Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

HAI PP sản XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG dư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.89 KB, 13 trang )

MỤC LỤC
Đặt vấn đề.............................................................................................2
Nội dung................................................................................................3
1. Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư........................................3
1.1 Giá trị thặng dư............................................................................3
1.2 Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư..................................4
1.2.1 Phương pháp sản xuát giá trị thặng dư tuyệt đối................4
1.2.2 Phương pháp sản xuát giá trị thặng dư tương đối...............5
1.2.3 Mối quan hệ giữa hai phương pháp giá trị thặng dư..........6
2. Liên hệ thực tiễn Việt Nam................................................................8
2.1 Thực trạng....................................................................................8
2.2 Hạn chế........................................................................................10
2.3 Giải pháp......................................................................................10
III. Kết luận.................................................................................................12
IV. Tài liệu tham khảo...............................................................................12
I.
II.

I.

ĐẶT VẤN ĐỀ
1


Kể từ khi học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác ra đời đến nay, thế giới đã
trải qua những biến đổi sâu sắc. Rất nhiều sự kiện đã khẳng định tính đúng đắn của
những kết luận rút ra từ học thuyết giá trị thặng dư như: những cuộc “khủng hoảng
giẫy chết” của CNTB thế giới đầu thế kỷ XX; sự ra đời của hệ thống XHCN hiện
thực; phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước
TBCN; sự tan rã của hệ thống dân tộc thuộc địa…
Phải nói rằng học thuyết giá trị thặng dư là “hòn đá tảng” trong toàn bộ lí luận


kinh tế của C.Mác, nhờ có nó mà toàn bộ bí mật của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa
được vạch trần, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được nêu ra một cách chính
xác, mà trong đó hai phương pháp sản xuất chính là phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư tuyệt đối và tương đối được áp dụng rộng rãi nhất, nhằm tạo ra tư bản để
tích luỹ và tái mở rộng sản xuất, đưa xã hội tư bản ngày càng phát triển. Do vậy,
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư cùng với tính thực tiễn của nó có ý nghĩa vô
cùng quan trọng, đồng thời cũng đã vạch trần bản chất bóc lột của tư bản thông qua
bóc lột giá trị thặng dư.
Vì vậy, em quyết định chọn đề tài “Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư –
Liên hệ thực tiễn Việt Nam” cho bài tiểu luận của mình.

II.

NỘI DUNG
2


1.

Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư

1.1

Giá trị thặng dư
Học thuyết về giá trị thặng dư là một trong hai phát kiến lớn nhất mà Mác đã

đóng góp cho nhân loại. Cho đến nay học thuyết giá trị thặng dư của Mác vẫn giữ
nguyên giá trị. Tuy nhiên nó cần được phát triển phù hợp với thực tiễn ngày nay.
Trước Mác, ngay cả những nhà kinh tế tư bản lỗi lạc như D.Ricardo cũng
không giải thích được vì sao trao đổi hàng hoá theo đúng quy luật giá trị mà nhà tư

bản vẫn thu được lợi nhuận. Nhờ phân biệt được phạm trù lao động và tính chất hai
mặt của lao động sản xuất hàng hoá C.Mác đã chứng minh một cách khoa học rằng
trong quá trình sản xuất hàng hoá lao động cụ thể của công nhân chuyển giá trị của
tư liệu sản xuất đã được tiêu dùng sang sản phẩm, đồng thời lao động trừu tượng
của người đó thêm vào sản phẩm một giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động của
mình. Khoản lớn hơn đó, tức là số dư ra ngoài khoản bù lại giá trị sức lao động,
C.Mác gọi là giá trị thặng dư mà nhà tư bản chiếm đoạt. Công nhân chỉ được tiếp
tục làm thuê chừng nào còn tạo ra được khối lượng giá trị mới lớn hơn giá trị sức
lao động mà nhà tư bản đã trả cho người đó dưới hình thức tiền công, nếu không sẽ
bị sa thải.
Theo đó Giá trị thặng dư là giá trị rơi ra ngoài sức lao động do công nhân
sáng tạo ra và nhà tư bản chiếm không.
Nhà tư bản giành một phần giá trị thặng dư này cho sự hưởng thụ của mình
và gia đình mình, phần còn lại được tích luỹ để tái sản xuất mở rộng. Khoản tích
luỹ này lại trở thành điều kiện vật chất để thu hút thêm nhiều gái trị thặng dư hơn
nữa. Chính lòng ham mê giá trị thặng dư là động lực thúc đẩy nhà tư bản dám mạo
hiểm bỏ vốn đầu tư vào kinh doanh.

