Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

NGUYÊN NHÂN, hậu QUẢ và BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC sự NÓNG lên của TRÁI đất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.55 KB, 13 trang )

Nguyên nhân, hậu quả và biện pháp khắc phục sự nóng lên của trái đất?
Bài làm
Trong khoảng vài chục năm trở lại đây, trên các đài, báo và các
phương tiện thông tin đại chúng, đã rất nhiều lần đề cập tới vấn đề sự nóng lên
của trái đất, và ai trong mỗi chúng ta đều ít nhiều biết được nguyên nhân của
nó, nhưng để hiểu được một cách sâu sắc về nguyên nhân, hậu quả và biện
pháp khắc phục sự nóng lên của trái đất thì không phải ai trong chúng ta cũng
có thể hiểu hết được. Vậy ta sẽ đi làm rõ các vấn đề trên.
Trước hết cần hiểu rõ sự nóng lên của trái đất là gì? Đó là hiện tượng
nhiệt độ trung bình của không khí và các đại dương trên Trái Đất tăng lên theo
các quan sát trong các thập kỷ gần đây. Trong thế kỉ 20, nhiệt độ trung bình
của không khí gần mặt đất đã tăng 0,6 ± 0,2 °C (1,1 ± 0,4 °F). Vậy nguyân
nhân nào đã dẫn tới điều này? Cú rất nhiều nguyân nhõn dẫn tới sự nỉng lờn
của trỏi đất, nhưng nguyân nhõn chủ yếu, cơ bản và cú tớnh quyết định nhất là
hiệu ứng nhà kính? Vậy chơng ta hiểu hiệu ứng nhà kính là gỡ? Khỏi niệm
hiệu ứng nhà kính là một khỏi niệm lần đầu tiân, được đưa ra bởi Jean Baptiste
Joseph Fourier (người Pháp). Khái niệm này dựng để chỉ hiệu ứng xảy ra khi năng
lượng bức xạ của tia nắng mặt trời xuyên qua cửa sổ (hoặc mái nhà bằng kính)
một cách dễ dàng nhưng khi các vật thể trong nhà do hấp thụ bức xạ mặt trời nóng
lên thì lại sản xuất ra tia hồng ngoại (mà tia hồng ngoại lại khó xuyên qua kính để
ra ngoài). Vì vậy, nhiệt như bị “nhốt” lại ở phía trong khiến cho nhà bị nóng lên.
Các bức xạ của mặt trời đi qua lớp khí quyển đến mặt đất cũng tương tự
như vậy. Các bước sóng ngắn xuyên qua khí quyển tương đối dễ dàng đi xuống
mặt đất làm nóng những vật thể hấp thụ ánh sáng mặt trời trên mặt đất. Khi nóng
lên, các vật thể này lại bức xạ nhưng vì nhiệt độ thấp nên bước sóng của các tia

1


bức xạ này dài, vào cỡ tia hồng ngoại. Khi bức xạ hồng ngoại đi vào khí quyển,
nếu trong khí quyển có CO 2 thì các phân tử CO2 hấp thụ hồng ngoại rất mạnh (do


