Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

LUAN VAN THAC SI k4 QUAN LY GIAO DUC DAO NGOC THANG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.86 MB, 104 trang )

Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Tự học là vấn đề đang được nhiều người quan tâm và đã được nêu ra
trong các văn kiện, văn bản của Đảng, Nhà nước cũng như của ngành giáo
dục và đào tạo nhằm phát huy nội lực của con người trong chiến lược phát
triển con người.
Bác Hồ đã căn dặn : “ Về cách học, phải lấy tự học làm cốt” .
Bbhj Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII và nghị quyết TW lần
thứ hai khoá VIII đã chỉ rõ: “ Tập trung sức nâng cao chất lượng dạy và
học, tạo ra năng lực tự học sáng tạo của học sinh”; “Đổi mới mạnh mẽ
phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối học truyền thụ một chiều,
rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng
các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học,
bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, nhất là
sinh viên đại học. Phát triển mạnh mẽ phong trào tự học – tự đào tạo
thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân, nhất là thanh niên ”.
Điều 28 mục 2 Luật giáo dục (2005) đã viết : “ Phương pháp giáo
dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của
học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng
phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm ; rèn luyện kỹ năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn ; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui,
hứng thú học tập cho học sinh.”
Như vậy có thể nói rằng “ Coi trọng tự học ” là một vấn đề chiến
lược trong giáo dục - đào tạo ở nước ta hiện nay.
Chúng ta đang bắt tay vào xây dựng một xã hội học tập; trong đó,
mỗi người chúng ta cần học tập suốt đời. Vì vậy, các em học sinh cần phải
biết tự học, để sau khi ra trường các em còn phải thường xuyên tự học.

1



Lâu nay ở nhà trường, chúng ta đã quan tâm hướng dẫn các học sinh
tự học, học tập một cách chủ động. Song sự chuyển biến trong cách học
của học sinh tuy có tiến bộ nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu. Tuy đã có
nhiều sách tham khảo, sách hướng dẫn ôn tập và tự học, song các học sinh
vẫn chưa quan tâm đúng mức đến việc rèn luyện kỹ năng tự học, tự củng
cố, trau dồi kến thức mà vẫn lao vào các lớp học thêm. Các em vẫn chưa tin
vào khả năng tự học của bản thân, vẫn chưa tin vào kết quả tự học mà vẫn ỷ
lại vào sự giảng dạy của thầy.
Tình trạng trên phản ánh công tác quản lý dạy - học ở nhà trường
phổ thông chúng ta vẫn chưa được tốt .
Vì những lẽ trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu : “Những biện
pháp quản lý nhằm nâng cao năng lực tự học cho học sinh các trường
Trung học phổ thông tỉnh Yên Bái ” đó là vấn đề cần thiết và hữu ích để
góp phần vào việc nâng cao hiệu quả giáo dục trong tỉnh.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu để đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao
năng lực tự học cho học sinh trung học phổ thông ở tỉnh Yên Bái.
3 Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quản lý quá trình dạy học ở nhà trường phổ thông trong tỉnh Yên Bái.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý việc học tập của học sinh, trong đó chú trọng vào
khâu tự học của học sinh ở các trường trung học phổ thông tỉnh Yên Bái.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về phương pháp dạy học và công tác quản lý
nhằm nâng cao năng lực tự học của học sinh phổ thông.
4.2. Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý việc học tập của học sinh, trong
đó chú trọng vào việc quản lý khâu tự học của học sinh.

2



4.3. Đề xuất những biện pháp quản lý nhằm nâng cao năng lực tự học của
học sinh các trường trung học phổ thông tỉnh Yên Bái.
5. Giả thuyết khoa học
Học tập của học sinh là một mặt của quá trình dạy - học trong nhà
trường phổ thông. Tự học là một khâu quan trọng trong việc học tập của
học sinh. Nếu áp dụng những biện pháp quản lý đẩy mạnh được việc tự học
của học sinh nêu ra trong luận văn này thì sẽ làm cho chất lượng dạy – học
của nhà trường được nâng cao.
6. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Tổng hợp những cơ sở lý luận chủ yếu của việc tự học của học sinh.
Đề xuất được những biện pháp quản lý tốt hơn việc học tập của học sinh,
trong đó chú trọng khâu tự học. Có thể áp dụng các biện pháp quản lý được
đề xuất trong luận văn cho các trường trung học phổ thông ở tỉnh Yên Bái
và có thể trao đổi kinh nghiệm với các trường trung học phổ thông khác.
7. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài sẽ áp dụng các nhóm phương pháp nghiên cứu sau đây:
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Tham khảo Luật giáo dục,
các văn kiện của Đảng và nhà nước, tạp chí khoa học và giáo dục có liên
quan đến luận văn.
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Sử dụng phương pháp
điều tra, tổng kết kinh nghiệm, lấy ý kiến chuyên gia. Phân tích tổng hợp,
đánh giá bằng phương pháp toán học thống kê.
8. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Các nghiên cứu được thực hiện trên ba trường trung học phổ thông ở
ba vùng khác nhau của tỉnh Yên Bái và nội dung được giới hạn trong quá
trình dạy – học (chỉ đề cập đến quá trình giáo dục khi thật cần thiết)
9. Cấu trúc luận văn


3


Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về tự học và quản lý hoạt động dạy - học
nhằm nâng cao năng lực tự học cho học sinh trung học phổ thông.
Chương 2: Thực trạng về quản lý hoạt động dạy học và quản lý
khâu tự học của học sinh trong các trường trung học phổ thông tỉnh Yên
Bái.
Chương3: Những biện pháp quản lý nhằm nâng cao năng lực tự học
của học sinh các trường trung học phổ thông tỉnh Yên Bái.

