Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Điều kiện nuôi con nuổi của người nước ngoài nhận trẻ em việt nam làm con nuôi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.86 KB, 12 trang )

Điều kiện nuôi con nuôi của người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm
con nuôi
A. MỞ ĐẦU.
Pháp luật Việt Nam ghi nhận và khuyến khích việc nuôi con nuôi trong nước
giữa công dân Việt Nam với nhau và đặc biệt Nhà nước ta đã đưa ra nhiều giải pháp
để đảm bảo cho trẻ em được nuôi dưỡng trong môi trường tốt nhất. Giải pháp nuôi
con nuôi được áp dụng trong trường hợp cha mẹ đẻ không có đủ điều kiện nuôi
dưỡng, chăm sóc con cái hay cơ sở nuôi dưỡng, các trung tâm nuôi trẻ mồ côi ở
trong nước không đáp ứng được ( quá tải,…). Nếu chọn giải pháp nuôi con nuôi,
trước tiên cần phải ưu tiên cho giải pháp nuôi con nuôi trong nước, vì như vậy về cơ
bản trẻ em vẫn được sinh sống tại môi trường văn hóa của mình ( ngôn ngữ, hoàn
cảnh địa lí, tâm lí dân tộc…). Nếu giải pháp nuôi con nuôi quốc gia cũng không
thực hiện được ( không có hoặc không thể tìm được gia đình nuôi thích hợp ngay tại
nước mình ) thì mới xem xét, tính đến giải pháp nuôi con nuôi quốc tế. Bởi vì, việc
dịch chuyển trẻ em đến một môi trường khác lạ về văn hóa, ngôn ngữ, điều kiện
sống… không phải là việc làm tốt cho sự phát triển về tâm sinh lí của trẻ em, nhất là
đối với những trẻ em lớn tuổi.
Như vậy, giải pháp nuôi con nuôi quốc tế là giải pháp cuối cùng và giải pháp
này có lợi là đem lại một gia đình ổn định cho trẻ em trong trường hợp không thể
tìm được gia đình thích hợp cho trẻ em ngay tại nước mình. Luật hôn nhân và gia
đình năm 2000 đã xây dựng các quy phạm pháp luật để giải quyết một số vấn đề
trong lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, trong đó có vấn đề về điều kiện
nhận nuôi con nuôi. Bài viết dưới đây xin được trình bày về vấn đề này và một số
vấn đề còn tồn tại, hướng khắc phục.
B. NỘI DUNG
I. Khái niệm nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.


Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình
có yếu tố nước ngoài, khoản 14 Điều 8 quy định:
“Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và


gia đình:
a) Giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài;
b) Giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam;
c) Giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm
dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở
nước ngoai”.
Từ khái niệm quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nêu trên có
thể đưa ra khái niệm nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài như sau:
“Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là việc nuôi con nuôi giữa công dân
Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú ở Việt
Nam, giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên định cư ở nước ngoài.”
II. Cơ sở pháp lí.
Vấn đề nuôi con nuôi nói chung là vấn đề mang tính xã hội, thể hiện tinh thần
nhân đạo sâu sắc mà mục đích cơ bản là nhằm tạo cho những đứa trẻ thiệt thòi thiếu
vắng tình thương yêu của cha mẹ và những người thân một mái ấm gia đình thay
thế. Dưới góc độ pháp lí, đây là vấn đề được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩaViệt Nam đặc biệt quan tâm. Chế định nuôi con nuôi nói chung, quan hệ nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài, chính vì thế được quy định trong các văn bản pháp
luật quan trọng của Việt Nam. Tuy nhiên, quy định về điều kiện của người nước


ngoài được nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi cũng không phải là trường hợp
ngoại lệ mà được quy định tại các văn bản pháp luật cụ thể sau:
1. Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm2000 ( Điều 69, điều 105).
2. Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002 quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ Hôn nhân và gia
đìnhcó yếu tố nước ngoài.
3. Nghị định của Chính phủ số 69/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 7 năm 2006
sửa đổi, bổ sung một số điềucủa. Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7
năm 2002 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về