cấu tạo của phân tử CO 2, tia hồng ngoại kích thích mạnh các dao động nguyên tử
trong phân tử CO2). Vì vậy, tia hồng ngoại (tức là sức nóng) không thoát ra khỏi
khí quyển được mà bị nhốt lại, khiến trái đất nóng lên. Như vậy, các phân tử khí
CO2 trong khí quyển có tác dụng như là lớp kính ở hiệu ứng nhà kính. Trong khí
quyển không phải chỉ có CO2 gây ra hiệu ứng nhà kính mà còn nhiều loại nữa như
hơi nước, mê tan, CFC... nhưng do thành phần của CO 2 là nhiều nhất nờn ta lõu
nay vẫn thường coi, khớ gõy ra hiệu ứng nhà kính là khớ CO 2 , và tất cả cỏc khớ
trờn được gọi chung là khớ nhà kính. Nguồn gốc sinh ra khớ CO 2 cú rất nhiều
nhưng tựu chung có những nguyân nhõn sau đã làm gia tăng sự phát thải khớ CO 2
trong khớ quyển là:
Chu trình cacbon
Các nhà khoa học tính toán rằng, khoảng 4,5 tỷ năm trước đây, khi trái đất
bắt đầu hình thành, CO2 có thể chiếm đến 80% trong khí quyển. Nhưng cách đây 2
tỷ năm, lượng CO2 chỉ còn khoảng 20-30%.
Trong khí quyển còn nhiều CO2 nên sự sống vẫn tồn tại. Cây cối quang hợp
rất mạnh làm cho nồng độ CO 2 giảm xuống và lượng oxy trong khí quyển tăng
lên.
Quá trình quang hợp tạo ra phản ứng: CO 2 + H2O + năng lượng mặt trời → O2 +
đường.
Cây cối cũng như động vật khi hít thở tạo ra phản ứng: Đường + O 2 → CO2 + H2O
+ năng lượng.

2


Ngoài ra, khi cây cối và động vật chết, xác chết bị phân huỷ làm cho CO 2
thoát ra. Lượng CO2 ra khỏi khí quyển hàng năm được cân bằng với lượng CO 2
sinh ra do thở và do phân hủy. Nhờ cơ chế này mà môi trường được ổn định.
Đốt phá rừng
Khi cây cối chết, chúng thải CO 2 ra, đó là quá trình bình thường của chu

trình cacbon. Nhưng khi cây cối bị đốn chặt để làm chất đốt thì CO 2 thải ra không
khí nhiều hơn, vì thế tốc độ thải CO 2 càng gia tăng khi con người gia tăng việc
đốn hạ cây xanh làm chất đốt. Nếu cây cối bị đốn hạ để làm vật liệu xây dựng, nhà
cửa... mà không đốt thì CO2 không phát thải nhiều, nhưng do thiếu cây xanh nên
sự hấp thụ CO2 trong không khí giảm đi và lượng CO2 tăng lên. Theo thống kê của
Liên hợp quốc, việc phá rừng mạnh trong 2 thập kỷ 80 và 90 (thế kỷ XX) đã làm
cho lượng CO2 trong không khí tăng lên, đồng thời lượng oxy trong không khí
giảm đi rõ rệt.
Nhiên liệu hoá thạch
Nguồn CO2 nữa là do lượng cacbon rất lớn đã được lưu trữ từ trước đây.
Cacbon trong nhiên liệu hoá thạch được lưu trữ từ hàng triệu năm trước vì cơ thể
sống không bị phân hủy hoàn toàn, cacbon không bị phát thải vào khí quyển dưới
dạng CO2, trái lại được lưu trữ trong lòng đất. Trong khi khai thác và đốt nhiên
liệu hoá thạch, CO2 mới được phát thải ra nhiều. Như vậy, việc đốt nhiên liệu hoá
thạch đã nhanh chóng làm cho cacbon bị giam giữ hàng triệu năm trước phát thải
mạnh lượng CO2. Đây là nguyên nhân lớn nhất làm ô nhiễm bầu không khí.
Ngoài ra, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa sinh ra hàng loạt các
loại nhà máy phun khí thải, sự phun trào của nơi lửa, chất thải trực tiếp ra môi
trường, khói bụi của hàng tỷ xe cộ dựng nguyên liệu hóa thạch như xăng dầu,
những chất thải này phần lớn là khớ CO2 , nếu bầu khí quyển có quá nhiều khí