4


Chương 1
Cơ sở lý luận về tự học và quản lý hoạt động dạy - học nhằm nâng cao năng lực tự học
cho học sinh trung học phổ thông

1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Đất nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, yêu cầu có nguồn nhân lực đủ phẩm chất đạo đức, năng lực, trí tuệ và
tay nghề cao xuất phát từ yêu cầu của xã hội để tham gia hội nhập và xây
dựng đất nước. Nguồn nhân lực của nước ta hiện nay còn nhiều bất cập và
hạn chế cho nên việc đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của xã hội
thì phải bắt đầu ngay từ khi học sinh còn ngồi trên ghế nhà trường. Phải rèn
luyện cho học sinh năng lực tự học, tự đào tạo để có khả năng thích ứng và
học tập suốt đời.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII và nghị quyết TW lần thứ hai

khoá VIII đã chỉ rõ: “Tập trung sức nâng cao chất lượng dạy và học, tạo ra
năng lực tự học sáng tạo của học sinh”. Như vậy có thể nói rằng “ Coi trọng
tự học ” là một vấn đề chiến lược trong giáo dục - đào tạo ở nước ta hiện nay.
Trong những năm gần đây hoạt động tự học và quản lý hoạt động tự
học được coi là điều phải rất quan tâm trong quản lý quá trình giáo dục
trong nhà trường.
- Về vấn đề tự học của học sinh, sinh viên đã có nhiều sách chuyên
khảo và công trình nghiên cứu, có thể kể đến các tác giả như:
- Mô hình dạy học tích cực lấy người học làm trung tâm của Nguyễn
Kỳ NXBNN, HN. 1996.
Quá trình dạy – tự học. Biển học vô bờ của giáo sư Nguyễn Cảnh
Toàn. NXB Giáo dục, Hà Nội.1998.
- Quản lý hoạt động tự học trong khu nội trú một biện pháp năng cao
hiệu quả học tập của sinh viên - của tác giả Trần Thị Dung đăng trên Tạp
chí Giáo dục số tháng 1/ 2006.

5


- Về năng lực tự học của học sinh trung học phổ thông ở một số
trường tại thành phố Hồ Chí Minh của tác giả Phạm Thị Tố Oanh và Lê
Khắc Mỹ Phượng đăng trên Tạp chí giáo dục số tháng 7/2003.
Hầu hết các bài viết mới chỉ dừng lại ở mức khái quát chung, chưa đi
sâu và đề xuất các biện pháp quản lý cụ thể phù hợp cho các vùng miền.
Tại tỉnh Yên Bái, vấn đề quản lý hoạt động tự học của học sinh đã
được các trường quan tâm nhưng chỉ dừng lại ở dạng điểm qua trên các báo
cáo sơ kết, tổng kết của các trường.
Như vây, cho đến nay theo những tài liệu mà chúng tôi có, vẫn còn
thiếu những công trình nghiên cứu đề cập đến các biện pháp quản lý hoạt
động tự học của học sinh các trường THPT một cách đầy đủ và hệ thống.

Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi muốn đi sâu hơn để xác
định cơ sở lý luận, khảo sát thực tiễn và từ đó đề xuất những biện pháp
quản lý hoạt động tự học cho học sinh THPT. Góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục, trên địa bàn tỉnh Yên bái đáp ứng và yêu cầu giáo dục hiện
nay.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Quản lý
12.1.1. Khái niệm quản lý
Trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, con người muốn tồn tại
và phát triển đều phải dựa vào sự nỗ lực của một tổ chức, từ một nhóm nhỏ
đến phạm vi rộng lớn hơn, đều phải thừa nhận và chịu một sự quản lý nào
đó. C.Mác đã viết một điều rất cơ bản: “Một người độc tấu vĩ cầm tự mình
điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng” [3, tr .
480]. (1)
Ngày nay thuật ngữ quản lý đã trở nên phổ biến nhưng chưa có
một định nghĩa thống nhất. Khái niệm quản lý có nội dung rất chung,

6


tổng quát, nó dùng cho cả quá trình xã hội, quá trình sinh vật cũng như
quá trình kỹ thuật.
Mỗi một định nghĩa thường dùng đối với một lĩnh vực quản lý cụ thể
và tuỳ theo cách tiếp cận khác nhau.
Theo cách tiếp cận trên phương diện hoạt động của tổ chức thì:
“Quản lý là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý nhằm
thực hiện các mục tiêu dự kiến” [18, tr. 26].
Hoặc “Hoạt động quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của
chủ thể quản lý (Người quản lý) đến khách thể quản lý (Người bị quản lý)
trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích

của tổ chức.” [7].
Với cách tiếp cận tình huống thì : “Quản lý là thiết kế và duy trì một
môi trường trong đó các cá nhân làm việc với nhau trong các nhóm có thể
hoàn thành các nhiệm vụ và các mục tiêu đã định.” [9, tr. 29].
Xét về bản chất, các định nghĩa trên về quản lý bao gồm những điều
chủ yếu sau đây: Quản lý là một loại hình hoạt động có đối tượng, là một
dạng hoạt động có chủ hệ thống, nhằm đạt được những mục đích nhất định.
Quản lý là thuộc tính tồn tại khách quan trong hoạt động con người.
Quản lý luôn đặt trong mối quan hệ tác động qua lại giữa chủ thể
quản lý và khách thể quản lý, trong sự tác động của môi trường. Cho nên
“Quản lý phải đặt trong điều kiện có sự thay đổi, bắt nguồn từ những biến
động, mà cuộc sống thì không bao giờ đứng yên” [10].
Ngày nay hoạt động quản lý thường được định nghĩa cụ thể hơn:
“Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các
hoạt động (chức năng) kế hoạch\

hoá, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra” [7].

