Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Phân tích quan điểm sáng tạo về cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.34 KB, 14 trang )

II. Những quan điểm của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân
tộc
Chủ nghĩa Mac – Lê Nin vạch rõ con đường và phương pháp để đấu
tranh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Vấn đề
này đã được các nhà kinh điển của giai cấp vô sản nghiên cứu và chỉ ra từ rất
sớm. Ở thời đại của mình, Mac đã nghiên cứu và chỉ ra sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân là lãnh đạo cuộc đấu tranh xóa bỏ chế độ tư bản chủ
nghĩa, xây dựng chế độ Xã hội chủ nghĩa , đồng thời, trong Tuyên ngôn Đảng
cộng sản 1848, vấn đề giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con
người cũng đã được đề cập sâu sắc : “ sự phát triển tự do của mỗi người là
điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Tuy nhiên, do điều
kiện lịch sử và nơi sống của các ông là các nước Tư bản ở Tây Âu, mâu thuẫn
sâu sắc nhất là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, đồng thời,
vấn đề dân tộc ở các quốc gia này cũng đã được giải quyết gần xong ngay ở
trong các cuộc cách mạng tư sản trước đó, do đó, cả Mac và Ăngghen đều
nhấn mạnh vấn đề giai cấp và cho rằng đó là điều kiện để tiến tới giải phóng
dân tộc.
Tới thời đại của Lê Nin, khi đó chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai
đoạn đế quốc chủ nghĩa và phát triển thành một hệ thống. Lê Nin đã tiếp tục
kế tục và phát triển sự nghiệp của Mác, Ăngghen nhưng trong công cuộc cách
mạng, Lênin vẫn cho rằng, trước hết phải giải phóng giai cấp, rồi mới tới giải
phóng dân tộc và sau cùng là tiến lên giải phóng con người.
Hồ Chí Minh – với gần mười năm tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn
trên thế giới và khảo sát cuộc sống của nhân dân các dân tộc bị áp bức ở
nhiều nước thuộc địa, cùng với sự tìm hiểu và nghiên cứu kĩ về chủ nghĩa Mác
– Lê nin đã vận dụng và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin về


giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người vào điều kiện
thực tiễn của các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam.
Hồ Chí Minh nhận thấy điều kiện kinh tế- xã hội ở các nước thuộc địa


có những sự khác biệt cơ bản với các nước tư sản phương Tây: Nếu mâu
thuẫn cơ bản của các nước tư sản phương Tây là mâu thuẫn giữa giai cấp vô
sản và giai cấp vô sản, thì mâu thuẫn hàng đầu của các nước thuộc địa với đế
quốc là mâu thuẫn dân tộc. Chính vì vậy, Người nhận định “ cuộc đấu tranh
giai cấp không diễn ra giống như các nước phương Tây”. Điều kiện thực tiễn
khác biệt, do đó quy định nên sự khác biệt trong đối tượng đấu tranh, trong
mục tiêu, nhiệm vụ … của cách mạng…
Đối tượng đấu tranh của cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa là chủ nghĩa thực dân và bè lũ tay sai bán nước, bọn phản động.
Do mâu thuẫn dân tộc là mâu thuẫn gay gắt nhất ở các nước thuộc
địa, vì vậy mục tiêu quan trọng nhất của một cuộc cách mạng ở thuộc địa là
giải phóng dân tộc, giành lấy tự do cho mình, sau đó mới dung đó làm nền
tảng để giải phóng giai cấp. Cũng chính vì mâu thuẫn dân tộc là mâu thuẫn
chung của toàn thể người dân thuộc địa, do đó, lực lượng cho cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc ở đây là toàn thể nhân dân…
Nhìn chung, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc ở
các nước thuộc địa có thể được khái quát thành hệ thống gồm những luận
điểm chính sau:

1.

Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi

theo con đường cách mạng vô sản


Không phải ngẫu nhiên mà Hồ Chí Minh xác định cách mạng giải
phóng dân tộc phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Đây là kết quả
của cả quá trình người nghiên cứu thực tiễn và rút kinh nghiệm từ các
phong trào yêu nước cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX của nước ta và các cuộc

cách mạng trên thế giới.
Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, phong trào yêu nước ở nước ta diễn
ra vô cùng sôi nổi và mạnh mẽ, với hai hệ tư tưởng chính :
Đi theo con đường cứu nước với hệ tư tưởng phong kiến là phong
trào Cần Vương ( 1885-1896 ) và phong trào nông dân Yên Thế ( 1883
-1913)
Đi theo con đường cứu nước với hệ tư tưởng dân chủ tư sản có
phong trào Đông Du của Phan Bội Châu, phong trào Duy Tân của Phan
Châu Trinh, và phong trào đấu tranh của Việt Nam Quốc dân đảng với
đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Yên Bái…
Tuy nhiên, các phong trào này đều thất bại và bị đàn áp dã mãn.
Hồ Chí Minh nhận thấy con đường cứu nước của Phan Bội Châu là dựa
vào Nhật thì không khác gì “ đưa hổ cửa trước rước beo cửa sau” vì bản
chất của Nhật cũng là một nước đế quốc. Con đường cứu nước của Phan
Châu Trinh là “ ỷ Pháp tự cường” thì không khác gì “ cầu xin giặc rủ lòng
thương”, phong trào nông dân Yên Thế tuy thực tế hơn nhưng vẫn mang
nặng cốt cách phong kiến.Trong điều kiện lịch sử mới, khi mà chủ nghĩa đế
quốc đã thành một hệ thống thì các hệ tư tưởng đó đã trở nên lỗi thời,
không còn khả năng chỉ ra đường lối và phương pháp đấu tranh đúng đắn
cho toàn dân tộc.Do vậy, dù rất khâm phục tinh thần yêu nước của các bậc
tiền bối nhưng Hồ Chí Minh không tán thành con đường của họ và quyết
tâm ra đi tìm đường cứu nước mới.


Ngày 5/6/1911, Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước. Sau hơn
10 năm bôn ba ở nước ngoài Người nhận ra bản chất của chủ nghĩa đế
quốc, đồng thời thấy được tính không triệt để của các cuộc cách mạng tư
sản : các cuộc cách mạng tư sản sau sau khi lật đổ được sự thống trị của
phong kiến thì vẫn không tiếp tục giải phóng con người, bình đẳng quyền
lợi giai cấp, quyền lực xã hội vẫn chỉ tập trung vào giai cấp tư sản và nhân

dân lao động vẫn phải chịu bóc lột nặng nề.
Cách mạng tháng Mười năm 1917 ở nước Nga thợ thuyền không
chỉ mở ra trang sử mới cho nước Nga mà còn mở ra thời kì mới cho toàn
thể các dân tộc đang đấu tranh vì giải phóng dân tộc trên thế giới.
Năm 1920, sau khi đọc “ Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về các
vấn đề dân tộc và thuộc địa “ của Lê Nin, Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường
mới cho cách mạng dân tộc, đó là đi theo con đường cách mạng vô
sản.Người tin tưởng khi cách mạng giải phóng dân tộc đi theo con đường
cách mnagj vô sản, nhất định sẽ giành thắng lợi và sau khi xây dựng chế
độ mới, sẽ xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho toàn thể nhân dân
lao động.
Cách mạng vô sản, sẽ được chủ nghĩa Mac – Lê nin soi đường và
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam – là đội quân tiên
phong của giai cấp công nhân. Để thực hiện được sứ mệnh của mình,
Đảng Cộng sản phải thực hiện những nhiệm vụ nhất định, phần này nhóm
em xin được trình bày kĩ hơn trong phần sau khi bàn về vai trò của Đảng
Cộng sản trong phong trào cách mạng giải phóng dân tộc.
2.

Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do

Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo
Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Ái Quốc xác định Đảng là nhân tố
quan trọng hàng đầu trong cách mạng giải phóng dân tộc. Trong “ Đường


cách mệnh” Người đã khẳng định : “ Trước hết phải có đảng cách mệnh…
Đảng có vững cách mệnh mới thành công...” . Có thể nói luận điểm này là sự
vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê Nin và sự đúc rút từ thực tiễn
lịch sử nước ta. Chủ nghĩa Mác- Lê Nin khẳng định giai cấp công nhân thông

