Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Bài tiểu luận ô nhiễm môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.93 KB, 17 trang )

TRƯỜNG CAO ĐẲNG KỸ THUẬT LÝ TỰ TRỌNG
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Bài Tiểu Luận : Ô Nhiễm Môi Trường
Nhóm 5:
Hồ Thế Phy
Hoàng Mạnh Quân
Ngô Đặng Nhật Trường
Liêu Nguyên Phát
Trần Văn Nghĩa

1


Lời nói đầu
Ô nhiễm môi trường là một chủ đề hết sức quen thuộc với chúng ta qua
các phương tiện thông tin đại chúng. Là vấn đề của mọi thời đại và sẽ
luôn nóng bởi nó gắn liền với sự gia tăng nhanh về dân số,phát triển kinh
tế. Trong khi không phải một quốc gia nào cũng có một hệ thống pháp
lý,cũng như quản lí tốt về môi trường và cũng không phải quốc gia nào
cũng nhiệt tình cắt giảm sản xuất để hạn chế ô nhiễm. Và mỗi chúng ta
không phải ai cũng là những người có ý thức.

2


I.

Cơ sở lí luận
1) Khái niệm ô nhiễm môi trường.
Ô nhiễm môi trường là sự làm thay đổi tính chất của môi trường, vi


phạm tiêu chuẩn môi trường, thay đổi trực tiếp hoặc gián tiếp các thành
phần và đặc tính vật lý, hóa học, nhiệt độ, sinh học, chất hòa tan, chất
phóng xạ… ở bất kỳ thành phần nào của môi trường hay toàn bộ môi
trường vượt quá mức cho phép đã được xác định.
Chất gây ô nhiễm là những nhân tố làm cho môi trường trở thành độc
hại, gây tổn hại hoặc có tiềm năng gây tổn hại đến sức khỏe, sự an toàn
hay sự phát triển của con người và sinh vật trong môi trường đó. Chất
gây ô nhiễm có thể là chất rắn (như rác) hay chất lỏng (các dung dịch
hóa học, chất thải của dệt nhuộm, rượu, chế biến thực phẩm), hoặc chất
khí (SO2 trong núi lửa phun, NO2 trong khói xe, CO từ khói đun …), các
kim loại nặng như chì, đồng … cũng có khi nó vừa ở thể hơi vừa ở thể
rắn như thăng hoa hay ở dạng trung gian.
Các dạng ô nhiễm môi trường chính :
a)

Ô nhiễm môi trường đất

Ô nhiễm môi trường đất là hậu quả các hoạt động của con người làm
thay đổi các nhân tố sinh thái vượt qua những giới hạn sinh thái của các
quần xã sống trong đất.
Môi trường đất là nơi trú ngụ của con người và hầu hết các sinh vật cạn,
là nền móng cho các công trình xây dựng dân dụng, công nghiệp và văn
hóa của con người. Đất là một nguồn tài nguyên quý giá, con người sử
dụng tài nguyên đất vào hoạt động sản xuất nông nghiệp để đảm bảo
nguồn cung cấp lương thực thực phẩm cho con người. Nhưng với nhịp
độ gia tăng dân số và tốc độ phát triển công nghiệp và hoạt động đô thị
hoá như hiện nay thì diện tích đất canh tác ngày càng bị thu hẹp, chất
lượng đất ngày càng bị suy thoái, diện tích đất bình quân đầu người
giảm. Riêng chỉ với ở Việt Nam, thực tế suy thoái tài nguyên đất là rất
đáng lo ngại và nghiêm trọng.


3


b) Ô nhiễm môi trường nước

Ô nhiễm nước là sự thay đổi theo chiều tiêu cực của các tính chất vật lý
– hoá học – sinh học của nước, với sự xuất hiện các chất lạ ở thể lỏng,
rắn làm cho nguồn nước trở nên độc hại với con người và sinh vật. Làm
giảm độ đa dạng sinh vật trong nước. Xét về tốc độ lan truyền và quy mô
ảnh hưởng thì ô nhiễm nước là vấn đề đáng lo ngại hơn ô nhiễm đất.
Nước bị ô nhiễm là do sự phủ dưỡng xảy ra chủ yếu ở các khu vực nước
ngọt và các vùng ven biển, vùng biển khép kín. Do lượng muối khoáng
và hàm lượng các chất hữu cơ quá dư thừa làm cho các quần thể sinh vật
trong nước không thể đồng hoá được. Kết quả làm cho hàm lượng ôxy
trong nước giảm đột ngột, các khí độc tăng lên, tăng độ đục của nước,
gây suy thoái thủy vực. Ở các đại dương là nguyên nhân chính gây ô
nhiễm đó là các sự cố tràn dầu. Ô nhiễm nước có nguyên nhân từ các
loại nước,chất thải công nghiệp được thải ra lưu vực các con sông mà
chưa qua xử lí đúng mức; các loại phân bón hoá học và thuốc trừ sâu
ngấm vào nguồn nước ngầm và nước ao hồ; nước thải sinh hoạt được
thải ra từ các khu dân cư ven sông gây ô nhiễm trầm trọng,ảnh hưởng
đến sức khỏe của người dân,sinh vật trong khu vực.
c) Ô nhiễm môi trường không khí

