Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Lạm phát – Nguyên nhân, ảnh hưởng và biện pháp khắc phục lạm phát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.08 KB, 16 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
********
Lạm phát đã và đang là vấn đề quan trọng hàng đầu trong nền kinh tế vĩ
mô, nó ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống hàng ngày của người dân và là một
bài toán khó cho các nhà kinh tế, chính trị.
Đối với riêng Việt Nam, trong những năm gần đây lạm phát tăng lên rất
nhanh, đặc biệt là vào năm nay (Năm 2007) lạm phát tăng nhanh và ảnh hưởng
rất nhiều đến đời sống của công chúng. Việc kiểm soát lạm phát như thế nào là
vấn đề hàng đầu trong cuộc tranh luận về chính sách kinh tế.
Chính vì lẽ đó tôi đã chọn “Lạm phát – Nguyên nhân, ảnh hưởng và
biện pháp khắc phục lạm phát” Làm đề án Lý thuyết Tài chính tiền tệ.
1
CHƯƠNG I: NGUYÊN NHÂN CỦA LẠM PHÁT
1.Khái niệm về lạm phát
Lạm phát đã được đề cập đến rất nhiều trong các công trình nghiên cửu
của các nhà kinh tế. Trong mỗi công trình của mình, các nhà kinh tế đã đưa ra
các khái niệm về lạm phát.
Theo Các Mác trong Bộ tư bản: lạm phát là việc tràn đầy các kênh, các
luồng lưu thông những tờ giấy bạc thừa, dẫn đến giá cả tăng vọt. Ông cho rằng
lạm phát là “bạn đường” của Chủ nghĩa Tư bản, ngoài việc bóc lột người lao
động bằng giá trị thặng dư, Chủ nghĩa Tư bản còn gây ra lạm phát để bóc lột
người lao động một lần nữa, do lạm phát làm tiền lương thực tế của người lao
động giảm xuống.
Nhà kinh tế học Samuelson thì cho rằng: lạm phát biểu thị một sự tăng lên
trong mức giá cả chung. Theo ông: “lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả
và chi phí tăng - giá bánh mì, dầu xăng, xe ô tô tăng; tiền lương, giá đất, tiền
thuê tư liệu sản xuất tăng”.
Còn Milton Friedman thì quan niệm: “lạm phát là việc giá cả tăng nhanh
và kéo dài". Ông cho rằng: “Lạm phát luôn luôn và bao giờ cũng là một hiện
tượng tiền tệ". Ý kiến đó của ông đã được đa số các nhà kinh tế thuộc phái tiền
tệ và phái Keynes tán thành.


Lạm phát được đo bằng chỉ số giá cả. -
- Chỉ số giá cả được Sử dụng rộng rãi nhất là chỉ số giá cả hàng tiêu dùng
CPI (Consumer Price Index). CPI tính chi phí của một giỏ hàng tiêu dùng và
dịch vụ trên thị trường, các nhóm chính đó là hàng lương thực, thực phẩm, quần
áo, nhà cửa, chất đốt, vật tư y tế.
Để tính CPI, người ta phải dựa vào tỷ trọng của phần chi cho từng mặt
hàng trong tổng chi tiêu cho tiêu dùng của thời kỳ có lạm phát.
Chỉ số giá tiêu dùng được tính như sau:
CPI(t)=P(t) gạo/P(0) gạo x 100 x phần chi + P(t) chất đốt/P(0) chất đốt x
100 x Phần chi cho chất đốt
2
+ Những thay đổi của giá cả được tính với các mặt hàng khác
Trong đó: giá trị của CPI trong năm t
P(t)gạo: giá gạo trong năm t
P(0)gạo: giá gạo trong năm gốc.
- Chỉ số thứ hai cũng thường được sử dụng là chỉ số giá cả sản xuất (PPI:
Producer Price Index), đây là chỉ số giá bán buôn. PPI được xây dựng để tính giá
cả trong lẩn bán đầu tiên do người sản xuất ấn định. Chỉ số này rất có ích vì nó
được tính chi tiết sát với những thay đổi của thực tế (ở Mỹ, chỉ số này được tính
cho khoảng 3400 sản phẩm).
- Ngoài hai chỉ số nói trên, chỉ số giảm phát GNP cũng được sử dụng. Chỉ
số giảm phát GNP là chỉ số giá cả cho toàn bộ GNP, nó được xác định như sau:
Chỉ số giảm phát GNP = GDP danh nghĩalgdp thực tế
Chỉ số này toàn diện hơn CPI vì nó bao gồm giá của tất cả các loại hàng
hóa và dịch vụ trong GNP.
2. Phân loại lạm phát
Có nhiều cách phân loại lạm phát dựa trên các tiêu thức khác nhau:
+ Xét về mặt định lượng:
Dựa trên độ lớn nhỏ của tỉ lệ % lạm phát tính theo năm, người ta chia lạm
phát ra thành:

- Lạm phát một con số mỗi năm: có tài liệu gọi là lạm phát vừa phải
(Samuelson). Loại lạm phát này xảy ra khi giá cả tăng chậm và tỉ lệ lạm phát
dưới 10% một năm. Đây là mức lạm phát mà nền kinh tế chấp nhận được, với
mức lạm phát này, những tác động kém hiệu quả của nó là không đáng kể.
- Lạm phát hai con số mỗi năm: khi tỷ lệ tăng, giá đã bắt đầu tăng đến hai
chữ số mỗi năm. Ở mức lạm phát hai chữ số thấp (11, 12, 13%/năm), nói chung
những tác động tiêu cực của nó là không đáng kể, nền kinh tế có thể vẫn chấp
nhận được. Nhưng khi tỷ lệ tăng giá ở mức hai chữ số cao, lạm phát sẽ trở thành
3
kẻ thù của sản xuất và thu nhập vì những tác động tiêu cực của nó là không nhỏ.
Lạm phát hai chữ số trở thành mối đe doạ đến sự ổn định của nền kinh tế.
- Siêu lạm phát: tuỳ theo quan niệm của các nhà kinh tế, ngoài ra các loại
lạm phát trên đây còn có lạm phát ba chữ số. Nhiều người coi các loại lạm phát
này là siêu lạm phát vì nó có tỷ lệ lạm phát rất cao và tốc độ tăng rất nhanh. với
siêu lạm phát, những tiêu cực của nó đến đời sống và đến nền kinh tế trở lên
nghiêm trọng: kinh tế suy sụp một cách nhanh chóng, thu nhập thực tế của người
lao động giảm mạnh.
+Về mặt định tính:
- Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng:
Lạm phát cân bằng: tỷ lệ lạm phát tăng tương ứng với thu nhập, do vậy lạm phát
không ảnh hưởng đến đời sống của người lao động.
Lạm phát không cân bằng: tỷ lệ lạm phát không tương ứng với thu nhập. Trên
thực tế, lạm phát không cân bằng thường hay xảy ra nhất.
- Lạm phát dự đoán trước và lạm phát bất thường:
Lạm phát dự đoán trước: lạm phát xảy ra trong một thời gian tương đối dài với
tỷ lệ lạm phát hàng năm khá đều đặn, ổn định. Do vậy, người ta có thể dự đoán
trước được tỷ lệ lạm phát cho những năm tiếp sau. Về mặt tâm lý, người dân đã
quen với tình hình lạm phát đó và người ta đã có những chuẩn bị để thích nghi
với tình trạng lạm phát này.
Lạm phát bất thường: lạm phát xảy ra có tính chất đột biến mà trước đó chưa hề

xuất hiện. Do vậy, về tâm lý, cuộc sống và thói quen của mọi người đều chưa
thích nghi được. Lạm phát bất thường gây ra những cú sốc cho nền kinh tế và sự
thiếu tin tưởng của người dân vào chính quyền đương đại.
3. Nguyên nhân gây ra lạm phát
3.1 Cung ứng tiền tệ và lạm phát
- Theo quan điểm của các nhà kinh tế thuộc phái tiền tệ, khi cung tiền tệ tăng lên
kéo dài sẽ làm cho mức giá cả tăng kéo dài và gây ra lạm phát.
4
P3
P2
P1
Ban đầu nền kinh tế ở điểm 1, với sản lượng đạt ở mức sản lượng tự nhiên
Y
n
tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, mức giá cả P
1
- điểm giao nhau của đường tổng
cung AS
I
và đường tổng cầu AD
I
. Khi cung tiền tệ tăng lên thì đường tổng cầu
di chuyển sang phải đến AD
2
. Trong một thời gian rất ngắn, nền kinh tế sẽ
chuyển động đến điểm 1' và sản phẩm tăng lên trên mức tỷ lệ tự nhiên, tức là đạt
tới Y
l
(Y
l

