Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

Khảo sát khía cạnh kinh tế kỹ thuật của mô hình nuôi tôm sú thâm canh ở giá rai – bạc liêu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (681.22 KB, 47 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA SINH HỌC ỨNG DỤNG

TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
MÃ SỐ: 52620301

KHẢO SÁT KHÍA CẠNH KINH TẾ - KỸ THUẬT
MÔ HÌNH NUÔI TÔM SÚ THÂM CANH Ở
GIÁ RAI - BẠC LIÊU

Sinh viên thực hiện
NGUYỄN HUỲNH LONG
MSSV: 1153040041
Lớp: NTTS K6

Cần Thơ, 2015

1


CHƯƠNG I
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Giới thiệu
Nuôi trồng thủy sản (NTTS) ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) trong thời gian
qua được khẳng định là nghề sản xuất mang lại hiệu quả kinh tế và xã hội cao, góp
phần thay đổi cơ cấu kinh tế ở các vùng nông thôn và ven biển, giải quyết việc làm,
tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo và thu hút được sự quan tâm đầu tư của nhiều thành
phần kinh tế trong và ngoài nước. Chất lượng và giá trị của các sản phẩm nuôi trồng
ngày càng cao trở thành nguồn nguyên liệu chính cho chế biến và đóng góp đáng kể
cho kim ngạch xuất khẩu thủy sản chung của cả nước.


Tôm sú (Penaeus monodon) là một trong những đối tượng nuôi quan trọng của ngành
nuôi trồng thủy sản. Tôm sú là loài có kích thước lớn, tăng trọng nhanh, thịt thơm
ngon. Nghề nuôi tôm sú mang lại nhiều lợi nhuận nên cần được quan tâm đầu tư.
Diện tích nuôi trồng thủy sản nước ta tính đến ngày 31 tháng 10 năm 2014 cả nước thả
nuôi khoảng 676 nghìn ha, Sản lượng thu hoạch 569 nghìn tấn. Trong đó diện tích
nuôi tôm sú là 583 nghìn ha, sản lượng tôm sú đạt 241 nghìn tấn. (Bộ NN & PTNT,
2014).
Vùng ĐBSCL có diện tích nuôi tôm lớn nhất cả nước, đã giúp cho người dân vùng này
cải thiện được đời sống rõ rệt. Trong đó, tỉnh Bạc Liêu là một trong những tỉnh phát
triển mô hình nuôi tôm sú thâm canh rất mạnh ở một số huyện như thành phố Bạc Liêu,
Vĩnh Lợi, Đông Hải, Giá Rai, Phước Long. Nhờ thế mạnh sẵn có về điều kiện thổ
nhưỡng, khí hậu thuận lợi, người dân cần cù lao động nên các mô hình sản xuất kinh tế
trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu có nhiều bước phát triển mới, riêng các mô hình nuôi trồng
thủy sản được người dân thực hiện mang lại kết quả khá tốt. Nhiều người dân trên địa
bàn có thu nhập bình quân khá cao, đời sống ngày càng được nâng lên.
Tuy nhiên, ngành thủy sản cũng đang gặp phải một số khó khăn và thử thách như rủi
ro cao, hiệu quả sản xuất mô hình nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh còn bấp bênh.
Ngành thủy sản phải đối mặt với nhiều khó khăn về thời tiết, xâm nhập mặn, mưa bão,
lũ lụt, dịch bệnh diễn biến phức tạp, người nuôi phải đối mặt giá thức ăn, giá giống
tăng cao, khó tiếp cận nguồn vốn nên ảnh hưởng đến kết quả nuôi. Nhằm tìm ra những
ưu điểm, khuyết điểm của đối tượng nuôi ở các khu vực khác nhau đồng thời tìm ra
những giải pháp kỹ thuật mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người nuôi góp phần giúp
nghề nuôi tôm sú thâm canh phát triển bền vững. Vì vậy đề tài “Khảo sát khía cạnh
kinh tế - kỹ thuật của mô hình nuôi tôm sú thâm canh ở Giá Rai – Bạc Liêu” được
thực hiện là việc cần thiết.
2


1.2 Mục tiêu
Mục tiêu chung của đề tài là khảo sát khía cạnh kinh tế - kỹ thuật của mô hình nuôi

tôm sú thâm canh ở Giá Rai – Bạc Liêu nhằm là cơ sở xác định các giải pháp để nâng
cao hiệu quả cho mô hình nuôi tôm sú ở huyện Giá Rai.
1.3 Nội dung nghiên cứu
Đánh giá hiện trạng nghề nuôi tôm sú thâm canh tại Giá Rai – Bạc Liêu.
Phân tích khía cạnh kỹ thuật của mô hình nuôi tôm sú thâm canh ở Giá Rai - Bạc Liêu.
Phân tích khía cạnh hiệu quả kinh tế của mô hình nuôi tôm sú thâm canh ở Giá Rai Bạc Liêu.

3


CHƯƠNG II
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1 Đặc điểm sinh học của tôm sú
2.1.1 Vị trí phân loại và hình thái
Theo Hothuis (1980) và Barnes (1987) trích dẫn bởi Thạch Thanh và ctv., (2005) thì
tôm sú được định danh trong hệ thông phân loại như sau:
Ngành: Arthropoda
Ngành phụ: Crustacea
Lớp: Malacostraca
Lớp phụ: Eumalacostraca
Bộ: Decapoda
Họ: Penaeidea
Giống: Penaeus
Loài: Penaeus monodon Fabricus, 1798

Hình 2.1 Hình dạng tôm sú (www.vietlinh.vn)
Tôm sú được mô tả về hình thái rất chi tiết cùng với hệ thống phân loại hoàn chỉnh
như sau: Tôm sú có 7 – 8 răng trên chỉ và 3 – 4 răng dưới chỉ, chủy thẳng nhô lên.
Sống gan nghiêng, gai đuôi có rảnh nhưng không có gai bên. Phần đầu ngực và phần
bụng có những băng đen ngang, chân ngực có màu đỏ. Tôm sú có 3 cặp chân hàm để

lấy thức ăn và bơi lội, 5 cặp chân ngực lấy thức ăn và bò, cặp chân bụng để bơi và có 1
cặp chân đuôi để tôm có thể nhảy xa, điều chỉnh bơi lên cao hay xuống thấp. Khi tôm
trưởng thành phân biệt rõ đực cái, thông qua cơ quan sinh dục phụ bên ngoài. (Nguyễn
Văn Thường và Trương Quốc Phú, 2009).

4


2.1.2 Phân bố
Phạm vi phân bố của tôm sú khá rộng, từ Ấn Độ Dương qua hướng Nhật Bản, Đài
Loan, phía Đông Tahiti, phía Nam Châu Úc và Tây Châu Phi (Racek – 1995, Holthuis
và Rosa – 1996, Motoh – 1981,1985). Nhìn chung tôm sú phân bố từ kinh độ 30o
Đông đến 155o Đông từ vĩ độ 35o Bắc tới 35o Nam xung quanh các nước vùng xích
đạo, đặc biệt là Việt Nam, Indonesia, Malaysia, Philippines. Ở Việt Nam tôm sú phân
bố ở miền Nam, miền Trung và miền Bắc, tập trung nhiều nhất là vùng duyên hải miền
Trung. Tôm bột (PL), tôm giống (Juvenile) và tôm gần trưởng thành có tập tính sống
gần bờ biển và rừng ngập mặn ven bờ. Khi tôm trưởng thành di chuyển ra xa bờ vì
chúng thích sống vùng nước sâu hơn.
2.1.3 Môi trường sống
Nhìn chung tôm sú thuộc loài động vật rộng muối và rộng nhiệt. Tuy nhiên tùy từng
giai đoạn phát triển của cơ thể có nhu cầu và khả năng thích ứng khác nhau.
Tôm sú có khả năng tồn tại và sinh trưởng ở độ mặn 5 _ 45 ppt và rộng nhiệt 14 – 350C
(Nguyễn Khắc Hường, 2007), nhiệt độ tốt cho tôm sú tăng trưởng là 24 – 340C, độ
mặn thích hợp cho tăng trưởng là 25 – 30 ppt.
Tôm sú thường sống ở môi trường có pH từ 7.5 – 8.5. Ngoài giới hạn pH này sẽ ảnh
hưởng bất lợi đến đời sống của tôm (Đoàn Khắc Độ, 2008).
Oxy hòa tan là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong quá trình nuôi tôm, hàm
lượng oxy thích hợp là 4 – 8 mg/l (Nguyễn Khắc Hường, 2007; Đoàn Xuân Diệp và
csv., 2009). Tôm sú được xem là đối tượng nuôi phù hợp và truyền thống cho nghề
nuôi tôm sinh thái, tôm - rừng kết hợp (Nguyễn Anh Tuấn và csv., 1997).