3


này thì khi ánh nắng mặt trời chiếu vào sẽ bị giữ lại nhiệt làm tăng nhiệt độ
của bề mặt trái đất.
Trờn cơ sở của cỏc nguyân nhõn chủ quan( do con người tạo ra) và
khỏch quan( do thiân nhiân như: sự phun trào của nơi lửa, sự phân hủy xỏc
động thực vật...) đã làm cho trỏi đất của chơng ta nỉng dần lờn, và đã tỏc
động, ảnh hưởng nghiâm trọng đến cuộc sống của nhõn loại. Biểu hiện cụ thể

của sự tỏc động này là:
Tỏc động đối với thiân nhiân và con người: Tình trạng ấm dần lên của
trái đất tác động lớn đến thời tiết. Nhiệt độ tăng khiến băng ở Bắc Cực tan
chảy, mực nước biển dâng lên, theo nghiên cứu thì mực nước biển vào năm
2090 – 2100 sẽ dâng cao 0,18 – 0,59m so với mực nước biển năm 1980 –
1999. Với tình trạng này, các tuyến giao thương đường thủy được mở rộng vì
băng ở cực co lại, cỏc vùng sản xuất lương thực trự phơ, cỏc khu vực đông
dân cư, cỏc đồng bằng lớn, nhiều đảo thấp sẽ bị chìm dưới nước biển. Tuy
nhiên, hiện tượng này cũng có thể làm cho dòng muối nhiệt chậm lại, làm tăng
cường độ các cơn bão (nhưng giảm tần suất), thời tiết sẽ trở nên khắc nghiệt
hơn. Trái đất nóng dần lên khiến cho tầng ozone bị suy giảm, khí hậu thay đổi
thất thường khiến ngành nông nghiệp gặp nhiều khó khăn, hơn thế nữa khí
hậu thay đổi sẽ khiến phạm vi tồn tại của những vật chủ trung gian lây nhiều
bệnh cũng thay đổi theo, tình trạng bệnh sẽ lây lan nhanh và rộng hơn, làm gia
tăng bệnh sốt rét và sốt xuất huyết.
Khí CO2 trong không khí ngày càng nhiều sẽ làm tăng mức độ hấp thụ
CO2 của đại dương. Nhiệt và khí dioxide cacbon bị giữ lại trong lòng đại
dương có thể đến hàng trăm năm sau mới có thể thoát, điều này làm tăng độ
PH trong nước biển, ảnh hưởng tới hệ sinh thái dưới nước và chắc chắn nhiều

4


loài sinh vật cư ngụ trong lòng đại dương sẽ có nguy cơ tuyệt chủng vì bị gián
đoạn chuỗi thức ăn hoặc phải trải qua thời kỳ khó khăn để thích nghi với môi
trường sống mới.
Dự đoán về nhiều loài vật có thể tuyệt chủng do hậu quả của hiện tượng
trái đất nóng dần lên là hoàn toàn có căn cứ. Môi trường sống bị hủy hoại
cộng thêm khí hậu thay đổi khiến cho ngay cả khả năng sống của thực vật và
các khu rừng cũng bị đe dọa nghiêm trọng. Nhiệt độ nóng dần lên khiến hiện

tượng cháy rừng xảy ra thường xuyên, cây hít khí CO2 và nhả oxy, chính vì
thế lại càng tạo nên một vòng luẩn quẩn khi oxy “tiếp sức” cho lửa và các đám
cháy lại càng dữ dội hơn cũng như thải ra nhiều khí CO2 hơn.
Điều quan trọng nhất chính là hiện tượng ấm lên toàn cầu này ảnh
hưởng đến cuộc sống của con người và theo dự đoán thì cuộc sống con người
sẽ rơi vào khủng hoảng. Theo ước tính của Liên Hợp Quốc, từ nay đến năm
2050, sẽ có khoảng 150 triệu người phải rời bỏ nơi sinh sống, tình trạng di cư
cao sẽ ảnh hưởng đến an ninh của nhiều đất nước. Khả năng tranh chấp, chiến
tranh và sự chênh lệch giàu nghèo sẽ khiến cho chúng ta gặp nhiều khó khăn.
Nhưng trên hết chính là tình trạng sức khỏe của con người và các loại dịch
bệnh cũng theo nhiệt độ của trái đất tăng lên mà biến đổi và trở nên nguy hiểm
hơn nhiều.
Những bệnh như sốt xuất huyết và sốt rét trước đây quan niệm là bệnh
ở xứ nhiệt đới sẽ chuyển lên phía bắc và trở thành phổ biến do nhiệt độ tăng.
Những đợt nắng nóng sẽ làm chết nhiều người hơn ở nhiều vùng hơn trên thế
giới (đợt nắng nóng năm 2003 đã làm chết trên 70.000 ở Châu Âu). Năng suất
mùa màng sẽ giảm, dẫ tới mất an ninh lương thực. 800 triệu người phải làm
quen với việc đi ngủ cùng chiếc dạ dày trống rỗng. Nước khan hiếm dẫn tới
5