quan hệ Hôn nhân và gia đìnhcó yếu tố nước ngoài.
III. Điều kiện của người nước ngoài được nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi
theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Từ những văn bản pháp luật trêncó thể đưa ra một số điều kiện sau :
1. Người nhận nuôi phải đáp ứng được điều kiện pháp luật của nước mà
người đó là công dân.
Khoản 1 Điều 105 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam quy định: “ Người
nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam hoặc nhận trẻ em nước ngoài thường trú tại
Việt Nam làm con nuôi phải tuân theo quy định của Luật này và quy định trong
pháp luật của nước mà người đó là công dân về điều kiện nhận nuôi con nuôi”.
Theo quy định này, người nước ngoài có quốc tịch của một nước thì các cơ
quan có thẩm quyền sẽ áp dụng Luật quốc tịch để xác định điều kiện nhận nuôi con
nuôi. Nhưng nếu người nước ngoài là người có hai hay nhiều quốc tịch hoặc người


không quốc tịch thì trong trường hợp này cần chọn pháp luật áp dung đối với họ để
xác định điều kiện nhận nuôi con nuôi.
- Theo pháp luật Việt Nam, căn cứ chọn pháp luật áp dụng đối với người
nước ngoài có nhiều quốc tịch nước ngoài trong quan hệ nuôi con nuôi được quy
định tại điểm b khoản 1 Điều 80 Nghị định số 68/CP ( quy định về giấy tờ đối với
người không quốc tịch, người có hai hay nhiều quốc tịch). Theo đó pháp luật áp
dụng đối với người có hai hay nhiều quốc tịch nước ngoài là pháp luật của nước mà
người đó có quốc tịch đồng thời thường trú, nếu người đó không thường trú tại một
trong các nước có quốc tịch thì theo pháp luật của nước mà người đó mang hộ
chiếu. Cách giải quyết của pháp luật Việt Nam đối với người nhiều quốc tịch có thể
được đánh giá là phù hợp với pháp luật một số nước trên thế giới.
- Đối với người nước ngoài không quốc tịch, căn cứ chọn pháp luật điều
chỉnh đối với người không quốc tịch trong quan hệ nuôi con nuôi được quy định tại
khoản 3 Điều 80 Nghị định số 68/CP. Theo đó, việc người không quốc tịch thường
trú tại Việt Nam xin nhận trẻ em Việt Nam hoặc trẻ em không quốc tịch thường trú

tại Việt Nam làm con nuôi sẽ theo các quy định về nuôi con nuôi trong nghị định số
68/CP. Các loại giấy tờ để họ sử dụng trong việc đăng kí nuôi con nuôi, sẽ do cơ
quan có thẩm quyền của nước nơi người đó thường trú cấp. Đồng thời, Nghị định số
68/CP chỉ rõ: “Người không quốc tịch là người không cs quốc tịch Việt Nam và
cũng không có quốc tịch nước ngoài, đang làm an và sinh sống ổn định lâu dài tại
Việt Nam” ( khoản 4 Điều 9).
Về điều kiện đối với người nhận nuôi theo khoản 1 Điều 105 Luật hôn nhân
và gia đình năm 2000, điều kiện đối với người nhận nuôi phải tuân theo quy định
của Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam và theo quy định trong pháp luật của nước
mà người đó là công dân. Như vậy, pháp luật Việt Nam đã kết hợp giữa nguyên tác
nơi cư trú và nguyên tác quốctịch để điều chỉnh điều kiện của người nhận nuôi.


