trường hợp có thỏa thuận về thời hạn trả lời.

Bên được đề nghị giao kết hợp đồng có thể rút lại thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng nếu thông
báo đến trước hoặc cùng với thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng.
iii)

Thời điểm giao kết hợp đồng

Về nguyên tắc chung, hợp đồng được giao kết vào thời điểm các bên đạt được sự thỏa thuận. Thời điểm
giao kết hợp đồng được quy định khác nhau phụ thuộc vào cách thức giao kết và hình thức của hợp đồng.
Theo Bộ luật dân sự 2005, thời điểm giao kết hợp đồng được xác định:


-

-

Hợp đồng được giao kết gián tiếp bằng văn bản (thông qua các tài liệu giao dịch): thời điểm đạt
được sự thỏa thuận được xác định theo thuyết “tiếp nhận”, theo đó hợp đồng được giao kết khi
bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng.
Hợp đồng được giao kết bằng lời nói: thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm các bên đã thỏa
thuận về nội dung của hợp đồng. Các bên có thể sử dụng những biện pháp, chứng cớ hợp pháp để
chứng minh việc “các bên đã thỏa thuận” về nội dung của hợp đồng bằng lời nói.
Trong giao kết hợp đồng, sự im lặng của bên được đề nghị cho đến khi hết thời hạn trả lời cũng
có thể là căn cứ xác định hợp đồng đã được giao kết, nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp

nhận giao kết hợp đồng.

Câu 17:
Khi một hợp đồng trong thương mại được xác lập và có hiệu lực pháp luật, các bên có nghĩa vụ phải thực
hiện những nội dung đã thỏa thuận. Việc vi phạm các nghĩa vụ theo hợp đồng (không thực hiện, thực hiện
không đúng, thực hiện không đầy đủ) sẽ dẫn đến bên vi phạm phải chịu những chế tài do pháp luật quy
định tại điều 292, mục I, chương VII của Luật Thương mại, bao gồm các hình thức như sau:
1. Buộc thực hiện đúng hợp đồng
Buộc thực hiện đúng hợp đồng là hình thức chế tài, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng phải tiếp tục
thực hiện nghĩa vụ theo yêu cầu của bên bị vi phạm. Căn cứ để áp dụng chế tài là có hành vi vi phạm hợp
đồng và có lỗi của bên vi phạm. Biểu hiện cụ thể của việc áp dụng chế tài này là bên bị vi phạm yêu cầu
bên vi phạm thực hiện đúng các nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc dùng các biệp pháp khác để hợp đồng được
thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí tổn thất phát sinh.
2. Phạt hợp đồng
Phạt hợp đồng là hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng, theo đó bên vi phạm hợp đồng phải trả cho bên
bị vi phạm khoản tiền nhất định do pháp luật quy định hoặc do các bên thỏa thuận trên cơ sở pháp luật.
Chế tài phạt hợp đồng có mục đích chủ yếu là trừng phạt, tác động vào chủ thể của các chủ thể hợp đồng
nhằm giáo dục ý thức tôn trọng hợp đồng , phòng ngừa vi phạm hợp đồng. Với mục đích như vậy, phạt
hợp đồng được áp dụng phổ biến đối với các vi phạm hợp đồng.
Chế tài phạt hợp đồng chỉ áp dụng nếu trong hợp đồng có thỏa thuận về việc áp dụng chế tài này, để áp
dụng chế tài này cần có hai căn cứ là có hành vi vi phạm hợp đồng và có lỗi của bên vi phạm. Mức tiền
phạt vi phạm hợp đồng bị giới hạn bởi pháp luật (các bên có quyền thỏa thuận về mức phạt nhưng không
được vượt quá mức phạt do pháp luật quy định). Theo Luật Thương mại, mức phạt đối với vi phạm nghĩa
vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng nhưng
không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm.
3. Bồi thường thiệt hại
Bồi thường thiệt hại là hình thức chế tài được áp dụng nhằm khôi phục, bù đắp những lợi ích vật chất bị
mất của bên bị vi phạm hợp đồng. Với mục đích này, bồi thường thiệt hại chỉ được áp dụng khi có thiệt
hại xảy ra.