Hàm lượng H2S trong nước từ 0,01mg/l cũng đủ gây độc cho tôm, do đó cần hạn chế
đến mức tối đa. Thay nước hoặc bón vôi làm giảm H2S trong nước (Đoàn Khắc Độ,
2008). Khí H2S rất độc đối với tôm, khí này dù ở nồng độ này cũng ảnh hưởng bất lợi
đối với tôm (Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải, 2009)
2.1.4 Đặc điểm dinh dưỡng
Tôm sú thuộc loại ăn tạp thiên về động vật (Dall, 1990) thức ăn chủ yếu là côn trùng,
giáp xác, thực vật, giun nhiều tơ, mãnh vụn hữu cơ, qua kiểm tra thành phần thức ăn
trong dạ dày cho thấy tôm sú thích ăn các động vật sống hơn là giáp xác thối rữa hay
mãnh vụn hữu cơ. Khi nuôi trong ao loại thức ăn tốt nhất cho tôm sú là thức ăn công
nghiệp, thức ăn tươi sống hoặc thức ăn tự chế biến (Đoàn Khắc Độ, 2008).
Tôm sú hoạt động bắt mồi ở giai đoạn tôm giống. Cường độ bắt mồi vào ban đêm lớn
hơn ban ngày. Tôm sú bố mẹ nuôi trong bể nuôi hoạt động bắt mồi chậm chạp khi
5


buồng trứng đang phát triển. Số lượng và chủng loại thức ăn cũng đóng vai trò quan
trọng trong quá trình phát triển tuyến sinh dục của tôm sú.
Chất đạm là thành phần quan trọng nhất ảnh hưởng đến sự phát triển của vật nuôi.
Theo Nguyễn Khắc Hường (2007) nhu cầu về chất đạm trong nuôi tôm sú thịt khoảng
35 – 40%. Đối với tôm giống và tôm bố mẹ nhu cầu này còn cao hơn nữa. Tốc độ tăng
trưởng khá nhanh sau 5 – 6 tháng tính từ postlarvae 10 – postlarvae 17 có thể thu
hoạch (Nguyễn Thanh Phương và csv, 2009)
2.1.5 Đặc điểm sinh trưởng
Trong quá trình tăng trưởng, khi trọng lượng và kích thước tăng lên đến một mức độ
nhất định, tôm phải lột bỏ lớp vỏ cũ để lớn lên. Sự lột xác thường diễn ra vào ban đêm
và thường đi đôi với sự tăng trọng. Nhưng có trường hợp lột xác nhưng không thể tăng
trọng. Tôm sau khi mới lột xác, vỏ còn mềm nên rất nhạy cảm với môi trường sống
thay đổi đột ngột. Trong quá trình nuôi tôm, thông qua hiện tượng này có thể điều
chỉnh môi trường một cách kịp thời.
Hormone hạn chế sự lột xác (MIH - molt – inhibiting hormone) được tiết ra do các tế

bào trong cuống mắt, truyền theo sợi trục tuyến xoang, chúng tích lũy lại và truyền vào
máu, nhằm kiểm soát chặt chẽ sự lột xác. Các yếu tố bên ngoài như nhiệt độ, ánh sáng,
độ mặn cũng ảnh hưởng đến quá trình lột xác. Chanratchakool (1994) cho biết tần số
lột xác của tôm sú có khối lượng 2 – 5g là 7 – 8 lần/ngày. Tôm có khối lượng 23 – 40g
là 14 – 16 ngày/lần. Tác giả còn cho biết số tôm cái và tôm đực có số lần lột xác khác
nhau. Tôm cái có khối lượng 50 – 70g là 18 – 21 ngày/lần. Tôm đực có cùng khối
lượng là 23 – 30 ngày/lần.
2.2. Tổng quan tình hình phát triển nghề nuôi tôm sú
2.2.1 Tình hình nghề nuôi tôm sú ở Việt Nam và ĐBSCL
Việt Nam là nước có vị trí địa lý, điều kiện khí hậu, thổ dưỡng thích hợp cho việc nuôi
trồng thủy sản. Với bờ biển dài 3.260km trải dài từ Quảng Ninh đến Kiên Giang là
tiềm năng lớn cho thủy sản nước mặn và lợ. Diện tích nuôi tôm gia tăng nhanh chống
từ 50 nghìn ha năm 1985 lên đến 295.000 ha năm 1998 với 30 tỉnh có nuôi tôm sú (Bộ
thủy sản 1999).
Miền Bắc nước ta có những điều kiện khí hậu khắc nghiệt đối với tôm sú, nhiệt độ
giữa các mùa lại có sự biến động khá lớn. Năm 1999 tổng diện tích nuôi tôm sú ở
Miền Bắc là 39.429 ha. Tôm sú được nuôi thử nghiệm đầu tiên tại Hải Phòng nhưng
đạt hiệu quả rất thấp.
Khu vực miền Trung năm 1999 tổng diện tích nuôi tôm sú là 12.530 ha. Miền Trung
có mực nước ven bờ sâu, nền đáy cát và có ít sông lớn, nước biển trong và ít bị ô
6


nhiễm, các chỉ tiêu thủy hóa thuận lợi cho sản xuất giống tôm sú. Tỉnh Khánh Hòa là
trọng điểm sản xuất giống tôm sú. Năm 1998 toàn quốc sản xuất 2.200 triệu tôm giống
thì riêng Khánh Hòa cung cấp 1.660 triệu con. Năm 1996, một số mô hình nuôi công
nghiệp ở Ninh Hòa, Nha Trang và Cam Ranh theo công nghệ của CP (Thái Lan) đã đạt
được năng suất trên 5 tấn/ha/vụ. Miền Trung là tỉnh đi đầu trong lĩnh vực phát triển
công nghệ nuôi tôm ở nước ta. Mùa vụ nuôi thuận lợi nhất ở miền Trung là từ cuối
tháng 4 đến đầu tháng 5 và kết thúc tháng 10 dương lịch.

Năm 1999 tổng diện tích nuôi tôm sú ở miền Nam là 238.279 ha. Miền Nam có điều
kiện thời tiết khí hậu và thổ nhưỡng thuận lợi cho phát triển nuôi tôm sú. Bắt đầu từ
năm 1980, hình thức nuôi chủ yếu là quảng canh, quảng canh cải tiến ở trong rừng
ngập mặn.
Các mô hình nuôi tôm ở ĐBSCL cũng rất đa dạng gồm nuôi quảng canh cải tiến đơn
(trên 300.000 ha), tôm – lúa luân canh (hơn 100.000 ha), tôm rừng (hơn 29.000 ha mặt
nước) và tôm bán thâm canh – thâm canh đang phát triển nhanh chóng về diện tích
(Nguyễn Minh Niên, 2005). Sản lượng tôm năm 2009 cả nước đạt 413.132 tấn và sản
lượng tôm của ĐBSCL là 312.415 tấn, còn sản lượng tôm của tỉnh Bạc Liêu là 65.700
tấn.
Ngành hàng nuôi tôm nước lợ ở ĐBSCL giữ vai trò quan trọng trong việc NTTS của
Việt Nam, năm 2011 ngành công nghiệp nuôi tôm ở ĐBSCL chiếm 92% tổng diện tích
và 75% sản lượng tôm trong cả nước. Hệ thống các trạng trại nuôi cũng phát triển
mạnh làm tăng diện tích và sản lượng tôm trong những năm gần đây. Năm 2011 Cà
Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng là những tỉnh chủ lực trong phát triển nuôi tôm và đã đóng
góp khoảng 50% tổng sản lượng tôm nuôi trong cả nước.
Năm 2012 tình hình sản xuất thủy sản gặp nhiều khó khăn, dịch bệnh trong nuôi tôm
nước lợ vẫn tiếp tục xảy ra và chưa có biện pháp khắc phục triệt để chi phí đầu vào sản
xuất tăng, ảnh hưởng bất lợi của thời tiết. Trong những tháng đầu năm tôm nuôi phát
triển tốt, tuy nhiên đến giữa năm tình hình dịch bệnh diễn ra khá nghiêm trọng tại khu
vực ĐBSCL và các tỉnh duyên hải miền Trung, nơi chiếm tỷ trọng sản lượng tôm lớn
nhất cả nước. Theo Vụ Nuôi trồng thủy sản đến cuối năm diện tích tôm sú bị thiệt hại
lên đến 91.174 ha. Diện tích nuôi tôm sú cả nước năm 2012 là 619 nghìn ha, đạt sản
lượng 298 nghìn tấn giảm 7,1% diện tích và 6,5 % sản lượng so với năm 2011.
Năm 2013 cả nước có trên 30 tỉnh/thành nuôi tôm nước lợ. Trong đó diện tích nuôi
tôm sú là 590 nghìn ha, sản lượng tôm sú là 232 nghìn tấn. Giá trị xuất khẩu tôm đạt
2.5 tỷ USD tăng 33% so với cùng kì năm 2012 và chiếm 44% tổng giá trị xuất khẩu
thủy sản trong cả nước. Cả nước có 12/30 tỉnh thành nuôi tôm trái vụ với tổng diện
7



