Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Hãy phân tích những điểm sáng tạo trong quan điểm của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc và chứng minh.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.37 KB, 24 trang )

Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh Khoa KHQL

Đề tài: Hãy phân tích những điểm sáng tạo trong quan điểm của Hồ
Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc và chứng minh.

BÀI LÀM

1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con
đường cách mạng vô sản

Thất bại của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở Việt
Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX chứng tỏ rằng, những con đường giải
phóng dân tộc dưới ngọc cờ tư tưởng phong kiến hoặc tư tưởng tư sản là
không đáp ứng được yêu cầu khách quan là giành độc lập, tự do của dân
tộc do lịch sử đặt ra. Hồ Chí Minh rất khâm phục tinh thần cứu nứơc của
ông cha, nhưng Người không tán thành các con đường cứu nứơc ấy, mà
quyết tâm ra đi tìm một con đường cưú nước mới.

Tháng 7-1920, khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn
đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin, Người thấy "tin tưởng, sáng
tỏ và cảm động". Người khẳng định: " Đây là cái cần thiết cho chúng ta,
đây là con đường giải phóng chúng ta". Người đã tìm thấy trong lý luận của
V.I Lênin một con đường cứu nước mới: con đường cách mạng vô sản.

Đầu năm 1923, trong Truyền đơn cổ động mua báo Người cùng khổ
(Le Paria), Người viết: " Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại,
đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do,
bình đẳng, bắc ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và
vì mọi người, niềm vui, hồ bình, hạnh phúc...".

Xố bỏ ách áp bức dân tộc mà khơng xố bỉ tình trạng bóc lột và áp


bức giai cấp thì nhân dân lao động vẫn chưa được giải phóng. Chỉ có xố
bỏ tận gốc tình trạng áp bức, bóc lột, chỉ có thiết lập một nhà nứơc thực sự
của dân, do dân, vì dân mới đảm bảo cho người lao động có quyền làm chủ,
mới thực hiện được sự phát triển hài hoà giữa cá nhân và xã hội, giữa độc
lập dân tộc với tự do và hạnh phúc của con người Hồ Chí Minh đưa ra quan
điểm: Độc lập cho dân tộc mình, đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc.

Lamphay Phanpadit - QLKT 47B 1

Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh Khoa KHQL

Theo Hồ Chí Minh, độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm
của các dân tộc. Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho dân tộc của dân tộc
mình mà cịn đấu tranh cho độc lập dân tộc của tất cả các dân tộc bị áp bức
trên toàn thế giới. Người đã tìm thấy trong lý luận của V.I. Lê nin một con
đường cứu nước mới: con đường cách mạng vô sản.

Như vậy là, vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các
nhà cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, Hồ Chí Minh đã đến với
học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và lựa chọn con đường
cách mạng vơ sản. Từ đó, Người quyết tâm đưa dân tộc Việt Nam đi theo
con đường đó.

Người chỉ ra rằng, sở dĩ các phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế
kỷ 19 đầu thế kỷ 20 thất bại là do chưa có đường lối và phương pháp đấu
tranh đúng đắn. Khi Chủ nghĩa đế quốc đã thành một hệ thống TG, một
mặt, chúng đấu tranh với nhau để giành giật thuộc địa, mặt khác, chúng
thống nhất với nhau để đàn áp phòng trào đấu tranh của các dân tộc thuộc
địa. Vì vậy trong cuộc đấu tranh chống Chủ nghĩa đế quốc, giai cấp vơ sản
chính quốc và nhân dân các dân tộc thuộc địa có chung 1 kẻ thù. Chủ nghĩa

đế quốc như con đỉa 2 vòi, 1 vòi bám vào chính quốc, 1 vịi bám vào thuộc
địa. Muốn đánh thắng Chủ nghĩa đế quốc, phải đồng thời cắt cả hai vịi của
nó đi. Vì vậy, CMVS ở chính quốc phải kết hợp với Cách mạng giải phóng
dân tộc ở thuộc địa. "Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi
theo con đường CMVS, tức là phải theo đường lối Mác - Lênin".

Con đường cách mạng vô sản, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, bao
hàm những nội dung chủ yếu sau:

- Tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc và dần dần từng bước "đi
tời xã hội cộng sản".

- Lực lượng lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân mà đội tiền
phong của nó là Đảng Cộng Sản.

Lamphay Phanpadit - QLKT 47B 2

Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh Khoa KHQL

- Lực lượng cách mạng là khối đồn kết dân tộc, nịng cốt là liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và lao động trí óc.

- Sự nghiệp cách mạng của Việt Nam là một bộ phận khăng khít của
cách mạng thế giới., cho nên phải đồn kết quốc tế.

2. Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng
Cộng sản lãnh đạo.

Nguyễn Ái Quốc khẳng định, muốn giải phóng dân tộc thằng cơng
"trước hết phải có đảng cách mệnh.... đảng có cững cách mệnh mới thành

cơng... đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm nòng cốt...Bây giờ chủ
nghĩa nhiều, học thuyết nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn
nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin".

Cách mạng giải phóng dân tộc phải có đảng của giai cấp công nhân
lãnh đạo theo nguyên tắc đảng kiểu mới của Lênin. Chỉ có cuộc cách mạng
do chính đảng giai cấp vô sản lãnh đạo mới thực hiện được sự thống nhất
giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người (Bác
phê phán các lãnh tụ yêu nước tiền bối chưa nhận thứ được tầm quan trọng
của chính đảng cachs mạng và 1 đường lối chính trị đúng đắn".

Các tổ chức cách mạng kiểu cũ khơng thể đưa cách mạng giải phóng
dân tộc đi đến thành cơng, vì nó thiếu một đường lối chính trị đúng đắn và
một phương pháp cách mạng khoa học, khơng có cơ sở rộng rãi trong quần
chúng.