qua đội quân tiên phong là Đảng cộng sản, thực hiện sứ mệnh lịch sử của
mình là lãnh đạo quần chúng tiến hành cách mạng vô sản, xóa bỏ tư bản tiến
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nguyễn Ái Quốc tiếp thu quan điểm đó, đồng
thời đúc rút từ thực tiễn cách mạng Việt Nam. Người nhận thấy một trong
những nguyên nhân khiến phong trào yêu nước cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX
thất bại là do không có một tổ chức lãnh đạo với tư tưởng tiên tiến soi
đường. Bên cạnh đó, Việt Nam là một nước nông nghiệp, có tới hơn 90% dân
số là nông dân, họ cũng có lòng yêu nước và tinh thần đấu tranh mạnh mẽ,
nhưng tại sao giai cấp nông dân không thể trở thành lực lượng lãnh đạo
cách mạng ? Nguyên nhân chính cũng là do họ không có tổ chức lãnh đạo và
không có hệ tư tưởng riêng của mình. Từ những điều đó, Nguyễn Ái Quốc đã
khẳng định con thuyền cách mạng Việt Nam phải do Đảng cộng sản- đội quân
tiên phong của giai cấp công nhân, được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác – Lê
Nin chèo lái. Để phát huy vai trò của mình trong cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc, Đảng cộng sản phải thực hiện được những nhiệm vụ nhất định. Đó là
:

Đảng Cộng sản Việt Nam phải vận dụng sáng tạo để chuyển hóa

đường lối và phương pháo đấu tranh của cách mạng vô sản vào thực tiễn
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta.Đồng thời phải tập hợp, quy tụ
được lực lượng và gắn kết chặt chẽ cách mạng Việt Nam với cách mạng thế
giới.Như chúng ta đã biết, mâu thuẫn nổi bật nhất ở các nước thuộc địa,
trong đó có Việt Nam chính là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc bị áo bức,
bóc lột với chủ nghĩa đế quốc, do vậy, cuộc cách mạng ở thuộc địa là cách
mạng giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh xác định cách mạng nước ta đi theo
con đường cách mạng vô sản, nhưng do tính chất đặc trưng của các nước


thuộc địa sai khác với tình hình của các nước tư bản phương Tây, do vậy khi

vận dụng lí luận Mác- Lê Nin vào thực tiễn cần chủ độc và chọn lọc những
điểm phù hợp, tuyệt đối không rập khuôn, máy móc. Hơn nữa, Đảng cần tập
hợp lực lượng để phát huy sức mạnh tổng thể của toàn dân tộc, phát huy sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, huy động được mọi nhân lực, tài lực,
vật lực cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Bên cạnh đó, Đảng còn phải
chú trọng đến vấn đề đoàn kết quốc tế. Bởi vì chủ nghĩa đế quốc đã hình
thành nên một trận tuyến, chúng liên kết với nhau để đàn áp, bóc lột các
nước thuộc địa. Cuộc đấu tranh ở các nước thuộc địa không chỉ đơn thuần là
đấu tranh giải phóng dân tộc mà còn đứng trong trận tuyến chung của cuộc
đấu tranh lật đổ chủ nghĩa đế quốc đang bành trướng. Cách mạng giải phóng
dân tộc ở thuộc địa có mối liên hệ chặt chẽ với cách mạng vô sản ở chính
quốc và cách mạng ở thuộc địa khác, do vậy chúng cần phải được gắn kết
chặt chẽ với nhau.
Thứ hai, Đảng phải tích cực tuyên truyền, giác ngộ quần chúng, đưa
họ ra đấu tranh giành độc lập, đồng thời phát huy vai trò của Mặt trận Dân
tộc thống nhất. Đảng giác ngộ, tuyên truyền cho quần chúng là việc làm hết
sức cần thiết, một mặt là để nhân dân xác định được kẻ thù và ý thức được
vai trò, nhiệm vụ của mình, mặt khác, là để có thể tránh việc bị kẻ thù lợi
dụng và để tập hợp, tiến tới xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, đấu tranh
vì mục tiêu chung của cả dân tộc.
Thứ ba, Đảng Cộng sản Việt Nam phải lãnh đạo thực hiện hai giai
đoạn của cách mạng Việt Nam, trước là làm “ tư sản dân quyền cách mạng”,
sau là làm “ thổ địa cách mạng” để tiến lên chủ nghĩa cộng sản.
Khẳng định Đảng là nhân tố quan trọng trong cách mạng giải phóng
dân tộc, chính vì vậy ngay sau khi tìm được đường đi cho cách mạng Việt
Nam, Hồ Chí Minh đã tích cực chuẩn bị về mọi mặt, từ tổ chức, cho đến con
người, chính trị… cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng ra đời
năm 1930 đã đánh dấu bước ngoặt lớn trong phong trào cách mạng nước ta.