tích nuôi tôm nước lợ trái vụ lên tới 12 nghìn ha. Trong đó tôm sú là 5.614.3 ha, tôm
thẻ chân trắng là 6.344,7 ha. Khu vực nuôi tôm trái vụ chủ yếu ở ĐBSCL, tại Bạc Liêu
diện thích nuôi thâm canh và bán thâm canh trái vụ tôm sú là 2.924 ha, Trà Vinh là
39,9 ha. Nuôi tôm trái vụ thường có độ rủi ro cao và sản lượng thấp. Tuy nhiên giá bán
cao hơn người nuôi vẫn thu được lợi nhuận.
Năm 2014 diện tích nuôi tôm nước lợ cả nước khoảng 685 nghìn ha, sản lượng ước đạt
660 nghìn tấn. Trong đó sản lượng tôm sú ước đạt 260 nghìn tấn, diện tích nuôi tôm sú
583 nghìn ha. Về cơ cấu tỷ lệ nuôi tôm, đã có sự chuyển dịch lớn về diện tích nuôi tôm
sú sang nuôi tôm thẻ chân trắng. Về phương thức nuôi tôm nước sú đã có xu thế tăng
dần nuôi thâm canh, bán thâm canh và giảm dần diện tích nuôi quảng canh. Giá trị
xuất khẩu thủy sản cả nước tháng 9 năm 2014 ước đạt 6,48 tỷ USD. Trong đó xuất
khẩu tôm đạt 2,93 tỷ USD chiếm 45,2%, bằng 117,2% so với cùng kì năm 2013. Giá
trị xuất khẩu tôm năm 2014 ước đạt 3,8 tỷ USD (Tổng cục thủy sản, 2014).
ĐBSCL có lợi thế phát triển nuôi trồng thủy sản nhưng vẫn chưa xứng với tiềm năng
sẵn có. Sự tăng nhanh về diện tích và sản lượng nuôi trồng thủy sản ở các tỉnh ĐBSCL
trong những năm qua chủ yếu theo chiều rộng, chưa có tính ổn định và bền vững. Đến
nay diện tích NTTS ở ĐBSCL đạt hơn một triệu ha. Trong đó có hơn 600 nghìn ha
nuôi tôm nước lợ chủ yếu là tôm sú. Việc chuyển dịch diễn ra khá nhanh đã vượt dự
tính quy hoạch, khả năng về cơ sở vật chất, công nghệ, kỹ thuật hiện có và trình độ
quản lí. Công tác quy hoạch và chỉ đạo quy hoạch thực hiện chưa tốt, chưa đáp ứng
yêu cầu phát triển, chưa gắn kết giữa các ngành kinh tế.
Thực tế hiện nay vẫn có địa phương chưa có quy hoạch tổng thể hoặc chưa có quy
hoạch chi tiết từng vùng nuôi tôm. Ở một số tỉnh mặc dù diện tích nuôi tăng nhanh,
nhưng công tác kiểm dịch, kiểm tra giống còn nhiều bất cặp, chưa chủ động sản xuất
được giống sạch bệnh, thiếu công nghệ quản lý môi trường theo hướng bền vững. Việc
đầu tư hệ thống thủy lợi phục vụ NTTS còn hạn chế, chưa đáp ứng đủ yêu cầu về cấp
nước và thoát nước. Sự phối hợp giữa các địa phương trong vùng, giữa yêu cầu thủy
lợi nông nghiệp với thủy lợi thủy sản, bảo vệ rừng ngập mặn với NTTS, giũa ngành
thủy sản với các ngành khác chưa chặt chẽ dẫn đến tranh chấp mặn - ngọt phục vụ

nuôi tôm, sản xuất lúa. Công nghệ nuôi nhìn chung còn lạc hậu, nuôi quảng canh
truyền thống là chủ yếu, năng suất đạt thấp, chưa đáp ứng được nguồn nguyên liệu cho
các nhà máy xuất khẩu.
2.2.2 Sơ lược tình hình nuôi trồng thủy sản của tỉnh Bạc Liêu
Ngư nghiệp là ngành kinh tế mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế của Bạc Liêu.
Ngày 10- 10 – 2008, Ủy ban Nhân dân tỉnh Bạc Liêu phê diệt đề án phát triển kinh tế
biển đến năm 2020.
8


Theo đó đến năm 2020 kinh tế biển tỉnh Bạc Liêu sẽ phấn đấu đạt các chỉ tiêu:
Tổng sản lượng thủy sản là 250.000 tấn, trong đó, sản lượng nuôi trồng là 130.000 tấn,
sản lượng khai thác là 120.000 tấn.
Năng lực sản xuất thủy sản: ổn định đội tàu khai thác hiện có, đến năm 2020 có 80%
tàu có công suất 90 CV trở lên.
Diện tích nuôi thủy sản là 62.823 ha. Giá trị kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm từ biển:
550 triệu USD.Kinh tế biển chiếm 50% GDP của tỉnh vào năm 2020.Giai đoạn 2014,
tỉnh xác định thủy sản vẫn là ngành kinh tế mũi nhọn tiếp đến là phát triển du lịch và
dịch vụ ven biển. Tỉnh sẽ ưu tiên đầu tư hoàn chỉnh hệ thống cảng cá khu neo đậu
tránh trú bão; đầu tư phát triển sản xuất muối theo chiều sâu và công nghệ mới nhằm
nâng cao năng suất, chất lượng đảm bảo muối nguyên liệu cho công nghệ; phối hợp
với các Bộ, Ngành Trung ương tiến hành khảo sát, điều tra tài nguyên biển, quy hoạch
sản xuất vùng viển; đầu tư xây dựng hệ thống quan trắc, bảo vệ môi trường, hệ sinh
thái biển.
Sở Nông nghiêp và Phát triển nông thôn tỉnh Bạc Liêu cho biết tổng sản lượng thủy
sản thu được từ nuôi và khai thác biển của tỉnh Bạc Liêu năm 2013 đã đạt trên 179
nghìn tấn đạt trên 68% kế hoạch năm và tăng 5% so cùng kì năm 2012. Trong đó sản
lượng nuôi trồng đạt trên 104 nghìn tấn, tăng 9% so với cùng kì, riêng sản lượng tôm
nuôi năm 2013 vượt kế hoạch trên 2 nghìn tấn với tổng sản lượng thu được trên 54.770
tấn, bằng 115% so với cùng kì. Sản lượng tôm thu hoạch nói trên giúp cho các doanh

nghiệp chế biến xuất khẩu của Bạc Liêu có đủ nguyên liệu chế biến theo đơn đặt hàng
tính đến tháng 8/2013 giá trị xuất khẩu thủy sản của tỉnh Bạc Liêu trên 190 triệu USD.
Trong thời gian qua được sự giúp đỡ được các cấp các ngành về vốn, về giống và khoa
học kỹ thuật các hộ nuôi tôm ở Bạc Liêu đã duy trì sản xuất ổn định thực hiện các mô
hình đa con trong vuông tôm nuôi áp dụng biện pháp nuôi tôm theo mô hình an toàn
sinh học bền vùng đặc biệt là mô hình lúa – tôm được nhân rộng phá thế độc canh con
tôm và độc canh cây lúa, mở ra hướng đi mới an toàn cho nghề nuôi tôm của Bạc Liêu
trong thời gian tới.
2.3 Khái quát điều kiên tự nhiên của tỉnh Bạc Liêu
2.3.1 Vị trí địa lí và địa hình
Bạc Liêu là tỉnh thuộc khu vực ĐBSCL, diện tích tự nhiên 2.594 km2 nằm phía Đông
Bắc của bán đảo Cà Mau. Phía Tây Bắc giáp tỉnh Hậu Giang và Kiên Giang. Đông và
Đông Bắc giáp tỉnh Sóc Trăng. Tây và Tây Nam giáp tỉnh Cà Mau. Đông và Đông
Nam giáp biển Đông.
9


Địa hình tương đối bằng phẳng, chủ yếu nằm ở độ cao trên dưới 1,2m so với mặt nước
biển. Trên địa bàn tỉnh có nhiều kênh gạch lớn như kênh Quản Lộ - Phụng Hiệp, kênh
Cạnh Đền, kênh Phó Sinh, kênh Giá Rai. Địa hình cơ bản là đồng bằng rộng mênh
mông, sông gạch và kênh đào chằng chịt.
2.3.2 Đặc điểm khí hậu
Bạc Liêu nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, thời tiết chia làm hai mùa rõ rệt
mùa khô (mùa nắng) bắt đầu từ tháng 10-11 năm trước đến tháng 4 -5 năm sau; mùa
mưa bắt đầu từ tháng 4 -5 đến tháng 10 -11.
Nhiệt độ trung bình 28,50C. Lượng mưa bình quân là 2.000 – 2.300 mm. Độ ẩm trung
bình mùa khô là 80%, mùa mưa là 85%. Vùng này ít chịu ảnh hưởng của bão và áp
thấp nhiệt đới, nhưng lại chịu tác động mạnh của thủy triều biển Đông và một phần
chế độ nhật triều của biển Tây.
2.3.3 Đặc điểm tài nguyên