> Y
n
) Điều đó đã làm giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống dưới mức tỷ lệ thất
nghiệp tự nhiên, tiền lương tăng lên và làm giảm tổng cung - đường tổng cung
dịch chuyển vào đến AS
2
. Tại đây, nền kinh tế quay trở lại mức tỷ lệ tự nhiên
của sản phẩm trên đường tổng cung dài hạn. Ở điểm cân bằng mới (điểm 2),
mức giá đã tăng từ P
l
đến P
2
.
(Tổng mức giá)
Cung ứng tiền tệ và lạm phát

Cung tiền tệ tiếp tục tăng lên, đường tổng cầu lại dịch chuyển ra, đến AD
3
và đường tổng cung tiếp tục dịch chuyển vào đến AS
3
, nền kinh tế đạt tới mức
cân bằng mới tại điểm 3. Tại đây, mức giá cả đã tăng lên đến P3. Nếu cung tiền
tệ vẫn tiếp tục tăng thì sự dịch chuyển của đường tổng cầu và tổng cung như trên
lại tiếp tục diễn ra và nền kinh tế đạt tới mức giá cả ngày càng cao hơn, lạm phát
tăng cao.
Những phân tích của phái Keynes về tác động của việc tăng chi tiêu của
Chính phủ hoặc cắt giảm thuế cũng làm tăng tổng cầu, do đó đẩy giá cả lên cao.
Nhưng những vấn đề.của chính sách tài khóa lại có giới hạn của nó, vì vậy việc
tăng lên của tỷ lệ lạm phát trong trường hợp này chỉ là tạm thời. Một phân tích
5

AD1
AD1
AD2
AD3
AS1
AS3
AS2
AS1
Yn Y1
0
P
Y
(Tổng sản phẩm)
khác của phái Keynes về tác động của những cú sốc tiêu cực lên tổng cung (như
việc tăng giá dầu do hậu quả của lệnh cấm vận dầu mỏ, đấu tranh của công nhân
đòi tăng lương) cũng sẽ làm giá cả tăng lên. Nhưng, nếu cung tiền tệ không tiếp
tục tăng lên để tác động lên tổng cầu thì đến một lúc nào đó, tổng cung lại quay
trở lại vị trí ban đầu, do vậy sự tăng giá trong trường hợp này cũng chỉ là một
hiện tượng nhất thời.
Với những phân tích như vậy, quan điểm của phái Keynes và phái tiền tệ
tương đối thống nhất nhau. Họ đều tin rằng: lạm phát cao có thể xảy ra chỉ với
một tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ cao.
3.2 Chỉ tiêu công ăn việc làm cao và lạm phát
Một mục tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng mà đa số Chính phủ các nước theo
đuổi cũng thường gây nên lạm phát, đó là mục tiêu công ăn việc làm cao.
Có hai loại lạm phát là kết quả của chính sách ổn định năng động nhằm
thúc đẩy một mức công ăn việc làm cao, đó làlạm phát phí - đẩy và lạm phát cầu
- kéo.
+ Lạm phát phí - đẩy xảy ra do những cú sốc cung tiêu cực hoặc do kết
quả của những cuộc đấu tranh đòi tăng lương gây ra.

Lúc đầu, nền kinh tế ở tại điểm 1, là giao điểm của đường tổng cầu AD
1
và đường tổng cung AS
1
, với mức sản lượng tự nhiên (sản lượng tiềm năng) và
tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Do mong muốn có được mức sống cao hơn hoặc do
cho rằng tỷ lệ lạm phát dự tính trong nền kinh tế sẽ tăng cao, những người công
nhân đấu tranh đòi tăng lương. Vì tỷ lệ thất nghiệp đang ở mức tỷ lệ thất nghiệp
tự nhiên nên những đòi hỏi tăng lương của công nhân dễ được giới chủ chấp
nhận. ảnh hưởng của việc tăng lương (cũng giống như ảnh hưởng của .những cú
sốc cung tiêu cực) làm đường tổng cung AS
1
dịch chuyển vào đến AS
2
.
Nền kinh tế sẽ chuyển từ điểm 1 đến điểm 1' - giao điểm của đường tổng
cung mới AS
2
và đường tổng cầu AD
1
. Sản lượng đã giảm xuống dưới mức sản
lượng tự nhiên Y' ( < Y
n
) và tỷ lệ thất nghiệp cao hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên,
đồng thời mức giá cả tăng lên đến P
l
'. Vì mục đích muốn duy trì một mức công
6

×