bệnh viêm loét dạ dày và suy dinh dưỡng tăng gấp bội. Những thiên tai như lũ
lụt rút nhanh do sự thay đổi bản đồ mưa và tan băng sẽ ngăn cản việc tiêu
thoát nước đến bệnh tiêu chảy và nhiều bệnh tật khác. Nhiều người ở thành
phố sẽ lâm vào cảnh thiếu nhà ở, xuất hiện các khu nhà ổ chuột, những bất
công về phúc lợi y tế, đặc biệt nguy hiểm khi có thiên tai, dịch bệnh. Một tỏc
động nữa đến tình hỡnh xó hội của nhõn loại, là cỏc tệ nạn xó hội nhiều hơn,
cũng như gia tăng khủng bố trờn thế giới.
Đó là những ảnh hưởng chung nhất về tình hình thế giới sẽ xảy ra như
vậy khi mà nhiệt độ trỏi đất ngày càng nỉng dần lờn. Những dẫn chứng cụ thể

cho những ảnh hưởng trờn là người ta đã tớnh toán rằng rừng mưa nhiệt đới
Amazon có thể thành sa mạc, Amazon là rừng mưa nhiệt đới lớn nhất thế
giới. Tuy nhiên, sự nóng lên của toàn cầu và nạn phá rừng đã làm biến đổi quy
luật của rừng. Cứ theo đà biến đổi như hiện nay, nhiều nhà khoa học đã nhận
định: “Rừng Amazon sẽ không còn xuất hiện vào năm 2050”. Sa mạc Sahara
trở nên xanh tươi. London và New York có thể biến mất dưới mực nước

biển năm 2100 do mực nước biển ngày càng dõng cao hơn. Nước
Indonesia cú thể sẽ bị mất 2000 đảo nhỏ năm 2030 như một hệ quả của hoạt
động gây tổn hại về môi trường và khai thác quá mức. Nước Indonesia đã mất
24 đảo trong hơn 17.500 đảo của mình. Quốc đảo Maldives có thể biến mất
vĩnh viễn, do Maldives nằm ở phía nam quần đảo Lakshadweep thuộc Ấn Độ.
Hai mươi đảo san của Maldives bao quanh một lãnh thổ gồm 1.192 đảo nhỏ
xinh đẹp. Nếu mực nước biển cứ dâng lên như hiện nay. Theo các nhà khoa
học cho rằng các quốc gia thấp và ven biển sẽ còn khoảng 100 năm nữa trước
khi nó hoàn toàn biến mất vào đại dương. Băng vỡ gây 'sóng thần' tại Peru,
những con sóng cao tới 23 m tấn công một thành phố tại Peru sau khi một
khối băng khổng lồ rơi xuống hồ. Tình trạng ấm lên toàn cầu đang đe dọa

