Tải bản đầy đủ (.pdf) (357 trang)

CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN CỦA CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.78 MB, 357 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC MỞ BÁN CÔNG TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA ĐÔNG NAM Á HỌC

CHIẾN LƯỢC
PHÁT TRIỂN CỦA CÁC NƯỚC
ĐÔNG NAM Á

TẬP I
Tập thể tác giả:
TS. NGUYỄN THU MỸ (Chủ biên)
TS. PHẠM ĐỨC THÀNH
TS. HOA HỮU LÂN
TSKH. TRẦN KHÁNH

TP. HỒ CHÍ MINH - 200

1


MỤC LỤC
Lời

nói

đầu…………………………………………………………………….
PHẦN THỨ NHẤT:
CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN CỦA CÁC NƯỚC ASEAN TỪ
KHI GIÀNH ĐƯỢC ĐỘC LẬP DÂN TỘC TỚI NAY
CHƯƠNG I:


CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN CỦA VƯƠNG QUỐC

THÁI
LAN…………………………………………………
I - Những tiền đề của sự phát triển---------------------------II - Chiến lược phát triển của vướng quốc Thái Lan từ sau cách
mạng
dân chủ tư sản 1932 tới trước cuộc khủng hoảng tài chính tiền
tệ
(7/1997)………………………………………………….
CHƯƠNG II: CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI CỦA
CỘNG
HÒA INDONESIA………………………………
I - Những tiền đề của sự phát triển--------------------------------------II - Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Indonesia từ khi độc
lập tới nay……………………………………………………………..
CHƯƠNG III: CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN CỦA LIÊN BANG

2


MALAYSIA………………………………………………..
I - Những tiền đề phát triển……………………………………….
II - Chiến lược phát triển kinh tế - Xã hội trong giai đoạn 1971 –
1990...
III - Chiến lược phát triển kinh tế - Xã hội trong giai đoạn hiện nay….
CHƯƠNG IV: CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN CỦA CỘNG HÒA
PHILIPPINES……………………………………..
I - Những tiền đề của sự phát triển…………………………………
II - Chiến lược phát triển……………………………………………
CHƯƠNG V: CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN CỦA CỘNG HÒA
SINGAPORE………………………………………

I

-

Những

tiền

đề

của

sự

phát

triển……………………………………
II

-

Chiến

lược

phát

triển……………………………………………..
III - Những thành tựu phát triển kinh tế - Xã hội sau 40 năm triển
khai

chiến

lược

phát

triển……………………………………………

PHẦN THỨ HAI:

3


NHÌN LẠI 40 NĂM THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC PHÁT
TRIỂN CỦA CÁC NƯỚC THÀNH VIÊN SÁNG LẬP
ASEAN
CHƯƠNG VI: NHỮNG THÀNH TỰU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ TỒN
TẠI
SAU 4 THẬP NIÊN TRIỂN KHAI CHIẾN LƯỢC PHÁT
TRIỂN
I - Một số đặc điểm cơ bản trong chiến lược phát triển của các nước
ASEAN…………………………………………………………..
II - Những thành tựu sau 40 năm thực hiện chiến lược phát triển……
III - Những vấn đề tồn tại trên con đường phát triển của các nước
ASEAN…………………………………………………………
IV - Khủng hoảng tài chính - tiền tệ: Kết cục không tránh khỏi của quá
trình

phát


triển

không

bền

vững…………………………………
CHƯƠNG VII: VƯỢT QUA KHỦNG HOẢNG KINH TẾ TẠO TIỀN
ĐỀ
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TRONG THẾ KỶ XXI………
I – Tác động của khủng hoảng tài chính - tiền tệ đối với sự phát triển
của
ASEAN……………………………………………………..
II - Những cố gắng vượt qua khủng hoảng tài chính - tiền tệ của
ASEAN…………………………………………………………..
4


III - Những kết quả khắc phục khủng hoảng và phục hồi kinh tế của
các

nước

ASEAN……………………………………………….
PHẦN THỨ BA:
TIẾN TỚI MỘT TƯƠNG LAI PHÁT TRIỂN BỀN
VỮNG TRONG THẾ KỶ XXI
CHƯƠNG VIII: NHỮNG CỐ GẮNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA
ASEAN TỪ SAU CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI
CHÍNH TIỀN TỆ TỚI NAY………………………………….

I – Khái niệm phát triển bền vững của các nước ASEAN……………
II - Tiến tới một sự phát triển bền vững trong thế kỷ XXI………….