Tài nguyên đất: tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh là 258.247 ha. Chia thành nhiều
nhóm: Nhóm đất mặn chiếm 32,6% quỹ đất; nhóm đất phèn chiếm 59,9%; nhóm đất
cát chiếm 0,18%; bãi bồi và đất khác chiếm 4,4%, sông rạch chiếm 2,9% quỹ đất.
Trong đó, đất nông nghiệp 98.309 ha; đất nuôi trồng thủy sản và đất muối 120.714 ha;
đất chuyên dùng 11.323 ha; đất ở là 4.176 ha; còn lại là đất chưa sử dụng (Bộ NN &
PTNT,2014).
Tài nguyên rừng: diện tích rừng và đất rừng chiếm 1,87% diện tích đất tự nhiên, chủ
yếu là rừng phòng hộ. Rừng Bạc Liêu là rừng ngập mặn, úng phèn có năng suất sinh
học cao, có giá trị lớn về phòng hộ và môi trường.
Tài nguyên biển: Bờ biển dài 56km, biển Bạc Liêu có trữ lượng hải sản lớn, chủng loại
hải sản phong phú, với khoảng 661 loài cá. Nhiều loài trong đó có giá trị kinh tế cao
như cá hồng, cá gộc, cá thu, cá chim. Tôm biển có trên 30 loài, có thể thể khai thác
khoảng 10 nghìn tấn/năm. Ngoài tôm và cá, vùng biển Bạc Liêu còn có nhiều loại hải
sản khác như mực, nghêu, sò huyết.

10


CHƯƠNG III
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Thời gian và địa điểm nghiên cứu
3.1.1 Thời gian
Đề tài được thực hiện từ tháng 01/2015 đến tháng 07/2015.
3.1.2 Địa điểm
Những hộ nuôi tôm sú thâm canh tại xã Tân Phong và Tân Thạnh của huyện Giá Rai –
Bạc Liêu.

Hình 3.1 Bản đồ huyện Giá Rai (www.tracdiaviet.vn)
3.2 Phương pháp nghiên cứu
3.2.1 Số liệu thứ cấp

Số liệu thứ cấp được gồm được thu thập tại các cơ quan như Sở Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, Chi cục Nuôi trồng thủy sản, phòng Nông nghiệp về các vùng nuôi,
diện tích nuôi, thuận lợi và khó khăn của mô hình nuôi tôm sú thâm canh ở huyện Giá
Rai - Bạc Liêu.

11


3.2.2 Số liệu sơ cấp
Số liệu thứ cấp được thu thập bằng phiếu phỏng vấn đã soạn sẵn, đến phỏng vấn trực
tiếp 20 hộ nuôi tôm sú thâm canh ở 2 xã Tân Phong và Tân Thạnh của huyện Giá Rai Bạc Liêu để tìm hiểu về tình hình, hiệu quả kinh tế - kỹ thuật của mô hình nuôi sú
thâm canh (Phụ lục B).
Thông tin từ các hộ nuôi
Thông tin chung: Họ và tên chủ hộ, địa chỉ chủ hộ, trình độ học vấn, kinh nghiệm
nuôi, mức tiếp thu khoa học kỹ thuật.
Thông tin về kỹ thuật
Thông tin thiết kế, xây dựng công trình.
Thông tin về con giống: nguồn giống, mật độ thả giống, chất lượng giống.
Thông tin về thức ăn và quản lý cho ăn: nguồn thức ăn, cách cho ăn, chất lượng thức
ăn.
Thông tin về chăm sóc quản lý: cách chăm sóc và quản lý thời gian nuôi, bệnh thường
gặp, cách xử lý.
Thông tin về thu hoạch: cỡ tôm thu hoạch, tỷ lệ sống, trọng lượng, cách thu hoạch.
Thông tin về kinh tế
Năng suất/vụ nuôi, tổng chi phí, tổng thu nhập, tổng lợi nhuận, giá tôm thương phẩm.
Thuận lợi, khó khăn.
3.3 Phương pháp xử lý và phân tích số liệu
3.3.1 Phương pháp phân tích số liệu
Phân tích số liệu kỹ thuật
Mật độ thả giống = số giống thả/diện tích mặt nước (con/m2).

Tỉ lệ sống (%) = (số cá thể sống/số cá thể ban đầu)*100(%).
Hệ số chuyển hóa thức ăn FCR = khối lượng thức ăn/ khối lượng tôm thu hoạch.
Năng suất thu hoạch = sản lượng/diện tích (đvt/ha).
Phân tích số liệu kinh tế
Theo Lê Xuân Sinh (2010), các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu được tính theo các công thức
sau:
Tổng chi phí (TC): TC = TFC + TVC

(3.1)

Trong đó: TFC: Tổng chi phí cố định
12


TVC: Tổng chi phí biến đổi
Phân tích chi phí cố định
Chi phí cố định là những chi phí không thay đổi theo số lượng hay khối lượng lượng
sản phẩm làm ra: Chi phí khấu hao, thuế tài sản, bảo hiểm.
Tổng chi phí cố định (TFC): TFC = AFC x Q

(3.2)

Trong đó:
AFC: Chi phí cố định bình quân
Q: Tổng sản lượng
Phân tích chi phí biến đổi
Chi phí biến đổi là những chi phí biến đổi theo số lượng sản phẩm làm ra: Chi phí
giống, thức ăn, thuốc, hóa chất phòng trị bệnh.
Tổng chi phí biến đổi (TVC): TVC = AVC x Q


(3.3)

Trong đó:
AVC: Chi phí biến đổi bình quân
Q: Tổng sản lượng
Lợi nhuận = Doanh thu – chi phí.
Doanh thu = giá bán * sản lượng thu hoạch.
Hiệu quả chi phí = (Tổng thu/Tổng chi phí)*100.

(3.4)

Tỷ suất lợi nhuận = Lợi nhuận/Tổng chi phí.

(3.5)

Tỷ lệ số hộ nuôi lỗ = Số hộ lỗ/Tổng số hộ nuôi (theo số hộ khảo sát)*100.

(3.6)

Tỷ lệ số hộ nuôi lời = Số hộ lời/Tổng số hộ nuôi (theo số hộ khảo sát)*100.

(3.7)

3.3.2 Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu sơ cấp được kiểm tra sơ bộ trước khi nhập vào máy tính. Số liệu được xử lý
bằng phần mềm Excel.
Phương pháp thống kê mô tả: Giá trị trung bình, lớn nhất, nhỏ nhất, độ lệch chuẩn, tần
suất, tỷ lệ % được dùng để mô tả diện tích nuôi, tình hình sử dụng thức ăn.

13



CHƯƠNG IV
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1 Hiện trạng nuôi tôm sú tại huyện Giá Rai – Bạc Liêu
Nuôi tôm nước lợ là ngành kinh tế chủ lực của tỉnh Bạc Liêu nói chung và huyện Giá
Rai nói riêng. Năm 2014 toàn tỉnh Bạc Liêu có 20,300 ha nuôi trồng thủy sản, trong đó
diện tích nuôi tôm sú là 53 ha (bảng 4.1).
Bảng 4.1 Diện tích, sản lượng và năng suất tôm sú ở huyện Giá Rai – Bạc Liêu
Năm
Diện tích nuôi thủy sản (ha)
Diện tích nuôi tôm sú (ha)
Tổng sản lượng thủy sản (tấn)

2012

2013

2014

18,580

19,100

20,300

58

55


53

34,409

32,241

29,510

(Nguồn: Chi cục nuôi trồng thủy sản tỉnh Bạc Liêu, 2014).

Từ bảng 4.1 Cho thấy diện tích nuôi trồng thủy sản của huyện Giá Rai – Bạc Liêu mỗi
năm đều tăng lên, nhưng tổng sản lượng thủy sản của năm 2013 và 2014 đều giảm
xuống. Nghề nuôi tôm vài năm trở lại đây trở nên bấp bênh, môi trường ngày càng ô
nhiễm, dịch bệnh xảy ra thường xuyên và lây lan trên diện rộng. Nguyên nhân của việc
bùng phát dịch bệnh và năng suất thấp xuất phát từ việc phát triển nuôi tôm một cách
tự phát, quy hoạch vùng nuôi không hợp lý, không đảm bảo cho sự phát triển bền
vững. Nhiều hộ nuôi chuyển sang nuôi tôm thẻ chân trắng nên diện tích tôm sú mỗi
năm đều giảm, năm 2012 đến năm 2014 diện tích nuôi tôm sú từ 58 ha giảm xuống 53
ha.
Sở NN và PTNT của tỉnh đã chỉ đạo đến các ngành chuyên môn, xây dựng lịch thời vụ
phù hợp với từng loại mô hình nuôi trồng thủy sản, tăng cường công tác kiểm soát,
phòng ngừa dịch bệnh cho tôm nuôi.
4. 2 Thông tin kỹ thuật mô hình nuôi tôm sú thâm canh
4.2.1 Độ tuổi, kinh nghiệm
Qua kết quả khảo sát ở bảng 4.2 thì độ tuổi trung bình của các hộ nuôi tôm sú thâm
canh ở Giá Rai là 45 ± 8 tuổi, chủ hộ nuôi có độ tuổi thấp nhất là 29 tuổi và chủ hộ có
độ tuổi cao nhất là 58 tuổi. Có thể thấy rằng đa số chủ hộ là trung niên trở lên có thuận
lợi về mặt kinh nghiệm nuôi tôm. Hầu hết chủ hộ nuôi là nam giới và có đất sở hữu.
Đây là thuận lợi lớn vì nếu là đất sở hữu giúp cho người nuôi tôm an tâm đầu tư vào
con giống, thức ăn cũng như kỹ thuật nhiều hơn nhằm đạt năng suất và hiệu quả kinh

tế cao, tăng lợi nhuận nâng cao đời sống người dân.