Ô nhiễm môi trường không khí là sự có mặt một chất lạ hoặc một sự biến
đổi quan trọng trong thành phần không khí, làm cho không khí không
sạch hoặc gây mùi khó chịu, giảm thị lực khi nhìn xa do bụi.
Hiện nay, ô nhiễm khí quyển là vấn đề thời sự nóng bỏng của cả thế giới
chứ không phải riêng của một quốc gia nào. Môi trường khí quyển đang

có nhiều biến đổi rõ rệt và có ảnh hưởng xấu đến con người và các sinh
vật. Ô nhiễm khí đến từ con người lẫn tự nhiên. Hàng năm con người
khai thác và sử dụng hàng tỉ tấn than đá, dầu mỏ, khí đốt. Đồng thời
cũng thải vào môi trường một khối lượng lớn các chất thải khác nhau
như: chất thải sinh hoạt, chất thải từ các nhà máy và xí nghiệp làm cho
hàm lượng các loại khí độc hại tăng lên nhanh chóng.
Ô nhiễm từ xe gắn máy cũng là một loại ô nhiễm khí đáng lo ngại. Ô
nhiễm môi trường khí quyển tạo nên sự ngột ngạt và "sương mù", gây
nhiều bệnh cho con người. Nó còn tạo ra các cơn mưa axít làm huỷ diệt
các khu rừng và các cánh đồng.

4


Điều đáng lo ngại nhất là con người thải vào không khí các loại khí độc
như: CO2, đã gây hiệu ứng nhà kính. Theo nghiên cứu thì chất khí quan
trọng gây hiệu ứng nhà kính là CO2, nó đóng góp 50% vào việc gây hiệu
ứng nhà kính, CH4 là 13%,, nitơ 5%, CFC là 22%, hơi nước ở tầng bình
lưu là 3%...
Nếu như chúng ta không ngăn chặn được hiện tượng hiệu ứng nhà kính
thì trong vòng 30 năm tới mặt nước biển sẽ dâng lên từ 1,5 – 3,5 m
(Stepplan Keckes). Có nhiều khả năng lượng CO 2 sẽ tăng gấp đôi vào
nửa đầu thế kỷ sau. Điều này sẽ thúc đẩy quá trình nóng lên của Trái
Đất diễn ra nhanh chóng. Nhiệt độ trung bình của Trái Đất sẽ tăng
khoảng 3,60 °C (G.I.Plass), và mỗi thập kỷ sẽ tăng 0,30 °C.
Theo các tài liệu khí hậu quốc tế, trong vòng hơn 130 năm qua nhiệt độ
Trái Đất tăng 0,40 °C. Tại hội nghị khí hậu tại Châu Âu được tổ chức
gần đây, các nhà khí hậu học trên thế giới đã đưa ra dự báo rằng đến năm
2050 nhiệt độ của Trái Đất sẽ tăng thêm 1,5 – 4,50 °C nếu như con người
không có biện pháp hữu hiệu để khắc phục hiện tượng hiệu ứng nhà

kính.
Một hậu quả nữa của ô nhiễm khí quyển là hiện tượng lỗ thủng tầng
ôzôn. CFC là "kẻ phá hoại" chính của tầng ôzôn. Sau khi chịu tác động
của khí CFC và một số loại chất độc hại khác thì tầng ôzôn sẽ bị mỏng
dần rồi thủng.
2)

Nguồn gốc và nguyên nhân ô nhiễm môi trường.

Ô nhiễm môi trường có thể do nhiều nguồn khác nhau. Nguồn gây ô
nhiễm là nguồn thải ra các chất gây ô nhiễm. Có nhiều cách chia các
nguồn gây ô nhiễm.




Theo tính chất hoạt động, gồm 4 nhóm: quá trình sản xuất (nông
nghiệp, công nghiệp, du lịch, tiểu thủ công nghiệp); quá trình giao
thông vận tải; sinh hoạt; và tự nhiên.
Theo phân bố không gian, gồm 3 nhóm: điểm ô nhiễm, cố định
(khói nhà máy gây ô nhiễm cố định); đường ô nhiễm, di động (xe cộ
gây ô nhiễm trên đường); vùng ô nhiễm, lan tỏa: vùng thành thị, khu
công nghiệp gây ô nhiễm và lan tỏa trong thành phố đến vùng nông
thôn.
5




Theo nguồn phát sinh, gồm nguồn ô nhiễm sơ cấp và nguồn ô

nhiễm thứ cấp: Nguồn ô nhiễm sơ cấp là chất ô nhiễm từ nguồn thải
trực tiếp vào môi trường; Nguồn ô nhiễm thứ cấp là chất ô nhiễm
được tạo thành từ nguồn sơ cấp và đã biến đổi qua trung gian rồi mới
tới môi trường gây ô nhiễm.