5


LỜI NÓI ĐẦU

Hiện nay, nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất
nước nhằm xây dựng Việt Nam cơ bản thành một nước công nghiệp vào
năm 2020 như Đại hội VIII của Đảng (1996) đã vạch ra.
Trong quá trình triển khai các chiến lược phát triển ở thời kỳ mới, Đảng
và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm tới việc học tập kinh nghiệm của các
nước đi trước, nhất là kinh nghiệm phát triển của các nước láng giềng,
trong đó có các nước ASEAN, vốn có hoàn cảnh địa lý, lịch sử, văn hóa
và xuất phát điểm về phương diện kinh tế tương tự như nước ta. Kinh
nghiệm của các nước trên được xem là thích hợp với nước ta hơn cả.

Với mục đích giới thiệu các kinh nghiệm, các bài học phát triển của
ASEAN cho Việt Nam, từ nhiều năm nay, việc nghiên cứu chiến lược
phát triển của ASEAN đã được đẩy mạnh tại nhiều Viện, nhiều Trung
tâm nghiên cứu quốc tế và khu vực ở nước ta. Các kết quả nghiên cứu đã
bước đầu được chuyển tải thành các khuyến nghị gửi tới các cơ quan có
liên quan của Đảng và Nhà nước đồng thời được công bố trong các xuất
bản phẩm dưới nhiều hình thức khác nhau, trong những năm gần đây.

Các kết quả nghiên cứu trên cũng đã cho phép mở chuyên đề giảng dạy
về Chiến lược phát triển của các nước ASEAN tại Khoa Đông Nam á
Học, Đại học Mở - Bán công Thành phố Hồ Chí Minh.


Nhằm đáp ứng nhu cầu tìm hiểu, học tập, nghiên cứu vê các vấn đề phát

6


triển của các nước ASEAN, một nhóm các nhà khoa học của Trung tâm
Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia Việt Nam bao gồm:
Tiến sĩ Nguyễn Thu Mỹ
Tiến sĩ Phạm Đức Thành
Tiến sĩ Hoa Hữu Lân
Tiến sĩ Khoa học Trần Khánh
đã tiến hành nghiên cứu về chiến lược phát triển của các nước thành viên
sáng lập ASEAN và những kinh nhiệm cho Việt Nam. Cuốn giáo trình
này chính là một phần các kết quả nghiên cứu của họ.

Cuốn sách do Tiến sĩ Nguyễn Thu Mỹ làm chủ biên và là tác giả của các
phần viết về:
- Chiến lược phát triển của Vương quốc Thái Lan và của Cộng
Hòa Philippines
Tiến sĩ Phạm Đức Thành, Viện trưởng, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á là
tác giả của phần viết về Chiến lược Phát triển của Malaysia.

Các phần viết về Chiến lược phát triển của Indonesia và Singapore do
Tiến sĩ Hoa Hữu Lân và Tiến sĩ Khoa học Trần Khánh chịu trách nhiệm.

Phần thứ hai và phần thứ ba của cuốn giáo trình này được chúng tôi biên
soạn dựa trên cuốn sách “Tiến tới một ASEAN hòa bình, ổn định và phát
triển bền vững” của Giáo sư, Viện sĩ Nguyễn Duy Quý, Giám đốc Trung
tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia Việt Nam và do Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia ấn hành tại Hà Nội, năm 2001.


7


Giáo trình của chúng tôi bao gồm 3 phần lớn:

Phần thứ I: Chiến lược phát triển của các nước thành viên sá n g lập
ASEAN từ khi giành được độc lập tới nay.
Ở phần này, chúng tôi tập trung giới thiệu những nét chính trong chiến
lược phát triển của 5 nước thành viên ban đầu của ASEAN là Thái Lan,
Indonesia, Philippines, Malaysia và Singapore.
Chiến lược phát triển của các nước thành viên khác chưa được đề cập tới
trong cuốn giáo trình này. Bởi vì, thành tựu nghiên cứu về phát triển ở
các nước trên còn khiêm tốn, chưa đủ để biên soạn thành các bài giảng ở
bậc Đại học. Chúng tôi sẽ cố gắng để có thể bổ sung vào giáo trình trong
thời gian sớm nhất.
Phần thứ hai: Nhìn lại 40 năm thực hiện chiến lược phát triển của
các
nước thành viên sáng lập của ASEAN.
Phần này sẽ phân tích các kết quả thực hiện chiến lược phát triển của
ASEAN với tư cách là một nhóm các nền kinh tế đang phát triển và
những tồn tại trong quá trình triển khai các chiến lược của họ. Cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ được đề cập tới như là kết cục không tránh
khỏi của một quá trình phát triển không bền vững của đa số các nước
ASEAN.

Giáo trình cũng cố gắng đưa ra một sự phân tích toàn diện và sâu sắc về
các hậu quả của khủng hoảng tài chính tiền tệ đối với sự phát triển của
ASEAN và trình bày những nỗ lực của ASEAN và các nước thành viên
8



Hiệp hội trong quá trình khắc phục các hậu quả của khủng hoảng tài
chính - tiền tệ.