3


Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư

1.2

Đã có nhiều phương pháp được dùng để tạo ra giá trị thặng dư, nhưng hai
phương pháp được sử dụng chủ yếu là phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối và
phương pháp giá trị thặng dư tương đối. Mỗi phương pháp đại diện cho một trình độ
khác nhau của giai cấp tư sản, cũng như những giai đoạn lịch sử khác nhau của xã hội.
1.2.1


Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối

Phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối được áp dụng ở giai đoạn đầu của chủ
nghĩa tư bản, thời kì này nền kinh tế sản xuất chủ yếu là sử dụng lao động thủ công,
hoặc lao động với những máy móc giản đơn ở các công trường thủ công. Đó là sự gia
tăng về mặt lượng của quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. Bởi phương pháp giá trị
thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao động vượt quá
thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và
thời gian lao động tất yếu là không thay đổi.
Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động tất yếu và 4
giờ là thời gian lao động thặng dư, khi đó trình độ bóc lột của nhà tư bản là 100%. Giả
định nhà tư bản kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ, trong khi thời gian tất yếu không
thay đổi, vì thế giá trị thặng dư cũng tăng lên, trình độ bóc lột tăng lên đạt 150% (m’ =
150%)
Với sự thèm khát giá trị thặng dư, nhà tư bản phải tìm mọi cách để kéo dài ngày
lao động và phương pháp bóc lột này đã đem lại hiệu quả rất cao cho các nhà tư bản.
Nhưng ngày lao động có những giới hạn nhất định. Giới hạn trên của ngày lao động do
thể chất và tinh thần của người lao động quyết định. Dưới chủ nghĩa tư bản mặc dù sức
lao động của công nhân là hàng hoá, nhưng nó lại tồn tại trong cơ thể sống của con
người. Vì vậy, ngoài thời gian người công nhân làm việc cho nhà tư bản trong xí
nghiệp, người công nhân đòi hỏi còn phải có thời gian để ăn uống nghỉ ngơi nhằm tái
sản xuất ra sức lao động. Mặt khác, sức lao động là thứ hàng hoá đặc biệt vì vậy ngoài
yếu tố vật chất người công nhân đòi hỏi còn phải có thời gian cho những nhu cầu sinh
hoạt về tinh thần, vật chất, tôn giáo của mình. Từ đó tất yếu dẫn đến phong trào của
giai cấp vô sản đấu tranh đòi giai cấp tư sản phải rút ngắn thời gian lao động trong
ngày. Giới hạn dưới của ngày lao động không thể bằng thời gian lao động tất yếu, tức
4



là thời gian lao động thăng dư bằng không. Như vậy, về mặt kinh tế, ngày lao động
phải dài hơn thời gian lao động tất yếu nhưng không thể vượt quá giới hạn về thể chất
và tinh thần của người lao động.
Vì vậy, giai cấp tư sản phải chuyển sang một phương pháp bóc lột mới tinh vi
hơn, đó là phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối.