6


cuộc sống của nhiều loài động vật tại Bắc Cực. Số lượng cá thể của nhiều loài
động vật ở Bắc Cực đã giảm tới 25% trong khoảng thời gian từ năm 1970 2004, theo kết quả của một cuộc khảo sát mới nhất tại Bắc Cực. Khớ hậu thay
đổi, dẫn tới mơi trường sống thay đổi các khoa học đã có bằng chứng cho thấy
gấu trắng, bắt đầu ăn thịt nhau do tình trạng ấm lên toàn cầu phá hủy những
khu vực săn mồi của chúng... Cũn rất nhiều những vớ dụ nữa trờn thế giới,
cho thấy ảnh hưởng tai hại của sự biến đổi khớ hậu khi mà trỏi đất càng nỉng
dần lờn. Đõy chỉ là những dẫn chứng điển hỡnh.
Trờn đõy là những tỏc động, ảnh hưởng trờn thế giới khi mà trỏi đất

nỉng dần lờn, cũn đối với Việt Nam chơng ta thì sự nỉng lờn của trỏi đất đã cú
những ảnh hưởng tỏc động ra sao? Liệu cú gõy ra những ảnh hưởng nghiêm
trọng khụng?
Việt Nam là một trong bốn nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của sự
biến đổi khớ hậu và dâng cao của nước biển. Theo thống kê, số đợt không khí
lạnh ảnh hưởng đến Việt Nam giảm rõ rệt trong vòng 2 thập kỷ qua. Từ 29 đợt
mỗi năm (từ 1971 - 1980) xuống còn 15 - 16 đợt mỗi năm từ 1994 - 2007. Số
cơn bão trên biển Đông ảnh hưởng đến nước ta cũng ngày càng ít đi nhưng
ngược lại số cơn bão mạnh có chiều hướng tăng lên, mùa bão kết thúc muộn,
quỹ đạo của bão trở nên dị thường và số cơn bão ảnh hưởng đến khu vực Nam
Trung bộ, Nam bộ ngày càng tăng. Bên cạnh đó, số ngày mưa phùn ở miền
Bắc giảm một nửa (từ 30 ngày/năm trong thập kỷ 1961 - 1970 xuống còn 15
ngày/năm trong thập kỷ 1991 - 2000). Lượng mưa biến đổi không nhất quán
giữa các vùng, hạn hán có xu hướng mở rộng, đặc biệt là ở khu vực Nam
Trung bộ (trong đó có Khánh Hòa), dẫn đến gia tăng hiện tượng hoang mạc
hóa. Hiện tượng Elnino và Lanina ảnh hưởng mạnh đến nước ta trong vài thập
kỷ gần đây, gây ra nhiều đợt nắng nóng, rét đậm rét hại kéo dài có tính kỷ lục.
7


Dự đoán vào cuối thế kỷ XXI, nhiệt độ trung bình nước ta tăng khoảng 30C
và sẽ tăng số đợt và số ngày nắng nóng trong năm; mực nước biển sẽ dâng cao
lên 1m. Điều này dẫn đến nhiều hiện tượng bất thường của thời tiết. Đặc biệt
là tình hình bão lũ và hạn hán. Nước biển dâng dẫn đến sự xâm thực của nước
mặn vào nội địa, ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn nước ngầm, nước sinh hoạt
cũng như nước và đất sản xuất nông - công nghiệp. Nếu nước biển dâng lên
1m sẽ làm mất 12,2% diện tích đất là nơi cư trú của 23% dân số (17 triệu
người) của nước ta. Trong đó, khu vực ven biển miền Trung sẽ chịu ảnh
hưởng nặng nề của hiện tượng biến đổi khớ hậu và dâng cao của nước biển.
Riêng đồng bằng sông Cửu Long, dự báo vào năm 2030, khoảng 45% diện