Phần thứ ba: ASEAN : Tiến tới một tương lai phát triển bền vững

Trong phần này, chúng tôi giới thiệu khái niệm phát triển bền vững của
một số nước ASEAN, so sánh khái niệm phát triển bền vững của ASEAN
với khái niệm phát triển bền vững được nhiều người trên thế giới chấp
nhận hiện nay. Tiếp đó, chúng tôi trình bày những cố gắng phát triển bền
vững của ASEAN và các nước thành viên Hiệp hội này.
Nhân dịp giáo trình: “Chiến lược phát triển của ASEAN của các nước
thành viên sáng lập ASEAN” được công bố, thay mặt nhóm tác giả, tôi
xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Quốc Lộc,
Trưởng Khoa Đông Nam Á Học, Trường Đại Học Mở - Bán công TP.
HCM, người đã có sáng kiến đưa việc giảng dạy về chiến lược phát triển
của các nước thành viên sáng lập ASEAN vào chương trình giảng dạy
cho sinh viên khoa Đông Nam Á Học và khuyến khích chúng tôi biên
soạn cuốn giáo trình này.

Lần đầu tiên được công bố, giáo trình sẽ không tránh khỏi những nhược
điểm nhất định. Chúng tôi mong nhận được ý kiến đóng góp của các
đồng nghiệp gần xa và của các em sinh viên nhằm giúp chúng tôi nâng
cao chất lượng của giáo trình.

Thay mặt các tác giả
Chủ biên

9



TS. Nguyễn Thu Mỹ

10


PHẦN THỨ NHẤT

CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN CỦA CÁC NƯỚC ASEAN TỪ KHI
GIÀNH ĐƯỢC ĐỘC LẬP DÂN TỘC TỚI NAY

CHƯƠNG I:
CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN CỦA VƯƠNG QUỐC THÁI LAN
I - NHỮNG TIỀN ĐỀ CỦA SỰ PHÁT TRIỂN
1. Tài nguyên thiên nhiên
Vương quốc Thái Lan trước 1939, được gọi là Xiêm, có diện tích rộng
513.520km2, đứng thứ hai trong khu vực, sau Indonesia. Nằm từ 5,30 tới
11


26 độ vĩ tuyến bắc và 97,30 tới 105,30 độ kinh đông, Thái Lan ở trong
khu vực nhiệt đới gió mùa. Thái Lan có chung biên giới với Lào ở đông
và đông bắc, với Mianmar ở phía Tây nam giáp Malaysia, đông nam giáp
Campuchia, phía nam giáp vịnh Thái Lan, chiều dài từ bắc xuống nam dài
1.620km, từ Đông sang Tây dài 775km. Bờ biển dài khoảng 1.500km, với
vịnh Thái Lan nằm sâu trong đất liền, thuận tiện cho việc giao thông.

Người Thái hình dung đất nước họ giống như đầu một con voi, thân đổ
xuống đảo Mã Lai. Trong quan niệm của người Thái, voi, nhất là voi

trắng, là biểu trưng cho sự may mắn và tốt lành.

Địa hình Thái Lan thấp gần từ bắc xuống nam, từ tây sang đông. Những
dãy núi kéo dài liên tục ở phía tây và tây bắc tạo thành xương sống của
Thái Lan. Độ cao trung bình của các quả núi ở vùng này là l.600m so với
mặt biển. Đỉnh cao nhất là Đoi In Tha Ron cao 2.600 m so với mặt biển.
Với những đặc trưng đó về địa hình, Thái Lan có thể chia thành 4 khu
vực địa lý khác nhau, đồng thời đó cũng là 4 khu vực kinh tế của đất
nước.

Miền Bắc
Rộng chừng 42.000 dặm vuông, chủ yếu là núi rừng hiểm trở, có nhiều
gỗ quý, đặc biệt là gỗ tếch có giá trị xuất khẩu cao. Sông ngòi ở đây
thường ngắn và nhỏ. Phần lớn là các chi lưu của sông Mekong và sông
Xaluen. Những sông này chạy theo hướng Nam và dồn nước vào sông
Chao phơ ray a.

12


Trung tâm chính trị của miền bắc là Chiêng Mai. Đây là thành phố lớn và
quan trọng thứ hai ở Thái Lan, cách Bangkok 500 dặm về phía bắc.
Thành phố này được xây dựng từ năm 1383. Ngày nay Chiêng Mai là
thành phố du lịch nổi tiếng của Thái Lan. Ở đây có nhiều phong cảnh đẹp
và khí hậu trong lành.

Vùng Đông - Bắc
Rộng chừng 66.000 dặm vuông, bằng 1/3 diện tích cả nước. Đây là khu
vực ít được thiên nhiên ưu đãi nhất ở Thái Lan. Mùa khô kéo dài, mưa ít.
Cây cối chủ yếu là bụi dặm, lau sậy và cỏ dại. Đường giao thông còn kém

phát triển. Bộ phận chủ yếu tạo nên vùng Đông bắc là cao nguyên Cò Rạt,
cao hơn mặt biển 1200m và được sông Mekong bao bọc ở phía Đông Bắc. Đất đai ở đây thích hợp cho việc trồng cỏ, chăn nuôi đại gia súc.

