Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Nghiên cứu xây dựng giải pháp thúc đẩy các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại hải phòng tham gia lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (534.95 KB, 78 trang )

1

Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Phát triển công nghiệp hỗ trợ có ý nghĩa vô cùng quan trọng cho quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá của mỗi quốc gia, đặc biệt là ở những quốc gia đang phát
triển. Vì ở những quốc gia này, muốn hình thành và phát triển một số ngành công
nghiệp hiện đại, nhất là những ngành công nghiệp như sản xuất ô tô, xe máy; các sản
phẩm điện tử, điện lạnh... một cách hiệu quả thì họ phải thực hiện thành công việc nội
địa hóa một cách cơ bản các ngành công nghiệp đó. Muốn vậy, họ phải phát triển
mạnh ngành công nghiệp hỗ trợ để các sản phẩm của nó thay thế dần, tiến tới thay thế
hoàn toàn các sản phẩm nhập khẩu.
Với mục tiêu đó hiện nay các nước trên thế giới đã có chính sách phát triển
công nghiệp hỗ trợ từ rất sớm phục vụ cho nhu cầu sản xuất của các doanh nghiệp có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Điển hình như Nhật Bản, Thái Lan, Malaysia
và Trung Quốc...Để phát triển được các ngành công nghiệp trọng điểm, các quốc gia
đã khuyến khích việc thành lập các doanh nghiệp vừa và nhỏ là các doanh nghiệp vệ
tinh sản xuất các sản phẩm đầu vào cho các doanh nghiệp lớn. Với đặc thù về quy mô
nhỏ và vừa là phù hợp với lĩnh vực công nghiệp phụ trợ, tính linh hoạt của các doanh
nghiệp nhỏ và vừa là điều kiện thuận lợi trở thành các doanh nghiệp vệ tinh.
Tại Việt Nam, các vấn đề lý luận cũng như chính sách phát triển ngành công
nghiệp hỗ trợ chỉ được chú trọng trong những năm gần đây. Việc phát triển công
nghiệp hỗ trợ còn chậm trễ. Trong những năm qua, năng lực cạnh tranh của quốc gia
cũng như doanh nghiệp ít được cải thiện, việc chậm trễ trong quy hoạch, xây dựng và
ban hành chính sách cho công nghiệp hỗ trợ đã tạo nhiều bất cập và là sức ép lớn cho
phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam trong những năm tới.
Một số lĩnh vực công nghiệp đặt ra mục tiêu, kế hoạch nâng cao tỷ lệ nội địa
hóa cùng với đó là các chính sách ưu đãi được triển khai mạnh mẽ nhưng hầu như
chưa có lĩnh vực nào đạt kết quả như mong muốn. Thực trạng này là do có quá ít
doanh nghiệpViệt Nam làm công nghiệp hỗ trợ, nếu có thì chủ yếu tham gia khâu


đóng gói, bao bì, lắp ráp. Hiện tại, phần lớn các nhà cung cấp linh kiện phụ tùng cho
các công ty nước ngoài chủ yếu là các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI). Khoảng cách về tiêu chuẩn chất lượng giữa các DN trong và ngoài nước


2

còn khá lớn. Cùng với đó, các cụm công nghiệp cũng được hình thành thiếu quy hoạch
tổng thể, chủ yếu để giải quyết vấn đề mặt bằng sản xuất hơn là việc tạo nên chuỗi giá
trị thông qua việc liên kết doanh nghiệp… .Các doanh nghiệp FDI rất muốn phối hợp
với các nhà cung cấp trong nước để giảm chi phí sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh của
sản phẩm, nhưng rất khó có thể tìm được nhà cung cấp thích hợp. Từ thực tế trên cho
thấy việc phải phát triển hệ thống các doanh nghiệp tham gia vào ngành công nghiệp
phụ trợ là nhân tố quan trọng trong việc góp phần thực hiện quá trình công nghiệp hóa
và hiện đại hóa đất nước, khai thác một cách tốt nhất các tiềm năng và nguồn lực của
đất nước.
Thành phố Hải Phòng xây dựng chiến lược đến năm 2020 trở thành thành phố
công nghiệp theo hướng hiện đại. Để đạt được mục tiêu này, thành phố Hải Phòng đã
và đang tập trung huy động mọi nguồn lực của các thành phần kinh tế, phát huy lợi thế
về vị trí địa lý, phát huy tối đa các nguồn lực, lợi thế so sánh để xây dựng Hải Phòng
trở thành thành phố cảng văn minh, hiện đại, trung tâm dịch vụ, công nghiệp lớn, có
sức cạnh tranh cao, trọng điểm phát triển kinh tế biển của cả nước; Thành phố đã thực
hiện thu hút đầu tư từ các tập đoàn, các doanh nghiệp nước ngoài vào các khu công
nghiệp trọng điểm của thành phố như Khu công nghiệp Nomura, VSIP, Đình Vũ,
Tràng Duệ.... với các lĩnh vực công nghiệp về điện tử, điện lạnh, ô tô... Từ thực tế đó
đòi hỏi phải có sự phát triển của khối các doanh nghiệp tham vào ngành công nghiệp
phụ trợ. Tuy nhiên thực tế các doanh nghiệp nội địa còn gặp nhiều khó khăn trong việc
tham gia vào lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, bên cạnh đó việc xây dựng các chính sách
và đề xuất các giải pháp thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp phụ trợ còn chậm
trễ, đặc biệt là những giải pháp cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa với những khó khăn

