Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của đảng đối với hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay (tiểu luận cao học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.53 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU
Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, Đảng lãnh
đạo toàn xã hội, sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội thể hiện
ở hai điểm chủ yếu là: Nội dung lãnh đạo và phương thức lãnh
đạo. Phương thức lãnh đạo của Đảng bao gồm hệ thống các
phương pháp, hình thức và cách thức lãnh đạo. Theo Hồ Chí
Minh, phương pháp lãnh đạo cần phải thể hiện rõ trong Cương
lĩnh, Văn kiện và Điều lệ của Đảng. Người viết: “Đảng cương
là một văn kiện nó quy định: Tính chất của Đảng, mục đích
đấu tranh và đường lối cách mạng của Đảng, phương pháp
lãnh đạo cách mạng của Đảng”. Cách lãnh đạo được Hồ Chí
Minh chỉ dẫn ở nhiều tác phẩm, bài viết, bài nói. Trong tác
phẩm Sửa đổi lối làm việc, Người dành một trong sáu mục lớn
để chỉ dẫn cách lãnh đạo cho Đảng. Người yêu cầu “các cơ
quan chỉ đạo phải có cách lãnh đạo cho đúng”. Phương thức
lãnh đạo của Đảng không cố định, bất biến mà có thể thay
đổi, được áp dụng linh hoạt tùy theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể,
trình độ, năng lực của Đảng, đối tượng lãnh đạo (các tổ chức
chính trị - xã hội và toàn thể nhân dân). Đối tượng lãnh đạo
ngày càng phát triển về trình độ nhận thức, ý thức dân chủ
vv... Vì vậy, việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với hệ thống chính trị là nhu cầu tất yếu, khách quan.
Đối với Việt nam hiện nay, việc xây dựng Đảng trong thời kỳ đổi mới,
thời kỳ cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thời kỳ hội nhập, mở
1


cửa để phát triển đất nước là một việc làm hết sức khó khăn và phức tạp. Để
đáp ứng được vấn đề này đòi hỏi phải nâng cao nhận thức, năng lực lãnh của
Đảng một cách toàn diện, song trước hết là phải xây dựng được đường lối
đúng đắn, khi đã có đường lối đúng đắn thì sẽ xây dựng được phương thức


đúng đắn và phương thức đúng đắn có ý nghĩa quan trọng và quyết định cho
sự thành công trong đường lối lãnh đạo của Đảng. Phương thức đúng thì hiệu
quả thì công tác xây dựng Đảng sẽ tốt tốt hơn, trọng tâm hơn. Từ những nhận
thức cơ bản như vậy tôi xin chọn đề tài “Đổi mới nội dung, phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay” làm đề
tài cho môn Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị của mình, rất mong được thầy
giáo quan tâm giúp đỡ .

2


NỘI DUNG
I. Phương thức lãnh đạo của Đảng
1. Khái niệm phương thức lãnh đạo của Đảng
Phương thức lãnh đạo của Đảng là tổng thể các hình thức, phương
pháp, cách thức, quy chế, quy định, quy trình, phong cách, lề nối làm việc mà
Đảng sử dụng để tác động vào hệ thống chính trị nhằm thực hiện tốt nội dung
lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị.
2. Các phương thức lãnh đạo của Đảng
Hiện nay Đảng sử dụng 6 phương thức để lãnh đạo Hệ thống chính trị.
Cơ sở lý luận trực tiếp để nghiên cứu phương thức Đảng lãnh đạo Hệ thống
chính trị ở nước ta hiện nay là chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng thể
hiện trong Nghị quyết TW 5 Khoá X. Trên cơ sở lý luận, các phương thức
Đảng lãnh đạo Hệ thống chính trị gồm:
Thứ nhất: Đảng lãnh đạo HTCT bằng định hướng chính trị
Đảng lãnh đạo HTCT bằng định hướng chính trị là việc Đảng đề ra chủ
trương, đường lối trên các lĩnh vực của đời sống xã hội để Nhà nước thể chế
hóa thành chính sách, pháp luật, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội cụ
thể hóa trong điều lệ và những nội dung hoạt động của mình.
Định hướng chính trị là phương thức lãnh đạo quan trọng nhất và chủ

yếu nhất của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã
hội. Định hướng chính trị của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các đàn
thể chính trị - xã hội chủ yếu bằng nghị quyết. Thông qua nghị quyết mà ý
3