Trước khi Đảng ra đời, phong trào đấu tranh của nước ta bị bế tắc về tổ chức
lãnh đạo, các cuộc đấu tranh tuy diễn ra mạnh mẽ nhưng chủ yếu là tự phát.
Đảng ra đời đã đánh dấu sự chuyển mình hoàn toàn sang đấu tranh tự giác
của phong trào cách mạng Việt Nam, đồng thời đánh dấu kết thúc thời kì
khủng hoảng về tổ chức cách mạng. Từ khi Đảng ra đời, đã lãnh đạo toàn thể
nhân dân đấu tranh, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cách mạng
tháng Tám thành công là mình chứng lịch sự rõ nét nhất, khẳng định con
thuyền cách mạng Việt Nam dưới sự chèo lái của Đảng cộng sản cập bến vinh
quang.
3.

Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết

của toàn dân, trên cơ sở liên minh công nông
Một trong những quan điểm của Hồ Chí Minh về cách mạng giải
phóng dân tộc, đó là lực lượng của công cuộc này chính là toàn dân, trên cơ
sở liên minh công nông. Chủ nghĩa Mác- Lê nin trong lí luận của mình, đã chỉ
rõ : quần chúng nhân dân là người sáng tạo lịch sử, cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng. Cuộc khởi nghĩa phải được chuẩn bị trong quần chúng. Về
thực tiễn : Dưới ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, nhân dân ta vốn đã
khổ cực nay càng rơi vào cảnh khốn cùng. Giai cấp công nhân và giai cấp
nông dân là hai giai cấp bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất. Giai cấp tư sản dân
tộc, một bộ phận địa chủ và tầng lớp tiểu tư sản cũng phải chịu chung kiếp nô
lệ. Chính vì vậy, trong lòng họ cũng có tinh thần yêu nước, cũng có khát khao
được giải phóng dân tộc. Nhận thấy được điểm tương đồng giữa các giai cấp,
tầng lớp trong xã hội Việt Nam, ngay từ đầu, Hồ Chí Minh đã khẳng định cách
mạng giải phóng dân tộc “ là việc chung của quần chúng nhân dân chứ không
phải việc của một hai người”. Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của nhân
dân trong khởi nghĩa vũ trang, người coi sức mạnh và năng lực sáng tạo vô
tận của quần chúng là then chốt đảm bảo thắng lợi : “ Dân khí mạng thì quân

lính nào, súng ống nào cũng không thể chống lại”. Kết hợp chủ nghĩa Mác – Lê


nin với truyền thống yêu ước của dân tộc, Hồ Chí Minh đã đúc rút nên quan
điểm về lực lượng cách mạng. “ Dễ trăm lần dân không cũng chịu- Khó vạn
lần dân liệu cũng xong”
Nhưng đoàn kết lực lượng không phải chỉ là tập hợp mọi người lại,
mà lực lượng ấy phải có cốt lõi. Nòng cốt của lực lượng trong cách mạng giải
phóng dân tộc là liên minh công nông.Vì sao vậy ? Chủ nghĩa Mác- Lê nin đã
khẳng định : “ Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh”. Công nhân và nông dân là
hai giai cấp bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất, chính vì vậy đây là hai giai cấp có
tinh thần đấu tranh mạnh mẽ nhất, triệt để nhất. Giai cấp công nhân Việt
Nam là lực lượng tiên phong, có đầy đủ những yếu tố để trở thành nòng cốt
và lực lượng tiên phong cách mạng : ngoài những đặc điểm chung của giai
cấp công nhân quốc tế ( sống tập trung, đại diện cho phương thức sản xuất
tiên tiến, có tinh thần cách mạng triệt để nhất…) thì còn có năm đặc điểm
riêng biệt ( chịu ba tầng áp bức, bóc lột ; ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc;
không có thành phần công nhân quý tộc; có xuất thân từ nông dân, được giác
ngộ lí luận cách mạng từ rất sớm). Còn với nông dân, họ là những người có
mối liên hệ mật thiết với giai cấp công nhân, và cũng bị bóc lột nặng nề như
vậy, đó chính là cơ sở để hai giai cấp này đoàn kết chặt chẽ với nhau.
Đảng cộng sản Việt Nam phải chỉ đọa và thành lập được một Mặt trận
dân tộc thống nhất và tuyên truyền giác ngộ cách mạng để đoàn kết mọi giai
cấp, tầng lớp trong xã hội cùng đấu tranh chống lại kẻ thù chung là chủ
nghĩa đế quốc và bọn tay sai bán nước. Điều này đã được Hồ Chí Minh quán
triệt rõ ràng trong “ Sách lược vắn tắt” tại hội nghị thành lập Đảng năm
1930. Theo đó, người xác định đảng phải lôi kéo, liên lạc với tiểu tư sản, trí
thức, trung nông, còn với bộ phận tư bản dân tộc, phú nông, trung tiểu địa
chủ, nếu chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng hoặc ít nhất là trung
lập họ.