14


Bảng 4.2 Cơ cấu về độ tuổi và kinh nghiệm nuôi của chủ hộ
Diễn giải
Tuổi (năm)
Kinh Nghiệm (năm)

TB ± ĐLC

Dao Động (NN-LN)

45 ± 8
6±2

29 - 58
3 - 10

Kinh nghiệm nuôi là yếu tố quan trọng đối với người nuôi tôm, điều đó ảnh hưởng lớn
đến năng suất nuôi. Kinh nghiệm nuôi được tích lũy qua nhiều năm từ những vụ nuôi,
học hỏi kinh nghiệm của bạn bè, càng trải qua nhiều vụ nuôi thì người dân sẽ càng
hiểu rõ đối tượng nuôi của mình. Những kinh nghiệm đó sẽ giúp cho người dân nắm
bắt kịp thời và xử lý một cách hiệu quả trong vụ nuôi, biết được mùa vụ nuôi thích
hợp, thời điểm thả giống, cách thả giống và quản lý chăm sóc ao. Kinh nghiệm nuôi
bình quân 6 ± 2 năm. Trong đó, người có kinh nghiệm nuôi ít nhất là 3 năm, người có
kinh nghiệm nuôi cao nhất là 10 năm (bảng 4.2).
Trình độ chuyên môn
Ở mô hình nuôi tôm sú thâm canh, các nông hộ có trình độ chuyên môn khá cao, do có

sự quản lý kỹ thuật của kỹ sư (qui mô công ty) đó cũng là một trong những yếu tố
quyết định đến năng suất. Phần lớn người nuôi tôm ở đây có chuyên môn từ các cán bộ
khuyến ngư trong huyện.
Qua kết quả khảo sát 60% người nuôi được đào tạo qua lớp tập huấn. Số hộ không
tham gia tập huấn còn cao 40%, có nhiều nguyên nhân do người dân không biết được
chương trình tập huấn, điều kiện nơi tập huấn và cũng có người dân đánh giá thấp
chương trình tập huấn. Vì vậy, chính quyền địa phương cần kết hợp với cán bộ khuyến
ngư mở nhiều lớp tập huấn, hội thảo để truyền bá cho người dân tiếp cận những tiến
bộ kỹ thuật, cập nhật thông tin mới và đưa vào sản suất nhằm nâng cao trình độ
chuyên môn của người nuôi tôm.
4.2.2 Công trình ao nuôi
Xây dựng ao nuôi nằm trong vùng nuôi đã quy hoạch. Nền đất ao nuôi phải là đất thịt,
đất pha cát, ít mùn hữu cơ, có kết cấu chặt chẽ, giữ nước tốt thuận tiện cho việc cấp và
thoát nước. Chủ động nguồn nước cấp không bị ô nhiễm nguồn nước thải công nghiệp,
nông nghiệp và nguồn nước sinh hoạt.

15


Bảng 4.3 Công trình nuôi tôm sú thâm canh
Công trình ao nuôi

TB ± ĐLC

Dao Động (NN-LN)

Diện tích ao nuôi (ha)

0,37 ± 0,14


0,2 – 0,7

Độ sâu (m)

1,42 ± 1,1

1,2 – 1,8

Diện tích ao lắng (ha)

0,14 ± 0,05

0,08 – 0,25

42 ± 15

14 – 67

Tỷ lệ S ao lắng/S nuôi (%)

Diện tích ao nuôi
Dựa vào bảng 4.3 cho thấy diện tích nuôi thâm canh tôm sú bình quân 0,37 ± 0,14ha,
diện tích nuôi lớn nhất là 0,7 ha, thấp nhất 0,2 ha. Diện tích nằm trong khoảng 0,3 –
0,35 ha chiếm nhiều nhất 50%, kế đến diện tích nhỏ hơn 0,2 – 0,3 ha chiếm 15% và
diện tích lớn hơn 0,35 – 0,7 ha chiếm 35%. Phần lớn người nuôi tôm sử dụng ao nuôi
có diện tích 0,3 – 0,35 ha với diện tích này người nuôi tôm dễ quản lý cả về môi
trường ao nuôi lẫn dịch bệnh. Ta có thể thấy rõ diện tích nuôi tôm càng lớn năng suất
bình quân càng thấp và khó quản lý. Đối với diện tích nuôi từ 0,3 – 0,35 năng suất đạt
cao nhất 5,25 ± 4,97 tấn/ha/vụ (bảng 4.4). Do đó, những ao nuôi có diện tích lớn hơn
người nuôi nên có kế hoạch phân chia nhỏ để thuận lợi cho việc chăm sóc và quản lí

nhằm đạt năng suất cao.
Bảng 4.4 Cơ cấu diện tích ao nuôi tôm sú thâm canh
Diện tích

Tỷ lệ (%)

Năng suất (TB±ĐLC)

0,2 - 0,3
0,3 - 0,35
0,35 - 0,7

15
50
35

1,83 ± 2,21
5,25 ± 4,97
4,86 ± 3,28

Độ sâu
Độ sâu có vai trò quan trọng trong ổn định môi trường và tăng không gian di chuyển
cho tôm trong điều kiện nuôi mật độ cao, tuy nhiên quá sâu sẽ ảnh hưởng bất lợi đến
môi trường, kết quả khảo sát ở bảng 4.3 cho thấy các ao nuôi tôm sú thâm canh trong
huyện có độ sâu từ 1,2 đến 1,8 m nhưng chủ yếu tập trung vào khoảng 1,42 ± 1,1 m.
Trong đó nhiều hộ nuôi ở độ sâu 1,5 m chiếm 60% tổng số hộ nuôi. Cho thấy ở độ sâu
1,5 m thích hợp với vùng nuôi tôm sú thâm canh ở Giá Rai – Bạc Liêu (hình 4.1).

16



Hình 4.1 Độ sâu mô hình nuôi tôm sú thâm canh
Diện tích ao lắng
Ao lắng là nơi cải thiện chất lượng nước trước khi cấp nước vào ao nuôi và để chứa
tôm môi khi gập sự cố. Ao lắng không thể thiếu trong quá trình ao nuôi thâm canh
hiện nay. Ao lắng phải đảm bảo từ 30 – 50% thể tích nuôi. Kết quả khảo sát ở bảng 4.3
cho thấy lệ diện tích ao lắng trên diện tích nuôi bình quân 42 ± 15 tỷ lệ cao nhất là
67% tỷ lệ thấp nhất 14% (bảng 4.3).
Qua khảo sát tình hình sử dụng ao lắng trong nuôi tôm là rất phổ biến. Diện tích ao
lắng lớn nhất là 0,25 ha nhỏ nhất là 0,08 ha . Diện tích ao lắng bình quân 1465 ± 560
m2. Khi sử dụng ao lắng sẽ hạn chế được dịch bệnh lây lan từ nguồn nước giữa các hộ
nuôi. Cho nên việc sử dụng ao lắng là rất cần cho việc nuôi tôm, giúp cho người nuôi
giảm được rủi rỏ và tăng năng suất.
4.2.3 Thời gian cải tạo và mùa vụ
Việc tẩy dọn ao nuôi trước khi thả nuôi là rất cần thiết trong quá trình nuôi nhằm loại
bỏ mầm bệnh, dịch hại, các chất hữu cơ hay chất bẩn. Tất cả các hộ nuôi được khảo sát
đều có chung cách cải tạo là cải tạo khô (sên cạn) đó là nuôi tôm được tiến hành tát
cạn và phơi khô trước khi bắt đầu cải tạo ao, sau khi phơi khô nền đáy, lớp mùn bã và
chất thải của vụ trước được máy ủi chuyển ra khỏi ao. Sau đó đáy ao được bón vôi và
rửa nước 2 – 3 lần trước khi lấy nước vào ao nuôi để xử lý diệt tạp và gây màu nước.
Thời gian cải tạo trung bình khoảng 30 ngày. Thời gian cải tạo ngắn nhất là 10 ngày và
dài nhất là 60 ngày trong khi đó thời gian cải tạo từ 10 – 15 ngày thì mùa vụ thả nuôi
bình quân 2 ± 1 vụ/năm còn thời gian cải tạo 60 ngày thì mùa vụ nuôi bình quân 1 ± 1
vụ/năm. Kết quả khảo sát 100% hộ nuôi tôm đều cải tạo một vụ đầu trong năm để rút
ngắn thời gian cải tạo và nhằm giảm chi phí cải tạo.
4.2.4 Thuốc và hóa chất trong khâu chuẩn bị ao nuôi trước khi thả giống
Các loại hóa chất hộ nuôi sử dụng ở bảng 4.5 đa số người nuôi tôm dựa vào kinh
nghiệm qua các vụ nuôi. Một số loại hóa chất thường dùng để chuẩn bị ao nuôi trước
khi thả giống như Saponin, Vôi CaCO3, Chlorin.
17