chí, chí tuệ tập thể của cơ quan lãnh đạo Đảng được thể hiện một cách tập
trung, cô đọng, sáng suốt và có giá trị hiệu lực cao, làm phương tiện truyền tải
định hướng chính trị của Đảng, cụ thể như sau:
- Trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng HCM;
tình hình quốc tế và cơ sở kinh tế - xã hội nước ta trong từng thời kỳ mà
Trung ương Đảng đề ra định hướng chính trị cho cả nước. Còn ở các địa
phương, căn cứ vào nghị quyết của các cấp lãnh đạo Đảng cấp trên, kết hợp
với cơ sở kinh tế - xã hội của địa phương mà đề ra định hướng chính trị cho
địa phương mình.
- Đảng căn cứ vào chính tổ chức, hoạt động của chính Nhà nước, Mặt
trận và các đoàn thể chính trị - xã hội; căn cứ vào việc đáp ứng yêu cầu thực
hiện nhiệm vụ của Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội để đề
ra định hướng chính trị cho tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Mặt trận và
các đoàn thể chính trị - xã hội.
- Đảng định hướng chính trị trên các lĩnh vực của đời sống xã hội: Kinh
tế; chínhtrị; văn hóa – xã hội; an ninh, quốc phòng cho tổ chức, hoạt động của
Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội.
+ Về kinh tế: Đảng đề ra định hướng phát triển kinh tế cho đất nước,
làm cơ sở lý luận cho việc tổ chức và hoạt động quản lý kinh tế của Nhà
nước; làm cơ sở lý luận để các Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị xã hội thực hiện các cuộc vận động thành viên của mình làm kinh tế, nhằm
đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, du lịch,
dịch vụ…
+ Về chính trị: Đảng đề ra phương hướng và những nguyên tắc cơ bản
làm cơ sở để Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội xây dựng,

hoàn thiện về tổ chức bộ máy và triển khai hoạt động nhằm thực hiện các
nhiệm vụ chính trị, luôn luôn giữ vững bản chất giai cấp công nhân.
+ Về văn hóa – xã hội: Đảng đề ra những chương trình, những định
hướng để Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội thực hiện trên
4


lĩnh vực văn hóa – xã hội như vấn đề bản sắc dân tộc, các vấn đề xã hội như
xóa đói giảm nghèo, cứu trợ xã hội…
+ Về an ninh, quốc phòng: Đảng đề ra những định hướng lãnh đạo
trong việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, trong việc bảo vệ an ninh trật
tự, an toàn xã hội…để Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội
triển khai thực hiện.
Thứ hai: Đảng lãnh đạo HTCT bằng công tác tư tưởng
Đảng lãnh đạo HTCT bằng công tác tư tưởng là việc Đảng tuyên
truyền, giáo dục nhằm xây dựng hệ tư tưởng mác – xít và chống lại tư tưởng
phi mác – xít đối với đảng viên, quần chúng; đặc biệt là công chức, viên chức
của Nhà nước và cán bộ, hội viên của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã
hội. Nhằm tạo ra sự đồng thuận về tư tưởng và hành động trong hệ thống
chính trị khi thực hiện các nhiệm vụ cách mạng.
- Đảng thường xuyên thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục chính
trị tư tưởng đối với đảng viên, quần chúng nhân dân; đặc biệt là đội ngũ công
chức, viên chức của Nhà nước và cán bộ, hội viên của các Nhà nước, Mặt trận
và các đoàn thể chính trị - xã hội.
+ Nội dung giáo dục chính trị tư tưởng là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chủ nghĩa
yêu nước, văn hóa Xã hội chủ nghĩa…Điều này có ý nghĩa rất quan trọng đối
với việc Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Bởi vì, vai trò của Đảng là lãnh đạo chính trị tư tưởng, định hướng chiến lược.
Hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng sẽ làm cho đội ngũ công chức,

viên chức của Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội thông
suốt đường lối của Đảng, tạo ra sự thống nhất về tư tưởng giữa Đảng, Nhà
nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội. Khi đã có sự thống nhất về
tư tưởng sẽ là tiền đề cho sự thống nhất về hành động; do vậy, góp phần khắc
phục được tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”.

5


+ Hình thức giáo dục chính trị tư tưởng: Đào tạo ở trường lớp, tuyên
truyền, giáo dục qua các phương tiện thông tin đại chúng, nêu gương (khen
ngợi, tôn vinh gương tốt; lên án, phê bình những cá nhân và tổ chức sai
phạm). Việc Đảng sử dụng hình thức nêu gương, thông qua việc nêu gương
(động viên gương tốt, phê bình sai phạm) mà Đảng lãnh đạo đối với hoạt
động của Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội. Trong phương
thức này, đặc biệt chú ý tới vấn đề phê bình những việc làm sai trái. Vì theo
tư tưởng Hồ Chí Minh thì một đảng chân chính phải biết nhận ra những
khuyết điểm của mình và biết sửa chữa. Một đảng mà không biết nhận ra sai
lầm khuyết điểm và sửa chữa sai lầm khuyết điểm thì là một đảng hỏng.
Việc cán bộ, đảng viên và các tổ chức Đảng nghiêm chỉnh chấp hành
cương lĩnh, Điều lệ Đảng, đường lối, nghị quyết của Đảng và chính sách,
pháp luật của Nhà nước, phát huy vai trò tiên phong gương mẫu của Đảng đã
làm cho công chức, viên chức của Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính
trị - xã hội noi theo. Có thể nói, nêu gương là phương pháp lãnh đạo đặc thù
của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội, thể
hiện rõ nét bản chất của một đảng mác – xít chân chính và sự trong sạch vững
mạnh của Đảng ta. Vì có sự công khai con người và tổ chức của Đảng trên cả
hai mặt: Tích cự và tiêu cực; nêu những tấm gương tốt và phê bình những tấm
gương xấu. Điều này có tác dụng rất to lớn trong việc nâng cao uy tín lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội.