Hồ Chí Minh khẳng định: Muốn giải phóng dân tộc thành cơng trước
hết phải có đảng cách mệnh. Người phân tích: "Cách mệnh trước phải làm
cho dân giác ngộ, phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu, phải
hiểu phong triều thế giới, phải bày sách lược cho dân...Vậy nêm sức cách
mệnh phải tập trung, muốn tập trung phải có đảng cách mệnh".

Lamphay Phanpadit - QLKT 47B 3

Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh Khoa KHQL

Đầu năm 1930, Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, một chính
đảng của giai cấp cơng nhân Việt nam, có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm
minh và liên hệ mật thiết với quần chúng.


2. Lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm tồn dân tộc
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc :là việc chung cả
dân chúng chứ không phải việc một hai người". Người phân tích: "dân tộc
cách mệnh chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ, công, nông, thương đều nhất trí
chống lại cường quyền". Trong lực lượng đó, công nông "là gốc cách
mệnh", "là người chủ của cách mệnh"; "cịn học trị, nhà bn nhỏ, điền
chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; 3
hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của cơng nơng thơi". Hồ Chí Minh đánh
giá rất cao vai trò của nhân dân trong khởi nghĩa vũ trang.
Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Người xác định lực
lượng cách mạng bao gồm toàn dân tộc: Đảng phải tập hợp đại bộ phận giai
cấp công nhân, tập hợp đại bộ phận nông dân và phải dựa vào hạng dân cày
nghèo, lãnh đạo nông dân làm cách mạng ruộng đất; lôi kéo tiểu tư sản, trí
thức, trung nơng... đi vào phe vơ sản giai cấp; đối với phú nông, trung tiểu
địa chủ và tư bản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi
dụng, chí ít là làm chi họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mạt phản cách
mạng (như Đảng Lập hiến) thì phải đánh đổ.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc
Mỹ, Hồ Chí Minh lấy nhân dân làm nguồn sức mạnh. Quan điểm "lấy dân
làm gốc" xuyên suốt quá trình chỉ đạo chiến tranh của Người. Người đặt
niềm tin ở truỳên thống yêu nước nồng nàn của nhân dân Việt Nam.
Khi phát động cuộc kháng chiếm toàn quốc chống thực dân Pháp
(tháng 12-1946), Người kêu gọi toàn dân đánh giặc và đánh giặc bằng mọi
vũ khí có trong tay.

Lamphay Phanpadit - QLKT 47B 4

Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh Khoa KHQL

Trong thắng lợi của Cách mạng Tháng tám (1945) - công lao trước hết

thuộc về Hồ Chí Minh. Đường lối giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc
của Hồ Chí Minh và Đảng ta đã chi phối chủ trương xây dựng lực lượng,
phương thức đấu tranh, phương thức khởi nghĩa giành chính quyền trong
Cách mạng Tháng tám. Ở lĩnh lưc này, Hồ Chí Minh cũng có những cống
hiến nổi bật.

Về xây dựng lực lượng cách mạng: Hồ Chí Minh coi trọng vai trị của
giai cấp cơng nhân, nơng dân và liên minh cơng nơng nhưng Người khơng
xem nhẹ vai trị cách mạng các các giai cấp, tầng lớp khác. Người từng nói,
cơng nơng là gốc cách mạng. Học trị, nhà bn nhỏ, điền chủ nhỏ đề là
bầu bàn cách mạng của công nông. Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư
sản, trí thức, trung nơng và phú nơng, trung tiểu tư sản, tư sản chưa rõ mặt
phản cách mạng, chí ít làm cho họ trung lập...Người lại nói: "Việc cứu
nứoc là việc chung, ai là người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác một
phần trách nhiệm: người có tiền góp tiền, người có của góp của, người có
sức góp sức, có tàu năng góp tài năng". Đồn kết tồn dân là một tư tưởng
lớn của Hồ Chí Minh. Gương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, nhất thiết phải
mở rộng đoàn kết dân tộc, nhất thiết phải thành lập Mặt trận dân tộc thống
nhất. Và chính là theo tư tưởng, theo sáng kiến của Người, Việt Nam độc
lập đồng minh, gọi tắt là Mặt trận Việt Minh đã được thành lập. Do đáp
ững đúng yêu cầu lịch sử, phù hợp với nguyện vọng của toàn dân, trong
một thời gian ngắn, Việt Minh đã phát triển thành một tổ chức rộng lớn,
mạnh mẽ. Và bản thân Hồ Chí Minh, " thực sự tượng trưng cho đại đoàn
kết dân tộc". Đồng chí Võ Nguyên Giáp đã nhận xét rằng: "Cái vĩ đạo của
Chủ tịch Hồ Chí Minh là đã tìm ra những hình thức tốt nhất để tổ chức
nhân dân".

Điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh và Đảng ta trong chuẩn bị khởi nghĩa
là chú trọng xây dựng cả hai lực lượng: lực lượng chính trị và lực lượng vũ
trang. Trên cơ sở xây dựng và phát triển lực lượng chính trị, xây dựng và