7


Sơ đồ 1.1 Sơ đồ khái quát hoá khái niệm quản lý:
Chủ
thể
quản lý

Mục
tiêu

Môi

trường

Đối
tượng
quản lý

1.2.1.2 Các chức năng quản lý
Các chức năng cơ bản của quản lý là sự nhóm gộp các hoạt động quản
lý trong mỗi công đoạn của quá trình đạt đến mục tiêu.
Có bốn chức năng sau đây:
Kế hoạch hoá (Planning); Tổ chức (Organizing); Chỉ đạo (Leading);
Kiểm tra (Controlling); bốn chức năng cơ bản này liên quan chặt chẽ với
nhau tạo thành một chu trình quản lý. Chúng đều cần đến thông tin.
Sơ đồ 1.2 Chu trình quản lý
Kế hoạch
hoá
Kiểm tra

Thông tin

Tổ chức

Chỉ đạo

Chức năng kế hoạch hoá bao gồm: xác định mục tiêu, mục đích của tổ
chức và con đường, biện pháp hay cách thức để đạt được mục tiêu, mục đích của
tổ chức. Đây là chức năng giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động quản lý.

8



Có hai tiêu chuẩn song hành cùng với hai công việc quan trọng của
kế hoạch hoá; xác định mục tiêu “đúng” và lựa chọn những biện pháp
“đúng” để đạt được mục tiêu. Cả hai công việc đó đều có ý nghĩa sống còn
đối với quá trình quản lý.
Chức năng tổ chức là sự hình thành nên cấu trúc các mối quan hệ
giữa các thành viên, giữa các bộ phận với nhau nhằm thực hiện thành công
kế hoạch, đạt được mục tiêu, mục đích của tổ chức. Đây là chức năng quan
trọng quyết định sự thành bại trong việc đạt được mục tiêu của tổ chức.
Chức năng chỉ đạo là những việc hướng dẫn làm sao cho các thành
viên, các bộ phận hoạt động đồng bộ; động viên, cổ vũ họ hoàn thành kế
hoạch đạt được mục tiêu, mục đích của tổ chức. Đây là chức năng quan
trọng vì nó phát huy được chức năng kế hoạch hoá và chức năng tổ chức.
Chức năng kiểm tra là việc đánh giá hoạt động và tiến hành những hoạt
động uốn nắn, sửa chữa đi đến hoàn thành kế hoạch, đạt được mục tiêu, thích
ứng với môi trường, đảm bảo tính khả thi và tính thực tiễn của kế hoạch, tiến tới
hoàn thành mục tiêu, mục đích của tổ chức trong môi trường biến đổi.
Kiểm tra - trong hoạt động quản lý – là một nỗ lực có hệ thống
nhằm xác định những chuẩn mực (tiêu chuẩn) của thành tựu khi đối
chiếu với các mục tiêu đã được kế hoạch hoá; thiết kế một hệ thống
thông tin phản hồi; so sánh thành tựu hiện thực với các chuẩn mực đã
định; xác định những lệch lạc nếu có và đo lường ý nghĩa/ mức độ của
chúng; tiến hành những hành động cần thiết để đảm bảo rằng những
nguồn lực của tổ chức được sử dụng một cách hiệu nghiệm và hiệu quả
để đạt được mục tiêu của tổ chức.
1.2.1.3 Các phương pháp và công cụ quản lý
- Các phương pháp quản lý.
Phương pháp quản lý là cách thức mà chủ thể quản lý tác động vào
đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu nhất định [31].


9


Các nhà quản lý chỉ thực hiện tốt các chức năng của mình khi nhận
thức đúng và sử dụng tốt phương pháp quản lý.
Tuy nhiên việc nhận thức đúng và sử dụng các phương pháp quản lý
có hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào trình độ và năng lực cụ thể của
người quản lý, thể hiện tài nghệ của người quản lý. Mỗi phương pháp quản
lý đặc trưng cho một thủ pháp tạo động cơ và động lực thúc đẩy đối tượng
quản lý.
* Những đặc trưng cơ bản của phương pháp quản lý:
Đối tượng tác động của phương pháp quản lý là những con người, là
một thực thể có cá tính, thói quen, tình cảm, nhân cách gắn với các hoàn
cảnh lịch sử cụ thể. Họ không chỉ đóng góp chung vào thành quả của tập
thể, mà còn mong muốn nhận lại từ thành quả đó những lợi ích vật chất và
tinh thần thoả đáng. Họ không chỉ chấp hành mệnh lệnh của người quản lý
mà còn là chủ thể sáng tạo trong công việc có tính độc lập, tự chủ. Vì vậy
chủ thể quản lý phải biết lôi cuốn, thúc đẩy mọi người trong tổ chức tham
gia công việc chung, đem hết sức lực, tài năng làm việc cho tổ chức. Chỉ có
như vậy mới làm cho tổ chức thêm vững mạnh.
Tuy vậy con người ai cũng có ưu điểm và nhược điểm. Người quản lý
phải thấy rõ cả ưu điểm và nhược điểm của họ, có biện pháp thích hợp để phát
huy ưu điểm, hạn chế nhược điểm. Khi thực hiện công việc họ thường đem
theo cả thói quen và truyền thống của mỗi người có thể là tiến bộ hoặc lạc
hậu, có thể thúc đẩy hoặc cản trở công việc. Người quản lý phải thấy rõ và có
biện pháp tác động phù hợp để họ phát huy được thói quen và truyền thống tốt
đẹp trong công việc. Sự tác động đến con người như là một thực thể đa dạng
luôn biến đổi là đặc trưng căn bản nhất của phương pháp quản lý.
* Các phương pháp quản lý chủ yếu:


10


Để tác động đến con người trong lao động, người ta phải dùng nhiều
phương pháp khác nhau. Nếu căn cứ vào nội dung tác động sẽ có các
phương pháp quản lý cơ bản sau đây:
+ Phương pháp tổ chức - hành chính.
+ Phương pháp kinh tế
+ Phương pháp tâm lý - giáo dục
+ Việc kết hợp ba phương pháp
a) Phương pháp tổ chức - hành chính:
Phương pháp tổ chức - hành chính là phương pháp dựa vào quyền
uy tổ chức của người quản lý để bắt buộc người dưới quyền phải chấp
hành mệnh lệnh quản lý.
Phương pháp tổ chức - hành chính gắn liền với việc xác lập cơ cấu tổ
chức và cơ chế vận hành của tổ chức, từ đó quyền uy người quản lý được
thể hiện từ trên xuống dưới, tạo nên sự chấp hành vô điều kiện các nhiệm
vụ mà tổ chức giao cho mỗi người. Nó tạo ra sự bắt buộc, cưỡng chế đối
với người thừa hành. Mọi thành viên phải bằng mọi cách hoàn thành nhiệm
vụ được giao, không vì lý do cá nhân mà cản trở việc hoàn thành các nhiệm
vụ của tổ chức.
Phương pháp này bao gồm các biện pháp tác động trực tiếp về mặt tổ
chức hành -chính nhằm đảm bảo tính đồng bộ, nhịp nhàng và tính liên tục
của các quá trình lao động trong các tổ chức giáo dục.
Ưu điểm của phương pháp này là: công việc chung của tổ chức được
thực hiện nhanh chóng, thống nhất, triệt để. Vì vậy phương pháp tổ chức
hành chính phù hợp với tình huống cấp bách – khẩn trương. Để giảm bớt
mức độ quan liêu của phương pháp này người quản lý phải tuân thủ nguyên
tắc tập trung dân chủ, có quan tâm đến điều kiện cụ thể của các thành viên
trong tổ chức.

b) Phương pháp kinh tế:

11


Phương pháp kinh tế là phương pháp tác động của chủ thể quản lý
tới đối tượng quản lý thông qua lợi ích kinh tế và các nhu cầu về động cơ
của mỗi thành viên.
Phương pháp kinh tế dựa trên việc đáp ứng các nhu cầu. Có một số
thuyết về nhu cầu của con người, sau đây là thuyết nhu cầu thứ bậc của
Abraham Maslow: Theo Abraham Maslow, thì con người có 5 nhu cầu
xếp theo thứ bậc từ thấp đến cao, đó là: nhu cầu cơ bản sinh học, nhu cầu
an toàn, nhu cầu được thừa nhận, nhu cầu được tôn trọng và nhu cầu tự
thể hiện
Tự thể hiện
Tôn trọng
Được thừa nhận
An toàn
Cơ bản sinh học

Phương pháp kinh tế lấy lợi ích vật chất làm động lực thúc đẩy con
người hành động. Lợi ích đó thể hiện qua thu nhập của mỗi người, lấy ra từ
thành quả chung, phù hợp với mức độ đóng góp của mỗi người. Nếu người
quản lý quá coi trọng lợi ích chung, coi nhẹ lợi ích cá nhân của mỗi người
sẽ làm triệt tiêu động lực của họ.
Khi thu nhập thực tế của con người chưa cao, nhu cầu vật chất của
con người mới ở mức thấp, thì khi thực hiện công việc họ rất quan tâm đến
lợi ích và thu nhập. Chính vì thế, người quản lý ở mọi tổ chức phải coi
trọng vận dụng phương pháp kinh tế .
Trong quản lý giáo dục phương pháp này thể hiện ở các chế độ chính

sách khuyến khích kích thích vật chất và thường được kết hợp với phương
pháp tổ chức hành chính.
Phương pháp kinh tế có ưu điểm là đặt mọi người vào vị thế tự mình
được quyết định là làm việc như thế nào là có lợi nhất cho mình và cho tổ

12


chức. Tuy vậy phương pháp này cũng có hạn mặt hạn chế của nó. Nếu lạm
dụng phương pháp kinh tế dễ dẫn người ta tới chỗ chỉ nghĩ tới lợi ích vật
chất thậm chỉ lệ thuộc vào vật chất, tiền của mà quên tinh thần đạo lý, có
thể dẫn tới hành vi phạm pháp. Động lực kinh tế nếu không định hướng và
kiểm soát sẽ dẫn đế chỗ làm ăn phi pháp, phi đạo lý.
Trong bối cảnh cơ chế thị trường hiện nay, việc vận dụng phương pháp
kinh tế phải thận trọng để một mặt khuyến khích người giáo viên, mặt khác đảm
bảo uy tín sư phạm của giáo viên và của tập thể sư phạm nhà trường.
c) Phương pháp tâm lý – xã hội:
Phương pháp tâm lý – xã hội là sự tác động đến đối tượng quản lý là
con người thông qua các quan hệ tâm lý, tư tưởng, tình cảm của con người
đó.
Phương pháp tâm lý – xã hội dựa trên quan điểm hành vi hay thuyết
quan hệ con người. Sau đây là luận giải của quan điểm hành vi:
- Người lao động được động viên thúc đẩy nhờ những nhu cầu xã hội
(và cá nhân). Họ nhận thấy ý nghĩa, giá trị cá nhân thông qua sự cộng tác
liên kết với những người khác.
- Người lao động trở nên có trách nhiệm hơn nhờ những lực đẩy xã hội
xuất phát từ những người cùng trang lứa, cùng làm việc hơn là nhờ những quy
tắc chuẩn mực hay sự tác động về mặt tài chính của người quản lý.
- Người lao động sẽ ủng hộ, đáp ứng yêu cầu của người quản lý, nếu
như người quản lý có thể giúp họ thoả mãn nhu cầu của mình.