về quy mô vốn. Từ thực trạng phát triển ngành công nghiệp phụ trợ tại Việt Nam nói
chung và tại thành phố Hải Phòng nói riêng nhóm tác giả đề xuất nghiên cứu đề tài:
"Nghiên cứu xây dựng giải pháp thúc đẩy các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Hải
Phòng tham gia lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ" nhằm đặt ra mục tiêu xây dựng và đề
xuất được các giải pháp thúc đẩy các doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia vào lĩnh vực
công nghiệp phụ trợ, phát triển ngành công nghiệp phụ trợ tại Hải Phòng.
2. Mục đích nghiên cứu


3

- Đánh giá thực trạng các doanh nghiệp sản xuất nhỏ và vừa tại Hải Phòng đang
hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ. Đánh giá những khó khăn khi tham gia
công nghiệp hỗ trợ.
- Phân tích những yêu cầu về hệ thống quản lý sản xuất, chất lượng sản phẩm của
các đơn vị khi tham gia chuỗi công nghiệp hỗ trợ cho các doanh nghiệp nước ngoài
(Nhật, Hàn Quốc, …)
- Nghiên cứu xây dựng và đề xuất giải pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất
nhỏ và vừa tại Hải Phòng tham gia vào công nghiệp hỗ trợ.
- Xây dựng bộ công cụ ứng dụng mô hình 5S (của Nhật Bản) để áp dụng phù hợp
cho đối tượng doanh nghiệp sản xuất nhỏ và vừa tại Hải Phòng tham gia vào công
nghiệp hỗ trợ.
- Áp dụng thử nghiệm tại một số doanh nghiệp nhỏ và vừa, đánh giá hiệu quả thu
được.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Quá trình gia nhập và hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ
và vừa trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ thuộc 6 nhóm ngành ưu tiên phát triển theo
Quyết định 1483/QĐ – TTg ngày 26 tháng 8 năm 2011 bao gồm các nhóm ngành: Dệt
may; da giầy; điện tử - tin học; sản xuất lắp ráp ô tô; cơ khí chế tạo và công nghiệp
công nghệ cao trên địa bàn thành phố Hải Phòng.

4. Giả thuyết khoa học.
Với mục tiêu phát triển kinh tế và thu hút đầu tư nước ngoài tại Hải Phòng
trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay thì việc thúc đẩy các doanh nghiệp tham gia vào
lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ là cần thiết. Tuy nhiên việc tham gia vào lĩnh vực công
nghiệp hỗ trợ của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Hải Phòng hiện nay còn gặp rất
nhiều khó khăn xuất phát từ các yếu tố thuộc về bản thân các doanh nghiệp và các yếu
tố thuộc về chính sách hỗ trợ của Nhà nước.

5. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu quá trình gia nhập và hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp nhỏ và vừa khi tham gia vào lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ trên địa bàn thành


4

phố Hải Phòng trong giai đoạn gần đây(Từ năm 2010 đến nay và định hướng đến
2020)

6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp hệ thống hóa, phân tích, đánh giá các tài liệu.
Nghiên cứu một số tài liệu tham khảo, một số văn bản luật và chính sách của
chính phủ, các quy định của Nhà nước về hoạt động phát triển công nghiệp hỗ trợ và
các quy định về doanh nghiệp nhỏ và vừa.Từ đó, xây dựng cơ sở lý luận cho việc
nghiên cứu đề tài. Sử dụng các phương pháp trình bày khoa học: phân tích tổng hợp,
liên hệ và so sánh.
6.2. Phương pháp điều tra, phỏng vấn:
Điều tra khảo sát trên địa bàn thành phốtập trung vào các đối tượng:
- Các doanh nghiệp nhỏ và vừa đang hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp hỗ
trợ trên địa bàn thành phố Hải Phòng: Nhóm nghiên cứu đã thu thập được danh sách
80 doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trên địa bàn Hải Phòng thuộc 6 nhóm ngành

( Theo dữ liệu của sở công thương Hải Phòng). Sàng lọc nghiên cứu và tìm kiếm dữ
liệu liên quan có 5/80 doanh nghiệp đã giải thể. theo tiêu chí DNNVV thì có 35/80 là
DNNVV(trong đó có 15 doanh nghiệp thuộc các khu công nghiệp trên địa bàn), tiến
hành phỏng vấn trực tiếp35 doanh nghiệp trong 06 nhóm ngành kể trênvà thu khảo sát
được 27 phiếu hỏi từ các doanh nghiệp đang tham gia trong lĩnh vực công nghiệp hỗ
trợ trên địa bàn thành phố.
- Các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn chưa tham gia nhưng có nhu cầu
tham gia vào lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ tại Hải Phòng.
- Các nhà quản lý, hoạch định chính sách của Thành phố.
- Các chuyên gia nghiên cứu kinh tế
Mục đích: Tìm hiểu thực trạng về quá trình gia nhập ngành công nghiệp hỗ trợ
và thực trạng về hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa
trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ. Từ đó có những đánh giá về thuận lợi, khó khăn
của các doanh nghiệp và những kinh nghiệm rút ra. Nắm bắt được những nguyên nhân


5

cản trở việc các doanh nghiệp không thể tham gia vào lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ trên
địa bàn thành phố để từ đó có những giải pháp khắc phục.Tham khảo nhận định của
các chuyên gia về vấn đề nghiên cứu để có những giải pháp tối ưu nhất.
6.3. Phương pháp thảo luận nhóm nghiên cứu, tổ chức các hội thảo lắng nghe ý kiến
các chuyên gia, các nhà quản lý.
6.4. Các phương pháp khác:
Sử dụng thống kê toán học và một số công thức toán học để kiểm định kết quả
nghiên cứu, các số liệu thống kê để có kết quả phân tích, so sánh, đánh giá...


6


Chương 1: DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA VỚI VIỆC THAM GIA
LĨNH VỰC CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ
1.1. Khái niệm và vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa đối với sự phát triển
kinh tế.
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa đối với sự phát triển kinh tế
Trên thế giới, các nước có quan niệm rất khác nhau về doanh nghiệp vừa
và nhỏ, nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự khác nhau này tiêu thức dùng để phân
loại quy mô doanh nghiệp khác nhau. Tuy nhiên trong hàng loạt các tiêu thức
phân loại đó có hai tiêu thức được sử dụng ở phần lớn các nước là quy mô vốn
và số lượng lao động.
Mặt khác việc lượng hoá các tiêu thức để phân loại quy mô doanh nghiệp
còn tuỳ thuộc vào những yếu tố như:
Trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước và những quy định cụ
thể phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn.
Trong ngành nghề khác nhau thì chỉ tiêu độ lớn của các tiêu thức cũng
khác nhau.
Tại Việt Nam doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng được xác định theo 2 tiêu
thức cơ bản như trên là nguồn vốn và lao động, trong đó tiêu thức nguồn vốn là
tiêu thức được ưu tiên.
Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa được quy định trong Khoản 1, Điều
3 Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của Chính phủ Việt Nam. Theo
đó doanh nghiệp nhỏ và vừa được định nghĩa:
Doanh nghiệp nhỏ và vừalà cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo
quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô
tổng nguồn vốn hoặc số lao động bình quân năm. Trong đó tổng nguồn vốn là
tiêu chí ưu tiên,cụ thể như sau [1]