Lamphay Phanpadit - QLKT 47B 5

Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh Khoa KHQL

phát triển lực lượng vũ trang; cơ sở chính trị mở rộng đến đâu, xây dựng và
phát triển lực lượng vũ trang đến đó. Ngay khi vừ về Pác Bó, cùng với việc
trực tiếp chỉ đạo xây dựng phong trào Việt Minh ở Cao Bằng, Hồ Chí Minh
đã lựa chọn một số hội viên cứu quốc gửi ra nứơc ngoài đào tạo về quân sự.
Cũng thời gian này, Người biên soạn và biên dịch một loạt tài liệu để huấn
luyện quân sự như: Cách đánh du kích, Kinh nghiệm du kích Tàu, kinh
nghiệm su kích Pháp, Kinh nghiệm di kích Nga, Kinh nghiệm dùng binh
của Tôn Tử, Mười điều kỷ luật, Cách huấn luyện cán bộ quân dự..v..v.. Và
đặc biệt, Người đã chỉ thị thành lập đỗi vũ trang chính quy mang tên Đội
Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Bản chỉ thị nêu rõ lý do phải tập
trung lực lượng để lập một đội quan đầu tiên, phải vũ trang toán dân; nêu rõ
phương châm tác chiếm, phối hợp tác chiến, chiến thuật, mối quan hệ giữa
đội chủ lực với lực với vũ trang địa phương..v..v. Chỉ với những tài liệu và
chỉ thị, với cách thức tổ chức, huấn luyện vàg sự quan tâm thiết thực của
Hồ Chí Minh đối với cán bộ, chiến sĩ, trong thời gian này cũng đủ nói lên
răng, Hồ Chí Minh là người đầu tiên nêu rõ những quan điểm quân sự hiện
đại Việt Nam. Hồ Chí Minh là người sáng lập lực lượng vũ trang cách
mạng, là người cha thân yêu của quân đội nhân dân Việt Nam. Kêu gọi
toàn dân kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh khẳng đinh: Chống
Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam yêu
nước. "Cuộc kháng chiến của ta là toàn dân, thực sự là cuộc chiến tranh
nhân dân" 31 triệu đồng bào ta ở cả hai miền, bất lỳ già trẻ, gái trai, phải là
31 triệu chiến sĩ anh dũng diệt Mỹ, cứu nước, quyết giành thắng lợi cuối
cùng".


Xuất phát từ tương quan lực lượng, HCM chủ trương phát động chiến
tranh nhân dân.

Kháng chiến toàn dân gắn với kháng chiến toàn diện. Lực lượng toàn
dân là điều kiện để đấu tranh tồn diện với kẻ thù đế quốc, giải phóng dân

Lamphay Phanpadit - QLKT 47B 6

Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh Khoa KHQL

tộc. Hồ Chí Minh nói: "Khơng dùng tồn lực của nhân dân về đủ mọi mặt
để ứng phó, khơng thể nào thắng lợi được"

Trong chiến tranh, "quân sự là việc chủ chốt", nhưng đồng thời phải
kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị. Theo Người, thắng lợi quân sự
đem lại thắng lợi chính trị, thắng lợi chính trị sẽ làm cho thắng lợi quân sự
to lớn hơn.

Đấu tranh ngoại giao cũng là một mặt trận có ý nghĩa chiến lược, có
tác dụng thêm bạn bớt thù, phân hố và cơ lập kẻ thù, phát huy yếu tố chính
nghĩa của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, tranh thủ
sự đồng tình ủng hộ quốc tế.

Đấu tranh kinh té là ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, phát
triển kinh tế của ta, phá hoại kinh tế của địch "Chiến tranh về mặt văn hoá
hay tư tưởng so với những mặt khác cũng không kém quan trọng".

Mục đích cách mạng và chiến tranh chính nghĩa - vì độc lập tự do, làm
cho khả năng tiến hàng chiến tranh nhân dân trở thành hiện thực, làm cho
toàn dân tự giác tham gia kháng chiến. Tư tưởng chiến tranh nhân dân của

Hồ Chí Minh là ngọn cờ cổ vũ, dẫn dắt cả dân tộc ta đứng lên kháng chiến
và kháng chiến thắng lợi, đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ trong 30
năm chiến tranh cách mạng Việt Nam, làm nên thắng lợi vĩ đại có tình thời
đại sâu sắc.

4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần đựơc tiến hàng chủ động,
sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vơ sản ở
chính quốc.

Theo Hồ Chí Minh, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và
cách mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác
động qua lại lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là Chủ
nghĩa đế quốc. Đó là mối quan hệ bình đẳng chứ khơng phải là quan hệ lệ
thuộc, hoặc quan hệ chính phụ. Nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả năng

Lamphay Phanpadit - QLKT 47B 7

Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh Khoa KHQL

cách mạng tơ lớn. Người khẳng định vai trị, vị trí chiến lược của cách
mạng thuộc địa: "Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận
mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với
vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa...Người đưa ra luận điểm:
"Cơng cuộc giải phóng anh em, (tức nhân dân thuộc địa - TG) chỉ có thể
thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em".

Do nhận thức được vai trò, vị thế chiến lược của cách mạng thuộc địa,
đánh giá đúng sức mạnh dân tộc, năm 1921, Nguyễn Ái Quốc cho rằng
cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể giành thắng lợi trước cách
mạng vơ sản ỏ chính quốc. Người viết: " Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân

châu á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một
bọn thực dân lịng tham khơng đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng
lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư
bản là Chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở
phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn".

Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Hồ Chí Minh có sự phân biệt về
nhiệm vụ của cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc và cho
rằng: Hai thứ cách mạng đó tuy có khác nhau, nhưng có quan hệ chặt chẽ
với nhau. Người nêu ví dụ: "An Nam dân tộc cách mệnh thành cơng thì tư
bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì cơng nơng Pháp làm giai cấp cách mệnh
cũng dễ. Và nếu công nông Pháp làm cách mệnh thành cơng, thì dân tộc An
Nam sẽ được tự do".