Mức độ tác động từ các nguồn gây ô nhiễm nói trên còn tùy thuộc vào 3
nhóm yếu tố: quy mô dân số, mức tiêu thụ tính theo đầu người, tác động
của môi trường, trong đó quy mô dân số là yếu tố quan trọng nhất.
Có 2 nhân tố chính dẫn đến ô nhiễm môi trường :


Do con người:

Con người đang hằng ngày tàn phá môi trường sống của chính mình theo
nhiều cách, vô tình hoặc cố ý. Từ các công trình xây dựng sai lầm, quá
trình canh tác trồng trọt, khai thác mỏ, hay chỉ đơn giản như thói quen
sinh hoạt hàng ngày… đều đã và đang làm biến dạng bề mặt hành tinh.
Chính lòng tham của con người sẽ hủy diệt tất cả. một số việc làm dẫn
tới ô nhiễm môi trường :


Mặt trái của những đập thủy điện : các công trình công cộng
không phải lúc nào cũng hữu ích đối với công chúng. Điển hình
như các dự án đập thủy điện của Trung Quốc. Với mục tiêu sản
xuất năng lượng sạch, các con đập đồ sộ lại gây lụt lội ở các vùng
xung quanh, hủy hoại môi trường sinh thái…Năm 2007, Trung
Quốc hoàn thành công trình đập thủy điện lớn nhất thế giới – đập
Tam Hiệp. Công trình này đã choán nơi sinh sống của 1,2 triệu
người, làm ngập lụt 13 thành phố chính, 140 thị trấn và 1.350 ngôi
làng. Hàng trăm nhà máy, hầm mỏ, bãi rác và khu công nghiệp bị

nhấn chìm trong nước, làm cho nước trong 1 hồ chứa nước dự trữ
gần đó bị ô nhiễm nặng nề. Công trình này đã làm biến đổi một con
sông hùng vĩ một thời trở thành một cái ao tĩnh lặng và bức tử hàng
ngàn loài thủy sinh vật nơi đây.Các nhà khoa học cũng liên hệ các
con đập với những trận động đất. Đập Tam Hiệp được xây dựng
phía trên 2 đường đứt gãy chính, và kể từ khi nó được xây dựng đã
có có hàng trăm cơn chấn động nhẹ xảy ra. Họ còn cho rằng trận
động đất thảm khốc ở Tứ Xuyên hồi năm 2008 làm 80.000 người
chết cũng một phần là do lượng nước dồn về đập Zipingpu nằm ở
rất gần đường đứt gãy gây ra trận động đất.
6




Đánh bắt thủy hải sản quá mức: Các món hải sản ngon miệng được
nhiều người yêu thích đang ngày một rút ruột các đại dương. Theo
Quỹ Bảo vệ động vật hoang dã thế giới (WWF), nhu cầu về hải sản
của con người cao hơn gấp 2,5 lần so với khả năng cung ứng của
biển. Các loài hải sản càng được ưa thích thì càng bị đánh bắt cạn
kiệt. Các tàu đánh bắt cá hiện đại là thủ phạm chính. Chúng là
những nhà máy chế biến hải sản di động, được trang bị các thiết bị
dò tìm hiện đại. Khi phát hiện mục tiêu, một tấm lưới khổng lồ có
kích thước bằng 3 sân bóng sẽ được thả xuống, tóm gọn cả bầy cá
lớn chỉ trong vài phút. Các chuyên gia dự đoán rằng, nếu không có
biện pháp can thiệp, nhiều loài hải sản quen thuộc trong thực đơn
hàng ngày của con người sẽ biến mất khỏi đại dương trong 40 năm
tới.




Những cuộc di dân và những kẻ xâm chiếm Khi con người di
chuyển đến nơi sinh sống mới, họ thường đem theo những con vật
hoặc cây cỏ ở quê mình đến trồng ở vùng đất mới. Việc làm này đã
vô tình làm xáo trộn quần thể động thực vật bản địa, là một trong
những nguyên nhân gây tàn phá môi trường khốc liệt nhất.Những
kẻ xâm chiếm mới này sẽ tranh giành môi trường sống và thức ăn,
đẩy “dân địa phương” đến bước đường diệt vong. Một ví dụ điển
hình là loài chim cưu (sống ở đảo quốc Mauritius nằm phía Tây
Nam Ấn Độ Dương), nay đã bị tuyệt chủng do những sinh vật
“ngoại lai” như mèo, chuột … được những thủy thủ Châu Âu mang
đến đã phá hoại tổ và ăn trứng của chúng.
Các hoạt động khai thác than và khoáng sản Than đá là nguồn cung
cấp năng lượng dồi dào, nhưng kèm theo quá trình sản xuất điện từ
than đá là lượng khí thải CO2 khổng lồ đang phá hủy bầu khí
quyển. Hậu quả của nó là sự biến đổi khí hậu đang diễn biến phức
tạp trên phạm vi toàn cầu.Thêm một vấn nạn của ngành công
nghiệp khai thác than là rác thải như đất đá, cây cối bị đào lên
trong quá trình khai thác sẽ bị đổ đống xuống các thung lũng lân
cận, bóp nghẹt các dòng suối, phá hủy môi trường sống của các
sinh vật, làm kiệt quệ dòng nước chảy ra các con sông; thêm vào