Vùng Đồng bằng Trung tâm
Chủ yếu do sông Chao-phơ-ray-a bồi đắp. Đây là vùng trù phú về kinh tế
nhất ở Thái Lan. Địa hình miền Trung tương đối bằng phẳng, đất đai màu
mở, mưa nắng khá điều hòa. Miền Trung là nơi sản xuất lúa gạo chính
của Thái Lan.

Thủ đô Bangkok nằm ở miền Trung, bên bờ sông Chao- phơ-ray-a.
Bangkok hiện nay là liên hợp giữa hai thành phố Thônburi ở phía Đông
sông Chao phơ ray a và Bangkok ở phía Tây. Cuối thế kỷ XVIII,
Bangkok là một thành phố nổi. Mọi phương tiện giao thông đi lại trong
thành phố đều bằng thuyền. Những người phương Tây đến thành phố này
trong những năm đầu thế kỷ XIX đã gọi Bangkok là thành Vơ ni dơ ở
phương Đông.
13


Đầu thế kỷ XVIII, Bangkok đã trở thành một trung tâm thường mại lớn ở
Đông Nam Á. Hàng hóa xuất nhập khẩu từ đây đã được đem đi bán ở
khắp nơi trên thế giới. Ngày nay, Bangkok là một trong những thành phố
lớn nhất ở Đông Nam Á với số dân lên tới gần 5 triệu người. ớ đây có mặt
hầu hết các công ty đa quốc gia, các tập đoàn tài chính lớn nhất thế giới.

Miền Nam
Có diện tích chừng 30.000 dặm vuông. Đất đai vùng này thích hợp với
các loại cây công nghiệp như mía, cao su, bông, cà phê, thuốc lá. Miền
nam là nơi tập trung nhiều khoáng sản quý, trong đó có mỏ thiếc ở Phu
kệt.

Vịnh Thái Lan nằm ở miền nam và là một hải cảng quan trọng nhất của
nước này.
Sông ngòi
Thái Lan có nhiều sông, nhưng phần lớn đều là các sông nhỏ, trừ hai sông
Chao phơ ray a và Mekong.

Bắt nguồn từ miền núi Tây Tạng, ba con sông Oang, sông Om và sông
Nam hợp lưu với nhau ở phía mương Na Khôn Sa Van tạo thành sông Mê
Nam Chao phơ ray a. Từ vùng này, sông Chao phơ ray a chảy trên độ cao
30m qua một đoạn đường dài 150 bặm trước khi đổ ra vinh Thái Lan.
Con sông này từ lâu đời đã là đường giao thông chính của nước Thái Lan
cổ. Ngày nay, mặc dù nhiều phương tiện giao thông hiện đại đã xuất
hiện, nhưng vai trò của sông Chao-phơ-ray-a với tư cách là một tuyến

14


đường giao thông đường thủy vẫn hết sức quan trọng.

Sông Mekong chảy trên vùng biên giới Lào là nguồn điện năng rất lớn
của Thái Lan.

Ngoài hai con sông trên, ở Thái Lan còn có các con sông đáng chú ý khác
như sông Meklong, Bangbakông ở miền Trung, sông Mun, sông Chi ở
cao nguyên Kò rạt. Các sông này đều có vị trí quan trọng trong phạm vi
từng vùng của Thái Lan.

Khí hậu
Nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, thời tiết ở Thái Lan khá điều hòa
với hai mùa rõ rệt. Mùa nóng bắt đầu từ cuối tháng 3 và kéo dài tới tháng

9. Mùa khô kéo dài từ tháng 11 tới tháng 2. Nhiệt độ trung bình là 240oC.
Các trận bão mùa hè dường như không ảnh hưởng tới Thái Lan, trừ vùng
Tây Bắc. Mùa lạnh kéo dài từ tháng 10 tới tháng 3. Vào thời gian này, do
không khí lạnh từ miền Bắc tràn xuống nên thời tiết trở nên khô lạnh.
Điều kiện địa lý và khí hậu đó rất phù hợp với việc trồng trọt các cây
trồng nhiệt đới và bán nhiệt đới.
Từ tình hình kinh tế trên của Thái Lan, có thể thấy nước này không thật
giàu có về tài nguyên thiên nhiên. Khoáng sản chủ yếu là thiếc. Ngoài ra
còn có một Vài loại khoáng sản khác như Fluôri, Ăngtimoan, vônfram,
kẽm…nhưng trữ lượng không lớn. Tài nguyên rừng có giá tri nhất là gỗ
tếch nhưng đã bị các công ty nước ngoài khai thác bừa bãi từ mấy chục
năm nay nên trữ lượng còn lại không lớn. Tài nguyên thiên nhiên quý giá
nhất của Thái Lan chính là những tiềm năng phong phú của nền nông
nghiệp nhiệt đới.