Người quản lý cần phối thuộc công việc với người cấp dưới một cách dân
chủ để nâng cao hiệu quả hoạt động.
Phương pháp tâm lý – xã hội dựa vào uy tín của người quản lý để lôi
cuốn mọi người trong tổ chức hăng hái, tích cực tham gia công việc.
Phương pháp tâm lý - giáo dục vận dụng các quy luật, của tâm lý và giáo
dục, nhờ đó người quản lý nắm được tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu mong

13


muốn, tình cảm, đạo đức, lý tưởng của mỗi người và có biện pháp tạo lập
trong mỗi con người niềm say mê, phấn khởi, ý thức trách nhiệm, tinh thần
sáng tạo đối với công việc. Có thể khắc phục những hạn chế của phương
pháp tổ chức hành chính và phương pháp kinh tế, nếu người quản lý biết
vận dụng khéo léo phương pháp tâm lý – xã hội sẽ thúc đẩy con người làm
việc đạt hiệu quả cao hơn nữa.
Từ nhu cầu bên trong đến động cơ làm việc của con người, hình
thành một quá trình tâm lý với các bước: nhu cầu, chuẩn mực, mục đích, kế
hoạch, năng lực và động cơ. Người quản lý phải biết điều chỉnh các bước
trên để chuyển từ nhu cầu thành động cơ làm việc của mỗi người.
Những yếu tố tạo động lực còn nảy sinh từ nội dung công việc. Các
nhà tâm lý học cho rằng, một công việc tạo động cơ thúc đẩy con người
làm việc hàm chứa các yếu tố : sự thành đạt, sự công nhận, khả năng thách
thức, tinh thần trách nhiệm và khả năng phát triển. Động cơ làm việc là lĩnh
vực tâm lý, tinh thần của mỗi người, chịu ảnh hưởng rất nhiều nhân tố chủ
quan, khách quan khác nhau, ít bộc lộ ra bên ngoài nên khó nhận biết.
Người quản lý có thể hiểu được động cơ làm việc của mỗi người từ nhiều
góc độ khác nhau. Tất nhiên là phải gần gũi với họ, tìm hiểu và làm rõ điều
gì đã thúc đẩy họ làm việc.
Động cơ làm việc của con người trong tổ chức còn chịu ảnh hưởng từ

uy tín, phong cách, đạo đức, tác phong công tác và sinh hoạt bản thân người
quản lý. Đó là phẩm chất cần phải có và phải gìn giữ của mỗi người quản lý .
Hệ thống giáo dục là một hệ thống xã hội. Các quy luật trong giáo
dục thuộc loại quy luật xã hội. Hoạt động giáo dục sẽ không có kết quả nếu
không có sự tham gia của con người (giáo viên, học sinh và những người
liên quan). Phương pháp tâm lý – xã hội nhằm động viên tinh thần chủ
động, tích cực, tự giác của mọi người, đảm bảo mối quan hệ thân ái hợp tác

14


cùng giúp đỡ lẫn nhau hoàn thành nhiệm vụ, tạo ra sự thoả mãn tinh thần
trong từng người và trong tập thể sư phạm.
Người cán bộ quản lý giáo dục phải đi sâu nghiên cứu đặc điểm tâm
lý – nhân cách của giáo viên và học sinh, những yêu cầu về đạo đức, nghề
nghiệp, xu hướng, hứng thú, các phẩm chất ý chí thuộc các lứa tuổi khác
nhau ... để có những biện pháp tác động thích hợp, giúp giáo viên trở thành
tấm gương sáng cho học sinh và gíup đỡ học sinh hình thành những nhân
cách theo mục tiêu đã định.
Theo phương pháp này người cán bộ quản lý phải chú ý đến các mối
quan hệ trong nhà trường, xây dựng bầu không khí đoàn kết phấn đấu vì
mục tiêu và lợi ích chung. Cơ sở đoàn kết là tình cảm nghề nghiệp và quan
hệ lợi ích, sao cho trong tập thể, mọi người đều được phát triển, đều được
đóng góp công sức vào mục tiêu chung và được tập thể thừa nhận.
d) Việc kết hợp các phương pháp quản lý :
Giáo dục là một hiện tượng sư phạm – xã hội. Trong đó, chứa
đựng nhiều quy luật thuộc các lĩnh vực khác nhau. Vì vậy việc áp dụng
nhiều phương pháp quản lý là điều dễ hiểu. Vấn đề là không nên tuyệt
đối hoá một phương pháp nào, người quản lý cần tuỳ từng tình huống cụ
thể mà vận dụng các ưu thế cũng như hạn chế tối đa nhược điểm của

từng phương pháp, kết hợp và vận dụng chúng một cách khéo léo nhằm
đạt kết quả cao nhất .
Các phương pháp kinh tế, tâm lý – xã hội thuộc loại tác động gián
tiếp .Nhưng muốn có hiệu lực, cần được “thể chế hoá” bằng các quyết định
có tính pháp lý. Như vậy giữa các phương pháp không có sự tách rời, càng
không có sự đối lập. Chúng điều tiết các mối quan hệ tổ chức hành chính,
kinh tế, tâm lý - xã hội. Tuy nhiên cũng cần thận trọng khi thể chế hoá các
phương pháp, để không dẫn đến tình trạng quan liêu giấy tờ.
* Công cụ quản lý :

15


Công cụ quản lý là những phương tiện trợ giúp người quản lý thực
hiện chức năng quản lý. Các công cụ này bao gồm : Các chế định xã hội
(quy định luật pháp, chính sách, quy định quy chế); Nhân lực (cơ cấu tổ
chức, con người) ; vật lực ( cơ sở vật chất, thiết bị ) ; Tài lực ( ngân sách,
kinh phí); Kinh nghiệm quản lý( khoa học quản lý, lý luận và thực tiễn
quản lý) và thông tin ( thông tin nội bộ, thông tin bên ngoài
Sơ đồ 1.3 . Công cụ quản lý

Công cụ quản lý

Chế
định

hội

Nhân
lực


Tài
lực

Vật
lực

Kinh
nghiệm
quản


Thông
tin

1.2.2. Quản lý giáo dục
1.2.2.1. Khái niệm quản lý giáo dục
Trong cuốn sách: Quản lý giáo dục và quản lý trường học của tác giả
Trần Kiểm có nêu “Quản lý giáo dục là những tác động có hệ thống có kế
hoạch, có ý thức và có hướng đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau
đến tất cả các mắt xích của hệ thống (từ Bộ đến trường) nhằm mục đích
đảm bảo việc hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và
vận dụng những quy luật chung của xã hội cũng như các quy luật của quá
trình giáo dục, của sự phát triển thể lực và tâm lý trẻ em ” [13].