7











đó, chất thải công nghiệp bị rửa trôi vào các dòng sông, gây ô
nhiễm nghiêm trọng.
Tai họa từ sơ suất của con người Đôi khi, chỉ một sơ suất nhỏ của
con người cũng gây ra hậu quả thảm khốc khó lường.Thảm họa
tràn dầu từng làm chấn động nước Mỹ của công ty Exxon Valdez
năm 1989, ngoài việc cướp đi kế mưu sinh của hàng chục ngàn ngư
dân, còn bức tử hàng triệu sinh vật biển khác ở vùng biển
Alaska.Mới đây nhất là vụ tràn dầu của công ty BP xảy ra ở vịnh
Mexico hồi tháng 4/2010 thậm chí gây hậu quả còn nghiêm trọng
hơn vụ Exxo, được đánh giá là thảm họa tràn dầu kinh hoàng nhất
lịch sử. Cho đến hiện tại, vẫn còn quá sớm để ước lượng mức độ
ảnh hưởng cũng như thiệt hại do sự cố này gây ra, nhưng chắc chắn
người dân và hệ sinh thái trong khu vực này sẽ chịu thiệt hại hết
sức nặng nề.
Các hoạt động nông nghiệp không bền vững Các hoạt động nông
nghiệp không an toàn là nguyên chính gây ô nhiễm đất và các
nguồn nước. Lấy ví dụ, ở Mỹ, 70% nguồn nước như sông suối bị
nhiễm hóa chất do phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật bị
rửa trôi từ các cánh đồng.Ngoài ra, ngành công nghiệp chăn nuôi
quy mô lớn với hàng trăm ngàn con gia súc đang thải ra một lượng
khổng lồ các loại khí thải chưa qua xử lý từ phân của chúng. Các
khí này cũng “góp công” trong việc làm Trái đất nóng lên.
Phương tiện giao thong Mỗi năm 1 chiếc xe hơi hoạt động sẽ thải
ra khoảng 5,4 tấn CO2 dưới dạng khí thải. Ngoài tác hại lâu dài đến
tầng ozone, gây hiệu ứng nhà kính khiến trái đất nóng lên, các loại

khí thải này cũng gây tác hại tức thời đến con người thông qua các
bệnh về đường hô hấp ngày càng phổ biến. Hơn nữa, ngành công
nghiệp khai thác và cung cấp nhiên liệu (xăng dầu) cho các loại
phương tiện giao thông hoạt động cũng để lại nhiều hậu quả xấu
cho môi trường.
Nạn phá rừng Các khu rừng đang bị teo nhỏ hoặc biến mất hàng
ngày, đặc biệt là các khu rừng mưa nhiệt đới. Với đà phá rừng như
hiện tại, các nhà khoa học ước tính khoảng 100 năm nữa, toàn bộ
rừng trên trái đất sẽ biến mất.Mất rừng cũng như mất đi lá phổi;
8


không còn đủ cây xanh để chuyển hấp thụ và chuyển hóa các khí
nhà kính. Không còn rừng cũng đồng nghĩa với việt mất đi hàng
rào che chắn và bảo vệ, dẫn đến các thảm họa xói mòn và lũ lụt
ngày một nghiêm trọng.
• Bùng nổ dân số: Các nhà nghiên cứu dân số nói rằng, nếu chúng ta
không tự kiềm chế dân số một cách ôn hòa thông qua các chương
trình kế hoạch hóa gia đình, thì thiên nhiên sẽ làm giúp việc này
nhưng với các biện pháp hết sức tàn khốc như bệnh dịch và đói
kém.Chỉ trong vòng 40 năm, dân số thế giới đã tăng từ 3 tỷ lên gần
7 tỷ người. Mỗi năm lại có thêm 75 triệu người – tương đương dân
số của nước Đức – được sinh ra trên hành tinh. Ước tính đến năm
2050, dân số trái đất sẽ vượt mốc 9 tỷ người.Dân số tăng đồng
nghĩa với nhu cầu về thực phẩm tăng, lượng rác thải cũng theo đó
tăng lên. Các ngành công nghiệp hoạt động hết công suất để phục
vụ con người. Tài nguyên bị rút cạn. Trái đất dần kiệt quệ.
• Chiến tranh: Trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, tổng cộng đế q
uốc Mĩ đã rải 72 triệu lít chất diệt cỏ trong đó có 44 triệu lít chất độ
c màu da cam lên 1,7 triệu ha đất trồng và rừng ở miền nam Việt N