1.2.2 Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Để khắc phục những vấn đề mà phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối gặp phải
thì nhà tư bản đã áp dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối vào sản
xuất. Việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao
động và vấp phải cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của giai cấp công nhân. Mặt
khác, khi sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển đến giai đoạn đại công nghiệp cơ khí, kĩ
thuật đã tiến bộ làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, thì các nhà tư bản
chuyển sang phương thức bóc lột dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động, bó lột giá trị
thặng dư tương đối. Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút
ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách nâng cao năng suất lao động xã hội,
nhờ đó tăng thời gian lao động thăng dư lên ngay trong điều kiện độ dài ngày lao động
vẫn như cũ. Vì giá trị sức lao động được quyết định bởi các tư liệu tiêu dùng và dịch
vụ để sản xuất, tái sản xuất sức lao động, nên muốn hạ thấp giá trị sức lao động thì
phải giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết cho người lao động. Điều đó
chỉ được thực hiện bằng cách tăng năng suất lao động xã hội cho các ngành sản xuất tư
liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất ra các tư liệu sinh
hoạt và dịch vụ.
Giả sử ngày lao động là 8 giờ, nó được chia ra 4 giờ là thời gian lao động tất
yếu, 4 giờ là thời gian lao động thặng dư, khi đó tỷ suất giá trị thặng dư là 100%.
Nhưng khi máy móc được thay đổi, ngày lao động không thay đổi, thời gian lao động
tất yếu của người công nhân chỉ còn lại là 3 giờ, thời gian lao động thặng dư đã tăng
lên là 5 giờ, vì vậy tỷ suất thặng dư đã tăng lên là 166%. (Đồng nghĩa với trình độ bóc
lột tăng lên).


5


Sự ra đời và phát triển và sử dụng rộng rãi máy móc đã làm cho năng suất lao
động tăng lên nhanh chóng. Máy móc có ưu thế tuyệt đối so với các công cụ thủ công,
vì công cụ thủ công là công cụ lao động do con người trực tiếp sử dụng bằng sức lao
động nên bị hạn chế bởi khả năng sinh lý của con người, nhưng khi lao động bằng máy
móc sẽ không gặp phải những hạn chế đó. Vì thế, việc sử dụng máy móc làm năng suất
lao động tăng lên rất cao, làm giảm giá trị tư liệu sinh hoạt, làm hạ thấp giá trị hàng
hoá sức lao động, rút ngắn thời gian lao động tất yếu kéo dài thời gian lao động thặng
dư, giúp nhà tư bản thu được nhiều giá trị thặng dư hơn. Phương pháp giá trị thặng dư
tương đối ngày càng được nâng cao do các cuộc cách mạng khoa học, đặc biệt cuộc
cách mạng khoa học công nghệ phát triển với tốc độ vũ bão, đem lại sự phát triển chưa
từng có trong lịch sử loài người, nó khác với cuộc cách mạng khoa học là dẫn đến sự
hình thành các nguyên lý công nghệ sản xuất mới, chứ không đơn thuần về công cụ
sản xuất như cách mạng khoa học, do đó dẫn đến sự tăng trưởng cao, đưa xã hội loài
người bước sang một nền văn minh mới - nền văn minh trí tuệ.
Một dạng của giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư siêu ngạch, đây là
cái đích hướng tới của các nhà tư bản. Giá trị thặng dư siêu ngạch là giá trị thặng dư
thu được do áp dụng công nghệ mới làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá
trị xã hội của nó. Xét trong từng trường hợp giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng
tạm thời, nó sẽ bị mất đi khi công nghệ đó đã được phổ biến rộng rãi, nhưng xét theo
phạm vi toàn xã hội thì đây một hiện tượng thường xuyên. Theo đuổi giá trị thặng dư
siêu ngạch là kì vọng của nhà tư bản và là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản
cải tiến kĩ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, làm cho năng suất xã
hội tăng lên nhanh chóng. C.Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến
tướng của giá trị thặng dư tương đối, vì giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư
tương đối đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động.

1.2.3 Mối quan hệ giữa hai phương pháp giá trị thặng dư

Thực ra, hai phương pháp giá trị thặng dư không hề bị tách rời nhau, mà chỉ
trong mỗi thời kì khác nhau sự vận dụng hai phương pháp là nhiều hay ít mà thôi,
trong thời kì đầu của chủ nghĩa tư bản thì phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối được
6