2. Người nhận nuôi phải tuân theo điều kiện của pháp luật nước gốc ( pháp
luật mà nơi đứa trẻ sinh sống _Việt Nam).
Điều 69 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: Điều kiện đối với
người nhận nuôi con nuôi.
Người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện sau đây:
1. Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
2. Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên;
3. Có tư cách đạo đức tốt;
4. Có điều kiện thực tế bảo đảm việc trong nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo
dục con nuôi;
5. Không phải là người đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với
con chưa thành niên hoặc bị kết án mà chưa được xóa án tích về một trong các tội
cố ý sâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược
đãi hoặc hành hạ ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng
mình; dụ dỗ, ép buộc, hoặc chứa chấp người chưa thành niên phạm pháp; mua bán,
đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em; các tội xâm phạm tình dục đối vơis trẻ em có hành vi
xúi dục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.

Qua điều này có thể thấy đây là những quy định hết sức cần thiết nhằm khẳng
định tư cách đạo đức, ý thức pháp luật, điều kiện về thời gian, về kinh tế của người
nuôi con nuôi, đảm bảo cho con nuôi được chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục tốt
nhất, được lớn lên trong môi trường gia đình lành mạnh.Vì vậy, về nguyên tắc, khi
nhận nuôi con nuôi người nhận nuôi phải có đủ các điều kiện đó. Nếu vợ, chồng
cùng nhận nuôi con thì cả vợ và chồng đều phải có đủ các điều kiện theo luật quy


định (Điều 70 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, khoản 2 Điều 37 nghị định số
68/CP ).
3. Người nhận nuôi phải thường trú tại nước mà nước đó đã có quan hệ hợp
tác với Việt Nam về nuôi con nuôi.
Theo Nghị định số 69/CP sửa đổi, bổ sung Điều 35 nghị định số 68/CP quy
định:
Khoản 2: “Người nước ngoài thường trú ở nước ngoài xin nhận trẻ em Việt
Nam làm con nuôi được xem xét giải quyết, nếu Việt Nam và nước nơi người xin
nhận con nuôi thường trú cùng là thành viên của điều ước quốc tế hai bên hoặc điều
ước quốc tế nhiều bên về hợp tác nuôi con nuôi ”.
Việc cho người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận trẻ em có quốc tịch
Việt Nam làm con nuôi chỉ được xem xét giải quyết nếu Việt Nam và nước nơi
người xin nhận con nuôi thường trú đã kí kết hoặc cùng gia nhập điều ước quốc tế
về hợp tác nuôi con nuôi. Việc đề ra nguyên tắc này nhằm tạo ra cơ sở pháp lý quốc
tế cho vấn đề bảo vệ trẻ em sau khi được cho làm con nuôi ở nước ngoài, qua đó
góp phần hạn chế các hiện tượng tiêu cực có thể xảy ra liên quan tới việc cho và
nhận con nuôi. Theo nguyên tắc này hiện nay Việt Nam đã tham gia kí kết Hiệp
định hợp tác nuôi con nuôi với một số nước nhưPháp, Đan Mạch, Italia, Iceland,
Thụy Điển và Canada…..
Tuy nhiên đối với người nước ngoài thường trú tại nước chưa kí kết hoặc
chưa cùng gia nhập với Việt Nam điều ước quốc tế về hợp tác nuôi con nuôi thì
cũng có thể nhận trẻ emViệt Nam làm con nuôi trong trường hợp được quy định tại

khoản 3 Điều 35 nghị định 68/CP đã sửa đổi trong nghị định 69/CP như sau:
Khoản 3: “Người nước ngoài thường trú ở nước ngoài xin nhận trẻ em Việt
Nam làm con nuôi, mà nước nơi người xin nhận con nuôi thường trú và Việt Nam