Trong khi đoàn kết giai cấp, tập hợp lực lượng cần phải cân bằng và
điều hòa mối quan hệ giữa lợi ích chung của dân tộc và lợi ích riêng của mỗi
thành phần tham gia. Tuy nhiên Hồ Chí Minh cũng quan triệt quan điểm : “
Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng
một lợi ích gì của công nông mà đi vào thỏa hiệp”.
Thực tiễn đã chứng minh, quan điểm của Hồ Chí Minh luôn được vận
dụng trong cách mạng của Việt Nam : tương ứng với mỗi thời kì, mỗi giai
đoạn cách mạng của dân tộc, Đảng luôn lãnh đạo và tổ chức ra mặt trận với
những tên gọi phù hợp với nhiệm vụ cách mạng trong thời kì đó. Trong “ Lời
kêu gọi toàn quốc kháng chiến” Hồ Chí Minh cũng viết “ …Bất kì đàn ông, đàn
bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia đảng phái, tôn giáo, dân tộc. Hễ là
người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu nước”. Trong “
Chỉ thị thành lập Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân”, Người cũng viết “
Cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến toàn dân, cần phải động viên, vũ
trang toàn dân”. Chính việc nhất quán trong thực hiện tư tưởng về đoàn kết
giai cấp, cách mạng nước ta đã có được sức mạnh tổng thể của toàn dân, đó
trở thành động lực quan trọng đưa cách mạng Việt Nam tới thắng lợi cuối
cùng.
4.Cách mạng giải phóng dân tộc cần tiến hành chủ động, sáng
tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng chính quốc
Đây là quan điểm mới mẻ và sáng tạo của Hồ Chí Minh. Là sự cống
hiến quan trọng bổ sung vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin và
cách mạng vô sản thế giới.
Trong phong trào cộng sản quốc tế, quan điểm cũ của Quốc tế cộng
sản luôn là “Chỉ có thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các thuộc địa
khi giai cấp vô sản đã giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến”.
Trong việc giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, Quốc tế cộng sản



đã nhấn mạnh vai trò của việc giải phóng giai cấp và cho rằng đó là nền tảng
cho việc nhân dân thuộc địa nắm lấy cơ hội để giải phóng chính mình. Chỉ có
giai cấp vô sản mới thống nhất được lợi ích của giai cấp mình với lợi ích của
nhân dân lao động và của cả dân tộc. Chỉ có triệt để xóa bỏ tình trạng người
bóc lột người và áp bức giai cấp thì mới có điều kiện xóa bỏ áp bức dân tộc,
đem lại độc lập thật sự cho dân tộc mình và cho các dân tộc khác. Quan điểm
này chưa xuất phát từ tình hình thực tiễn ở các nước thuộc địa và vô hình
trung, nó đã làm giảm đi tính chủ động của phong trào cách mạng giải phóng
dân tộc ở các nước thuộc địa.
Hồ Chí Minh, sau hơn ba mươi năm làm nghiên cứu và làm việc ở
nước ngoài, đã nhận ra bản chất thực sự của chủ nghĩa đế quốc, đồng thời,
vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, đưa ra quan điểm mới về vấn đề
này. Người nhận thấy chủ nghĩa đế quốc như con đỉa hai vòi, một vòi bám và
hút máu của công nhân lao động ở các nước chính quốc, một vòi hút máu
thuộc địa, muốn giết chết được con đỉa đó thì phải đồng thời chặt đứt cả hai
vòi, vì nếu chỉ cắt một cái thì cái vòi còn lại tiếp tục hút máu và cái vòi bị chặt
đứt sẽ tiếp tục mọc ra. Chính vì vậy, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân ở
chính quốc và cuộc đấu tranh của nhân dân ở các nước thuộc địa có mối liên
hệ chặt chẽ, cần được phối hợp tiến hành với nhau một cách nhịp nhàng và
có sự hỗ trợ lẫn nhau.
Hồ Chí Minh nghiên cứu và nhận thấy, vấn đề hàng đầu của các nước
thuộc địa chưa phải là một cuộc cách mạng vô sản mà là cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc để giành lấy độc lập, tự do, có độc lập dân tộc rồi mới có điều
kiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người đã vượt qua cái nhìn cũ của Quốc
tế cộng sản, đưa ra những quan điểm mới về vị trí của cách mạng ở các nước
thuộc địa, người đã đặt vị trí của cách mạng thuộc địa ngang hàng với cách
mạng vô sản ở chính quốc. Điều này thể hiện rõ trong phát biểu tại Đại hội V