Nhưng qua thực tiễn cho thấy phương pháp nêu gương cũng là “con dao hai
lưỡi”, đôi khi nó trở nên phản tác dụng, làm ảnh hưởng tới uy tín của Đảng,
gây khó khăn đối với việc Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể
chính trị - xã hội.
- Đảng tổ chức và động viên quần chúng nhân dân; đặc biệt là đội ngũ
công chức, viên chức của Nhà nước và cán bộ, hội viên của các Nhà nước,
Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội trong việc thực hiện định hướng
chính trị của Đảng…
6


Trong giai đoạn vừa qua Đảng đã sử dụng tốt phương thức giáo dục
chính trị tư tưởng để lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị xã hội. Điều đó đã nâng cao trình độ lý luận chính trị cho hầu hết công chức,
viên chức của Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội, tạo nên
sự đồng thuận về tư tưởng và hành động giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận và
các đoàn thể chính trị - xã hội. Việc xác lập và củng cố hệ tư tưởng mác – xít
trong xã hội nước ta của Đảng là một biểu hiện rõ nét về vai trò của một đảng
cầm quyền. Vì sự thống trị của một giai cấp, một đảng chính trị được biểu
hiện không những về mặt kinh tế, chính trị mà còn về mặt tư tưởng. Do vậy,
hệ tư tưởng mác – xít phải là hệ tư tưởng thống trị trong xã hội. Điều này
không những là phương thức để Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận và các
đoàn thể chính trị - xã hội mà còn góp phần củng cố và tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội ở
nước ta hiện nay.
Thứ ba: Đảng lãnh đạo HTCT bằng công tác tổ chức, cán bộ
Đảng lãnh đạo HTCT bằng công tác tổ chức, cán bộ là việc Đảng đưa
đảng viên, tổ chức của Đảng vào trong cơ quan Nhà nước, Mặt trận và các đoàn
thể chính trị - xã hội để biến quá trình thực hiện nghĩa vụ của công chức, viên
chức Nhà nước và biến quá trình thực hiện kỷ luật của cán bộ, hội viên Mặt trận
và các đoàn thể chính trị - xã hội cũng là thực hiện nhiệm vụ của Đảng.

Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội
qua công tác tổ chức - cán bộ là thông qua những người của Đảng, tổ chức
của Đảng nằm trong các cơ quan Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị
- xã hội mà Đảng thực hiện được sự lãnh đạo đối 2 đối tượng này. Đây là một
phương thức lãnh đạo quan trọng của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các
đoàn thể chính trị - xã hội. Vì phương thức này mang tính chất trực tiếp. Đối
với lực lượng vũ trang thì sự lãnh đạo của Đảng là: Trực tiếp, toàn diện và
tuyệt đối.

7


- Đảng đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên của mình trở thành
những nhà chuyên môn giỏi trong các lĩnh vực quản lý nhà nước, hoạt động
đoàn thể rồi đưa họ ra ứng cử làm đại biểu và các cương vị lãnh đạo của cơ
quan Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội được tổ chức theo
chế độ bầu. Đó là việc đưa cán bộ, đảng viên của mình tranh cử đại biểu và
các cương vị lãnh đạo của QH, HĐND các cấp; Chính phủ, UBND các cấp.
- Đảng giới thiệu những cán bộ, đảng viên ưu tú để cơ quan Nhà nước,
Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội tuyển dụng, bổ nhiệm trở thành
công chức, viên chức của Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã
hội hoặc người giữ chức vụ quản lý, lãnh đạo trong bộ máy Nhà nước (đối với
những cơ quan Nhà nước được tổ chức theo chế độ bổ nhiệm) và các Nhà
nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội. Đó là việc Đảng đưa cán bộ,
đảng viên ra đề nghị bổ nhiệm làm thẩm phán, kiểm sát viên và các cương vị
lãnh đạo của TAND, VKSND các cấp và các chức danh khác của Nhà nước,
Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội.
- Đồng thời, Đảng giác ngộ, bồi dưỡng, kết nạp vào đội ngũ của Đảng
những nhà chuyên môn giỏi trong các cơ quan Nhà nước, Nhà nước, Mặt trận
và các đoàn thể chính trị - xã hội; cán bộ có thành tích xuất sắc trong hoạt