Về nguyên tắc, bên vi phạm phải bồi thường toàn bộ những thiệt hại vật chất cho bên bị vi phạm. Tuy
nhiên các khoản thiệt hại đòi bồi thường phải nằm trong phạm vi được pháp luật ghi nhận. Bên yêu cầu
bồi thường thiệt hại phải chứng minh tổn thất, mức độ tổn thất do hành vi vi phạm gây ra và khoản lợi
trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu như không có hành vi vi phạm hợp đồng và phải có
trách nhiệm hạn chế tổn thất xảy ra.
4. Tạm ngừng hợp đồng
Tạm ngừng thực hiện hợp đồng là hình thức chế tài, theo đó một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ
hợp đồng. Khi hợp đồng bị tạm ngừng thực hiện thì hợp đồng vẫn còn hiệu lực.
5. Đình chỉ hợp đồng
Đình chỉ thực hiện hợp đồng là hình thức chế tài, theo đó một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp đồng.
Khi hợp đồng bị đình chỉ thực hiện thì hợp đồng chấm dứt hiệu lực từ thời điểm một bên nhận được thông
báo đình chỉ. Các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có
quyền yêu cầu bên kia thanh toán hoặc thực hiện nghĩa vụ đối ứng.
6. Hủy bỏ hợp đồng
Hủy bỏ hợp đồng là hình thức chế tài, theo đó một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp đồng và làm cho
hợp đồng không còn hiệu lực từ thời điểm giao kết. Hủy bỏ hợp đồng có thể hủy bỏ một phần hoặc toàn
bộ hợp đồng. Các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ theo hợp đồng, trừ các thỏa thuận về
quyền và nghĩa vụ sau khi hủy bỏ hợp đồng và về giải quyết tranh chấp. Các bên có quyền đòi lại lợi ích
do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp đồng; nếu các bên đều có nghĩa vụ hoàn trả thì
nghĩa vụ của họ phải được thực hiện đồng thời; trường hợp không thể hoàn trả bằng chính lợi ích đã nhận
thì bên có nghĩa vụ phải hoàn trả bằng tiền.
7. Những lưu ý khác đối với việc áp dụng các hình thức trách nghiệm do vi phạm hợp đồng trong
thương mại
+ Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, bên bị vi phạm không được áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện
hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc hủy bỏ hợp đồng đối với những vi phạm không cơ bản.
+ Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, trong thời gian áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, bên
bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm nhưng không được áp dụng các chế tài
khác.
+ Trường hợp các bên không có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi

thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật thương mại có quy định khác.

Câu 18:
a, Theo điều 3, chương 1 Những quy định chung của Luật phá sản, doanh nghiệp, hợp tác xã không có
khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá
sản.
b, Các đối tượng có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp:


-

Các chủ nợ:

Khi nhận thấy doanh nghiệp, HTX lâm vào tình trạng phá sản thì các chủ nợ không có bảo đảm hoặc bảo
đảm một phần đều có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, HTX đó. Đơn yêu
cầu được gửi đến cho Tòa án có thẩm quyền.
-

Người lao động:

Trong trường hợp doanh nghiệp, HTX không trả được lương, các khoản nợ khác cho người lao động và
nhận thấy doanh nghiệp, HTX lâm vào tình trạng phá sản thì người lao động cử đại diện hoặc thông qua
đại diện công đoàn nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Sau khi nộp đơn, đại diện cho người lao động
hoặc đại diện công đoàn được coi là chủ nợ.
-

Doanh nghiệp, HTX lâm vào tình trạng phá sản:

Khi nhận thấy doanh nghiệp, HTX lâm vào tình trạng phá sản thì chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp
pháp của doanh nghiệp, HTX có nghĩa vụ phải nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp,

HTX đó.
-

Chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước:

Khi nhận thấy doanh nghiệp nhà nước lâm vào tình trạng phá sản mà doanh nghiệp không thực hiện nghĩa
vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì đại diện chủ sở hữu của doanh nghiệp có quyền nộp đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp đó.
-

Cổ đông công ty cổ phần:

Khi nhận thấy công ty cổ phần lâm vào tình trạng phá sản thì cổ đông hoặc nhóm cổ đông có quyền nộp
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo quy định của điều lệ công ty; nếu điều lệ công ty không quy định thì
việc nộp đơn được thực hiện theo nghị quyết của đại hội cổ đông.
-

Thành viên hợp danh:

Khi nhận thấy công ty hợp danh lâm vào tình trạng phá sản thì thành viên hợp danh có quyền nộp đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản đối với công ty hợp danh đó.
Chú ý: Những đối tượng trên khi nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, kịp
thời các tài liệu do pháp luật quy định và theo yêu cầu của Tòa án trong quá trình tiến hành thủ tục phá
sản.
Ngoài ra, trong khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ nếu nhận thấy doanh nghiệp, HTX lâm vào tình trạng
phá sản thì Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thanh tra, cơ quan quản lý vốn, tổ chức kiểm toán hoặc cơ
quan quyết định thành lập doanh nghiệp mà không phải là chủ sở hữu nhà nước của doanh nghiệp đó có
nhiệm vụ thông báo bằng văn bản cho những người có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản biết để
họ xem xét việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Cơ quan thông báo phải chịu trách nhiệm về tính
chính xác của thông báo đó.


Câu 19:


1. Tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản
Sau khi có quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản, toàn bộ tài sản của doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng
phá sản được thu hồi và bán đấu giá để chi phí cho việc phá sản và trả nợ cho các chủ nợ (ta gọi là giá trị
còn lại của doanh nghiệp). Theo Luật phá sản, tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá
sản bao gồm:
-

-

Tài sản và quyền về tài sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã có tại thời điểm Tòa án thụ lý đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản.
Các khoản lợi nhuận, các tài sản và các quyền về tài sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã sẽ có do
việc thực hiện các giao dịch được xác lập trước khi Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Tài sản là vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp, hợp tác xã. Trường hợp thanh toán
tài sản là vật bảo đảm được trả nợ cho các chủ nợ có bảo đảm, nếu giá trị của vật bảo đảm vượt
quá khoản nợ có bảo đảm phải thanh toán thì phần vượt quá đó là tài sản của doanh nghiệp, hợp
tác xã.
Giá trị quyền sử dụng đất của doanh nghiệp, hợp tác xã được xác định theo quy định của pháp
luật về đất đai.

Ngoài các loại tài sản trên, tài sản của doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh lâm vào tình trạng phá
sản còn bao gồm cả tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh không trực tiếp dùng
vào hoạt động kinh doanh.
Bên cạnh đó, những loại tài sản đã được doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản giao
dịch bị coi là vô hiệu trong khoảng thời gian ba tháng trước ngày tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản, cũng được coi là tài sản nằm trong diện phải được thu hồi để bán đấu giá nhằm chi phí cho

việc phá sản và trả cho các chủ nợ, cụ thể những loại tài sản trong giao dịch gồm:
-

Tặng cho động sản và bất động sản cho người khác;
Thanh toán hợp đồng song vụ trong đó phần nghĩa vụ của doanh nghiệp, hợp tác xã rõ ràng là lớn
hơn phần nghĩa vụ của bên kia;
Thanh toán các khoản nợ chưa đến hạn;
Thực hiện việc thế chấp, cầm cố tài sản đối với các khoản nợ;
Các giao dịch khác với mục đích tẩu tán tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.