Quốc tế Cộng sản ( tháng 6 năm 1924) : “ …Nọc độc và sức sống của con rắn
độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa”, và nếu không đánh giá
đúng vai trò của cách mạng thuộc địa, xem nhẹ, khinh thường cách mạng
thuộc địa là “ muốn đánh chết rắn đằng đuôi”. Có thể thấy, thuộc địa vừa là
nơi cung cấp tài lực cho đế quốc, vừa là nơi tiêu thụ hàng hóa chính quốc, bởi
vậy nó như là động mạch lớn, cung cấp máu cho hoạt động của đế quốc, đó là
nơi đế quốc khai thác làm giàu, đồng thời cũng là yếu huyệt trí mạng của
chính quốc.
Năm 1919, Hồ Chí Minh dưới tên Nguyễn Ái Quốc gửi “ Bản yêu sách
tám điểm” của nhân dân An Nam đến Hội nghị Véc xai. Bản yêu sách không
được các nước đế quốc đếm xỉa đến, từ đó Người đã nhìn thấy rõ hơn bộ mặt
thật của chủ nghĩa đế quốc và rút ra kết luận : muốn giải phóng dân tộc, thì
chỉ có thể trông cậy vào lực lượng của chính mình. Cách mạng thuộc địa phải
huy động được lực lượng của toàn dân tộc, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản, cuộc cách mạng là để đánh đổ đế quốc, giành độc lập cho dân tộc,
sau đó là giải quyết vấn đề lợi ích giai cấp. Nhận thức được tầm quan trọng
của thuộc địa, đánh giá đúng sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, ngay từ rất
sớm, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định “ cách mạng thuộc địa không những
không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà còn có thể giành
thắng lợi trước”. Sau khi dựa vào sức mình và tranh thủ sự ủng hộ của quốc
tế, tiến hành thành công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, các nước thuộc
địa sẽ tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và từ đó sẽ có những đóng góp thiết
thực cho phong trào vô sản quốc tế. Khi cách mạng ở thuộc địa thành công
cũng là lúc chủ nghĩa đế quốc bị thương nặng và suy yếu, lúc đó cuộc đấu
tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc sẽ thuận lợi hơn.
Thực tiễn cách mạng của nhiều nước thuộc địa, đặc biệt là Việt Nam
đã chứng minh quan điểm mới của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân


tộc là hoàn toàn đúng đắn. Năm 1945, giai cấp vô sản ở Pháp chưa đấu tranh

xóa bỏ sự áp bức bóc lột giai cấp thành công, nhưng Việt Nam – một nước
thuộc địa đã tiến hành cuộc tổng khởi nghĩa, giành chính quyền, giải phóng
toàn bộ đồng bào đang chịu cảnh nô lệ lầm than. Sau đó, chúng ta tiếp tục
giúp đỡ Lào và Campuchia giành độc lập. Cách mạng tháng Tám thành công
đã góp phần vào việc làm sụp đổ khâu yếu nhất của chủ nghĩa tư bản, đồng
thời có ý nghĩa quan trọng trong việc cổ vũ vào phong trào cách mạng trên
thế giới, đặc biệt là cách mạng ở các nước thuộc địa.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh tính đúng đắn trong quan điểm sáng
tạo của Hồ Chí Minh, quan điểm này là sự đóng góp quan trọng của Người
vào kho tàng lý luận của Chủ nghĩa Mác –Lê Nin về phong trào cách mạng thế
giới.
5.Cách mạng giải phóng dân tộc phải thực hiện bằng con đường
bạo lực
Trong hầu hết mọi cuộc cách mạng, bạo lực là vấn đề tất yếu. Chủ
nghĩa Mác – Lê Nin quan điểm rằng : “ Bạo lực là bà đỡ của cách mạng”.
Thực tiễn đã cho thấy, chủ nghĩa đế quốc dùng bạo lực để bành trướng và
xâm lược, thống trị các nước thuộc địa. Năm 1858, Pháp nổ sung tấn công
vào bán đảo Sơn Trà ( Đà Nẵng), sau đó dần dần sử dụng quân đội và sung
ống để xâm lược đất nước ta, đồng thời dung bạo lực để đàn áp các phong
trào đấu tranh của dân tộc một cách đẫm máu. Hành động xâm lược thuộc
địa của đế quốc đã là hành động của kẻ mạnh với kẻ yếu. Muốn được giải
phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào bản thân mình, dùng bạo lực cách
mạng để chống lại bạo lực cách mạng, giành và giữ được chính quyền. Sử
dụng phương pháp cách mạng bạo lực, phải kết hợp những hình thức đấu
tranh chính trị của quần chúng với đấu tranh vũ trang nhân dân, Tùy thuộc
vào từng thời điểm với những thay đổi khác nhau của tình hình cách mạng,