15


2. Tài nguyên con người
Theo số liệu mới nhất, dân số Thái Lan vào năm 1997 là 60,6 triệu người.
Thái Lan là một quốc gia đa dân tộc, trong đó người Thái là dân tộc
chiếm đa số nhất

Người Thái
Về phương diện chủng tộc, người Thái thuộc chủng tộc Mônggôlôít
phương Nam, ngôn ngữ Hán - Thái, thuộc ngữ hệ Tạng - Miến.

Theo một số nhà nghiên cứu, người Thái đầu tiên đã xuất hiện ở vùng
châu thổ miền nam, Trung Quốc và được ghi trong biên niên sử Trung
Quốc với các tên như Chuang, Lào, Chua, Tai Vai... Vào khoảng năm

650, người Thái đã lập nên hai vương quốc là Nam chiếu và Mong mao
thuộc địa phận Vân Nam, Trung Quốc ngày nay. Trong những năm sau,
nhiều người Thái đã di cư xuống phía Nam. Những cuộc di cư đã diễn ra
ồ ạt từ thế kỷ XIII, khi Nam Chiếu và Mông mao bị quân Mông cổ tấn
công.
Trong cộng đồng người Thái hiện nay có nhiều phương ngữ khác nhau:
Phương ngữ Thái trung tâm, Thái đông bắc, Thái miền Bắc, Thái bán đảo,
Thái Cò rạt…

Người Lào
Là dân tộc đông thứ hai ở Thái Lan. Nghề nghiệp chủ yếu là làm ruộng.
Tôn giáo: theo đạo Phật Tiểu Thừa, văn hóa có nhiều điểm tương tự như
người Thái.
16


Người Mã Lai
Có khoảng hơn 1 triệu dân, sinh sống chủ yếu ở miền Nam. Hoạt động
kinh tế chủ yếu là trồng cây công nghiệp, đánh cá, khai mỏ.

Người Hoa
Vào khoáng 5 triệu. Họ là con cháu của những người Trung Quốc đã tới
đây từ nhiều thế kỷ trước, đặc biệt là từ đầu thế kỷ XIX. Hoạt động kinh
tế chủ yếu là buôn bán, kinh doanh công nghiệp hoặc làm công cho
những xưởng thợ.

Ngoài các dân tộc trên, ở Thái Lan còn có người Phu Thái, người Hmông,
Dao, Ka ren, Khơ-me, A kha, I Ơ su, La oa và một số kiều dân nước
ngoài như người châu Âu và một số người Việt.


Trong nhiều năm qua, chính sách của chính phủ Thái Lan đối với các dân
tộc ít người là tạo điều kiện cho họ hội nhập vào dòng chiều hướng phát
triển chung của đất nước. Tuy nhiên, chính sách chưa mang lại kết quả
chờ đợi. Đại đa số các sắc tộc vẫn sống trong tình trạng nghèo nàn lạc
hậu.

Với một kết cấu dân số phức tạp như vậy, nhiệm vụ phát triển đặt ra cho
Thái Lan hết sức nặng nề. Phát triển không chỉ là tăng trưởng kinh tế,
nâng cao GDP theo đầu người, mà quan trọng hơn là nâng cao chất lượng
cuộc sống cho mọi tầng lớp nhân dân, mọi sắc tộc và tạo điều kiện cho họ
17


được chia sẻ một cách bình đắng các lợi ích phát triển của đất nước.

Trong khi nhiệm vụ phát triển rất nặng nề, Thái Lan lại không có sẵn
nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên để cung cấp cho công nghiệp.

Lực lượng lao động vào lúc bắt đầu triển khai chiến lược phát triển lên tới
13.837.000 người nhưng đa số hoạt động trong nông nghiệp (82%). Hoạt
động trong công nghiệp chế tạo và chế biến 3%, trong ngành điện, máy
hơi nước, vệ sinh 0,1%, giao thông, thông tin liên lạc 1,2% dịch vụ 4%,
xây dựng 5%.
Chất lượng lao động không cao, số người lao động có học vấn rất ít. Vào
đầu thập niên 60 cả Thái Lan chỉ có 3 trường đại học, trong đó có 2
trường đại học có khoa đào tạo kỹ sư cơ khí và các ngành về khoa học
kinh tế.