am. Hậu quả để lại cho con người cũng như môi trường sống cho đ
ến nay vấn chưa tình toán được hết vì sự tàn phá khủng khiếp của n
ó. Ngay khi bị rải thuôc diệt cỏ lần thứ nhất, 30% cây rừng bị chết
ngay sau đó. Cây rừng bị trụi lá, nước bị ô
nhiễm, động vật chết vì nhiễm độc, nhiều thảm rừng đến nay vấn k
hông có loại cây nào có thể mọc được …
minh chứng tiêu biểu cho sức tàn phá của chiến tranh lên môi trườn
g tự nhiên.Thế giới của chúng ta đã phải chứng kiến biết bao cuộc c
hiến tranh có sức huỷ diệt lớn, và từng ngày từng giờ vẫn xảy ra nh
ững cuộc chiến tranh xung đột sắc tộc, tôn giáo… Bên cạnh những
thiệt hạỉ khủng khiếp về người và của thì hậu quả tác động đến ô n
hiễm môi trường đang là một lời cảnh bảo.
 Do thiên nhiên:
Là do mưa, tuyết tan, lũ lụt, gió bão… hoặc do các sản phẩm hoạt
động sống của sinh
vậtchúng. Cây cối, sinh vật chết đi , chúng bị vi sinh vật phân hủy thà
nh chất hữu

9


cơ. Một phần sẽ ngấm vào lòng đất, sau đó ăn sâu vào nước ngầm, gâ
y ô nhiễm.
hoặctheo dòng nước ngầm hòavào dòng lớn. Lụt lội có thể làm nư
ớc mất sự trong sạch, khuấy động những chất dơ trong hệ thống
cống rãnh, mang theo nhiều chất thải độc hại từ nơi đổ rác, và cuốn th
eo các loại hoá chất trước đây đã được cất giữ.
Nước lụt có thể bị ô nhiễm do hoá chất dùng trong nông nghi
ệp,
kỹ nghệ hoặc do các tác nhân độc hại ở các khu phế thải. Công nhân t

hu dọn lân
cận các công trường kỹ nghệ bị lụt có thể bị tác hại bởi nước
ô nhiễm hoá chất.
Ô nhiễm do các yếu tố tự nhiên có thể rất nghiêm trọng, nhưng không
thường xuyên, và không phải là nguyên nhân
chính gây suy thoái chất lượng
môi trường toàn cầu.
Thực Trạng.

II.

chúng ta đang phải đối mặt với 3 vấn đề phổ biến đó là sự nóng lê
n của Trái Đất, sự ô nhiễm biển và đại dương cùng với sự hoang
mạc hóa.
Sự nóng lên của Trái Đất: nhiệt độ trung bình của Trái Đất hiện nay
nóng hơn gần 40oC so với nhiệt độ trong kỷ băng hà gần nhất, khoảng
13.000 năm trước. Tuy nhiên trong vòng 100 năm qua, nhiệt độ trung
bình bề mặt Trái Đất tăng khoảng 0.6 o – 0,7o C và dự báo sẽ tăng 1,4o –
5o c trong năm tới. Ấm lên toàn cầu có những tác động sâu sắc đến môi
trường và xã hội. Một trong những hệ quả tất yếu của sự gia tăng nhiệt
độ của trái đất là sự gia tăng mực nước biển, cường độ các cơn bão và
các thời tiết cực đoan, suy giảm tần ozon, thay đổi ngành công nghiệp,
và làm suy giảm oxy trong đại dương.Tốc độ ấm lên nhanh hơn so với sự
thích ứng của các loài sinh vật, vì vậy một số loài có khả năng tuyệt
chủng.
1)