chưa cùng là thành viên của điều ước quốc tế hai bên hoặc điều ước quốc tế nhiều
bên về hợp tác nuôi con nuôi thì cũng được xem xét giải quyết, nếu người đó thuộc
một trong các trường hợp sau đây:
a) Có thời gian công tác, học tập, làm việc tại Việt Nam từ 06 tháng trở lên;
b) Có vợ, chồng, cha, mẹ là công dân Việt Nam hoặc người gốc Việt Nam;
c) Có quan hệ họ hàng, thân thích với trẻ em được xin nhận làm con nuôi
hoặc đang có con nuôi là anh, chị, em ruột của trẻ em được xin nhận làm con nuôi;
d) Đối với người nước ngoài tuy không thuộc một trong các trường hợpquy
định tại các điểm a, b và c khoản này, nhưng xin nhận trẻ em khuyết tật, tàn tật, mất
năng lực hành vi dân sự, nạn nhân của chất độc hoá học, nhiễm HIV/AIDS, mắc các
bệnh hiểm nghèo khác đang sống tại cơ sở nuôi dưỡng được thành lập hợp pháp và
trẻ em quy định tại khoản 3 Điều 36 Nghị định này làm con nuôi thì cũng được xem
xét giải quyết;
đ) Các trường hợp khác do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định."
Khoản 3 Điều 36:
3. Trẻ em đang sống tại gia đình cũng được xem xét giải quyết cho làm con
nuôi người nước ngoài, nếu thuộc trường hợp trẻ em mồ côi; trẻ em khuyết tật, tàn
tật; trẻ em mất năng lực hành vi dân sự; trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo khác; trẻ em
là nạn nhân của chất độc hoá học; trẻ em nhiễm HIV/AIDS; trẻ em có quan hệ họ
hàng, thân thích với người xin nhận con nuôi hoặc có anh, chị, em ruột đang làm
con nuôi của người xin nhận con nuôi.


Những quy định này nhằm tạo sự bình đẳng về mặt pháp lí giữa pháp luật
Việt Nam và Hiệp định hợp tác nuôi con nuôi cũng như thiết lập trật tự trong việc

cho và nhận con nuôi.
IV. Những vấn đề còn tồn tại và khắc phục hiện nay về điều kiện nuôi con
nuôi của người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi.
Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trong thời gian qua ở nước ta tăng
nhanh về số lượng. Trước thực trạng này, pháp luật Hôn nhân và gia đình đã có sự
điều chỉnh khá kịp thời nhằm đáp ứng mục đích khá kịp thời của hoạt động mang
tính nhân đạo này. Thực tế cho thấy, việc người nước ngoài hoặc người Việt Nam
định cư ở nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi diễn ra phổ biến hơn cả.
Số lượng trẻ em Việt Nam được nhận làm con nuôi người nước ngoài từ năm 2003
– 2008 là 5.876 trường hợp, chưa kể các trường hợp cho nhận trẻ em có quan hệ họ
hàng, thân thích với những người nhận con nuôi hiện đang thường trú tại nước chưa
kí kết hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi với Việt Nam. Tổng số trẻ em được nhận
làm con nuôi trong và ngoài nước trong giai đoạn từ năm 2003 – 2008 là 19.599
trường hợp. Tổng số trẻ em được nhận làm con nuôi trong nước trong giai đoạn từ
năm 2003 - 2008 nhiều hơn số lượng trẻ em được cho làm con nuôi người nước
ngoài là 7.876 trường hợp. trình tự, thủ tục giải quyết cho và nhận trẻ em
Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài bước đàu đã đáp ứng với cơ chế
quốc tế trong lĩnh vực này, góp phần để cơ quan nhà nước kiểm soát chặt chẽ hơn
việc cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài. Bên cạnh đó có thể thấy một số khó
khăn, bất cập trong việc cho người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi,
cụ thể là về điều kiện của người nước ngoài được nhận trẻ em Việt Nam làm con
nuôi như sau:
* Điều kiện người nhận nuôi theo luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm
2000.


Điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi được quy định tại Điều 69 Luật
Hôn nhân và gia đình. Các điều kiện đó phần nào thể hiện được những yêu cầu cần
phải có của người nhận nuôi con nuôi, song các quy định này chưa rõ ràng, thiếu cụ
thể, cần được sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hơn.