tích của khu vực này sẽ bị nhiễm mặn cục độ và gây thiệt hại mùa màng
nghiêm trọng do lũ lụt và ngập úng. Nếu không có kế hoạch đối phó, phần lớn
diện tích của đồng bằng sông Cửu Long sẽ ngập trắng nhiều thời gian trong
năm và thiệt hại ước tính sẽ là 17 tỷ USD. Biến đổi khớ hậu còn kéo theo sự
thay đổi của thời tiết, ảnh hưởng trực tiếp đến cây trồng, sản xuất nông, lâm,
công nghiệp và nuôi trồng, đánh bắt thủy - hải sản. Tại Việt Nam, những năm
qua, thiệt hại do bão lũ gây ra là vô cùng lớn, đặc biệt là khu vực miền Trung.
Gần đây nhất là đợt rét đậm rét hại kéo dài 33 ngày tại Bắc bộ đã làm 33.000
trâu bò, 34.000 ha lúa cấy, hàng chục ngàn ha mạ non và hàng ngàn ha nuôi
trồng thủy sản bị chết, thiệt hại lên tới hàng ngàn tỷ đồng...
Đứng trước những thỏch thức của biến đổi khớ hậu do sự nỉng lờn của
trỏi đất, thì nhõn loại cả thế giới đã làm gỡ? Liệu cú cỏch cũng như biện pháp
nào hiệu quả để giải quyết cỏc vấn đề trân khụng? Đõy thực sự là một câu hỏi
lớn đang đặt ra cho toàn thế giới. Buộc cỏc quốc gia trờn thế giới phải ngồi lại
bờn nhau để tìm ra cỏch khắc phục, đã cú rất nhiều cỏc cuộc họp, hội nghị
cũng như nghị định thư được đưa ra để cỏc quốc gia cựng chung tay giải

8


quyết tiâu biểu đó là hội nghị Copenhagen( Đan Mạch) về biến đổi khớ hậu,
nghị định thư Kyoto( thành lập tháng 12/1997 ở thành phố Kyoto (Nhật Bản)
nhằm cắt giảm lượng khớ nhà kính). Trải qua hàng loạt cuộc thương thảo để
phê duyệt, ký kết kéo dài trong 10 năm, mãi đến tháng 12/2007 đã có 175
quốc gia và vùng lãnh thổ cam kết từ giai đoạn 2008 – 2012 sẽ giảm phát thải
khớ nhà kính và tới năm 2012 sẽ đạt 5% của lượng phát thải 1990.
Đáng tiếc, cho đến nay, Hoa Kỳ là nước phát thải khớ nhà kính nhiều
nhất vào khí quyển (trên 20% toàn thế giới) lại đứng ngoài vạch cam kết.
Để nối tiếp, Nghị định thư Kyoto sắp hết hạn vào năm 2012, Liân hợp
quốc vừa tổ chức hội nghị Bali (Indonesia) vào giữa tháng 12/2007. Ở Hội

nghị này các nhà khoa học cung cấp thêm nhiều dữ liệu chính xác để các quốc
gia yên tâm và đồng thuận hơn trong việc cắt giảm phát thải khớ nhà kính.
Thế nhưng đến ngày kết thúc, cũng quốc gia phát thải khớ nhà kính nhiều nhất
thế giới lại chưa tán thành văn bản cuối cùng của hội nghị, nên lộ trình Bali
(Bali Road Map) phải kéo dài thêm 2 năm nữa, năm 2008 sẽ họp tại thành phố
Poznan của Ba Lan, năm 2009 họp tại Kopenhagen – thủ đô Đan Mạch.
Ta thấy rằng vấn đề biến đổi khớ hậu do sự nỉng lờn của trỏi đất, là một
vấn đề hết sức khỉ khăn khi đòi hỏi sự đồng thuận giải quyết của cỏc quốc gia,
đặc biệt là đối với Hoa kỳ. Nhưng dự cú khỉ khăn thì cả nhõn loại thế giới vẫn
đang khụng ngừng nỗ lực tìm ra mọi biện pháp khắc phục sự nỉng lờn của trỏi
đất. Cỏc nhà khoa học đã nghĩ ra những ý tưởng giảm thiểu tới mức tối đa, sự
tăng lờn của nhiệt độ trỏi đất do lượng khớ thải nhà kính gõy ra đó là:
Con người cần phải sử dụng năng lượng một cỏch hợp lý, chẳng hạn
như máy điều hòa không khí sử dụng nhiều điện cho việc làm lạnh và làm
9