sử dụng nhiều hơn so với phương pháp giá trị thặng dư tương đối, còn trong thời kì sau
của chủ nghĩa tư bản thì ngược lại.
Trong xã hội hiện đại ngày nay, việc nhà tư bản kết hợp tối đa hai phương pháp
sản xuất giá trị thặng dư đã tạo ra ngày càng nhiều giá trị thặng dư cho nhà tư bản,
bằng cách tăng cường các biện pháp kỹ thuật và quản lý để bóc lột ngày càng nhiều
sức lao động làm thuê. Máy móc hiện đại được áp dụng, các lao động tay chân bị cắt
giảm nhưng điều đó không đi đôi với giảm nhẹ cường độ lao động của người công
nhân, mà trái lại do việc áp dụng máy móc không đồng bộ nên khi máy móc chạy với
tốc độ cao, có thể chạy với tốc độ liên tục buộc người công nhân phải chạy theo tốc độ
vận hành của máy làm cho cường độ lao động tăng lên, năng suất lao động tăng, ngoài
ra nền sản xuất hiện đại áp dụng tự động hóa cao cường độ lao động người công nhân
tăng lên với hình thức mới đó là cường độ lao động thần kinh thay thế cho cường độ
lao dộng cơ bắp, tạo ra sản phẩm chứa nhiều chất xám có giá trị lớn. Nên sản xuất tư
bản chủ nghĩa trong điều kiện hiện đại là sự kết hợp tinh vi của hai phương pháp sản
xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối.

7


2.

Liên hệ thực tiễn - Giá trị thặng dư và nền kinh tế

Việt Nam

2.1 Thực trạng
Trong học thuyết của C. Mác, có hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư là
sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
Tuy nhiên, Việt Nam đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, nên phương thức tạo
ra giá trị thặng dư tuyệt đối (tạo ra do kéo dài thời gian lao động vượt quá thời gian
lao động tất yếu trong khi năng suất lao động xã hội, giá trị sức lao động và thời
gian lao động tất yếu không thay đổi) không được sử dụng, thời gian lao động
không bị kéo quá 8 tiếng một ngày hay 48 tiếng một tuần theo điều 68 của bộ luật
Lao Động.
Gạt bỏ đi mục đích và tính chất của tư bản thì có thể áp dụng phương pháp sản
xuất giá trị thặng dư tương đối (tạo ra do rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng
cách nâng cao năng suất lao động xã hội, nhờ đó tăng thời gian lao động thặng dư
lên ngay trong điều kiện độ dài ngày lao động vẫn như cũ) và biến tấu của nó – giá
trị thặng dư siêu ngạch (phần giá trị thặng dư thu được do tăng năng suất lao động
cá biệt, làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó) vào
nền kinh tế Việt Nam.
Trước đổi mới, các doanh nghiệp Việt Nam đều là doanh nghiệp nhà nước
được nhà nước bao cấp hoàn toàn. Sản phẩm làm ra theo định lượng của nhà nước,
thậm chí là còn không cần biết đến việc sản phẩm đó tạo ra có đúng theo nhu cầu
của thị trường hay không, vì thế mà nền kinh tế trì trệ.
Sau đổi mới năm 1986, các doanh nghiệp nhà nước không còn hoàn toàn được
nhà nước bao cấp nữa mà bắt đầu phải tự chủ, bước vào nền kinh tế thị trường,
đồng thời, các doanh nghiệp tư nhân đầu tiên cũng ra đời. Tiếp đến, sự tràn vào của
hàng hóa các nước khác, đặc biệt là hàng Trung Quốc giá rẻ đã tạo nên một áp lực
lớn đối với các doanh nghiệp trong nước. Áp lực này buộc họ phải đổi mới công
nghệ nhằm tăng sức cạnh tranh để có thể tồn tại và đứng vững trong nền kinh tế thị
trường.
8