10



Sự ô nhiễm biển và đại dương: Biển và đại dương ngày đêm kêu cứu vì
ô nhiễm. Hàng năm có khoảng 50 triệu tấn chất thải đổ ra biển . Bên
cạnh đó các sự cố rò rỉ dầu, tràn dầu của các tàu trưởng chiếm 50%
nguồn ô nhiễm dầu trên biển.
Thông qua những con số biết nói sau đây, ta có thể thấy được phần nào h
ậu quả của sự ô nhiễm:
1.000.000 chim biển, 100.000 thú biển và rùa biển bị chết do bị
vướng hay bị nghẹt thở bởi các loại rác plastic.
30 - 50% lượng CO2 thải ra từ quá trình đốt các nhiên liệu hóa t
hạch bị đại dương hấp thụ, việc thay đổi nhiệt độ sẽ làm ảnh
hưởng đến khả năng hấp thụ CO2 của các phiêu sinh vật sau đó
làm ảnh hưởng đến hệ sinh thái.
60% các rạn san hô đang bị đe dọa bởi việc ô nhiễm.
Sự hoang mạc hóa:
Mỗi năm, sa mạc Sahara tiến dần về phía Nam với tốc độ 45 km/năm.cao
nguyên madagasca nơi được xem là khoa báu về đa dạng sinh học nhưng
giờ đây 7% đất đai là đồi trọc. Đa dạng sinh thái suy giảm đất đai trở nên
bạc màu không thể canh tác là hai ảnh hưởng chủ yếu của quá trình
hoang mạc hóa. Tình Trạng này đang đe dọa cuộc sống của gần 1 tỉ
người trên Trái Đất. Châu phi chỉ nuôi được 25% dân số vào năm 2025
nếu tốc độ hoang mạc ở lục địa Đen tiếp tục như hiện nay.
Ô nhiễm môi trường ở Việt Nam
ngày nay, vấn đề ô nhiễm môi trường đã và đang ngày càng trở nên
nghiêm trọng hơn ở Việt Nam. Trên các phương tiện thông tin đại chúng
hằng ngày, chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp những hình ảnh, những thông
tin về việc môi trường bị ô nhiễm. Bất chấp những lời kêu gọi bảo vệ
môi trường, tình trạng ô nhiễm càng lúc càng trở nên trầm trọng. Điều
này khiến ta phải suy nghĩ… Từ đầu năm đến nay, đã có thêm không biết
bao nhiêu thống kê mới về tình trạng môi trường ở Việt Nam ta. Và đáng
buồn thay, đó là những con số gây thất vọng… Theo bản tổng kết môi

trường toàn cầu do Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP)
Hà Nội và Tp. HCM nằm trong danh sách 6 thành phố ô nhiễm không
2)

11


khí nghiêm trọng nhất thế giới. Về nồng độ bụi, hai thành phố lớn nhất
Việt Nam này chỉ đứng sau Bắc Kinh, Thượng Hải, New Delhi và
Dhaka. Mối đe doạ tiềm tàng này chắc chắn sẽ cản trở quá trình phát
triển hơn nữa của các thành phố này. Cũng theo một nghiên cứu về các
chỉ số môi trường ổn định do Trường Đại học Yale (Mỹ) thực hiện, Việt
Nam đứng thứ hạng thấp nhất trong số 8 nước Đông Nam Á. Tình trạng
quy hoạch các khu đô thị chưa gắn với vấn đề xử lý chất thải, nước thải
nên ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp, khu
đô thị đang ở mức báo động. Trong tổng số 183 khu công nghiệp trong
cả nước, có trên 60% khu công nghiệp chưa có hệ thống xử lý nước thải
tập trung. Các đô thị chỉ có khoảng 60% - 70% chất thải rắn được thu
gom, cơ sở hạ tầng thoát nước và xử lý nước thải, chất thải nên chưa đáp
ứng yêu cầu về bảo vệ môi trường...Hầu hết lượng nước thải chưa được
xử lý đều đổ thẳng ra sông, hồ và dự báo đến năm 2010 là
510.000m3/ngày. Một ví dụ đau lòng của việc xả nước thải, hẳn không ai
không biết, là trường hợp của con sông Thị Vải bị ô nhiễm bởi hoá chất
thải ra từ nhà máy của công ti bột ngọt Vê Đan suốt 14 năm liền. Điều
này khiến cho con sông bị ô nhiễm nghiêm trọng ảnh hưởng tới cuộc
sống của nhiều người dân ở xung quanh. Một ví dụ khác chính là việc ô
nhiễm hồ Hoàn Kiếm, một biểu tượng của nền văn hoá dân tộc.
Không chỉ có môi trường nước mà môi trường không khí và môi trường
đất cũng bị ô nhiễm nghiêm trọng. Môi trường không khí ở hầu hết các
đô thị Việt Nam đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép.Riêng tại thành phố

Hồ Chí Minh, kết quả đo đạc tại 6 trạm quan trắc không khí cho thấy
89% mẫu kiểm tra không khí không đạt tiêu chuẩn cho phép, luôn ở mức
nguy hại cao cho sức khỏe, trong đó lượng bụi lơ lửng đang là nhân tố
gây ô nhiễm nghiêm trọng hàng đầu trên địa bàn. Bên cạnh đó, tình trạng
ô nhiễm không khí do chì cũng gia tăng nhanh chóng, cụ thể nồng độ chì
đo đượ cừ đầu năm 2009 đến nay thường dao động ở ngưỡng 0,22 0,38g/m³, quá chuẩn cho phép khoảng 1,5 lần. Về môi trường đất, kết
quả của một số khảo sát cho thấy hàm lượng kim loại nặng trong đất gần
các khu công nghiệp đã tăng lên trong những năm gần đây. Như tại cụm
công nghiệp Phước Long (Bình Phước) hàm lượng Cr cao gấp 15 lần so
với tiêu chuẩn, Cd cao từ 1,5 đến 5 lần, As cao hơn tiêu chuẩn 1,3 lần.
(Cr,Cd,As: các chất hoá học độc hại) Thuốc bảo vệ thực vật cũng gây
ảnh hưởng đến đất. Mặc dù khối lượng thuốc bảo vệ thực vật được sử
12