động phong trào của các Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã
hội. Qua việc đưa họ vào hàng ngũ của Đảng mà Đảng thực hiện sự lãnh đạo
của mình đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội.
- Đảng xây dựng, củng cố tổ chức các cấp của Đảng. Đặc biệt là xây
dựng và củng cố các tổ chức Đảng trong cơ quan Nhà nước, Mặt trận và các
đoàn thể chính trị - xã hội, nhằm lãnh đạo đảng viên là công chức, viên chức,
lãnh đạo cơ quan Nhà nước và cán bộ hội viên của các Nhà nước, Mặt trận và
các đoàn thể chính trị - xã hội.
- Tất cả những việc làm trên đây của Đảng là nhằm mục đích luôn luôn
nắm được bộ máy Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội,

8


nhằm biến quá trình thực hiện nghĩa vụ của công chức, viên chức thành quá
trình thực hiện nhiệm vụ của Đảng.
Thứ tư: Đảng lãnh đạo HTCT bằng công tác kiểm tra, giám sát
Đảng lãnh đạo HTCT bằng công tác kiểm tra là từ việc kiểm tra của
Đảng, phát hiện và giải quyết những ưu điểm và hạn chế của Đảng nhằm nâng
cao năng lực, sức chiến đấu của Đảng; từ đó củng cố, tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Thông qua hoạt động kiểm tra Đảng đối với cán bộ, đảng viên và tổ
chức Đảng nói chung; đối với cán bộ, đảng viên và tổ chức Đảng ở trong cơ
quan Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội nói riêng mà Đảng
đã phát hiện và xử lý kịp thời những sai phạm; đồng thời phát hiện và phát
huy những ưu điểm trong tổ chức và hoạt động của Đảng. Qua đó, nâng cao
năng lực và sức chiến đấu của Đảng, góp phần to lớn vào công cuộc củng cố
và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn
thể chính trị - xã hội. Đánh giá về vai trò, ý nghĩa của công tác kiểm tra trong
sự lãnh đạo của đảng mác – xít đối với nhà nước và xã hội, Lênin đã từng

khái quát: Lãnh đạo mà không kiểm tra thì coi như không lãnh đạo. Do vậy,
công tác kiểm tra là một phương thức chủ đạo mà Đảng sử dụng để lãnh đạo
Nhà nước (nhất là đối với cơ quan Nhà nước hoạt động theo chế độ thủ
trưởng), Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Từ việc kiểm tra của Đảng, đặc biệt là kiểm tra đối với cán bộ, đảng
viên và tổ chức Đảng nằm trong các cơ quan Nhà nước, Mặt trận và các đoàn
thể chính trị - xã hội, phát hiện những cán bộ, đảng viên, tổ chức Đảng có sai
phạm kịp thời sửa sai hơn nữa nhằm phát hiện đảng viên và tổ chức Đảng có
những sáng tạo trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình để tổng kết nhân
rộng, từ đó làm cho Đảng nắm được, lãnh đạo được Nhà nước, Mặt trận và
các đoàn thể chính trị - xã hội. Đồng thời, làm cho Đảng ngày càng trong sạch
vững mạnh, đáp ứng vai trò lãnh đạo đối với HTCT nói riêng và đối với xã
hội nói chung. Qua công tác kiểm tra, giám sát sẽ nâng cao uy tín, năng lực và
9


sức chiến đấu của Đảng; đúc rút được những bài học kinh nghiệm quý báu về
sự lãnh đạo đối với hoạt động của công chức, viên chức và các cơ quan của
Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội. Từ đó, củng cố và tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể
chính trị - xã hội.
Ở đây, thông qua công tác kiểm tra, giám sát mà Đảng lãnh đạo đối với
Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội chứ không phải Đảng đi
kiểm tra, giám sát đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã
hội. Nội dung kiểm tra Đảng là kiểm tra người và việc của Đảng. Tức là kiểm
tra cán bộ, đảng viên và tổ chức Đảng trong Nhà nước, Mặt trận và các đoàn
thể chính trị - xã hội về thực hiện cương lĩnh, điều lệ, nghị quyết và những
quy định của Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Thứ năm: Đảng lãnh đạo HTCT bằng quy chế phối hợp công tác
Đảng lãnh đạo HTCT bằng quy chế phối hợp công tác là việc cơ quan

lãnh đạo của Đảng, cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước và Mặt trận và các
đoàn thể chính trị - xã hội ở những cấp tương đương thống nhất, quy định
bằng văn bản về chế độ làm việc giữa các bên, để Nhà nước, Mặt trận và các
đoàn thể chính trị - xã hội thực hiện tốt đường lối của cơ quan lãnh đạo Đảng
cấp trên và của cấp tương đương.
- Cơ quan lãnh đạo của Đảng và cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước,
cơ quan lãnh đạo của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội cùng cấp họp
và thống nhất về chế độ phối hợp công tác giữa hai bên trong việc thực hiện
nhiệm vụ chính trị; trong việc kiểm tra việc thực hiện đường lối của Đảng,
trong vấn đề báo cáo việc thực hiện đường lối của Đảng.
- Cơ sở lý luận của phương thức này là NQTƯ 3 Khóa 7. ‘‘Cần có quy
chế về phương thức lãnh đạo, quan hệ công tác giữa Đảng và các cơ quan Nhà
nước’’. Ở đây chúng ta suy rộng ra Đảng có quy chế phối hợp công tác không
những đối với Nhà nước mà còn cần có quy chế phối hợp công tác đối với
Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội.
10