Bảng 4.5 Thuốc và hóa chất trong khâu chuẩn bị ao nuôi trước khi thả giống
Thuốc và hóa chất

Công dụng

Tỷ lệ (%)

Vôi CaCO3
Vôi CaO
Top – Kenta
Yucca
Vôi Ca(OH)2

cải tạo ao nuôi
cải tạo ao nuôi
cải tạo ao nuôi
cải tạo ao nuôi
cải tạo ao nuôi

65
35
5
5
5

Vôi dolomite
Chlorin
BKC

Iodin

cải tạo ao nuôi, diệt tạp
diệt khuẩn
diệt khuẩn
diệt khuẩn

20
45
25
30

Thuốc tím
TCCA
Saponin
Tetracylin

diệt khuẩn
diệt khuẩn
diệt tạp
xử lý nước trước khi thả giống

5
5
85
5

Qua khảo sát cho thấy có nhiều loại thuốc và hóa chất dùng để cải tạo ao trước khi thả
giống. Trong đó saponin chiếm 85% được hộ nuôi sử dụng nhiều nhất công dụng là để
diệt tạp và ổn định màu nước trước khi thả nuôi, kế đến là vôi CaCO3 chiếm 65% hóa

chất được sử dụng với mục đích sử dụng là xử lý đất trong giai đoạn cải tạo do vôi có
tính sát khuẩn cao làm tăng pH đất, được sử dụng nhiều ở những vùng đất bị nhiễm
phèn, Chlorine chiếm 45% cũng được sử dụng nhiều nhằm mục đích diệt khuẩn trong
quá trình lấy nước vào ao nuôi. Một số khác cũng được sử dụng phổ biến nhằm mục
đích cải tạo, diệt khuẩn và diệt tạp như vôi CaO, iodin, vôi dolomit, vôi Ca(OH)2,
TCCA. Nhìn chung, hóa chất chuyên dùng trong nuôi trồng thủy sản như vôi, saponin,
chlorin, iodin được các hộ nuôi sử dụng nhiều (Nguyễn Quốc Huy, 2012). Trong điều
kiện môi trường, dịch bệnh diễn biến phức tạp việc sử dụng hóa chất chuẩn bị ao nuôi
trước khi thả giống đây cũng là khâu quan trọng quyết đến hiệu quả kinh tế và sản
lượng nuôi tôm.
4.2.5 Phương pháp gây màu nước trong nuôi tôm sú thâm canh
Thực hiện gây màu nước sau khi đã diệt khuẩn từ 3 - 7 ngày. Đây là khâu quan trọng
nhằm tạo nguồn thức ăn tự nhiên trong ao nuôi. Gây màu nước tốt giúp ổn định môi
trường nước hạn chế được tôm bị sốc và giúp tăng tỉ lệ sống. Vì vậy, người nuôi tôm
cần nắm vững quy luật thay đổi màu nước và những hóa chất để gây màu nước mà
không ảnh hưởng đến tôm. Kết quả khảo sát cho thấy 100% hộ nuôi đều gây màu nước
trước khi nuôi. Đa phần các hộ nuôi gây màu nước bằng cách kết hợp nhiều hóa chất
với nhau hoặc kết hợp một loại hóa chất với phụ phẩm nông nghiệp, trong đó nhóm
chất kết hợp được người nuôi sử dụng là dolomit + men và thức ăn tôm + cám chiếm
18


20% số hộ sử dụng. Tuy nhiên, trong số các hộ sử dụng dolomit + men có hộ gặp
trường hợp thiệt hại 100% khi tôm hơn 30 ngày tuổi kèm theo đó là chi phí cải tạo và
chi phí hóa chất khá cao vì men sử dụng ở đây là men vi sinh bán ngoài thị trường.
Các hóa chất sử dụng gây màu nước thì nhóm men chiếm tỷ lệ cao nhất 25% năng suất
nuôi bình quân 3,90 ± 5,67 tấn/ha/vụ tương đối cao so với các loại hóa chất kết hợp
khác. Men thường được sử dụng đơn như men ủ, BZT, Focus. Ngoài ra, người nuôi
còn sử dụng một số hợp chất khác như thức ăn tôm + cám, dolomit + khoáng + men,
cám + bột cá + bột đậu nành.

Bảng 4.6 Các chất gây màu nước trong nuôi tôm sú thâm canh
Số hộ sử dụng

Tỷ lệ (%)

Năng suất (TB±ĐLC)

NPK

1

5

5,70 ± 0

Dolomit + men
Men
Dolomit
Dolomit + khoáng + men
Thức ăn tôm + cám
Cám + bột cá + bột đậu nành
Thức ăn

4
5
1
2
1
2
1


20
25
5
10
20
10
5

9,17 ± 3,97
3,90 ± 5,67
3,60 ± 0
4±0
2,22 ± 0
5±0
2,70 ± 0

Chất gây màu nước

4.2.6 Nguồn giống và giá con giống
Qua kết quả khảo sát ở bảng 4.7 cho thấy nguồn con giống được các hộ nuôi thả có ba
nguồn chủ yếu là Miền Trung, Bạc Liêu và Cà Mau. Trong đó, nguồn con giống từ
Miền Trung chiếm tỷ lệ 25%, con giống từ Bạc Liêu chiếm 55% và con giống từ Cà
Mau chiếm 20%. Giá con giống bình quân 87,6 ± 9,05 đồng/con, giá cao nhất là 120
đồng/con và thấp nhất là 80 đồng/con.
Bảng 4.7 Nguồn giống tôm nuôi
Tỷ lệ (%)

Giá giống (TB±ĐLC)
(đồng/con)


Dao động (NN –LN)

Miền Trung

25

88,4 ± 6,34

80 – 97

Bạc Liêu

55

89,09 ± 11,13

80 – 120

Cà Mau

20

82,5 ± 2,88

80 – 85

Nguồn

Nhìn chung, giá con giống giữa các vùng cũng không có sự chênh lệch nhiều. Tôm

giống Miền Trung giá có giá bình quân 88,4 ± 6,34 đồng/con, giá cao nhất là 97
đồng/con và giá thấp nhất là 80 đồng/con. Giá tôm giống nguồn Bạc Liêu bình quân
89,09 ± 11,13 đồng/con, giá thấp nhất là 80 đồng/con và giá cao nhất 120 đồng/con.
Giá tôm giống nguồn Cà Mau bình quân 82,5 ± 2,88 đồng/con, giá thấp nhất 80
đồng/con và giá cao nhất là 85 đồng/con. Nguyên nhân người nuôi sử dụng tôm giống
19


có nguồn gốc từ Bạc Liêu nhiều hơn mặc dù giá tôm cao hơn những nơi khác là do
thuận tiện trong việc vận chuyển vận, mua bán. Bạc Liêu cũng là nơi cung cấp con
giống chất lượng của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tôm giống có nguồn gốc từ
Bạc Liêu được sử dụng gấp 2 lần nguồn tôm giống Miền Trung.
4.2.7 Cách kiểm tra con giống
Kết quả khảo sát có 60% người nuôi khi mua giống về không mang giống đi xét
nghiệm chỉ có một số 40% hộ mang giống đi xét nghiệm ở một số điểm như Bạc Liêu,
Đại học Cần Thơ. Qua đó cho thấy các hộ nuôi chưa chú trọng trong việc lựa chọn con
giống, chủ yếu mang tâm lý là các trại giống đã xét nghiệm nên không cần kiểm tra lại
và một phần là do sợ tốn kém thêm chi phí.
4.2.8 Mật độ thả giống và kích cỡ thả giống
Mật độ thả giống có tác động rất lớn đến khả năng tăng trưởng của tôm. Mật độ thả
giống là các yếu tố rất quan trọng trong nuôi tôm vì nó ảnh hưởng đến các chi phí như
thức ăn, con giống, trang thiết bị và nhiên liệu.
Bảng 4.8 Mật độ và kích cỡ con giống trong mô hình nuôi tôm sú thâm canh
Diễn giải
Mật độ (con/m2 )
Kích cỡ giống (PL)