Những đặc điểm tự nhiên, con người và kinh tế xã hội này sẽ là những
nhân tố mà các nhà vạch chính sách của Thái Lan phải tính tới trong quá

trình hoạch định các chiến lược phát triển của đất nước họ trong những
năm vừa qua.
II - CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN CỦA VƯƠNG QUỐC THÁI LAN
TỪ SAU CÁCH MẠNG DÂN CHỦ TƯ SẢN 1932 TỚI TRƯỚC
CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ (7/1997)
1. Đường lối phát triển của Thái tan từ 1932 tới đầu thập kỷ 60
Là nước không phải làm cách mạng giải phóng dân tộc, Thái Lan có điều
kiện tiến hành công cuộc xây dựng và phát triển đất nước sớm hơn tất cả
các nước Đông Nam Á khác. Ngay từ năm 1933, sau khi thành công
18


trong cuộc cách mạng không đổ máu nhằm lật đổ nhà nước phong kiến
thống trị, thiết lập nên chế độ quân chủ lập hiến theo mô hình quân chủ
lập hiến, giai cấp tư sản nước này bắt đầu vạch ra các kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Đường lối phát triển kinh tế được chính phủ
mới thông qua vào ngày 20/9/1933 là đường lối kinh tế dân tộc chủ nghĩa.
Thực hiện đường lối này, Thái Lan nhằm:
- Giành lại cho người Thái những quyền lợi kinh tế đang nằm
trong tay ngoại kiều.
- Xây dựng nền công nghiệp dân tộc.

Để đạt được mục tiêu thứ nhất, chính phủ quân sự do Phi Bun đứng đầu
đã lợi dụng sức mạnh chính trị và quân sự đang lên của phát xít Nhật ở
châu Á để tấn công vào thế lực kinh tế của các công ty Âu, Mỹ ở Thái
Lan, vào năm 1939, chính phủ đã thi hành nhiều biện pháp khác nhau
nhằm thu hẹp ảnh hưởng của tư bản ngoại quốc. Những biện pháp chính
bao gồm:
- Thi hành chính sách bảo hộ ngoại thương, đánh thuế rất cao vào
các hàng hóa nhập khẩu vào Thái Lan.

- Các công ty nước ngoài bị cấm đầu tư vào các ngành sản xuất và
chế tạo có lợi nhuận cao.
- Kiểm tra chặt chẽ việc xuất khẩu ở những xí nghiệp mới khai
trương.

Cũng trong năm 1939, Luật giao thông đường sông và đường biển đã
được thông qua. Theo Luật này, tất cả các công ty vận tải nội địa phải có
70% vốn do người Thái đóng góp và 75% trong tổng số nhân viên phải là
người Thái. Việc áp dụng luật trên đã làm cho công ty vận tải Siam Tin
Phuket Company của Anh bị đóng cửa và phải nhượng lại tài sản cho
19


chính phủ Thái với giá rẻ. Thay vào vị trí của nó là công ty tàu biển quốc
gia Thái Lan. Một số công ty lớn của nước ngoài khác cũng bị đóng cửa.

Đối tượng quan trọng thứ hai của chính sách kinh tế dân tộc chủ nghĩa
của Thái Lan trong những năm 40-50 là người Hoa. Người Trung Quốc
đã tới định cư ở Thái Lan từ rất lâu đời. Vào đầu thế kỷ XX, do những
biến động về chính trị, kinh tế ở Trung Quốc, số lượng người Hoa đi cứ
tới Thái Lan ngày càng nhiều. Sống trên đất Thái, người Trung Quốc
nhập cư đã có được những điều kiện kinh tế, xã hội và tâm lý vô cùng
thuận lợi. Nhờ đó và nhờ có năng khiếu kinh doanh, họ đã dần dần nắm
được những huyết mạch chính trong nền kinh tế Thái.

Sau khi nắm được quyền lực trong nước, giai cấp tư sản Thái Lan đã nhận
thấy tư sản người Hoa là một trong những cản trở chính trên con đường
phát triển của họ. Chiến dịch chống người Hoa và ảnh hưởng kinh tế của
họ đã được chính phủ Thái Lan do thống chế Phi bun Songkram đứng đầu
tiến hành đồng thời với chiến dịch tấn công vào thế lực của tư bản

phương Tây. Lợi dụng việc Trung Quốc đang nằm dưới ách cai trị của
phát xít Nhật nên không có khả năng can thiệp vào tình hình Thái Lan,
nội các Phi bun đã tìm cách giành lại cho người Thái những vị trí kinh tế
đang nằm trong tay người Trung Quốc nhập cư. Vào tháng 6/1942, người
Trung Quốc bị cấm hoạt động trong 27 nghề tại Thái Lan. Các trường học
và báo chí của họ cũng bị kiểm soát chặt chẽ.
Cùng với việc tấn công vào các công ty tư bán ngoại kiều, chính phủ Thái
Lan đã chăm lo tới việc xây dựng nền kinh tế tư bản dân tộc. Năm 1939,
công ty thương nghiệp quốc doanh đầu tiên được thành lập có chi nhánh
ở 22 tỉnh. Cũng trong năm đó, công ty gạo Xiêm được xây dựng bằng tiền
của nhà nước. Sau một năm hoạt động, công ty đã kiểm soát được 1/3
20


tổng số gạo xuất khẩu của Thái Lan.