nóng. Để sản xuất nguồn điện này, các nhà máy phát điện phải đốt cháy nhiên
liệu và sản sinh ra khí CO2, một trong những nguyên nhân làm cho trái đất ấm
dần lờn. Máy điều hòa sử dụng nhiều năng lượng điện. Mức tiêu thụ năng
lượng khi sử dụng máy điều hồ trong một hộ gia đình trung bình khoảng
25.2% nhiều hơn Tivi và tủ lạnh, nó chỉ ra số lượng phát sinh ra khí CO 2 trong
thời gian sử dụng máy. Đó là lý do tại sao quan trọng khi mua máy điều hòa
xử lý hiệu quả năng lượng và tránh lãng phí điện.
Cú thể dựng biện pháp hạn chế sau: HFC là chất không gây hại đến
tầng Ozone. Nhiều nước phát triển trên thế giới đã cấm sử dụng CFC và thay
đổi bằng HCFC (tác hại bằng từ 1/10 đến 1/50 so với CFC). Và ngày nay các
nước này cũng đang thay thế dần HCFC bằng HFC không có khả năng gây hại
tầng Ozone.Theo Nghị định thư Motreal, Canada năm 1987, thì các nước phát
triển đã ngưng sản xuất CFC từ 1995, và tiến đến ngưng sản xuất HCFC vào

năm 2020.
Chơng ta cũng cú thể giảm thiểu sự nỉng lân của trỏi đất, bằng biện
pháp tỏi sử dụng lại, những gỡ cú thể dựng được cú như là những vật dụng
cũn rất hữu ích chẳng hạn
Ngoài việc đốc thúc các quốc gia, tổ chức quốc tế áp dụng các biện
pháp thiết thực làm giảm thiểu lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính, các nhà
khoa học đang tìm mọi cách để cứu trái đất. Cho dù rất khó khả thi nhưng ít
nhiều cũng mở ra được một cách nhìn mới đó là:
Sử dụng kĩ thuật “chôn CO2 dưới đáy biển”: Các nhà khoa học Anh
gần đây đã tìm ra một cách giải quyết cho vấn đề trái đất nóng lên, đó là chôn
CO2 gây hiệu ứng nhà kính xuống đáy đại dương. Họ tin rằng mỗi năm có thể
10


giấu được hàng triệu tấn CO2 xuống đáy Bắc Hải. Họ đã chọn mỏ dầu Millet
của Công ty dầu khí Anh làm nơi thử nghiệm đầu tiên. Họ sử dụng kỹ thuật
hoá lỏng CO2, thông qua đường dẫn dầu (không còn sử dụng) bơm CO2 về mỏ
dầu Millet. Bằng cách này, mỗi năm mỏ Millet có thể tiếp nhận được 5 triệu
tấn CO2 hoá lỏng và thời gian lưu trữ có thể lên đến 1 vạn năm.
Hoặc sử dụng “màng che bầu trời”: Năm 2004, các nhà khoa học còn
đưa ra một ý tưởng kinh ngạc - một màng chắn trị giá khoảng 1 tỷ bảng Anh
sẽ được thiết kế nhằm ngăn chặn triệt để bức xạ ánh sáng mặt trời, làm giảm
nhiệt độ cho trái đất. Sáng kiến này bắt nguồn từ việc núi lửa ở Indonexia hoạt
động năm 1814. Lần ấy, trong quá trình phun trào, núi lửa đã phóng vào khí
quyển một lượng lớn vật chất hỗn hợp khiến cho nhiệt độ ở khu vực này giảm
30% so với trước đây. Song kế hoạch này vẫn nằm trong giai đoạn giả tưởng,
với điều kiện kỹ thuật hiện nay thì trong tương lai gần khó có thể thực hiện
được....
Đõy là những giải pháp chung cho toàn thế giới, cũn đối với Việt Nam
chơng ta đã cú những hành động thiết thực như thế nào? Hưởng ứng những