Đây là một luận điểm sáng tạo, trong khi chủ nghĩa Mác - Lênin và
Quốc tế cộng sản đặc biệt nhấn mạnh đấu tranh giai cấp chống địa chủ, tư
bản và coi việc chống chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa dân
tộc là nhiệm vụ hàng đầu, trong khi Quố tế cộng sản có quan điểm chi rằng
cơng cuộc giải phóng thuộc địa chỉ có thêt thực hiện sau khi giai cấp vơ sản
ở chính quốc giành thắng lợi trong cách mạng vơ sản, thì Người đã khơng
như thường lệ, chỉ giản đơn phụ hoạ và chứng minh cho nhưng quan điểm

Lamphay Phanpadit - QLKT 47B 8

Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh Khoa KHQL

dó, mà khẳng khái và dũng cảm nêu lên những quan điểm mới, khác hẳn.
Trong báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Lỳ và Nam Kỳ, Người đã đưa ra những
chủ trương tiến hành khởi nghĩa vũ trang ở các nước Đông Dương. Ở đây,
Một là Hồ Chí Minh đã xác định rõ con đường đấu tranh vũ trang mang

tính quần chúng để giải phóng dân tộc, chứ khơng chờ đến sau khi "giai cấp
vô sản giành thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến" như Tuyên ngôn thành
lập của Quốc tế cộng sản nă3m 1919 và Nghị Quyết Đại hộc lần thứ VI cảu
Quốc tế cộng sản về sau (1928) đã xác định. Hai là, cuộc khởi nghĩa vũ
trang có thể nổ ra trùng hợp với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Và
như chúng ta đều biết, về sau khi đã cân nhắc, xem xét kỹ lượng mọi mặt,
Hồ Chí Minh đã đạt đến sự thăng hoa trong tư tưởng: cách mạng giải
phóng dân tộc để có thể thành công trứơc cách mạng vô sản ở các nước tư
bản chính quốc và giúp cho phong trào cơng nhân ở các nước chính quốc.

Những quan điểm đổi mới táo bạo lớn được viết trong Báo cáo trên
thể hiện tinh thần đổi mới, tầm cao trí tuệ và khí phách anh hùng cách
mạng của Hồ Chí Minh. Nó chỉ có thể là sản phẩm phi thường của một trí
tuệ phi thường, một tư duy đổi mới phi phương. Ở đây, xin phép được lưu
ý rằng, Hồ Chí Minh đã viết báo cáo đó trong lần đầu tiên đến Matxcơva và
năm 1924. Lúc đó người mới theo Lênin và Quốc tế cộng sản được 4 năm
trời, và nhiều lắm cũng chỉ mới qua một lớp học ngắn ngày và có lẽ là ngẫu
nhiên tại Trường Đại học Phương Đông. Vậy mà, Người đã dũng cảm và
trung thực, bất chấp mọi sự nguy hiểm về mặt chính trị có thể xảy ra đối
với bản thân, viết ra những cảm nhận và suy nghĩ độc đáo hết sức khác
thường của mình, xuất phát từ thực tiễn, lấy thực tiễn và lợi ích của đất
nước làm thước đo chân lý duy nhất. Điều đáng lưu ý nữa là, văn phòng
của bản báo cáo là văn phong biện luận. Sau khi nêu lên những sự thật về
tình trạng giai cấp ở Việt Nam, Người đã viết: "Điều đó, khơng thể chối cãi
đựơc". (Sau này, trong Tuyên ngôn độc lập, nghĩa là 31 năm sau, Người lại
dùng câu: "Đó là những lẽ phải không ai chối cãi đựơc" sau khi nêu lên

Lamphay Phanpadit - QLKT 47B 9

Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh Khoa KHQL


những quyền con người được ghi trong Tuyên ngôn độc lậo năm 1776 của
nước Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quỳên và Dân quyền của Cách mạng Pháp
năm 1791, để đi đến tun bố về quyền dân tộc chính đáng khơng thể phủ
nhận của nhân dân Việt Nam).

Đây là một luận điểm rất sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn;
một cống hiến rất quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của
chủ nghĩa Mác-Lênin, đã được thắng lợi của phong trào cách mạng giải
phóng dân tộc trên tồn thế giới trong gần một thế kỷ qua chứng minh là
hoàn toàn đúng đắn.

5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hàng bằng con
đường cách mạng bạo lực

a) Bạo lực cách mạng trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt
Nam.

Các thế lực đế quốc sử dụng bạo lực để xâm lựơc và thống trị thuộc
địa, đàn áp dã man các phong trào yêu nước. Chế độ thực dân, tự bản thân
nó đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu. Chưa đè bẹp ý
chí xâm lược của chúng thì chưa thể có thắng lợi hồn tồn. Vì thế con
đường để giành và giữ độc lập dân tộc chỉ có thể là con đường cách mạng
bạo lực

Quán triệt quan điểm sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần
chính, Hồ Chí Minh cho rằng bạo lực cách mạng cũng là bạo lực quần
chúng. Hình thức của bạo lực cách mạng bao gồm cả đấu tranh chính trị
và đấu tranh vũ trang, nhưng phải "tuỳ tình hình cụ thể mà quyết định
những hình thức đấu tranh cách mạng thích hợp, sử dụng đúng và khéo kết

hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị để giành thắng
lợi cho cách mạng".

Trong chiến tranh cách mạng, lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang
giữ vị trí quyết định trong việc tiêu diệt lực lượng quân sự địch, làm thất

Lamphay Phanpadit - QLKT 47B 10

Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh Khoa KHQL

bại những âm mưu quân sự và chính trị của chúng. Nhưng đấu tranh vũ
trang không tách biệt với đấu tranh chính trị. Theo Hồ Chí Minh, các đồn
thể cách mạng càng phát triển, quần chính đấu tranh chính trị càng mạng
thì càng có cơ sở vững chắc để tổ chức lực lượng vũ trang và tiến hàng đấu
tranh vũ trang.

Xuất phát từ tình yêu thương con người, quý trọng sinh mạng con
người, Hồ Chí Minh ln tranh thủ khả năng giành và giữ chính quyền ít
đổ máu. Người tìm mọi cách ngăn chặn xung đột vũ trang, tận dụng mọi
khả năng giải quyết xung đột bằng biện pháp hồ bình, chủ động đàm phán,
thương lượng, chấp nhận những nhượng bộ có nguyên tắc.