Để tạo ra được nhiều giá trị thặng dư, các doanh nghiệp bắt đầu chuyên môn
hóa trong việc sản xuất sản phẩm, phân chia công đoạn chi tiết, đầu tư vào việc
mua lại công nghệ và máy móc, áp dụng các phương thức quản lí mới. Ban đầu, với
lượng kinh phí còn hạn hẹp, họ mua lại những công nghệ và máy móc cũ đã lỗi thời
ở các nước phát triển với giá thành rẻ, rồi dần dần chuyển đổi sang những công
nghệ mới hiện đại hơn. Đồng thời, khi Việt Nam còn chưa có nguồn nhân lực tri
thức cao, các chuyên gia nước ngoài cũng được mời về để chuyển giao công nghệ.
Sau khi gia nhập WTO, các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với các đối
thủ mới (các công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia có tiềm lực tài chính, công nghệ,
kinh nghiệm và năng lực cạnh tranh cao), phải cạnh tranh quyết liệt trong điều kiện
mới (thị trường toàn cầu với những nguyên tắc nghiêm ngặt của định chế thương
mại và luật pháp quốc tế). Vì vậy, việc đổi mới công nghệ và đào tạo nguồn nhân
lực lại càng trở thành nhu cầu cấp bách khi cạnh tranh để tạo ra nhiều giá trị thặng
dư hơn.
Điển hình là cuộc chạy đua về cung cấp công nghệ 3G giữa ba tập đoàn
Vinaphone, Mobiphone và Viettel cho thấy mức độ cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp hiện nay. Ngày 12/10/2009 vinaphone chính thức ra mắt, thì đến 15/12/2009
Mobiphone cũng bắt đầu triển khai dịch vụ này. Chậm nhất là Viettel với dịch vụ
được bắt đầu từ ngày 25/3/2010, nhưng lại mở đầu bằng chiến dịch khuyến mãi
lớn, mà theo đó, Viettel cho phép khách hàng dùng 3G Mobile Internet với mức
khởi điểm thấp nhất là 10.000 đồng/tháng, khuyến mãi 50% cước đăng ký 3G và
miễn cước hòa mạng cho các thuê bao trả sau D-Com 3G… Ngay lập tức, Mobi tái
khẳng định chiến lược “3G cho mọi người” với gói cước Mobile Internet cho người
sử dụng có thu nhập thấp, khởi điểm chỉ với 5.000 đồng/tháng (gói M5). Việc kéo
người dùng sử dụng dịch vụ của các nhà mạng là nhằm mục đích tạo ra giá trị
thặng dư (lợi nhuận) cho doanh nghiệp.
Không thể hiện rõ như chạy đua về công nghệ, việc đào tạo và tìm kiếm
những nhà quản lí, những nhà chiến lược tài ba cũng là mối quan tâm lớn của các
doanh nghiệp. Không ít những doanh nghiệp Việt Nam hiện nay sẵn sàng trả cho
nhân viên của mình hàng chục ngàn Euro mỗi năm để có được những chiến lược

mới giúp doanh nghiệp tạo ra được nhiều lợi nhuận hơn bởi ngày nay lao động trí
9


tuệ, lao động quản lý đã trở thành những hình thức lao động có vai trò lớn. Khu
vực dịch vụ, các hàng hóa phi vật thể, vô hình chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế.

2.2

Hạn chế
Tuy nhiên không thể không thấy rõ những mặt hạn chế khi công nghệ của Việt

Nam dù đã được cải tiến rất nhiều nhưng vẫn còn thua kém rất nhiều so với các
nước phát triển, do phần lớn các công nghệ này vẫn còn là công nghệ đã không còn
được sử dụng ở nước ngoài mà được bán lại với giá thành rẻ. Và với những doanh
nghiệp có nguồn lực hạn hẹp, thì sau khi đổi mới công nghệ một lần thì họ phải chờ
một quãng thời gian khá dài mới có thể huy động tiền để tiếp tục đổi mới công
nghệ trong khi khoa học kĩ thuật đang biến đổi từng ngày.
Thêm nữa, tuy ngân sách nhà nước và tiền của các doanh nghiệp đầu tư cho
vấn đề con người là rất lớn nhưng hiện nay số người có khả năng đáp ứng yêu cầu
tuyển dụng vẫn còn thấp, bởi đầu tư vào giáo dục vẫn chưa đem lại hiệu quả. Điều
này có thể thấy rõ ở việc tuyển dụng của Intel tại Việt Nam năm 2008 với chỉ tiêu
là 4000 nhân viên nhưng cuối cùng kết quả tuyển dụng đã gây ra một sự thất vọng
lớn.

2.3

Giải pháp

Các doanh nghiệp trong nước cần cố gắng hơn nữa trong việc thay đổi công nghệ.