Việc xây dựng khu vực kinh tế quốc doanh đã được đẩy mạnh hơn nữa
vào đầu thập niên 50 thế kỷ này. Năm 1952, Hội đồng kinh tế quốc gia
Thái Lan công bố Chương trình phát triển công nghiệp. Dự chi cho công
trình lên tới khoảng 2 tỷ bạt. Chương trình bao gồm 3 giai đoạn và kéo
dài trong một số năm.

Giai đoạn 1:
Được gọi là giai đoạn khôi phục sản xuất nhằm đạt mức trước chiến
tranh. Trọng tâm chú ý ở giai đoạn này là phát triển những ngành công
nghiệp truyền thống. Việc phát triển những ngành công nghiệp mới và cải
tạo cơ cấu công nghiệp chưa được đặt ra.

Giai đoạn 2:
Xây dựng một số ngành công nghiệp nặng như: Chế tạo máy công cụ, tái

chế biến dầu…Việc xây dựng những ngành công nghiệp này chủ yếu dựa
vào nguồn vốn nước ngoài.
Để triển khai chương trình trên, cuối 1952, Quốc hội Thái Lan thông qua
Kế hoạch 5 năm phát triển công nghiệp (1953-1957). Dự chi cho chương
trình trên là 480 triệu bạt.
Để có vốn thực hiện chương trình trên, 10/1954, Chính phủ ban bố Luật
phát triển công nghiệp. Theo luật này, các nhà đầu tư sẽ được giảm thuế
nhập khẩu nguyên liệu máy móc để xây dựng xí nghiệp, không phải đóng
thuế trong thời gian 3 năm và được chuyển lợi nhuận ra nước ngoài.
Trọng tâm khuyến khích của bộ luật này là các ngành công nghiệp nhẹ và
khai thác gỗ.

21


Mặc dù chính phủ đã có nhiều cố gắng, chương trình phát triển công
nghiệp (1953-1957) đã thất bại do không thu hút được vốn đầu tư nước
ngoài và do thiếu kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý.

Thành tựu nổi bật của kinh tế Thái Lan trong thập niên 50 là nông nghiệp.
Một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu kích thích nền nông nghiệp
Thái Lan phát triển mạnh trong thời gian này là chiến tranh Triều Tiên
(1950-1953).

Cuộc chiến tranh này đã làm cho nhu cầu về hàng nông sản Thái Lan tăng
vọt ở thị trường châu Á. Điều này kích thích những người trồng lúa ở
Thái Lan mở rộng diện tích canh tác. Trong thập kỷ 1953, diện tích trồng
lúa chiếm tới 87,7% tổng diện tích canh tác.

Nguyên nhân thứ hai đưa tới sự thành công của nông nghiệp Thái Lan là

việc triển khai chương trình trị thủy sông Chao Phraya. Nhờ đó, diện tích
tưới tiêu được mở rộng. Chương trình trên cũng tạo điều kiện thuận lợi
cho nông dân Thái Lan chuyển từ kỹ thuật gieo thẳng sang kỹ thuật cấy
lúa nước ở vùng đồng bằng miền Trung. Nhờ đó, sản lượng lúa và các
nông sản khác đã tăng lên rõ rệt cho tới cuối thập niên 50, nông sản vẫn là
những mặt hàng xuất khẩu chính của Thái Lan.

Bảng 1: Khối lượng và tỷ lệ giá trị của nông sảntrong tổng giá trị xuất
khẩu của Thái Lan từ 1957 – 1960
Mặt
hàng

1957
Khối

1958
Tỷ

Khối

Tỷ lệ

1959
Khối

1960
Tỷ

Khối


Tỷ lệ

22


lượng

lệ

lượng

(1000

(1000

%

(1000

tấn)

tấn)

lượng

lệ

lượng

(1000


%

tấn)

%

%

tấn)

Gạo

1570

48.0

1133

46.0

1092

34.1 11.203

29.9

Cao su

136


18.7

136

20.6

174

30.9

170

29.9

Thiếc

18

7.0

9

4.0

14

5.7

17


6.3

Ngô

64

1.0

163

2.8

237

3.5

512

6.4

Kenáp

15

0.1

28

1.1


37

1.2

62

2.7

Sắn

99

1.8

152

3.0

159

3.0

271

3.4

Gỗ Tếch

76


3.5

73

3.7

73

3.2

101

4.1

-

19.9

-

18.8

-

18.6

-

17.3


Các
hàng
hóa
khác

(Nguồn: Muscarr ®: Development strategy in Thailand.
A study of economic growth, p.82)

Bảng thống kê trên cho thấy, tới đầu thập niên 60, hàng nông phẩm chiếm
tới trên 70% tổng giá trị những hàng hóa xuất khẩu của Thái Lan. Công
nghiệp chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Lao động nông nghiệp chiếm 82%
tổng số lao động trong cả nước, công nghiệp chỉ thu hút được 4% số còn
lại nằm trong các ngành dịch vụ. Thu nhập bình quân theo đầu người vào
1962 là 85 đô la Mỹ, trong khi đó, ngay từ 1957, Malaysia đã có thu
nhập bình quân theo đầu người là 211 đô la, Philippines 149 đô la (1959),
Đài Loan 100 đô la (1956).