2. Thứ tự ưu tiên phân chia giá trị tài sản còn lại
Việc phân chia giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp được thực hiện theo thứ tự ưu tiên sau đây:
i)
ii)
iii)

Phí phá sản
Các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật và các
quyền lợi khác theo thỏa ước lao động tập thể và hợp đồng lao động đã kí kết
Các khoản nợ không có bảo đảm phải trả cho các chủ nợ trong danh sách chủ nợ theo nguyên
tắc nếu giá trị tài sản đủ để thanh toán các khoản nợ thì mỗi chủ nợ đều được thanh toán đủ số
nợ của mình; nếu giá trị tài sản không đủ để thanh toán các khoản nợ thì mỗi chủ nợ chỉ được
thanh toán một phần khoản nợ của mình theo tỷ lệ tương ứng.


Trường hợp giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã sau khi đã thanh toán đủ các khoản quy định mà
vẫn còn thì phần còn lại thuộc về:
-

Xã viên hợp tác xã

Chủ doanh nghiệp tư nhân
Các thành viên của công ty, các cổ đông của công ty cổ phần
Chủ sỡ hữu doanh nghiệp nhà nước.

Câu 20:

Các phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại

1. Thương lượng
Thương lượng là hình thức giải quyết tranh chấp thương mại thường không cần đến vai trò tác động của
bên thứ ba. Đặc điểm cơ bản của hình thức này là các bên cùng nhau bàn bạc, thỏa thuận để tự giải quyết
các bất đồng.
Thương lượng được thực hiện theo hai phương án sau:
-

Thương lượng trực tiếp: là hình thức giải quyết tranh chấp trong đó hai bên trực tiếp gặp nhau để
bàn bạc, thương lượng giải quyết các bất đồng mâu thuẫn trong kinh doanh.
+ Ưu điểm: Các bên có lợi ích xung đột nhau có thể nhanh chóng hiểu được nguyên nhân, bản
chất của xung đột, mâu thuẫn, từ đó có thể tìm ra được giải pháp giải quyết phù hợp.
+ Nhược điểm: Kết quả của thương lượng là tốt hay xấu phụ thuộc rất lớn vào kĩ năng đàm phán
của các bên và yếu tố tâm lý, tình cảm của các bên đối với nhau. Ngoài ra, thương lượng trực tiếp
thường phát sinh các chi phí lớn hơn so với thương lượng gián tiếp do các bên phải di chuyển đến
một địa điểm nhất định để trực tiếp gặp nhau.

-

Thương lượng gián tiếp: là hình thức giải quyết tranh chấp trong đó hai bên không trực tiếp gặp
nhau để bàn bạc, thương lượng giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn trong kinh doanh. Trong
thương mại điện tử, thương lượng gián tiếp có thể thực hiện được thông qua các phương tiện điện
tử.

+ Ưu điểm: Chi phí dành cho quá trình thương lượng gián tiếp thường ít hơn so với thương lượng
trực tiếp, vì các bên có thể dùng các phương tiện khác nhau, trong đó có phương tiện điện tử để
trao đổi thông tin mà không phải trực tiếp gặp nhau. Mặt khác, quá trình thương lượng không bị
chi phối bởi yếu tố tâm lý của các bên đối tác vì họ không trực tiếp mặt đối mặt. Ngoài ra, các câu
chữ, ngôn từ được dùng trong quá trình thương lượng thường được “trau chuốt”, cân nhắc cẩn
thận trước khi phát ngôn bằng các phương tiện khác nhau, vì vậy cũng góp phần đáng kể giảm
thiểu các hiểu lầm quan điểm của nhau, giúp cho việc giải quyết các bất đồng một cách tốt nhất,
thỏa mãn các yêu cầu của hai bên.
+ Nhược điểm: Quá trình thương lượng gián tiếp thường mất nhiều thời gian hơn so với thương
lượng trực tiếp, từ đó dẫn đến mất cơ hội kinh doanh. Bên cạnh đó, quá trình thương lượng gián
tiếp có kết quả tốt hay không phụ thuộc không nhỏ vào kĩ năng “chắp bút” của các bên.