cần linh động vận dụng những phương thức và biện pháp đấu tranh phù hợp.
Tư tưởng bạo lực cách mạng của Hồ Chí Minh gắn bó với tư tưởng nhân đạo

và hòa bình, Người luôn tranh thủ giải quyết mọi việc bằng biện pháp hòa
bình, khi không còn lựa chọn nào khác thì mới dùng phương án bạo lực. Như
trong “ Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, Người viết “ Chúng ta muốn hòa
bình, chũng ta phải nhân nhượng…” nhưng nếu bọn thực dân không chịu từ
bỏ, vẫn tiếp tục bóc lột nhân dân ta, thì sẽ dùng phương pháp bạo lực để dập
tắt ý chí của chúng. Phương pháp bạo lực cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí
Minh đòi hỏi phải huy động lực lượng toàn dân, tiến hành cuộc chiến tranh
nhân dân trên cả ba mặt : chính trị, quân sự, binh vận …Và cuộc tổng khởi
nghĩa phải được chuẩn bị kĩ càng, phải có tính chất của một cuộc khởi nghĩa
quần chúng, phải có sự tương thích với cuộc cách mạng vô sản ở Pháp và
phải gắn bó mật thiết với phong trào cách mạng thế giới.
Thực tế lịch sử nước ta, trong suốt chiều dài lịch sử của con đường
đấu tranh giành độc lập, đấu tranh cho thống nhất nước nhà đã chứng minh,
việc dùng bạo lực cách mạng là tất yếu và đúng đắn :
Trong cách mạng tháng 8/ 1945 : bạo lực cách mạng là sự kết hợp
chặt chẽ giữa lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, giữa sự nổi dậy của
quần chúng với lực lượng vũ trang nhân dân. Con đường bạo lực cách mạng
đã được Đảng xác định rõ tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng
tháng 5/ 1941họp tại Pác Bó, Cao Bằng. Hội nghị đã xác định hình thái của
cuộc khởi nghĩa là đi từ khởi nghĩa từng phần để tiến tới tổng khởi nghĩa
trên phạm vi cả nước. Để chuẩn bị cho điều đó, Đảng đã chỉ đạo thành lập
mặt trận Việt Minh ( 19/5/1941) để tập hợp lực lượng, đào tạo cán bộ, xây
dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, chuẩn bị mọi mặt chỉ cờ thời
cơ đến … Cuộc tổng khởi nghĩa nổ ra và giành tháng lợi chỉ trong mười ngày.


Trong chín năm kháng chiến chống pháp, quân và dân ta tiếp tục đấu
tranh bằh phương pháp bạo lực cách mạng. Các chiến dịch Việt Bắc thu –
đông 1947, Chiến dịch Biên giới năm 1950..và đỉnh cao là chiến dịch Điện
Biên Phủ đã buộc Pháp phải kí hiệp định Giơ – ne- vơ, trao trả độc lập cho ba

nước Đông Dương.
Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ, Đảng cũng lãnh đạo cuộc
đấu tranh đi theo con đường bạo lực cách mạng và giành thắng lợi cuối cùng.
Như vậy, có thể thấy, sử dụng bạo lực cách mạng là tất yếu trong cách
mạng giải phóng dân tộc. Muốn chiến thắng đế quốc và bè lũ tay sai dùng bạo
lực để nô dịch người khác, thì chỉ có con đường cách mạng với phương pháp
bạo lực mà thôi.



×