23


2 - Chiến lược phát triển trong những năm 60 đầu 70
Ở giai đoạn này, Thái Lan chính thức triển khai các chiến lược phát triển.
Mặc dù ở giai đoạn trước, việc phát triển kinh tế - xã hội đã được tiến
hành theo những kế hoạch cụ thể, khá bài bản, nhưng chưa mang tính
chất chiến lược. Chỉ từ đầu những năm 60, Thái Lan mới triển khai những
chiến lược phát triển, được hoạch định trên cơ sở tiếp thu các kinh
nghiệm của những nước đi trước, đặc biệt là kinh nghiệm của Nhật Bản
và một số nước Đông Bắc Á khác và kết hợp với tình hình thực tiễn ở
Thái Lan.


Trong quá trình hoạch định chiến lược phát triển mới, Thái Lan dã nhận
được sự giúp đỡ tích cực của Mỹ thông qua Ngân hàng thế giới. Trong
hai năm 1957-l958 nhiều phái đoàn của Ngân hàng thế giới đã được phái
tới Thái Lan để nghiên cứu thực trạng nền kinh tế nước này. Dựa trên các
kết quả điều tra, nghiên cứu của họ, Ngân hàng thế giới đã khuyến nghị
chính phủ Thái Lan một số điểm sau:
- Nên dựa vào và khuyến khích tư bản tư nhân để phát triển công
nghiệp.
- Hạn chế sự phát triển của bộ phận kinh tế quốc doanh.
- Hạn chế bớt vai trò điều hành kinh tế của nhà nước.
- Cố gắng tạo niềm tin cho các nhà kinh doanh tư nhân và khuyến
khích đầu tư vào Thái 1an.

Lúc đầu, Chính phủ Thái Lan không dễ đàng chấp nhận những khuyến
nghị trên. Bởi vì, theo họ từ bỏ vai trò của Nhà nước trong phát triển công
nghiệp sẽ làm cho nhà nước mất quyền lãnh đạo kinh tế. Hơn nữa nếu
khuyến khích tư bản tư nhân phát triển thì người Hoa chứ không phải

24


người Thái sẽ giành được ưu thế. Nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa
nguyện vọng nắm quyền lãnh đạo kinh tế và nhu cầu tự do hóa phát triển
sản xuất, Ngân hàng thế giới đã gợi ý Chính phủ bổ nhiệm một số quan
chức cao cấp Thái Lan vào Ban Giám Đốc các hãng kinh doanh mới.
Biện pháp này giúp giảm bớt mối lo ngại người Trung Quốc giành ưu thế
trong khu vực kinh tế công thương nghiệp, đồng thời tạo điều kiện cho
các quan chức Thái Lan chia sẻ những lợi ích kinh tế với tư sản người
Hoa và tư bản nước ngoài. Ngược lại, bằng việc dành cho quan chức Thái

một phần lợi nhuận, tư bản nước ngoài đã có được công cụ hữu hiệu để
bảo vệ quyền lợi của họ ở Thái Lan.

Gợi ý trên của Ngân hàng thế giới đã được Chính phủ Thái Lan chấp
nhận. Ngoài những lợi ích kể trên, Chính phủ Thái Lan còn nhìn thấy lợi
ích của việc người Thái có cơ hội tập dượt dần phương pháp kinh doanh
và quản lý hiện đại, thông qua việ c trực tiếp tham gia điều hành các
hãng, các ngân hàng lớn.

Về đường lối phát triển công nghiệp của Thái, Ngân hàng thế giới khuyến
khích chính phủ nước này áp đụng chiến lược công nghiệp hóa thay thế
nhập khẩu và chú trọng phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Trong báo cáo
nhan đề: "Mở rộng đầu tư tư nhân để phát triển kinh tế Thái Lan, Bây-sét,
một chuyên gia của Ngân hàng thế giới đã gợi ý Chính phủ Thái Lan:
i) Mở rộng phạm vi tự do cho các quyết định kinh doanh tư nhân
nhằm đưa lại những kết quả lớn hơn cho các hoạt động đầu tư
của tư bản tư nhân nước ngoài, và tư bản tư nhân Thái Lan
trong 5 năm tới.
ii) Đơn giản hóa các thủ tục của chính phủ và thương lượng một
25


×