Thứ sáu: Đảng lãnh đạo HTCT bằng phát huy dân chủ
Đảng lãnh đạo HTCT bằng phát huy dân chủ là việc Đảng quán triệt,
mở rộng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quá trình thực hiện sự lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội. Đồng
thời vận động nhân dân phát huy quyền làm chủ trong việc tham gia hoạt
động của các Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội.
- Trong hoạt động nội bộ của Đảng, khi thực hiện vai trò lãnh đạo của
mình đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội thì nguyên
tắc tập trung dân chủ được quán triệt và thực hiện một cách đầy đủ, nghiêm
túc và triệt để. Tức là khi đứng trước một vấn đề thể hiện sự lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội thì Đảng
họp bàn một cách dân chủ, sau khi tập thể bàn bạc, thảo luận thống nhất và

biểu quyết (vấn đề đã được quyết định theo đa số) thì quyết nghị đó có giá trị
bắt buộc thi hành trong công tác lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt
trận và các đoàn thể chính trị - xã hội. Điều này thể hiện sự phát huy dân chủ
trong Đảng đối với việc lãnh đạo HTCT.
- Trong hoạt động lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và
các đoàn thể chính trị - xã hội có sự tác động biện chứng:
+ Đảng lãnh đạo Nhà nước và Nhà nước cũng tác động trở lại đối với
Đảng.
+ Đảng lãnh đạo Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội và Mặt trận
và các đoàn thể chính trị - xã hội cũng tác động trở lại đối với Đảng.
Như vậy, quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính
trị - xã hội trong Hệ thống chính trị nước ta là mối quan hệ biện chứng. Mối
quan hệ này luôn đảm bảo nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, không can thiệp vào
công việc thuộc nội bộ của mỗi tổ chức, hợp tác để thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của mỗi tổ chức. Mối quan hệ biện chứng này, tạo thành cơ chế
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ
- Đảng phát huy quyền làm chủ của nhân dân:
11


+ Thường xuyên lấy ý kiến của nhân dân đối với các văn kiện của
Đảng, vận động nhân dân tham gia xây dựng và chỉnh đốn Đảng.
+ Vận động nhân dân tham gia hoạt động quản lý Nhà nước, giám sát
công chức, viên chức và hoạt động của cơ quan Nhà nước.
+ Vận động, tập hợp nhân dân tham gia vào các Nhà nước, Mặt
trận và các đoàn thể chính trị - xã hội để nhân dân thực hiện quyền làm
chủ của mình thông qua hoạt động của các Nhà nước, Mặt trận và các
đoàn thể chính trị - xã hội.
Có thể nói phương thức phát huy dân chủ là một phương thức cực kỳ
tiến bộ trong việc Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể

chính trị - xã hội, thể hiện một cách độc đáo nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Qua phương thức này đã làm cho hiệu quả hoạt động lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội tăng lên rất nhiều.
Vì nó là sự tác động biện chứng giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.
II. Những vấn đề cơ bản trong đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo
của Đảng
1. Sự cần thiết phải đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng.
Trong những năm qua, hệ thống chính trị ở nước ta đã có những đổi
mới đáng kể, vai trò lãnh đạo của Đảng trong xã hội ngày càng tăng trong đó:
Đảng đổi mới về phương thức lãnh đạo, về tư tưởng, tổ chức; Nhà nước tiếp
tục được hoàn thiện theo hướng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính
trị - xã hội từng bước đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, đem lại
hiệu quả thiết thực; quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế, xã
hội, chính trị, văn hoá, tư tưởng được phát huy... Tuy nhiên, bên cạnh đó, hệ
thống chính trị ở nước ta còn bộc lộ nhiều nhược điểm trong đó phải kể đến:
Năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà
nước, hiệu quả hoạt động của các đoàn thể chính trị - xã hội chưa theo kịp với
sự phát triển của xã hội và đòi hỏi ngày càng cao của công tác quản lý. Bộ
12


máy của Đảng, của Nhà nước, các tổ chức chính trị chậm thích ứng do nhiều
nguyên nhân trong đó có những vấn đề do sắp xếp lại cơ cấu tổ chức, do tinh
giản biên chế …vv dẫn đến trong bộ máy tổ chức còn nhiều biểu hiện quan
liêu, vi phạm quyền dân chủ của nhân dân…vv.
Để tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị, trước
yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, cùng với đổi mới nền kinh tế, từng bước đổi mới kiện
toàn hệ thống chính trị là đòi hỏi khách quan, yêu cầu cấp bách đối với Đảng