Việc tiến hàng các hội nghị Việt - Pháp và ký các hiệp định trong năm
1946 là thể hiện tư tưởng nâhn đạo và hồ bình của Hồ Chí Minh.

Việc tiến hàng chiến trang chỉ là giải pháp bắt buộc cuối cùng. Chỉ thị
khơng cịn khả năng thương lượng, hồ hỗn, khi kẻ thù ngoan cố bám giữ
lập trường thực dân, chỉ muốn giành thắng lợi bằng qn sự, thì Hồ Chí
Minh mới kiên quyết phát động chiến tranh.


Trong khi tiến hành chiến trang, Người vẫn tìm mọi cách vãn hồi hịa
bình.

Trong kháng chiến chống Pháp và Đế quốc Mỹ, Người gửi nhiều
thông điệp cho các nhà cầm quyền, đề nghị đàm phán hồ bình để kết thúc
chiến tranh. Khi qn Mỹ tăng cường chiến tranh, một mặt Người kêu gọi
quân dân ta "quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược", đồng thời chủ
trương vừa đánh vừa đàm phán để kết thúc chiến tranh.

Tư tưởng bạo lực cách mạng và tư tưởng nhân đạo hồ bình thống
nhất biện chứng với nhat trong tư tưởng Hồ Chí Minh.Người chủ trương,
yêu nước, thương dân, yêu thương con người, yêu chuộng hồ bình, tự do,
cơng lý, tranh thủ mọi khả năng hồ bình để giải quyết xung đột, nhưng
một khi khơng thể tránh khỏi chiến tranh thì phải kiên quyết tiến hành

Lamphay Phanpadit - QLKT 47B 11

Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh Khoa KHQL

chiến tỷanh, kiên quyết dùng bạo lực cách mạng, dùng khởi nghĩa và chiến
tranh cách mạng để giành, giữ và bảo vệ hồ bình, vì độc lập tự do.

b) Phương châm chiến lược đánh lâu dài trong cách mạng giải
phóng dân tộc

Trước những kẻ thù lớn mạnh, Hồ Chí Minh chủ trương sử dụng
phương châm chiến lược đánh lâu dài. Trong kháng chiến chống thực dân
Pháp, Người nói: "Địch muốn tốc chiến, tốc thắng. Ta lấy trường kỳ kháng
chiến trị nó, thì địch nhất định thua, ta nhất đinh thắng", "Trường kỳ kháng
chiến...nhất định thắng lợi". Kháng chiến phải trường kỳ vì đất ta hẹp, dân

ta ít, nứơc ta nghèo, ta phải chuẩn bị lâu dài và phải có sự chuẩn bị toàn
diện của toàn dân.

Với qn đội mới tổ chức, với vũ khí thơ sơ, ta quyết kế trường kỳ
kháng chiến....thắng lợi với trường kỳ phải đi đôi với nhau".

Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Người khẳng định: Chiến
tanh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải
Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt
Nam quyết không sợ!.

Khơng có gì q hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi nhân dân ta sẽ
xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn to đẹp hơn.

Tự lực cánh sinh cũng là một phương châm chiến lược rất quan trọng,
nhằm phát huy cao độ nguồn sức mạnh chủ quan, tránh tư tưởng bị động
trơng chờ vào sự giúp đỡ bên ngồi. Trong tác phẩm Đướng kách mệnh,
Người chỉ rõ: muốn người ta giúp cho thì trước hết mình phải tự giúp lấy
mình đã. Tháng tám (1945) khi thời cơ tổng khởi nghĩa xuất hiện, Hồ Chí
Minh kêu gọi Tồn quốc đồng bào hãy đứng dậy, đem sức ta mà tự giải
phóng cho ta.

Mặc dù rất coi trọng sự giúp đỡ quốc tế nhưng Hồ Chí Minh luôn đề
cao sức mạnh bên trong, phát huy đến mức cao nhất mọi nỗ lực của dân
tộc, đề cao tinh thần độc lập tự chủ. Người nói: "Kháng chiến trường kỳ

Lamphay Phanpadit - QLKT 47B 12

Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh Khoa KHQL


gian khổ đồng thời lại phải tự lực cánh sinh. Trông vào sức minh... Cố
nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại,
không được ngồi mong chờ người khác".

Độc lập tự chủ, tự lực cường kết hợp với tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế
là một quan điểm nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Người đã động viên sức mạnh của
toàn dân tộc, đồng thời ra sức vận động, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế to lớn
và có hiệu quả, cả về vật chất và tinh thần, kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại để kháng chiến thắng lợi.
Một vài kết luận:

Tư tưởng Hồ Chí Minh khơng chỉ là sự vận dụng mà còn là sự phát
triển một cách sáng tạo học thuyết Marx - Lenin. Luận điểm về mối quan
hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là một trong những sáng tạo đó.

Ngay từ lúc mới 13 tuổi, khi lần đầu được tiếp xúc với những từ Tự do
- Bình đẳng - Bắc ái trong tiếng Pháp, Người nảy ra ý nghĩ mới lạ, ý nghĩa
mà lịch sử về sau đã chứng minh tính phi thường của nó - "muốn làm quen
với nền văn minh Pháp, muồn tìm xêm những gì ẩn giấu đằng sau những từ
ấy." Ý nghĩ này thể hiện tính ham hiểu biết, muốn tìm hiểu sự vật đến nơi
đến chốn của Hồ Chí Minh. Đến khi 15 tuổi, Người đã ni chí đánh đuổi
thực dân Pháp, giải phòng đồng bào. Người tham gia cơng tác bí mật, làm
liên lạc. Người khâm phục những nhà u nước tiền bối Phan Đình Phùng,
Hồng Hoa Thám, Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu, nhưng thấy rằng
phải có cách làm khác của các cụ. Trong khi các trí thức và thanh niên có
tinh thần u nước đua nhau theo phái Đơng du sang Nhật thì Người lại
chọn con đường sang nước Pháp và các nước khác để xem họ làm như thế
nào rồi trở về giúp đồng bào.