giải pháp chung của thế giới, Chính phủ Việt Nam đã phê chuẩn công ước
khung Liân hợp quốc về biến đổi khớ hậu (UNFCCC) vào năm 1994 và nghị
định Kyoto vào năm 2002. Tuy chưa phải là quốc gia công nghiệp phát triển
nhưng Việt Nam đang tập trung cho các hoạt động kiểm kê và giảm thiểu phát
thải khí nhà kính theo nghị định thư Kyoto.
Việt Nam đang soạn thảo thông báo quốc gia số 2 (SNC) cho UNFCCC
sẽ hoàn thành vào năm 2009. Chính phủ đã giao cho Bộ Tài nguyên và Môi
trường Việt Nam làm đầu mối quốc gia về các hoạt động liên quan đến biến
đổi khớ hậu. Bộ này đang phối hợp với các ngành khác xây dựng chiến lược
11


bảo vệ môi trường quốc gia, trong đú có biện pháp giảm thiểu phát thải khớ
nhà kính và thích ứng với các tình huống bất thường của thiên tai, đồng thời
soạn thảo khung chính sách quản lý rủi ro do biến đổi khớ hậu gây ra.
Những tác động nguy hiểm của hiện tượng trái đất nóng dần lên đến
cuộc sống con người chính là lời cảnh báo cũng như kêu gọi con người cần
tập trung một cách nghiêm túc vào việc bảo vệ và hơn thế nữa cần phải cải
thiện môi trường sống của chúng ta. Những biện pháp giữ gìn môi trường đơn
giản như thay đổi cách thức sinh hoạt trong gia đình, tiết kiệm điện, nước,
thay thế các loại khí đốt độc hại bằng những vật liệu ít độc hại hơn, sử dụng
những sản phẩm phục vụ cho đời sống như các loại sữa tắm, xà bông, chất tẩy
rửa có nguồn gốc thiên nhiên cũng là cách mà mỗi người chúng ta góp phần
bảo vệ tự nhiên cũng như bảo vệ cuộc sống. Những biện pháp khoa học hiện
đại và ở tầm vĩ mô sẽ được các nhà khoa học cũng như chính phủ nghiên cứu
và áp dụng. Với mỗi cá nhân chúng ta, cần tự bảo vệ cuộc sống và tương lai
của các thế hệ sau bằng cách “sống xanh” ngay từ bây giờ.
Chơng ta hy vọng rằng với những giải pháp của cỏc nhà khoa học trờn
thế giới hiện nay, thì sẽ giảm thiểu được tối đa sự nỉng lờn của trỏi đất, cũng
như những tỏc động xấu của nỉ đến với mơi trường và cuộc sống của con

người khắp năm chõu.
Đối với sinh viân như chơng em hiện đang cũn ngồi trờn ghế nhà
trường để bảo vệ mơi trường và ngăn chặn sự nỉng lờn của trỏi đất chơng em
trước hết, là ở bản thân mỗi cỏ nhõn mỡnh đã khơng ngừng nõng cao ý thức
trỏch nhiệm cũng như kiến thức về bảo vệ mơi trường, khụng vứt rỏc thải bừa
bói, luơn tham gia tớch cực cỏc chiến dịch tình nguyện về mĩi trường như
“hành trình xanh” vận động mỗi người hóy nõng cao ý thức hơn về mĩi trường
12


để cựng chung tay xây dựng, nờn một mĩi trường sống “xanh, sạch, đẹp” cho
mỗi người và cho cả cộng đồng.

13



×