trong giai đoạn hiện nay.
2. Những nội dung đổi mới của Đảng trong Nghị quyết TW 5 khóa X.
Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải đồng bộ với đổi mới
tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, đổi mới kinh tế; thực hiện đúng
nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng.
Tập trung đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối, quan điểm, các nghị quyết; lãnh đạo
thể chế hoá, cụ thể hoá thành Hiến pháp, pháp luật, kế hoạch, các chương
trình công tác lớn của Nhà nước; bố trí đúng cán bộ và thường xuyên kiểm tra
việc tổ chức thực hiện.
Đảng lãnh đạo nhưng không bao biện, làm thay Nhà nước; trái lại, phát
huy mạnh mẽ vai trò chủ động, sáng tạo của Nhà nước trong quản lý đất nước
và xã hội.
Khẩn trương xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy định cụ thể về
nguyên tắc, nội dung và cơ chế Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước trong từng lĩnh
vực: lập pháp, hành pháp, tư pháp và từng cấp, từng loại hình tổ chức nhà nước.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân, tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể xác định
đúng mục tiêu, phương hướng hoạt động; đồng thời, phát huy tinh thần tự
chủ, sáng tạo trong xây dựng, đổi mới tổ chức và hoạt động của mình.

13


Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ
trong hệ thống chính trị, thực hiện luân chuyển cán bộ, khắc phục tình trạng
khép kín, cục bộ về cán bộ. Tăng cường trách nhiệm của cán bộ, đảng viên là
thủ trưởng cơ quan nhà nước. Cơ quan nào vi phạm chính sách, pháp luật, để
xảy ra tình trạng tiêu cực, mất đoàn kết nội bộ thì người đứng đầu phải chịu
trách nhiệm.

Đổi mới phương thức lãnh đạo gắn với đổi mới phong cách và lề lối
làm việc thật sự dân chủ, thiết thực, nói đi đôi với làm.
3. Những nội dung đổi mới trong Nghị quyết TW 4 ; 5 và 6 khóa XI của
Đảng.
Ngày 16/1/2012, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TW - Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI): Một số
vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay, trong đó đưa ra 4 nhóm giải
pháp cơ bản và 7 vấn đề quan trọng cần tổ chức thực hiện gồm:
3.1 Giải pháp cơ bản
3.1.1. Nhóm giải pháp về tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong,
gương mẫu của cấp trên
3.1.2. Nhóm giải pháp về tổ chức, cán bộ và sinh hoạt đảng
3.1.3. Nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách
3.1.4. Nhóm giải pháp về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng
3.2 Tổ chức thực hiện
3.2.1. Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị, Kế hoạch, phân công việc chỉ đạo thực
hiện Nghị quyết, định rõ lộ trình thực hiện, làm từng bước vững chắc; giữa
nhiệm kỳ sơ kết, cuối nhiệm kỳ tổng kết báo cáo Ban Chấp hành Trung ương,
Đại hội Đảng; trực tiếp chỉ đạo việc phổ biến, quán triệt và tổ chức triển khai
thực hiện Nghị quyết.
3.2.2. Người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị ở các cấp chịu
trách nhiệm xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện Nghị quyết, giải quyết từng
14


vấn đề cấp bách, xác định rõ những việc cần làm ngay, làm quyết liệt có hiệu
quả, thời gian hoàn thành và phân công người chịu trách nhiệm cụ thể.
3.2.3. Ban Tổ chức Trung ương chủ trì phối hợp với Ủy ban Kiểm tra Trung
ương, Văn phòng Trung ương Đảng và các cơ quan liên quan khẩn trương rà

soát các cơ chế, chính sách về tổ chức, cán bộ, đề xuất sửa đổi, xây dựng mới
để thực hiện tốt các giải pháp nêu ra trong Nghị quyết này.
Ban Tổ chức Trung ương chủ trì phối hợp với Ban cán sự đảng Chính phủ,
Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Bộ Nội vụ và các cơ quan liên quan rà
soát và kiện toàn tổ chức những cơ quan của Đảng, Nhà nước chưa phù hợp,
hoạt động chưa hiệu quả. Đánh giá hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo
Trung ương về Phòng, chống tham nhũng, từ đó đề xuất việc kiện toàn để
nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức này.
3.2.4. Ủy ban Kiểm tra Trung ương chủ trì phối hợp với Ban Tổ chức Trung
ương, Ban Tuyên giáo Trung ương, Văn phòng Trung ương Đảng xây dựng
kế hoạch, kiến nghị với Bộ Chính trị, Ban Bí thư nội dung gợi ý cho các cấp
ủy viên ở những nơi cần thiết trước khi tiến hành tự phê bình và phê bình; tổ
chức kiểm tra, giám sát các cấp ủy, tổ chức đảng về thực hiện Nghị quyết này.
3.2.5. Ban Tuyên giáo Trung ương chỉ đạo các cơ quan báo chí tuyên truyền,
phổ biến nội dung nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch của Trung ương, Bộ Chính trị
về vấn đề này và kết quả thực hiện theo tiến độ chặt chẽ, kịp thời, tránh nhận
thức sai lệch, hiểu nhầm, ngộ nhận; không để các thế lực thù địch, chống đối
lợi dụng kích động, làm mất ổn định chính trị. Các cấp ủy, cơ quan chủ quản
chịu trách nhiệm quản lý, chấn chỉnh các cơ quan báo chí của mình, bảo đảm
đúng định hướng thông tin của Đảng và Nhà nước. Tăng cường quản lý và
chấn chỉnh các trang mạng và blog có nội dung xấu.
3.2.6. Ban Dân vận Trung ương chủ trì phối hợp với Đảng đoàn Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các cơ quan liên quan nghiên cứu, xây dựng quy chế
giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính
trị - xã hội, cơ chế để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội và
15


nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, trình Bộ
Chính trị ban hành.