16


Quản lý giáo dục chính là quản lý quá trình hình thành – tự hình
thành nhân cách người học sinh trong hoạt động và bằng hoạt động; bằng

sự cộng tác, hợp tác liên nhân cách giữa các thành viên trong nhà trường
với nhau và với xã hội.
Các nguyên tắc cơ bản của quản lý giáo dục là những yêu cầu, những
quy định chung nhất, cơ bản phổ, biến nhất, chi phối hoạt động của hệ
thống quản lý giáo dục, nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu quản lý. Các
nguyên tắc đó là:
Quán triệt đường lối chính trị trong quản lý giáo dục.
Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý giáo dục.
Thực hiện nguyên tắc khoa học trong quản lý giáo dục.
Thực hiện nguyên tắc tính hiệu quả trong quản lý giáo dục.
Các nguyên tắc này là cơ sở của việc hình thành các phương pháp
quản lý, chúng quy định cách thức tác động của chủ thể quản lý đến đối
tượng quản lý, nhằm đảm bảo tính hiệu quả và chất lượng quản lý. Các
nguyên tắc này liên hệ chặt chẽ với nhau, bổ xung lẫn nhau.
1.2.2.2. Quản lý nhà trường phổ thông
Tác giả Phạm Minh Hạc đã dưa ra khái niệm quản lý trường học như
sau: “Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong
phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên
lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành
giáo dục, với thế hệ trẻ và đối với từng học sinh”[19, tr. 24, 25].
Muốn tổ chức thực hiện có hiệu quả mục tiêu giáo dục - đào tạo của
nhà trường, trước hết người hiệu trưởng phải nắm vững mục tiêu giáo dục
và những nhiệm vụ chính của mình. Do đó lôgíc của phần này là; những
nét cơ bản về mục tiêu giáo dục; Những nhiệm vụ chính của hiệu trưởng và
việc tiếp cận theo mục tiêu nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục.
Mục tiêu giáo dục phổ thông được nêu trong điều 27 luật giáo dục 2005:

17



“Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực
cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn
bị cho học sinh tếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc....
... Giáo dục trung học phổ thông nhằm giúp học sinh củng cố và phát
triển những kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ
thông và có những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều
kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại
học, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động”.
Để giúp người hiệu trưởng chỉ đạo thực hiện mục tiêu giáo dục đã
nêu trên, cần chú ý một số nhiệm vụ chính sau đây;
Xây dựng kế hoạch, tổ chức chỉ đạo các thành viên trong trường (có phối
hợp với các lực lượng bên ngoài), phát huy vai trò làm chủ, ra sức thi đua
“dạy tốt- học tốt”, tiến hành các hoạt động giáo dục của địa phương và
nâng cao chất lượng đào tạo, đây là nhiệm vụ trung tâm của người hiệu
trưởng vì nó quyết định trực tiếp việc đào tạo học sinh theo mục tiêu giáo
dục.
Chỉ đạo xây dựng các điều kiện giáo dục (đội ngũ giáo viên, cơ sở
vật chất, thiết bị trường học ...) để tiến hành tốt các nhiệm vụ giáo dục.
Đối với bản thân hiệu trưởng thì người hiệu trưởng có nhiệm vụ
thường xuyên chăm lo tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ về mọi mặt,
không ngừng cải tiến phương pháp quản lý, lề lối làm việc ...để thực sự trở
thành người quản lý giỏi.
Các nhiệm vụ nêu trên có liên quan mật thiết với nhau, hỗ trợ và thúc
đẩy lẫn nhau. Nhưng trong quá trình chỉ đạo, người hiệu trưởng cần hướng

18



trọng tâm vào việc đào tạo học sinh theo mục tiêu giáo dục. Đây là mục
đích và là thước đo kết quả hoàn thành nhiệm vụ của mình.
1.2.1.3. Quản lý quá trình dạy học
ở trường phổ thông, hoạt động dạy và học là hoạt động trung tâm,
đây là hoạt động đặc trưng nhất của nhà trường.
Những nhiệm vụ cơ bản của hoạt động dạy và học là:
Làm cho học sinh nắm vững tri thức khoa học một cách có hệ thống,
cơ bản, có những kỹ năng, kỹ xảo cần thiết trong học tập, trong lao động và
trong cuộc sống.
Phát triển trí tuệ của học sinh, trước hết là phát triển tư duy độc lập,
sáng tạo, hình thành năng lực nhận thức và hành động. Dạy học phải đi
trước sự phát triển.
Dạy kiến thức văn hoá phải đi đôi với việc hình thành thế giới quan
khoa học, lòng yêu nước, yêu CNXH, sống lành mạnh, giàu lòng nhân ái,
đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước.
Toàn bộ quá trình dạy học từ nội dung đến phương pháp và hình
thức tổ chức phải quán triệt nguyên tắc giáo dục kỹ thuật tổng hợp, chú ý
giáo dục kỹ năng sống, kỹ năng lao động và hướng nghiệp cho học sinh
theo hướng liên kết giáo dục phổ thông với giáo dục chuyên nghiệp.
Những nhiệm vụ nêu trên được thực hiện đồng thời và thống nhất
với nhau. Quản lý hoạt động dạy học là quản lý quá trình dạy của giáo viên
và quá trình học của học sinh. Đây là hai quá trình thống nhất gắn bó hữu
cơ.
Quá trình dạy và học là tập hợp những hành động liên tiếp của giáo
viên và học sinh được giáo viên hướng dẫn. Những hành động này nhằm
làm cho học sinh tự giác nắm vững hệ thống kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo và
trong quá trình đó phát triển năng lực nhận thức, nắm được các yếu tố của