TB ± ĐLC

Dao động


28 ± 4,70
13 ± 1,12

20 - 40
12 - 15

Mật độ
Từ 4.8 các hộ nuôi tôm sú ở Giá Rai – Bạc Liêu có mật độ thả trung bình là 28 ± 4,70
con/m2 cao hơn kết quả nghiên cứu của Trần Văn Việt (2006) (21,3 con/m2) và Võ
Văn Bé (2007) (17 con/m2). So với kết quả điều tra cho thấy mật độ nuôi tôm sú ngày
càng tăng (28 ± 4,70) con/m2 do giá thành nuôi tôm thương phẩm ngày càng tăng
mạnh do đó người nuôi tôm đã tăng mật độ lên nhằm mang lại năng suất cao. Việc
những hộ nuôi tự nâng mật độ nuôi cao là để tăng năng suất và sản lượng tôm nuôi.
Tuy nhiên việc làm này đi kèm với rủi ro lớn làm tăng thêm chi phí đầu tư do đó đòi
hỏi phải cẩn thận trong chăm sóc và quản lí.
Bảng 4.9 Mật độ và năng suất của mô hình nuôi tôm sú thâm canh
Mật độ (con/m2 )

Tỷ lệ (%)

Năng suất (TB±ĐLC)

20
25

10
45

7,89 ± 5,09

6,48 ± 4,59

30
35
40

20
15
10

7,85 ± 11,04
5,67 ± 6,93
3,35 ± 0,21

20


Trong đó, hộ nuôi có mật độ thả cao nhất là 40 con/m2 và mật độ thấp nhất 20 con/m2.
Những hộ thả tôm với mật độ 40 con/m2 năng suất thu hoạch bình quân là 3,35 ± 0,21
con/m2, thường xảy ra bệnh nên tỷ lệ sống thấp (dưới 50%). Khi thả với mật độ từ 20
con/m2 cho hiệu quả cao nhất vì tôm có tỷ lệ sống khá cao (66,1%) và năng suất là
7,89 ± 5,09 con/m2 do tận dụng diện tích mặt nước để tăng năng suất. Những phân tích
trên chứng tỏ mật độ nuôi có mối liên hệ chặt chẻ với năng suất (bảng 4.9).
Kích cỡ giống
Kích cỡ con giống trung bình là PL13 ± 1,12 trong đó kích cỡ con giống lớn nhất là
PL15 và kích cỡ con giống nhỏ nhất là PL12. Tuy nhiên, kích cỡ con giống được
người nuôi chọn thả nuôi phổ biến là PL12 và PL13 chiếm 40%, số hộ thả nuôi, kích
cỡ con giống ảnh hưởng đến tỷ lệ sống và khả năng chống chịu của tôm trong môi
trường mới, vì vậy con giống có kích cỡ lớn thường có tỷ lệ sống cao hơn trong cùng
điều kiện, tuy nhiên giá thành cũng cao hơn và đây cũng là vấn đề quan tâm của người

nuôi được.
4.2.9 Chăm sóc và quản lý
Cách cho ăn và quản lý khẩu phần ăn
Tất cả hộ nuôi cho tôm ăn 4 lần/ngày. Có 3% hộ nuôi cho ăn thêm lúc ban đêm ở giai
đoạn tôm sú nhỏ, thời gian cho ăn là từ 20 – 21h cho đến khi tôm lớn thì ngưng cho ăn
ban đêm. Khi cho ăn 4 lần có 27% hộ nuôi cho ăn ngay giai đoạn mới thả từ 2 – 10
ngày cho đến suốt vụ nuôi nhưng 63% hộ nuôi đều cho ăn ở giai đoạn tôm lớn 15 – 20
ngày. Khi đặt sàn ăn quản lý được lượng thức ăn cho tôm và sức ăn của tôm, các hộ
nuôi đặt sàn ăn khi tôm được 20 ngày tuổi. Mỗi ao trung bình khoảng 2 sàn ăn, thức ăn
bỏ vào sàn ăn từ 5g – 100g/kg thức ăn.
Hệ số chuyển hóa thức ăn (FCR)
Hệ số chuyển hóa thức ăn có ý nghĩa rất quan trọng trong nuôi thương phẩm, đặc biệt
trong mô hình nuôi thâm canh vì trong nuôi trồng thủy sản với bất kỳ hình thức nào,
thức ăn luôn đóng vai trò quan trọng đối với thành công và lợi nhuận (Trần Thị Thanh
Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009). Hệ số chuyển hóa thức ăn của các hộ nuôi khảo sát
trung bình 1,15 ± 0,08, hệ số chuyển đổi thức ăn cao nhất là 1,26 và thấp nhất là 1. Với
hệ số FCR bằng 1,15 thấp hơn kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thanh Phương và ctv
(2008) (FCR = 1,59). Nguyên nhân các hộ nuôi sử dụng ít thức ăn là do giá tôm giảm
nên các hộ tận dụng thức ăn tự nhiên trong giai đoạn đầu và chỉ cho ăn hạn chế trong
thời gian chờ bán. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong nuôi sú thâm canh. Trong
nuôi tôm thâm canh, người nuôi luôn muốn hạ thấp FCR để giảm chi phí sản xuất
bằng cách chọn thức ăn có chất lượng tốt và quản lý thức ăn tốt nhất trong quá trình
nuôi.
21


Kiểm tra chất lượng nước
Quản lý chất lượng nước là khâu vô cùng quan trọng và có ý nghĩa quyết định sự
thành công trong nuôi trồng thủy sản. Trong hình nuôi tôm sú thâm canh một lượng
lớn vật chất dinh dưỡng được đưa vào trong ao nuôi thông qua con đường thức ăn cho

tôm. Thức ăn dư thừa sẽ tích tụ trong ao và sẽ làm cho chất lượng nước xấu đi làm ảnh
hưởng đến sức khỏe của tôm và tăng nguy cơ bệnh trong ao nuôi.
Chất lượng nước trong môi trường ao nuôi không ổn định sẽ ảnh hưởng đến hoạt động
trao đổi chất và tiến trình sinh lý khác của vật nuôi, làm gia tăng stress đối với vật nuôi
đưa đến dễ mẫn cảm với mầm bệnh gây chết vật nuôi và làm chậm tăng trưởng ảnh
hưởng đến năng suất, sản lượng. Qua kết quả khảo sát các hộ nuôi tôm sú thâm canh
đều kiểm tra chất lượng nước mỗi ngày đối với các chỉ tiêu như ôxy hòa tan (DO), pH,
độ mặn, độ trong, nhiệt độ và 3 – 5 ngày/lần đối với các chỉ tiêu như độ kiềm, NH3,
H2S.
Cách xử lý nước đầu vào
Khi mực nước ao xuống thấp trong quá trình nuôi, người nuôi cấp nước chủ yếu là
nước ngầm (nước giếng khoan) nên không xử lý nước chiếm 70% hộ nuôi, còn khoảng
30% hộ nuôi thì vẫn xử lý nước bằng các hóa chất như tetra, men vi sinh, chlorin,
BKC, saponin, TCCA, iodin. Cho nước qua rổ có kích thước lỗ nhỏ rồi bơm vào ao.
Trong quá trình nuôi có 50% hộ nuôi vẫn gặp trường hợp tảo tăng. Trong đó có 35%
hộ nuôi xử lý tảo bằng dùng các hóa chất như men, khoáng, phân urê, dolomit, vôi
CaO, CaCO3, BKC và có 20% hộ nuôi dùng cách thay nước để hạn chế tảo phát triển.
Các bệnh thường gặp ở tôm nuôi
Bệnh tôm là vấn đề lớn và khó khăn nhất trong quá trình nuôi tôm hiện nay, đặc biệt là
mô hình nuôi tôm thâm canh. Qua kết quả khảo sát cho thấy trong 20 hộ thì có 16 hộ
có tôm bị bệnh và những bệnh xuất hiện phổ biến như cong thân, đốm trắng, đường
ruột, gan và một số bệnh khác thể hiện ở bảng 4.10.
Bảng 4.10 Một số bệnh trên xuất hiện tôm trong quá trình nuôi
Bệnh

Số hộ

Tỷ lệ (%)