3.2.7. Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo rà soát, ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật cần thiết để quản lý, sử dụng, kiểm soát
chặt chẽ vốn và tài sản của Nhà nước, không để sơ hở, thất thoát.
Ngày 7/5/2012, Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XI đã khai mạc tại Hà Nội. Hội nghị lần này bàn một số nội dung quan
trọng, gồm Tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và một số nội dung
cơ bản cần sửa đổi, bổ sung; Tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Trung ương
7 (khóa IX) "Tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước"; Sơ kết 5 năm thực hiện
Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí"; Xem xét, quyết định một
số vấn đề về chính sách xã hội, tiền lương giai đoạn 2012-2020; và một số
vấn đề quan trọng khác.
Từ ngày 01-10 đến ngày 15-10-2012, tại Thủ đô Hà Nội, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khoá XI đã họp Hội nghị lần thứ 6 để thảo luận, cho ý
kiến các báo cáo, đề án về: Tình hình kinh tế - xã hội năm 2012, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2013; tiếp tục
sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước; đổi mới chính
sách, pháp luật về đất đai; đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo;
phát triển khoa học và công nghệ; quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh chủ chốt của Đảng và Nhà nước; việc
thành lập Ban Kinh tế Trung ương; Báo cáo kết quả kiểm điểm tự phê bình và
phê bình của tập thể và cá nhân Bộ Chính trị, Ban Bí thư theo tinh thần Nghị
quyết Trung ương 4 khoá XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện
nay" và một số vấn đề quan trọng khác.
III. Những thành tựu đã đạt được sau 25 năm đổi mới.

16



Với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật”, từ Đại hội VI đến Đại hội
X của Đảng, Đảng ta đã phân tích, đánh giá tình hình trong nước và thế giới
một cách khách quan, xác định các xu thế phát triển tất yếu của thế giới và đã
thực hiện bước chuyển đổi quan trọng cả về lý luận và thực tiễn: xóa bỏ cơ
chế quản lý tập trung, hành chính, quan liêu bao cấp, chuyển sang nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Công cuộc đổi mới tiến hành 25 năm
đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.

1. Đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh
Thực hiện đường lối đổi mới, với mô hình kinh tế tổng quát là xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã thoát
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển
sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Giai đoạn 1986-1990: GDP tăng 4,4%/năm. Việc thực hiện tốt ba
chương trình mục tiêu phát triển về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng
và hàng xuất khẩu được đánh giá là thành công bước đầu cụ thể hóa nội dung
của CNH XHCN trong chặng đường đầu tiên. Đây là giai đoạn chuyển đổi cơ
bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước quá trình
đổi mới đời sống KTXH và giải phóng sức sản xuất
Giai đoạn 1991-1995: Nền kinh tế khắc phục được tình trạng trì trệ, suy
thoái, đạt được tốc độ tăng trưởng tương đối cao liên tục và toàn diện.GDP
bình quân năm tăng 8,2%. Đất nước ra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế, bắt
đầu đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước
Từ năm 1996-2000, là bước phát triển quan trọng của thời kỳ mới, đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước. Chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh
tế khu vực cùng thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp đặt nền kinh tế nước ta
trước những thử thách. Tuy nhiên, giai đoạn này, Việt Nam duy trì được tốc
độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước 7%/năm.
17