19



văn hoá lao động trí óc và chân tay, hình thành những cơ sở của thế giới
quan và nhân sinh quan đúng đắn.
Nếu xét riêng dạy và học như một hệ thống con thì quan hệ hoạt
động dạy đối với hoạt động học là quan hệ điều khiển. Do đó hành động
quản lý (điều khiển hoạt động dạy và học) của hiệu trưởng chủ yếu tập
trung vào hoạt động dạy của thầy, và hoạt động học của trò; thông qua hoạt
động dạy của thầy, quản lý hoạt động học của trò.
Mô hình dưới đây mô tả các tác động chủ yếu từ hiệu trưởng đến hoạt
động của giáo viên- học sinh và những điều kiện vật chất phục vụ cho dạy và
học. Ngoài ra, hiệu trưởng cần có những thông tin phản hồi từ những đối
tượng đó để thường xuyên điều chỉnh phương pháp quản lý cho có hiệu quả
nhất.
Giáo viên
Hoạt động dạy
Hiệu trưởng
Hoạt động quản lý

Học sinh
Hoạt động học
Cơ sở vật chất phục
vụ cho dạy và học

1.3. Tự học và năng lực tự học
1.3.1 Khái niệm tự học
Tự học là nội lực của người học, là nhân tố quyết định sự phát triển
bản thân người học : có tự học mới phát triển được tư duy độc lập, từ chỗ
có tư duy độc lập mới có tư duy phê phán, có khả năng phát hiện vấn đề và
nhờ đó mới có tư duy sáng tạo. Nói cách khác, tự học là tự mình động não,

suy nghĩ, sử dụng các khả năng trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng
hợp...) và có khi cả cơ bắp ( khi sử dụng công cụ thực hành) cùng các phẩm
chất cá nhân như động cơ, tình cảm, nhân sinh quan (trung thực khách

20


quan, không ngại khó, kiên trì nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ý chí muốn
thành đạt, biến khó khăn thành thuận lợi,....) để chiếm lĩnh một lĩnh vực
hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của riêng
mình.
Dựa vào mức độ tự học ta có thể phân chia thành 3 mức độ như sau:
Tự học ở mức độ cao: là người học tự làm, tự rút kinh nghiệm, tự
hoàn thiện về kiến thức cũng như nghề nghiệp.
Tự học có hướng dẫn là người học có sự hướng dẫn của thầy nhưng chủ yếu
là hướng dẫn tư duy trong quá trình chiếm lĩnh kiến thức cũng như nghề nghiệp.
Tự học giáp mặt là người học được thầy hướng dẫn trực tiếp, ở trên
lớp tích cực chủ động tiếp thu và ngoài giờ lên lớp tự học để nắm chắc kiến
thức, liên hệ với thực tế khách quan có hướng dẫn của người thầy.
Tự học cũng chính là tự đào tạo, sự thống nhất là ở chỗ: đó là quá trình
cá nhân hoá việc tiếp thu các tri thức và tuân theo luận điểm quan trọng về
phương pháp dạy - tự học. Tự học gắn liền với tuổi học trò, học sinh phổ
thông còn tự đào tạo gắn liền với sinh viên các trường đại học, cao đẳng và
dạy nghề.
ý nghĩa của tự học là “cốt” của việc học, hễ có học là có tự học, không
ai có thể học hộ người khác. Khi nói đến học là hàm ý nói đến mối quan hệ
giữa nội lực của người học và ngoại lực tức là của người dạy. John Lubbock
nói “Cái gì ta tự học được mới thực là của ta hơn những cái người ta dạy ta”.
Vai trò của tự học không chỉ có ý nghĩa đối với bản thân người học, mà nó
còn có ý nghĩa to lớn đối với vấn đề nâng cao chất lượng của dạy học và đào

tạo. Chất lượng giáo dục và đào tạo cao nhất là sự cộng hưởng ngoại lực dạy
với nội lực tự học, tự đào tạo. Quá trình tự học là quá trình cá nhân hoá việc
học kết hợp, hợp tác với bạn, với thầy tức là quá trình xã hội hoá việc học
tập tạo ra chất lượng và hiệu quả cao, đạt mục tiêu đào tạo.

21


Tự học, tự đào tạo chính là cái gốc của sự phát triển bền vững của
mỗi cá nhân, tạo tiềm năng cho con người phát triển toàn diện, góp phần
hoàn thiện nhân cách, sức lao động.
Như vậy, tự học có nghĩa là tự giác, chủ động chiếm lĩnh tri thức với
niềm say mê, hứng thú đặc biệt. Đối với học sinh, tự học để rèn luyện tư duy
độc lập, nâng cao khả năng phát hiện tìm tòi, khả năng khám phá thế giới xung
quanh. Thực tế đã chứng minh rằng hầu hết những nhà khoa học lớn, những
danh nhân văn hoá tầm cỡ thế giới đều trưởng thành từ con đường tự học. Bác
Hồ của chúng ta cũng là một tấm gương sáng về tinh thần tự học suốt đời.
1.3.1. Khái niệm năng lực
“Năng lực là tổ hợp các thuộc tính độc đáo của cá nhân, phù hợp với
những yêu cầu của một hoạt động nhất định, đảm bảo cho hoạt động đó có
kết quả” [25].
Năng lực có các mức độ từ thấp đến cao:
Năng lực là một mức độ nhất định của khả năng con người, biểu thị
khả năng hoàn thành có kết quả một hoạt động nào đó; Thiên tài là mức độ
cao nhất của năng lực, biểu thị ở mức độ kiệt xuất, hoàn chỉnh nhất của vĩ
nhân trong lịch sử nhân loại.
Năng lực chia làm hai loại: Năng lực chung và năng lực riêng biệt.
Năng lực chung là năng lực cần thiết cho nhiều lĩnh vực hoạt động khác
nhau (các thuộc tính về thể lực và trí tuệ: quan sát, trí nhớ, tư duy, tưởng
tượng, ngôn ngữ ) là những điều kiện cần thiết để giúp cho nhiều lĩnh vực