Trước khi đi theo Quốc tế cộng sản, Người chưa biết chiến lưụơc,
sách lược là gì, khơng rõ CNXH và chủ nghĩa Cộng Sản khác nhau thế nao,
cũng chưa đọc một tác phẩm nào của Lênin, vậy mà khi cần phải có quyết

Lamphay Phanpadit - QLKT 47B 13

Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh Khoa KHQL

định trong việc lựa chọn giữa Quốc tế II và Quốc tế III, Người đã nhạy bén
chỉ dựa vào một tiêu chí duy nhất là Quốc tế nào ủng hộ các dân tộc thuộc
địa, để đưa ra quyết định đúng đắn.

Và, chúng ta không lấy làm lạ, từ những nhận thức phi thường ban
đầu đó, về sau Hồ Chí Minh đã đi đến những quan điểm đổi mới hết sức
phi thường, những kết luận hết sức phi thường trong việc đổi mới chiến
lược, sách lược cách mạng phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam là
một nước thuộc địa nửa phong kiến. Có thể thấy, trong điều kiện giai cấp
và quan hệ giai cấp như ở Việt Nam khi đó, trong điều kiện "cơng nhân có
thể là 2% trong dân số, khơng được học hành" (theo báo cáo của Nguyễn
Ái Quốc gửi Quốc tế cộng sản ngày 21/9/1923), có nghĩa là trong điều kiện
giai cấp cơng nhân và quan hệ giai cấp đó thì liệu có thể áp dụng học thuyết
đấu tranh giai cấp, cách mạng vơ sản và chun chính vơ sản quá độ trực
tiếp lên CNXH của chủ nghĩa Mác - LêNin được không, Nguyễn Ái Quốc
đã dũng cảm nêu lên những nhận xét và quan điểm: "Cuộc đấu tranh giai
cấp không diễn ra giống như ở Phương Tây", "chủ nghĩa dân tộc là động
lực lớn của đất nước", "xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó"
và "chúng ta phải coi chừng"! Các dân tộc Viễn Đơng có trải qua hai giai
đoạn đầu (chế độ nơ lệ, chế độ nơng nơ - N.H) khơng?". Có thể nói, những
nhận thức nêu lên trong bản báo cáo trên chính là ngọn nguồn tư tưởng của
đường lối giương cao ngọn cờ dân tộc dân chủ ngay từ đầu và sự đổi mới

chiến lược, sách lược bước đầu được xác định ở Hội nghị Trung ương VIII
(khoá I), để rồi sau đó, được hồn chỉnh ở Đại hội II của Đảng. Và, 29 năm
sau, trong Thường thức chính trị, Hồ Chí Minh đã trực tiếp trả lời cho
những vấn đề nêu trên với những nội dung hoàn toàn mới mẻ như sau:
"Thời đại của chúng ta là thời đại mói, thời đại cách mạng thắng lợi...".
"Thời đại mới khiến cách mạng Việt Nam phải là cách mạng dân chủ mới".
Và "tuỳ theo hoàn cảnh mà các dân tộc phát triển theo con đường khác
nhau đi đến CNXH.

Lamphay Phanpadit - QLKT 47B 14

Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh Khoa KHQL

Rõ ràng, Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ, và Nam kỳ thực sự là một
bản báo cáo hết sức phi thường. Nó thể hiện tính độc lập tự chủ, đổi mới
trong tư duy, trong nhận thức lý luận và tính trung thực, thái độ tôn trọng
chân lý, tôn trọng sự thật, tinh thần đồng cảm và khí phách cách mạng của
Hồ Chí Minh. Từ "dùng sức ta mà giải phóng cho ta" đến cách mạng giải
phóng dân tộc có thể giành thắng lợi trước cách mạng vơ sản ở chính quốc.

Từ "quyền dân tộc của nhân dân Việt Nam" đến Mặt trận quốc tế ủng
hộ cách mạng Việt Nam.

Từ chiến lược, sách lược đánh thắng hai đế quốc to đến chiến lược đối
ngoại hồ bình, làm bạn với tất cả các nước, khơng gây thù ốn với một ai.

Từ "ngoại giao và kinh tế có ảnh hưởng lẫn nhau", "nếu mình có một
chương trình kinh tế có lợi cho người ngoại quốc, họ có thể giúp mình" đến
thực hiện chính sách mở cửa" mở rộng "lưu thơng trong ngồi" để phát
triển nền kinh tế" theo hướng chủ nghĩa xã hội" của đất nước.


Từ đấu tranh vũ trang đến đường lối ứng xử hiện đại: cùng giữ gìn hồ
bình, cùng tơn trọng độc lập chủ quyền của nhau, cùng đối thoại bình đẳng,
cùng hiểu biết nhau, cùng thành thực tin cậy nhau, cùng nhân nhượng, cùng
thoả thuận và hợp tác cùng có lợi.

Từ đổi mới nhận thức về CNXH đến con đường định hướng XHCN
thích hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam.

Từ "toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, trường kỳ kháng
chiến" đến " dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân", tiến hành đổi mới
"chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tối
tươi", tiến tới xây dựng và thực hiện thành công CNXH ở nước ta.

Nhìn vào những quan điểm mới mang tính hệ thống trong tư tưởng Hồ
Chí Minh, chúng ta thấy, chúng xứng đáng được mệnh danh là một học
thuyết mới - học thuyết Hồ Chí Minh. Trong một bài viết về tư tưởng Hồ
Chí Minh, nhà cách mạng lão thành, Giáo sư sử học Trần Văn Giàu đã có
lý khi đề cập đến phương pháp luận, phương pháp tư duy Hồ Chí Minh.