Hiện nay có nhiều doanh nghiệp trong nước đã tiến hành hợp tác với các doanh
nghiệp nước ngoài trên cơ sở hai bên cùng có lợi, vừa giúp doanh nghiệp nước
ngoài làm quen nhanh chóng hơn với nền kinh tế trong nước, vừa tạo điều kiện
giúp doanh nghiệp trong nước có được những công nghệ tiên tiến để phát triển sản
xuất.
Vấn đề nguồn lực vẫn là vấn đề cần được trọng tâm trong thời gian tới. Việc
nâng cao chất lượng dạy và học, giảm dần khoảng cách giữa lý thuyết và thực tế là
vô cùng cần thiết để tránh hiện trạng có cầu mà không có cung như hiện nay.
10


Ta đã biết giá trị thặng dư đang được tạo ra như thế nào, vậy phần giá trị thặng dư
ấy được phân chia như thế nào ?
Nếu coi ΔT = m thì ta có thể phân tách m thành
m = m1 + m2 + m3 + m4 + m5 + m6 + m7 + …
Trước hết, doanh nghiệp ở bất kì quốc gia nào đều có nghĩa vụ đóng thuế cho
nhà nước (như ở Việt Nam hiện nay là 25%).
Tiếp theo, phần lớn doanh nghiệp nhà nước và một số doanh nghiệp tư nhân sẽ
chia một phần giá trị thặng dư cho các quỹ (quỹ nghiên cứu khoa học, quỹ phúc lợi,
quỹ tái sản xuất) hoặc nếu không theo mô hình này thì giá trị thặng dư sẽ được chia
để trả công cho người quản lí, cho tái sản xuất và mở rộng sản xuất, cho chủ doanh
nghiệp… và một số phần khác.

11


III.

KẾT LUẬN


Mục đích chung của mọi nhà tư bản cũng như của nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa đều là sản xuất giá trị thặng dư tối đa. Nó không chỉ phản ánh mục đích của
nền sản xuất tư bản chủ nghĩa mà còn vạch rõ phương tiện, thủ đoạn mà các nhà tư
bản sử dụng để đạt được mục đích, đặc biệt là thông qua nghiên cứu về các phương
pháp sản xuất giá trị thặng dư. Bởi vậy, nó có tính thực tiễn sâu sắc. Trong bất kỳ
một chế độ xã hội nào thì việc thu được nhiều lợi nhuận vẫn là mục tiêu chính và
hàng đầu khi áp dụng các công nghệ kỹ thuật cao vào quá trình sản xuất.
Trong nền sản xuất xã hội chủ nghĩa cũng không nằm ngoài cái quy luật ấy,
nhưng nền sản xuất xã hội chủ nghĩa khác biệt với nền sản xuất tư bản chủ nghĩa ở
chỗ: khi áp dụng khoa học công nghệ cao vào quá trình sản xuất các doanh nghiệp
không thu được giá trị thặng dư như các nhà tư bản trước chủ nghĩa tư bản mà họ
chỉ thu được sản phẩm thặng dư mà thôi. Qua đó có thể thấy được khả năng ứng
dụng cao vào nền kinh tế của quy luật giá trị thặng dư, đặc biệt là các phương pháp
sản xuất giá trị thặng dư.
Có thể nói, điều kiện điểm xuất phát nền kinh tế Việt Nam thấp, nhưng qua
khoảng thời gian sau đổi mới, áp dụng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa đã có rất nhiều chuyển biến tích cực. Tiếp tục vận dụng những phương
pháp sản xuất giá trị thặng dư, đồng thời học tập từ những nước phát triển, các
doanh nghiệp của nước ta có thể đẩy mạnh kích thích sản xuất, tăng năng suất lao
động xã hội, sử dụng kỹ thuật mới, cải tiến tổ chức quản lí, tiết kiệm chi phí sản
xuất nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giúp đất nước thoát khỏi tình trạng nước
nghèo, vững mạnh hơn và giàu đẹp hơn.
IV.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC –

LÊNIN – Bộ Giáo dục và Đào tạo (2015)
2. Trang web DOC.EDU.VN


12


13



×