dụng ở Việt nam còn ít, trung bình từ 0,5-1,0 kg/ha/năm, tuy nhiên, ở
nhiều nơi đã phát hiện dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong đất.
III.
Phương hướng và giải pháp.
1) Phương hướng và giải pháp.
• Thứ nhất: Trước hết phải xây dựng văn hóa ứng xử thân thiện
với môi trường trên cơ sở đổi mới tư duy, cách làm, hành vi ứng
xử, ý thức trách nhiệm với thiên nhiên, môi trường trong xã hội
và của mỗi người dân. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp
luật, nâng cao hiểu biết, xây dựng các chuẩn mực, hình thành ý
thức, lối nghĩ, cách làm, hành vi ứng xử thân thiện với thiên
nhiên, môi trường. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, xử
lý quyết liệt, giải quyết dứt điểm các vụ việc về môi trường, các
vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường. Cần tạo bước chuyển biến
mạnh mẽ từ nhận thức sang hành động cụ thể. Lấy chỉ số đầu tư

cho môi trường, hoạt động bảo vệ môi trường, kết quả bảo vệ
môi trường cụ thể để đánh giá.
• Thứ hai: Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, gắn nhiệm vụ bảo
vệ môi trường với phát triển kinh tế-xã hội. Đổi mới cơ chế quản
lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Khắc phục suy thoái, khôi
phục và nâng cao chất lượng môi trường; Thực hiện tốt chương
trình trồng rừng, ngăn chặn có hiệu quả nạn phá rừng, cháy
rừng, tăng diện tích các khu bảo tồn thiên nhiên; Khai thác có
hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo đảm môi trường và cân
bằng sinh thái; Chú trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với
môi trường; Thực hiện sản xuất và tiêu dùng bền vững; từng
bước phát triển “năng lượng sạch”, “sản xuất sạch”, “tiêu dùng
sạch”; Tăng cường hợp tác quốc tế để phối hợp hành động và
tranh thủ sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế cho công tác bảo vệ
tài nguyên và môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu; Đẩy
mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường.
• Thứ ba: Coi trọng yếu tố môi trường trong tái cơ cấu kinh tế,
tiếp cận các xu thế tăng trưởng bền vững và hài hòa trong phát
triển ngành, vùng phù hợp với khả năng chịu tải môi trường,
sinh thái cảnh quan, tài nguyên thiên nhiên và trình độ phát
triển. Đã đến lúc “nói không” với tăng trưởng kinh tế bằng mọi

13






giá; Tăng trưởng kinh tế phải đồng thời với bảo vệ môi trường,

ứng phó với biến đổi khí hậu. Bảo vệ môi trường, ứng phó với
biến đổi khí hậu cũng phải thay đổi theo hướng có lợi cho tăng
trưởng kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo ra công ăn việc
làm, hỗ trợ để đất nước phát triển nhanh hơn, bền vững hơn.
Thứ tư: Dự báo, cảnh báo kịp thời, chính xác các hiện tượng khí
tượng thủy văn, chung sức và chủ động ứng phó với biến đổi khí
hậu; Tập trung triển khai thực hiện Chiến lược phát triển ngành
khí tượng thủy văn đến năm 2020 và hai đề án: Hiện đại hóa
công nghệ dự báo khí tượng thủy văn; Hiện đại hóa ngành khí
tượng thủy văn; Tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành, địa
phương, các tổ chức và cộng đồng quốc tế trong việc tham gia
ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu; lồng ghép các yếu tố biến
đổi khí hậu với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm
(2011-2020) và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (20112015), xác định các giải pháp chiến lược và chính sách thực thi,
bố trí các nguồn lực cần thiết để tổ chức và triển khai thực hiện
tốt Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí
hậu.
Thứ năm: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật đất đai; Quy
hoạch sử dụng đất cả nước đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng
đất 5 năm 2011 - 2015. Xác lập cơ chế cung - cầu, chia sẻ lợi
ích, phát triển bền vững tài nguyên nước và bảo đảm an ninh
nguồn nước. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng dự án Luật Tài nguyên
nước và các văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực tài
nguyên nước theo hướng xác lập cơ chế quản lý tài nguyên nước
đồng bộ với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đẩy mạnh xã hội hóa, tạo điều kiện để các thành phần
kinh tế, các tổ chức xã hội, mọi người dân tham gia bảo vệ môi
trường, làm kinh tế từ môi trường. Tạo điều kiện, hỗ trợ để các
tổ chức phản biện xã hội về môi trường, các hội, hiệp hội về
thiên nhiên và môi trường hình thành, lớn mạnh và phát triển,

đóng góp tích cực trong hoạt động bảo vệ môi trường.