2. Hòa giải
Hòa giải là hình thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ ba, đóng vai trò làm trung gian hỗ
trợ hoặc thuyết phục các bên tranh chấp tìm kiếm các giải pháp nhằm chấm dứt xung đột hay bất hòa.


Cũng như thương lượng, hòa giải là biện pháp tự nguyện tùy thuộc vào sự lựa chọn của các bên tham gia
tranh chấp. Đặc biệt là bên thứ ba với tính chất trung gian hòa giải phải có vị trí độc lập đối với các bên.
-

Ưu điểm: Với sự xuất hiện của bên thứ ba, hoàn toàn độc lập và khách quan, đứng ngoài vụ việc,
cho nên các giải pháp, khuyến nghị được đưa ra bởi bên này thường có tính khách quan cao, đảm
bảo hài hòa được quyền lợi của các bên tranh chấp. Ngoài ra, thông qua phương pháp hòa giải,
các bên có thêm điều kiện hiểu nhau, từ đó mối quan hệ đối tác thêm bền vững.
- Nhược điểm: Vì có sự hiện diện của bên thứ ba nên nguy cơ bị lộ các bí mật kinh doanh là rất
lớn. Bên cạnh đó, việc các bên có thực hiện hay không thực hiện các cam kết của họ phụ thuộc
phần lớn vào thiện chí của bên đó. Nếu không vụ việc lại phải tiếp tục được giải quyết theo các
phương thức khác.
3. Trọng tài thương mại

Trọng tài thương mại là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của trọng tài với tư cách là
bên thứ ba độc lập nhằm chấm dứt xung đột bằng việc đưa ra một phán quyết buộc các bên tham gia tranh
chấp phải thực hiện.
Trên cơ sở tương quan với các phương thức giải quyết tranh chấp khác, phương thức giải quyết tranh
chấp trong kinh doanh thương mại bằng trọng tài có một số ưu và nhược điểm sau đây:
i)
-

Ưu điểm:
Cơ sở để đảm bảo cho tranh chấp được giải quyết nhanh chóng và thấu đáo.
Cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nhìn chung mềm dẻo, linh hoạt, phù hợp với môi
trường kinh doanh. Điều này thể hiện ở những điều sau:
+ Cho phép lựa chọn luật áp dụng và áp dụng các tập quán quốc tế
+ Được lựa chọn hình thức trọng tài để giải quyết tranh chấp: Các bên có thể lựa chọn hình thức
giải quyết theo hình thức trọng tài quy chế hoặc trọng tài vụ việc.
+ Các bên tranh chấp có thể thỏa thuận lựa chọn trọng tài viên hoặc hội đồng trọng tài để giải
quyết tranh chấp.
+ Các bên có thể thỏa thuận về địa điểm giải quyết tranh chấp
+ Thỏa thuận của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp luôn được trọng tài tôn trọng và
đảm bảo thực hiện nếu chúng không trái pháp luật, đạo đức xã hội.

-

Nếu các bên đã thỏa thuận giải quyết bằng trọng tài thì việc một bên có thiện chí hay không
không làm ảnh hưởng đáng kể đến tiến trình giải quyết vụ việc.
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, nhằm đảm bảo cho việc giải quyết được nhanh chóng,
khách quan, bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên, pháp luật quy định cho trọng tài có một số
quyền hạn giống như tòa án như tòa án như: triệu tập nhân chứng, thu thập chứng cứ, áp dụng các
biện pháp khẩn cấp tạm thời…
Phán quyết trọng tài là chung thẩm và có hiệu lực kể từ ngày ban hành. Phán quyết trọng tài được

thi hành theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài được tiến hành không công khai, trừ trường hợp các bên có
thỏa thuận khác, do đó vẫn hoàn toàn có khả năng giữ được các bí mật trong kinh doanh.