hoạt động có kết quả. Năng lực riêng biệt là sự thể hiện độc đáo các phẩm
chất riêng biệt, có tính chuyên môn, nhằm đáp ứng yêu cầu của lĩnh vực
hoạt động chuyên biệt với kết quả cao (năng lực toán học, năng lực thơ ... ).
Hai loại năng lực này luôn bổ xung, hỗ trợ cho nhau.
Năng lực có quan hệ qua lại, biện chứng với tư chất, với thiên
hướng cá nhân, với tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và bộc lộ qua tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo. Tư chất và đặc điểm riêng có của mỗi người, là điều kiện

22


hình thành năng lực; thiên hướng là dấu hiệu thích hợp với một loại hoạt
động bộc lộ năng lực đang hình thành; trí tuệ, kỹ năng, kỹ xảo là điều kiện
cần thiết để có năng lực về lĩnh vực đó .
Năng lực của mỗi con người dựa trên cơ sở tư chất, những điều chủ
yếu là năng lực hình thành, phát triển và thể hiện trong hoạt động tích cực
của con người dưới sự tác động của giáo dục, dạy học và rèn luyện. Năng
lực của con người phát triển, nâng cao bằng con đường kiên trì luyện tập
một cách có hệ thống và trong điều kiện hoàn cảnh thuận lợi phù hợp. Phát
hiện và bồi dưỡng năng lực, năng khiếu là một trong những vấn đề cơ bản
của chiến lược giáo dục nhằm nâng cao dân trí đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài. Việc hình thành và phát triển các phẩm chất nhân cách là phương
tiện có hiệu quả nhất để phát triển năng lực.
1.3.3. Khái niệm năng lực tự học
Năng lực tự học là những thuộc tính tâm lý mà nhờ chúng con người
tự mình xử lí các thông tin, các vấn đề được đặt ra trong học tập, trong
cuộc sống nhằm biến kiến thức của nhân loại thành sở hữu của riêng mình
một cách hiệu quả nhất . Năng lực tự học được hình thành và phát triển do
có nhận thức , thái độ và phương pháp tự học tốt, đồng thời phải có tác
động của ngoại lực như phương pháp dạy học, phương tiện học tập và các

hoạt động giáo dục trong và ngoài nhà trường.
Như vậy, nâng cao năng lực tự học cho học sinh THPT có nghĩa là nâng
cao năng lực tự sắp xếp quỹ thời gian và điều kiện vật chất để tự học, tự củng cố,
tự đào sâu tri thức hay tự hình thành những kỹ năng, kỹ xảo trong những lĩnh vực
nào đó theo yêu cầu trong chương trình đào tạo của nhà trường.
Năng lực tự học là yếu tố có tính quyết định sự phát triển của bản
thân người học, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển của từng người
học. Năng lực tự học của mỗi học sinh biểu hiện ở các mặt sau:
+ Khả năng tiếp thu tri thức
+ Khả năng rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo

23


+ Khả năng điều chỉnh, tự hoàn thiện
+ Khả năng giao lưu, hợp tác
Những phẩm chất năng lực tự học của người học là : Tự giác, độc
lập, chủ động, sáng tạo.
Các năng lực trên thể hiện trong toàn bộ hoạt động học tập của người
học sinh, chúng hỗ trợ và chi phối lẫn nhau tạo ra nhân cách của người học
sinh.
1.3.4. Năng lực tự học trong cấu trúc nhân cách của người học
Một số cấu trúc nhân cách học sinh:
Các tác giả Nguyễn Sinh Huy và Nguyễn Văn Lê cho rằng: Để trở
thành những nhân cách, mỗi học sinh cần hình thành và phát triển các
phẩm chất đạo đức và một hệ thống năng lực, đó là:
+ Các phẩm chất đạo đức: Phẩm chất xã hội (các quan điểm và niềm
tin về tư tưởng – chính trị, thế giới quan khoa học, thái độ tự giác đối với
mọi người và đối với hoạt động của mình), các phẩm chất cá nhân (nếp
sống, thói quen, các ham muốn lành mạnh, có văn hoá); các phẩm chất ý

chí (tính kỷ luật, tính tự chủ, tính mục đích, tính cả quyết, tính phê phán).
+ Hệ thống năng lực: Đó là khả năng thích ứng, năng lực sáng tạo,
linh hoạt mềm dẻo trong toàn bộ cuộc sống xã hội; khả năng biểu hiện cái
riêng, cái bản lĩnh của cá nhân, năng lực hành động. Khả năng hành động
có mục đích, có điều khiển. Chủ động tích cực và sáng tạo; năng lực giao
lưu, khả năng thiết lập và duy trì các mối quan hệ với người khác.
Nhân cách

Sơ đồ 1.4 Năng lực tự học của người học trong cấu trúc tâm lý nhân cách
Phẩm chất

Năng lực

Nhân cách người học

Năng lực tự học tự đào tạo

Phẩm chất

Tiếp
thu
tri
thức

Rèn
luyện
kỹ
24năng,
kỹ xảo


Tự
hoàn
thiện

Giao
lưu
hợp
tác


25


×