Năm 2000-2005, nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao, liên tục,
GDP bình quân mỗi năm đạt 7,5%. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng đạt 8,4%,
GDP theo giá hiện hành, đạt 838 nghìn tỷ đồng, bình quân đầu người đạt trên
10 triệu đồng, tương đương với 640 USD.
Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu 50 vạn - 1 triệu tấn
lương thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm
2005, nước ta đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo, thứ 2 về cà phê, thứ
4 về cao su, thứ 2 về hạt điều, thứ nhất về hạt tiêu
2005-2010: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 7%. Mặc
dù khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng thu hút vốn
đầu tư nước ngoài vào nước ta đạt cao. Trong 5 năm, tổng vốn FDI thực hiện
đạt gần 45 tỉ USD, vượt 77% so với kế hoạch đề ra. Tổng số vốn đăng ký mới
và tăng thêm ước đạt 150 tỉ USD, gấp hơn 2,7 lần kế hoạch đề ra và gấp hơn 7
lần so với giai đoạn 2001-2005. Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỉ USD,
gấp hơn 1,5 lần so với mục tiêu đề ra; giải ngân ước đạt khoảng 13,8 tỉ USD,
vượt 16%. GDP bình quân đầu người đạt 1.168 USD.
2. Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, gắn sản xuất với thị trường.
Về cơ cấu ngành, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1988
là 46,3%, năm 2005 còn 20,9%, năm 2010 còn 20,6%. Trong nội bộ ngành
nông nghiệp cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển dịch theo hướng tiến
bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các sản
phẩm có giá trị xuất khẩu.
Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên tục. Năm 1988 là
21,6%, năm 2005 lên 41%. Công nghiệp và xây dựng phát triển mạnh với
thiết bị công nghệ ngày càng hiện đại.
Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên
38,1% năm 2005. Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày
càng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống. Ngành du lịch, bưu chính viễn

18


thông phát triển với tốc độ nhanh. Các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư
vấn pháp lý... có bước phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả.
3. Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, phát huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế
Kinh tế Nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu
quả, tập trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu
của nền kinh tế. Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một
bước quan trọng theo hướng xoá bao cấp, thực hiện chế độ công ty, phát huy
quyền tự chủ và trách nhiệm của doanh nghiệp trong kinh doanh.
Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy động ngày càng tốt hơn các nguồn
lực và tiềm năng trong nhân dân, là một động lực rất quan trọng thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển kinh tế. Năm 2005, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp
khoảng 38% GDP của cả nước.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao,
trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân; là cầu
nối quan trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế,
đóng góp vào ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho nhiều người dân.
4. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được
hình thành, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định
Qua 25 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận
hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng
tương đối đồng bộ. Hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh
tế nhiều thành phần và bộ máy quản lý của Nhà nước được đổi mới một bước
quan trọng.
Với chủ trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ
kinh tế của Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được mở
rộng. Việt Nam đã tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, thực hiện

các cam kết về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định thương
mại Việt Nam - Hoa Kỳ, gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO)...vv.
19


Đến nay Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh
thổ, ký hơn 90 hiệp định thương mại song phương với các nước, tạo ra một
bước phát triển mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại.
5. Thực hiện gắn kết phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội,
đời sống của đại bộ phận dân cư được nâng lên rõ rệt.
Một thành công lớn đầy ấn tượng của nước ta qua 25 năm đổi mới là đã
giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn
hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, các cơ hội phát triển được mở
rộng cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư, tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của nhân dân được nâng cao.
Trước hết, công tác giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo đạt kết quả
tốt, vượt mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Từ năm 2000
đến năm 2005, tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động. Năm 2005, thất nghiệp ở
thành thị giảm xuống còn 5,3%; thời gian sử dụng lao động ở nông thôn đạt
80%. Thu nhập bình quân đầu người tăng mạnh từ 200 USD năm 1990 lên
khoảng 1168 USD năm 2010.
Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân được chú trọng và có nhiều tiến bộ.
Mạng lưới y tế được củng cố và phát triển, y tế chuyên ngành được nâng cấp,
ứng dụng công nghệ tiên tiến; việc phòng chống các bệnh xã hội được đẩy
mạnh; tuổi thọ trung bình từ 68 tuổi năm 1999 đến nay nâng lên trên 72 tuổi.

20


KẾT LUẬN

Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống
chính trị là giải pháp đúng đắn, mang tính nền tảng, bền vững. Quá trình đó
đã phát huy được quyền làm chủ của nhân dân, tạo nên cơ sở thực tiễn vững
chắc bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của hệ thống chính trị, đồng thời là
cơ sở cho sự đoàn kết, thống nhất về quan điểm, ý chí và hoạt động trong toàn
Đảng, toàn dân, phát huy cao độ tính năng động sáng tạo của nhân dân trong
quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt nam.
Có thể khẳng định rằng, nhân tố bảo đảm cho việc xây dựng chủ xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam chỉ có thể là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
với lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp với
thực tiễn cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Đảng ta nhất định sẽ tìm
ra được hướng đi đúng cho quá trình đổi mới. Với 5 nhiệm kỳ Đại hội và hơn
25 năm đổi mới, Đảng ta đã chứng minh được sự đúng đắn đó trong đường lối
lãnh đạo của mình. Bằng những thành tích đã đạt được trong thời gian vừa
qua, kết hợp với lập trường kiên định được thể hiện trong Nghị quyết qua các
kỳ Đại hội, chúng ta tin tưởng rằng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của đất
nước sẽ không còn xa./.

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng lãnh đạo Nhà nước và Xã hội…………………
2. Nghị quyết TW 5 Khóa X……………………………
3. Văn kiện Đại hội Đảng XI …………………………..
4. Nghị quyết TW 4; 5 và 6 Khóa XI……………………
5. Một số tài liệu khác……………………………………

22



MỤC LỤC

23



×