Lamphay Phanpadit - QLKT 47B 15

Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh Khoa KHQL

Đây chính là cơ sở dẫn đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Ơng viết:
" Suốt đời mình, Người có tính quen là quan sát thực tế... Sát thực tế là tính
Người", "óc phân tích tổng hợp của Người rất sắc sảo". Theo Người, lý
luận đối với một chính đảng quan trọng như linh hồn đối với con người.
Song người ta thấy Người sau khi đã vạch ra tổng lộ tuyên thì chú trọng
đặc biệt đến thực tiến. Thực tiến có thể chứng minh hoặc bác bỏ, hoặc địi

sửa đổi chủ trương mang tính lý luận. Thấy sai trái hay thiếu sót thì can
đảm sửa, bổ sung, hay bỏ đi, đến đây thì thực tiễn là ưu tiên. Hồ Chí Minh
là người dám nhìn thẳng vào sự thật. Người xem thực tiễn là trọng yếu số
một và khơng thích lý luận tư biện cũng như khơng thích thực tiễn mù
quáng."
Khi nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên quan điểm giai cấp

Hồ Chí Minh đã giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong
mối quan hệ thống nhất biện chứng. Trong khi rất coi trọng vấn đề dân tộc,
đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, thì Người luôn luôn đứng vững
trên quan điểm giai cấp để nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc.

Mục tiêu của cách mạng do Hồ Chí Minh và Đảng ta nêu lên thể hiện
kết hợp vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Nó chứng tỏ ở Việt Nam chỉ có
Đảng Cộng Sản và giai cấp công nhân mới là lực lượng đại biểu trung
thành cho lợi ích của dân tộc, mới xây dựng được mặt trận đại đoàn kết dân
tộc thể hiện được mục tiêu trên.

Trong Tuyên Ngôn của Đảng cộng sản, Marx - Engels đề cập đến vấn
đề dân tộc và vấn đề giai cấp như sau:

Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở giai đoạn đầu mang tính chất dân
tộc, vì phong trào vơ sản là phong trào độc lập của khối đại đa số, mưu lợ
ích cho khối đại đa số. Vì vậy, cuộc đấu tranh củ giai cấp vô sản chống lại
giai cấp tư sản, không phải là cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu mang
hình thức dân tộc. Như vậy, Marx - Engels đã thấy được mối quan hệ gắn

Lamphay Phanpadit - QLKT 47B 16

Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh Khoa KHQL


bó giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Hai ông không xem nhẹ vấn đề
dân tộc. Tuy nhiên, hai ông không đi sâu giải quyết vấn đề dân tộc vì:

- Tại các nước này, mâu thuẫn cơ bản của xã hội là mâu thuẫn giữa hai
giai cấp đối kháng: tư sản và vô sản.

- Về cơ bản, ở Châu Âu, vấn đề dân tộc đã được giải quyết trong cách
mạng tư sản.

- Vào thời của Marx, hệ thống thuộc địa đã có, nhưng các cuộc đấu
tranh giành độc lập chưa phát triển mạnh.

Do vậy, trong sự nghiệp giải phóng hai ơng nhấn mạnh đến giải phịng
giai cấp cơng nhân.

Đến thời Lênin, khi chủ nghĩa đế quốc trở thành hệ thống thế giới,
cách mạng giải phóng dân tộc trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản,
Lênin mới có cơ sở thực tiễn để phát triển vấn đề dân tộc thuộc địa thành
một hệ thống lý luận. Lênin cho rằng cuộc đấu tranh của giai cấp vơ sản
chính quốc sẽ khơng giành được thắng lợi, nếu nó khơng liên minh với
cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức.

Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ chủ nghĩa Mác - Lênin, lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là sự
kế thừa, phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nổi bật là
chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc, và tiếp thu tinh hoa văn hoá
nhân loại, cả phương Đông và phương Tây. Như vậy, tư tưởng Hồ Chí
Minh nằm trong hệ tư tưởng Mác - Lênin, bắt nguồn chủ yếu từ chủ nghĩa
Mác - Lênin, nhưng khơng hồn tồn đồng nhất với chủ nghĩa Mác - Lênin,

mà là sự tổng hoà, sự kết hợp giữa tinh hoa văn hoá truyền thống Việt
Nam, tinh hoá văn hoá nhân loại với chủ nghĩa Mác - Lênin, trên nền tảng
chủ nghĩa Mác - Lênin.

Tư tưởng Hồ Chí Minh cịn là kết quả của sự vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngay từ năm 1924, sau khi đến với chủ
nghĩa Mác - Lênin, trở thành một cán bộ của Đảng Cộng Sản Pháp và của

Lamphay Phanpadit - QLKT 47B 17

Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh Khoa KHQL

Quốc tế Cộng Sản, Hồ Chí Minh đã vạch rõ sự khác nhau giữa thực tiễn
của các nước tư bản phát triển ở Châu âu mà C. Mác, Ph. Ăng - ghen và V.I
Lênin đã chỉ ra với thực tiễn Việt nam - một nước thuộc địa, nửa phong
kiến, nông nghiệp, lạc hậu ở phương Đơng. Do đó, cần bổ sung, phát triển
chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử phương Đông. Trong Báo cáo về Bắc kỳ,
Trung kỳ và Nam kỳ gửi Quốc tế Cộng sản, Người viết: "Cuộc đấu tranh
giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây,...Dù sao thì cũng khơng
thể cấm bổ sung "cơ sở lịch sử" của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm
vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình khơng thể có được. Mác đã xây
dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch
sử nào? Lịch sử Châu Âu. Mà Châu Âu là gì? Đó chưa phải là tồn thể
nhân loại... Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó
bằng dân tộc học phương Đơng. Đó chính là nhiệm vụ mà các Xô viết đảm
nhiệm."