-

-

ii)
Nhược điểm:
- Chỉ có thể giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nếu như các bên có thỏa thuận bằng văn bản trước
hoặc sau khi phát sinh tranh chấp.


-

Về nguyên tắc, việc giải quyết tranh chấp bằng cơ chế trọng tài dù sao vẫn tiềm ẩn nguy cơ lộ các
bí mật kinh doanh giữa các bên tranh chấp.
- Chi phí giải quyết tranh chấp theo thủ tục trọng tài là khá tốn kém: các bên thường phải bỏ ra các
chi phí không nhỏ cho việc thuê luật sư, phí trọng tài và các chi phí khác phục vụ cho quá trình
giải quyết vụ việc… Ngoài ra, theo quy định của Luật trọng tài thương mại năm 2010, bên thua
kiện phải chịu phí trọng tài, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc quy tắc tố tụng trọng
tài quy định khác hoặc Hội đồng trọng tài có sự phân bổ khác.
- Nếu một bên tranh chấp không chiếm ưu thế về nguồn chứng cứ nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình thì nguy cơ chịu nhiều thiệt hại nếu thua kiện là rất cao.
- Cũng giống như cơ chế giải quyết bằng tòa án, việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có thể
dẫn đến mối quan hệ bạn hàng, đối tác sẽ bị rạn nứt, thậm chí mất bạn hàng, cắt đứt quan hệ đối
tác.
4. Tòa án
Tòa án là hình thức giải quyết tranh chấp do cơ quan Tòa án của nhà nước thực hiện. Thông thường thì

hình thức này được tiến hành khi mà việc áp dụng các biện pháp như thương lượng hoặc hòa giải không
có hiệu quả và các bên tranh chấp cũng không thỏa thuận được vụ tranh chấp sẽ được giải quyết bằng
trọng tài.

i)
-

-

-

Ưu điểm
Việc giải quyết tranh chấp có sự góp mặt của bên thứ ba là tòa án, với tư cách là cơ quan nhà
nước, chuyên giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại, đại diện cho quyền lực nhà
nước để tuyên án sẽ là cơ sở rất quan trọng đảm bảo cho tranh chấp được giải quyết thấu tình đạt
lý.
Việc các đương sự tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp là nghĩa vụ trên cơ sở quy định
của pháp luật mà không phụ thuộc vào việc thiện chí của các bên là ít hay nhiều.
Trong quá trình giải quyết vụ việc, nhằm đảm bảo cho việc giải quyết được nhanh chóng, khách
quan, bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên, tòa án trên cơ sở pháp luật quy định, có một số
quyền triệu tập nhân chứng, thu thập chứng cứ, áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời…
Bản án của tòa án có hiệu lực thi hành theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự và pháp luật về
thi hành án dân sự.

ii)
Nhược điểm
- Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp bằng tòa án nhìn chung là tương đối phức tạp, mất nhiều
thời gian và nguồn nhân lực, điều đó dễ tạo sự ngần ngại cho các đương sự khi lựa chọn phương
pháp này.
- Việc giải quyết tranh chấp bằng cơ chế tòa án dễ dẫn đến việc các bí mật kinh doanh giữa các bên

tranh chấp bị tiết lộ.
- Chi phí giải quyết tranh chấp theo thủ tục tòa án là khá tốn kém. Các bên thường phải bỏ ra các
chi phí không nhỏ cho việc thuê luật sư, án phí và các chi phí khác phục vụ cho quá trình giải
quyết vụ án,… Ngoài ra, theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, bên thua kiện phải
chịu án phí và các chi phí khác cho việc giải quyết vụ án.
- Nếu một bên tranh chấp không chiếm ưu thế về nguồn chứng cứ nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp
của mình thì nguy cơ chịu nhiều thiệt hại nếu thua kiện là rất cao.


×