Cong thân

Đốm trắng
Đường ruột
Gan
Hoại tử gan tụy
Phân trắng

5
2
9
8
2
6

25
10
45
40
10
30

Đầu vàng
Đỏ thân

8
6

40
30

22



Qua bảng 4.10 cho thấy bệnh thường xuất hiện nhiều nhất là bệnh đường ruột chiếm
45%, bệnh xuất hiện từ 15 – 25 ngày nuôi đa số hộ nuôi đều có tôm chết rãi rác trong
vụ nuôi.
Khi phát hiện tôm có bệnh đường ruột trắng loãng, đứt khúc người nuôi xử lý bằng
cách cho Lenmetesonre xuống ao với liều lượng 1 - 2lít/1000m3 nước và thuốc diệt
khuẩn SDK 2 lít/1000m3 nước. Lenmetesonre trộn cho tôm ăn liều dùng 50ml/1kg
thức ăn, cho ăn 3 cữ/ngày và liên tục trong vòng 3 ngày. Nên giảm thức ăn vì bệnh này
làm tắt nghẽn đường ruột cho ăn nhiều tôm càng nhanh chết.
Trong các loại bệnh trên thì bệnh đốm trắng, hoại tử gan tụy, đầu vàng, đỏ thân là các
bệnh gây thiệt hại nặng cho người dân (Nguyễn Thị Thu Trâm, 2014) bệnh xuất hiện
thường ở tháng đầu từ 20 – 25 ngày kéo dài trong vòng từ 3 - 4 ngày gây thiệt hại
100% cho các hộ nuôi.
Thuốc, hóa chất trong quản lý và phòng trị bệnh
Qua thống kê cho thấy, 100% ao nuôi đều sử dụng các hóa chất trong xử lý ao và nước
trong suốt quá trình nuôi như vôi nung, vôi nông nghiệp, vôi đá, chế phẩm vi sinh như
EM, Bokashi để ổn định pH nước, tăng độ kiềm trong ao và cải thiện đáy ao. Trong
quá trình nuôi người nuôi thường bổ sung vào thức ăn các loại thuốc tăng sức đề
kháng như các loại vitamin tổng hợp, C, B, D. Trong đó vitamin C được sử dụng nhiều
nhất và các loại khoáng ăn, khoáng tạt định kỳ giúp tôm cứng vỏ, mau lột xác như For
Aquaculture, Somix, Canxi milk, BiO, Eco-Mix, Vina Glucan, Bestot No.1, Canmac,
Solamis, Haninora, Minomis, khoáng nguyên liệu, Đất Việt, Nova – mix 99, Supperlic,
Suppervita. Trong đó khoáng Canxi milk được nhiều hộ nuôi sử dụng (35%) cùng với
các loại men tiêu hóa như Vita, Biolact, Đất Việt, Over Big, Marine labs, Oxytra 80,
Zymos, Biurit, Pro – Biozyme, Sorbitol, Top – Bac.
4.2.10 Thu hoạch
Qua thực tế khảo sát nhận thấy rằng một vụ nuôi tôm sú thâm canh dao động từ 110 –
125 ngày/vụ. Thời điểm thu hoạch còn tùy thuộc vào tình hình sức khỏe của tôm và
giá cả thị trường. Thông thường hình thức thu hoạch chỉ một lần bằng cách tháo cạn

nước và kéo lưới, thời gian thu hoạch tốt nhất vào lúc trời mát.
Từ bảng 4.11 cho thấy năng suất của mô hình nuôi tôm sú thâm canh ở Giá Rai bình
quân 4,60 ± 4,19 tấn/ha, kích cỡ tôm bình quân 38,06 ± 6,61 con/kg. Giá thành trung
bình 189,37 ± 29,09 nghìn đồng/kg dao động từ 120 – 220 nghìn đồng/kg.

23


Bảng 4.11 Các chỉ tiêu của mô hình nuôi tôm sú thâm canh
Diễn giải
Kích cỡ thu hoạch (con/kg)
Giá bán (đồng)
Tỷ lệ sống (%)
Thời gian nuôi (tháng)
Năng suất (ha)

TB ± ĐLC

Dao Động (NN-LN)

38,06 ± 6,61
189,37 ± 29,09
51,21 ± 31,02
4 ± 0,86
5,74 ± 3,90

30 – 55
120 – 220
0 – 84,40
2,5 – 5,50

0 – 14,50

Kích cỡ thu hoạch
Kích cỡ thu hoạch bình quân 38,06 ± 6,61 con/kg. Kích cỡ tôm thu hoạch thấp nhất là
30 con/kg và kích cỡ thu hoạch cao nhất là 55 con/kg. Do nhu cầu về thị trường nhiều
nguời ưu chuộng tôm sú nên giá thành tương đối ổn định hơn tôm thẻ chân trắng, tôm
sú loại 30 con/kg có giá dao động từ 170 -190 nghìn đồng/kg.
Giá bán
Giá tôm trên thị trường hiện nay còn nhiều biến động chưa được ổn định làm ảnh
hưởng đến doanh thu của các hộ nuôi, có hộ nuôi khi thu hoạch kích cỡ tôm thu hoạch
là 48 con/kg giá bán được là 142.000 đồng/kg trong khi đó hộ nuôi có kích cỡ tôm thu
hoạch lớn hơn 50 con/kg nhưng lại bán được 145.000 đồng/kg, điều này ảnh hưởng rất
lớn đến thu nhập của người nuôi, vì giá tôm biến động liên tục ở các thời điểm khác
nhau, nhu cầu của thị trường và số lượng tôm thương phẩm ở vùng nuôi, thông thường
khi sản lượng tôm thu hoạch cao thì giá thấp và ngược lại tôm chết nhiều năng suất và
sản lượng thấp thì giá bán cao, điều này tạo thách thức lớn đối với người nuôi. Giá bán
tôm sú thương phẩm trung bình là 189,37 ± 29,09 ngàn đồng/kg, tùy thuộc vào kích cỡ
và thời điểm, nhìn chung doanh thu của các hộ nuôi tương đối cao trung bình đạt
885,76 ± 871,73 triệu đồng/ha/vụ.
Tỷ lệ sống
Tôm sú là loài có khả năng thích ứng cao với điều kiện môi trường nên tỷ lệ sống cao
trung bình đạt 51,21 ± 31,02%, tỷ lệ sống cao nhất 87,40% (bảng 4.11). Tỷ lệ sống
trên 70% chiếm tỷ lệ cao nhất (35%), tỷ lệ sống từ 50 – 70% chiếm tỷ lệ thấp nhất
(15%) và số hộ bị thiệt hại hoàn toàn chiếm (20%) hình 4.2. Nhìn chung, qua khảo sát
tôm sú có tỷ lệ sống và năng suất cao chứng minh cho một điều là người nuôi dần hiểu
rõ về đối tượng nuôi, kỹ thuật tay nghề cao và thận trọng trong nghề nuôi tôm nước lợ.

24



Hình 4.2 Tỷ lệ sống mô hình nuôi tôm sú thâm canh

Thời gian nuôi
Từ bảng 4.11 cho thấy thời gian nuôi tôm sú trung bình dao động 4 ± 0,86 tháng, thời
gian ngắn nhất lá 2,5 tháng, số hộ có thời gian nuôi kéo dài nhất 5,5 tháng. Tuy nhiên,
thời gian nuôi có thể là dài nhưng tôm chậm lớn, điều này ảnh hưởng đến năng suất và
giá bán, nguyên nhân là do lạm dụng chất kháng sinh liên tục ở liều cao trong sản xuất,
ương vèo để điều trị bệnh nhiễm khuẩn của tôm giống đã làm giảm sức kháng bệnh
của tôm khi đưa vào nuôi, giảm khả năng chuyển hóa thức ăn dẫn tới tình trạng tôm
chậm lớn, còi cọc làm tăng hệ số sử dụng thức ăn, tăng chi phí và cũng có thể do
người nuôi thả giống kém chất lượng, mang mầm bệnh có thể dẫn đến tôm chết hàng
loạt sau 1 - 2 tháng nuôi hoặc tôm chậm lớn dẫn đến thời gian nuôi dài, FCR cao, tỷ lệ
sống thấp (Ngô Thế Trường, 2009).
Năng suất
Qua khảo sát 20 hộ nuôi tôm sú có 20% hộ bị mất trắng và có 80% hộ nuôi có năng
suất trung bình 5,74 ± 3,90 tấn/ha/vụ.
Kết quả khảo sát thấy rằng các hộ nuôi có năng suất cao là do sử dụng thuốc và hóa
chất hợp lý, không lạm dụng thuốc hóa chất nhiều, chủ yếu là sử dụng các nguyên liệu
có sẵn mà không ảnh hưởng đến tôm nuôi khi gây màu nước như thức ăn tôm, bột đậu
nành, bột cá, men nấu rượu, cám còn của các hộ nuôi lỗ thường là dùng các loại men
vi sinh bán trên thị trường và dolomit.
Trong cách chọn giống, thả giống giữa hộ nuôi có năng suất cao và hộ nuôi có năng
suất thấp thì hộ có năng suất cao chọn con giống kích cỡ thả giống là PL13, trước khi
thả các hộ nuôi ngâm thuần nhiệt độ nhưng có chạy oxy hoặc sục khí, còn các hộ có
năng suất thấp thì không chạy oxy sục khí. Trong quá trình cho ăn các hộ nuôi có năng
suất cao bổ sung chủ yếu là vitamin C, ngoài ra còn bổ sung những thuốc phòng trị
bệnh gan, đường ruột, khoáng, các nguyên liệu như nước mắm, rượu, tỏi, nước biển
khô. Trong vụ nuôi có thay nước và sử dụng nhiều hóa chất để xử lý nước, có một số
hộ nuôi áp dụng kỹ thuật nuôi ghép với cá kèo, cá rô phi đơn tính, ao nuôi có lót bạt.
25



×