Từ những vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận thể hiện tư duy độc
lập, sáng tạo, Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời của mình đã vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam và tạo ra một

hệ thống luận điểm mới, sáng tạo, hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.

Tóm lại, Marx - Engels, Lênin đã nêu ra những quan điểm cơ bản về
mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Tuy nhiên, xuất phát từ
yêu cầu, mục tiêu của cách mạng vô sản châu Âu, các ông vẫn tập trung
nhiều hơn vào vấn đề giai cấp, vẫn "đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi
ích khơng phụ thuộc vào dân tộc và chung cho tồn thể giai cấp vơ sản".

Tiếp thu chủ nghĩa Marx - Lênin trên nền tảng truyền thống yêu nước
và nhân ái của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh có quan điểm riêng, độc
đáo về vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc. Người cho rằng: Phải kết hợp và
giải quyết hài hoà vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, song phải đặt lợi ích
dân tộc lên trên hết và trước hết.

Lamphay Phanpadit - QLKT 47B 18

Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh Khoa KHQL

Luận điểm này của Người xuất phát từ cơ sở thực tiến của phương
Đông và Việt Nam.

Năm 1924, trong Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ Người cho
rằng: "Marx đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định
của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử Châu Âu. Mà Châu Âu là gì? Đó
chưa phải là tồn thể nhân loại. Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung "cơ
sở lịch sử" của chủ nghĩa Marx bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu
mà Marx ở thời mình khơng thể có được". Và người đề nghị: "Xem xét lại
chủ nghĩa Marx về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học
phương Đông". Ở Phương Đông, "Cuộc đáu tranh giai cấp diễn ra không
giống như ở phương Tây, bởi vì xã hội Đơng Dương, Ấn Độ hay Trung

Quốc, xét về mặt cấu trúc kinh tế không giống như xã hội phương Tây thời
trung cổ, cũng như thời cận đại, và đấu tranh giai cấp ở đó khơng quyết liệt
như ở đây...."

Đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng Việt Nam là một nước
thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt nam với chủ nghĩa
đế quốc và tay sai nổi trội hơn mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với địa
chủ phong kiến, giữa tư sản với vô sản. Do đó, khơng phải giải quyết vấn
đề giai cấp rồi mới giải quyết vấn đề dân tộc như ở Phương Tây. Ngược lại
chỉ có thể giải quyết vấn đề dân tộc mới giải phóng được giai cấp. Quyền
lợi dân tộc và giai cấp là thống nhất, quyền lợi dân tộc không cịn, thì
quyền lợi mỗi giai cấp, mỗi bộ phận trong dân tộc cũng không thể thực
hiện được. Luận điểm về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai
cấp là một trong những sáng tạo lớn của Hồ Chí Minh trong việc vận dụng
và phát triển chủ nghĩa Marx - Lenin. Nó có tác dụng lớn lao đối với việc
tập hợp lực lượng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc ở Việt Nam cũng như ở
các nước thuộc địa nói chung.

Ngồi ra, vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các
nhà cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, Hồ Chí Minh đã đến với

Lamphay Phanpadit - QLKT 47B 19

Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh Khoa KHQL

học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác - LêNin và lựa chọn con đường
cách mạng vơ sản. Từ đó, người quyết tâm đưa dân tộc Việt Nam đi theo
con đường đó - Con đường cách mạng vơ sản.

Hồ Chí Minh có sự phân biệt về nhiệm vụ của cách mạng vô sản và

cách mạng giải phóng dân tộc và cho rằng: hai thức cách mạng đó tuy có
khác nhau, nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Người nêu ví dụ: "An
Nam dân tộc cách mệnh thành cơng thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu
thì cơng nơng Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ. Và nếu công nông
Pháp làm cách mệnh thành cơng, thì dân tộc An Nam sẽ được tự do."

Về mặt thực tiễn, một luận điểm sáng tạo lớn đầu tiên của Hồ Chí
Minh là luận điểm về chủ nghĩa thực dân và vấn đề giải phóng dân tộc.
Những tác phẩm của Người là "Bản án chế độ thực dân Pháp" (xuất bản
năm 1925) và "Đây công lý của thực dân Pháp ở Đông Dương" đã vạch
trần bản chất và những thủ đoạn bóc lột, đàn áp, tàn sát dã man của chủ
nghĩa thực dân Pháp đối với các dân tộc thuộc địa; nêu rõ nỗi đau khổ, của
kiếp nô lệ, nguyện vọng khát khao được giải phóng và những cuộc đấu
tranh của các dân tộc thuộc địa. Đây là những tài liệu "có một khơng hai"
về chủ nghĩa thực dân; ở đó, sự phân tích về chủ nghĩa thực dân của Hồ
Chí Minh đã vượt hẳn những gì mà những nhà lý luận macxit đề cập đến
(6). Những luận điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa thực dân, đặc biệt là
hình ảnh về "con đỉa hia vòi", "con chim hai cánh", đã khơng chỉ có tác
dụng thức tỉnh các dân tộc thuộc địa, mà còn cảnh tỉnh các đảng cộng sản ở
chính quốc.

Hồ Chí Minh là người chiến sĩ tiên phong trong phê phán chủ nghĩa
thực dân, đồng thời cũng là người lãnh đạo dân tộc mình thi hành bản án
chơn vùi chủ nghĩa thực dân ở Việt Nam, mở đầu cho thời kỳ sụp đổ của
chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới.

Đề cương Về vấn đề dân tộc và thuộc địa vủa V.I. Lênin, viết năm
1920, đã thức tỉnh Nguyễn Ái Quốc, đưa Người đến với chủ nghĩa Mác -

Lamphay Phanpadit - QLKT 47B 20



×