- Về khoảng cách độ tuổi giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi phải
từ 20 tuổi trở lên ( khoản 2 Điều 69 ). Quy định như vậy có phần chưa phù hợp với
thực tế bởi việc nuôi con nuôi chủ yếu hình thành trên cơ sở tình cảm của các bên.
Trong trường hợp vợ, chồng nhận con riêng của nhau làm con nuôi mà phải đảm
bảo khoảng cách tuổi tối thiểu giữa người nhận nuôi và con nuôi sẽ hạn chế việc
thiết lập quan hệ cha mẹ - con giữa hai bên, ảnh hưởng đến lợi ích của các thành
viên.
=> Luật không nên bắt buộc giữa người nhận nuôi và con nuôi phải cách
nhau tối thiểu là từ 20 tuổi trở lên trong trường hợp vợ, chồng nhận con riêng của
nhau làm con nuôi. Cần quy định độ tuổi tối thiểu của người nuôi một cách rõ ràng,
cụ thể hơn, và có thể quy định độ tuổi đó là từ 25 tuổi trở lên, kết hợp với khoảng
cách tuổi tối thiểu giữa người nuôi và con nuôi là 20 tuổi. Pháp luật của các nước,
bên cạnh quy định về khoảng cách tuổi tối thiểu giữa người nhận nuôi và con nuôi,
đều quy định độ tuổi tối thiểu của người nhận nuôi con nuôi. Tuy nhiên, độ tuổi tối
thiểu để có thể nhận nuôi con của các nước rất khác nhau : ở Hàn Quốc quy định là
người thành niên có thể nhận nuôi con nuôi; Trung Quốc quy định người từ 35 tuổi
trở lên có thể nhận con nuôi; Thụy Điển, Phần Lan quy định người từ 25 tuổi trở lên
có thể nhận con nuôi...
Song mặt khác, việc quy định giới hạn tuổi tối đa của cha mẹ nuôi cũng có ý
nghĩa không nhỏ. Việc nhận nuôi con nuôi là nhằm đem lại một gia đình cho đứa
trẻ, gia đình đó càng giống, càng tương hợp với gia đình tự nhiên của trẻ thì càng
tốt, vì vậy “sẽ không hợp với tự nhiên chút nào nếu trẻ ở với các cặp vợ chồng đã
quá tuổi sinh nở” . Hơn nữa, khi tuổi đã quá cao thì khả năng nuôi dưỡng, chăm sóc,
giáo dục con nuôi sẽ giảm dần theo tuổi tác và ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của


trẻ được nhận nuôi. Vì vậy, để phù hợp với bản chất của việc nuôi con nuôi và có
tính khả thi, pháp luật nên quy định hạn chế tuổi tối đa của người nhận nuôi con
nuôi, chẳng hạn người nhận nuôi con nuôi là người không quá 60 tuổi
- Luật chưa quy định cụ thể “ điều kiện thực tế” của người nhận nuôi là gì để

đảm bảo cho việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi “ khoản 4
Điều 69”.
=> Việc cần thiết đề cập đến điều kiện sức khỏe của người nhận nuôi: Luật
nên quy định không cho phép những người mắc các bệnh hiểm nghèo, bệnh có nguy
cơ lây nhiễm cao được nhận con nuôi. Những người này thường không đủ điều kiện
về kinh tế, sức khỏe và thời gian để chăm lo cho cuộc sống của con nuôi một cách
lâu dài. Mặt khác, đối với trẻ em chưa thành niên được nhận làm con nuôi không có
khả năng để tự bảo vệ mình trước các bệnh truyền nhiễm. Như vậy, mục đích của
việc nuôi con nuôi không đạt được, lợi ích lâu dài của người được nhận nuôi không
được đảm bảo.
- Luật cũng yêu cầu người nhận nuôi phải có tư cách đạo đức tốt. Đây là quy
định rất chung chung, khó xác định, khó đưa ra các cơ sở, căn cứ thống nhất để xác
định tư cách đạo đức của một người.
Khoản 5, Điều 69 trong luật Hôn nhân và gia đình quy định : người chưa
được xóa án tích về một trong các tội như xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm người khác, ngược đãi ông bà, cha mẹ v.v... ép buộc dụ dỗ trẻ vị thành niên
phạm tội và mua bán đánh tráo trẻ em thì không được nhận nuôi con nuôi. Hiểu
rằng quy định như thế có nghĩa là ai đã được xóa án tích thì được nuôi con nuôi, tôi
cho là điều này không nên. Bởi vì một người đã phạm những tội như thế, nhất là dụ
dỗ, ép buộc người vị thành niên phạm tội rồi mua bán, chiếm đoạt, đánh tráo trẻ em
thì chỉ sau một vài năm tòa án xử không tái phạm là được xóa án tích, liệu người ta
có thay đổi được bản chất hay không? => cho rằng không nên để những người này
nuôi con nuôi.