14


Thứ sáu: Đẩy mạnh thực hiện “kinh tế hóa” trong lĩnh vực địa
chất và khoáng sản theo hướng giảm cơ chế “xin - cho”, tăng
cường áp dụng hình thức đấu thầu quyền thăm dò khoáng sản,
đấu giá mỏ để tăng thu cho ngân sách Nhà nước và lựa chọn
được tổ chức, cá nhân có năng lực, kinh nghiệm tham gia hoạt
động thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản; nâng cao tính
thống nhất, tránh chồng chéo trong quản lý; tăng cường phân
cấp cho các địa phương quản lý khoáng sản; chú trọng thanh tra,
kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật...Đồng thời, tiếp tục giảm xuất
khẩu thô, đẩy mạnh chế biến sâu nhằm bảo vệ và nâng cao giá
trị tài nguyên khoáng sản, hướng tới mục tiêu xây dựng ngành
công nghiệp khai khoáng ổn định, bền vững. Phát triển kinh tế
biển, bảo vệ an ninh trên biển.
• Thứ bảy: Hoàn thiện hệ thống pháp luật về môi trường, chuẩn
bị cơ sở pháp lý cho ứng phó với biến đối khí hậu theo hướng
thống nhất, công bằng, hiện đại và hội nhập đáp ứng yêu cầu xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục hoàn thiện
hệ thống pháp luật hiện hành, tiến tới xây dựng Bộ Luật Môi
trường, hình thành hệ thống các văn bản quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành theo hướng thống nhất, công bằng, hiện đại
và hội nhập, khắc phục tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, không
rõ trách nhiệm và thiếu khả thi. Hệ thống pháp luật về môi
trường phải tương thích, đồng bộ trong tổng thể hệ thống pháp
luật chung của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Ý kiến của nhóm.



2)

Chúng ta cần phải tiếp tục công cuộc bảo vệ và làm sạch môi trường
bằng những biện pháp tốt hơn, thiết thực hơn nữa! Thứ nhất, phải có các
hình thức xử phạt thật nặng và nghiêm minh đối với các cá nhân, tổ
chức, cơ quan có hành vi phá hoại môi trường, làm ảnh hưởng tới cuộc
sống của người dân. Bên cạnh đó, cũng cần giáo dục ý thức cho người
dân qua các hình thức tuyên truyền, cổ động như tổ chức những buổi
giao lưu bàn về vấn đề môi trường tại các đơn vị hành chính cấp phường,
xã...Đưa những bài viết chi tiết hơn về môi trường trong các sách giáo
khoa ngay từ cấp tiểu học, giúp học sinh có thái độ và cái nhìn đúng đắn
về môi trường và những hậu quả của việc phá hoại môi trường, từ đó
giúp các em biết yêu và bảo vệ môi trường mình đang sống. Một cách
15


khác để giúp bảo vệ môi trường phát động thường xuyên hơn những
phong trào tình nguyện như bảo vệ môi trường khu dân cư, dọn rác ở các
khu vực công cộng, làm sạch bãi biển...
3)

Kết luận.

Qua phân tích tìm hiểu về môi trường trên thế giới nói chung và nước ta
nói riêng thì ta thấy môi trường có một vai trò rất quan trọng đối với phát
triển kinh tế, chính trị, văn hóa, sức khỏe và không những thế nó còn là
mầm sống để chúng ta tồn tại và phát triển là một trong những yếu tố
hàng đầu trong cuộc sống của chúng ta. Một đất nước văn minh giàu đẹp

được bạn bè quốc tế biết đến hay không điều đó phụ thuộc rất lớn vào
môi trường, môi trường trong sạch thì con người mới có sức khỏe và
kinh tế mới có thể thẳng tiến…bởi vậy trách nhiệm bảo vệ môi trường
không chỉ là trách nhiệm của nhà nước mà đó là trách nhiệm của toàn xã
hội, tất cả mọi người phải tham gia bảo vệ môi trường vì đó là ngôi nhà
chung quyết định yếu tố sống còn của toàn nhân loại, bảo vệ môi trường
cũng chính là bảo vệ chính mình.

16


Mục Lục
I.
1.
2.
II.
1.
2.
III.
1.
2.
3.

Cơ sở lí luận
Khái niệm về ô nhiễm môi trường…….…..(trang 2)
Nguồn gốc và nguyên nhân ô nhiễm……...(trang 4)
Thực Trạng
Ba vấn đề phổ biến của Trái Đất……..…..(trang 8)
Vấn đề ô nhiễm ở Việt Nam………………(trang 9)
Phương hướng và giải pháp

Phương hướng và giải pháp……………….(trang10)
Ý kiến của nhóm ………………………….(trang12)
Kết luận……………………………………(trang13)

17



×