Luật con nuôi đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2010, có hiệu lực kể từ ngày
01/01/2011. Mặc dù trong luật này cũng có xem xét và xây dựng trên cơ sở các văn
bản pháp luật có liên quan tuy nhiên về tư cách đạo đức của người nhận nuôi vẫn
còn một vài vướng mắc cần phải được xem xét.

* Bên cạnh đó luật hôn nhân và gia đình cần có những quy phạm xung đột
quy định thống nhất việc lựa chọn pháp luật áp dụng đối với việc nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài. Trong việc xác định điều kiện nuôi con nuôi, sửa đổi theo hướng
phù hợp với công ước Lahaye là áp dụng pháp luật của nước nơi cha mẹ nuôi cư
trú; đối với việc điều chỉnh hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi quốc tế nên được
xác định theo pháp luật của nước nơi tiến hành việc nuôi con nuôi, nếu việc nuôi
con nuôi được tiến hành ở nước ngoài thì hệ quả pháp lí của nó được xác định theo
pháp luật nước ngoài, nếu tiến hành tại Việt Nam thì áp dụng pháp luật Việt Nam.
Quy định này sẽ đảm bảo được quyền và lợi ích của trẻ em.
C. KẾT LUẬN.
Hiện nay, Việt Nam đang xem xét kí và phê chuẩn công ước Lahaye về bảo
vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế. Việc gia nhập này sẽ là
bước quan trọng, đánh dấu sự hòa nhập của Việt Nam vào cộng đồng quốc tế trong
lĩnh vực tư pháp quốc tế/ lĩnh vực ngày càng trở nên quan trọng đối với Việt Nam
trong thời kì đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế.
Hoàn thiện cơ sở pháp lí để điều chỉnh quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố
nước ngoài đòi hỏi phải có sự nỗ lực rất lớn từ phía Nhà nước để giải quyết các vấn
đề khác nhau. Tất cả các vấn đề sửa đổi, bổ xung văn bản pháp luật trong nước và
kí kết, gia nhập Điều ước quốc tế điều chỉnh quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài
phải được giải quyết một chách kịp thời để đáp ứng xu thế hội nhập hiện nay.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000. Nhà xuất bản lao động –
xã hội.
2. Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002 quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ Hôn nhân và gia
đìnhcó yếu tố nước ngoài.
3. Nghị định của Chính phủ số 69/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 7 năm 2006
sửa đổi, bổ sung một số điềucủa. Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7

năm 2002 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về
quan hệ Hôn nhân và gia đìnhcó yếu tố nước ngoài.
4. Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam_ 2009, Nhà xuất bản công
an nhân dân.
5. Bộ tư pháp (2009) báo cáo đánh giá tác động của dự thảo luật nuôi con
nuôi.
6. Nguyễn Phương Lan, cơ sở lí luận và thực tiễn của chế định pháp lí về
nuôi con nuôi ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội,
2007.
7. Bộ Luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sửa đổi bổ
xung 2009.



×