7


Quy mô

Doanh
nghiệp
siêu nhỏ

Khu vực

Số lao
động

Doanh nghiệp nhỏ

Tổng
nguồn vốn

Số lao
động

Doanh nghiệp vừa

Tổng nguồn Số lao động
vốn

I.
Nông,
lâm 10 người20 tỷ đồngtừ trên 10từ trên 20 tỷtừ trên 200
nghiệp và thủy sản trở xuống trở xuống người đếnđồng
đếnngười
đến

200 người 100 tỷ đồng 300 người
II. Công nghiệp và 10 người20 tỷ đồngtừ trên 10từ trên 20 tỷtừ trên 200
xây dựng
trở xuống trở xuống người đếnđồng
đếnngười
đến
200 người 100 tỷ đồng 300 người
III. Thương mại và 10 người10 tỷ đồngtừ trên 10từ trên 10 tỷtừ trên 50
dịch vụ
trở xuống trở xuống người đếnđồng đến 50người
đến
50 người tỷ đồng
100 người
Như vậy, theo Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của Chính
phủ qui định về tiêu chí lao động và tiêu chí vốn. Theo đó từ 10 đến dưới 200
người lao động và doanh thu dưới 20 tỷ đồng được coi là doanh nghiệp nhỏ và
từ 200 đến 300 người lao động, doanh thu dưới 100 tỷ đồng thì được coi là
doanh nghiệp vừa.
1.1.2. Vai trò, vị trí của doanh nghiệp nhỏ và vừa với nền kinh tế
Ở nước ta, quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước được tiến
hành với xuất phát điểm chủ yếu là sản xuất nhỏ thì việc phát triển các doanh
nghiệp nhỏ và vừa được coi là chủ trương có tính chiến lược và có vị trí hết sức
quan trọng trong nền kinh tế. Trong báo cáo phát triển kinh tế đất nước ở Hội
nghị lần thứ VII của Ban chấp hành Trung ương khoá 7 đã nhấn mạnh: “Phát
triển các loại hình doanh nghiệp qui mô vừa và nhỏ với công nghệ tiên tiến, vốn
đầu tư ít, suất sinh lời cao, thời gian thu hồi vốn nhanh theo phương châm lấy
ngắn nuôi dài”
Ở mỗi nền kinh tế quốc gia hay lãnh thổ, các DNNVV có thể giữ những
vai trò với mức độ khác nhau, song nhìn chung phát triển DNNVV có một số vai
trò chính như sau:

a. Giữ vai trò ổn định trong nền kinh tế, tạo việc làm cho người lao động


8

Kết quả điều tra doanh nghiệp năm 2013 tại Việt Nam cho thấy, DNNVV
chiếm đến 97,9% tổng số doanh nghiệp trên cả nước, các DNNVV đóng góp
đáng kể vào tổng thu nhập quốc dân, tạo công ăn việc làm cho người lao động,
huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước cho hoạt động sản xuất kinh
doanh, giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh khác.
Số liệu thống kê tại thời điểm 31/12/2013 tổng số doanh nghiệp trong nền
kinh tế đang hoạt động là khoảng 474691 DN. Theo tiêu chí lao động theo Nghị
định 56/2009/ NĐ- CP thì số DN lớn là 10330 DN chiếm 2,1% tổng số DN, số
DNNVV là 464361 DN chiếm 97,9%. Trong số lượng DNNVV thì số DN vừa
là 10040 DN chiếm 2,1%, DN nhỏ là 136779 DN chiếm 29,4% và DN siêu nhỏ
là 317542 DN chiếm tỷ lệ cao nhất với 68,5% [3].
Như vậy số lượng DNNVV vẫn chiếm tỷ lệ lớn trong nền kinh tế. Vì thế,
đóng góp của chúng vào tổng sản lượng quốc gia và tạo việc làm là rất đáng kể.
Đặc điểm chung của các DNNVV là ít vốn và hoạt động chủ yếu trong các
ngành

sử

dụng

nhiều

lao

động.DNNVV


lànguồnthu

nhậpvàtạo

côngănviệclàmchínhcho hàngtrămtriệu người trênthế giới.Ở hầu hết các nước,
DNNVV tạo việc làm cho khoảg 50-80% lao động trong các ngành công nghiệp
và dịch vụ. Đặc biệt trong nhiều thời kỳ, các doanh nghiệp lớn sa thải công nhân
thì khu vực DNNVV lại thu hút thêm nhiều lao động hoặc có tốc độ thu hút lao
động mới cao hơn các doanh nghiệp lớn. ỞViệt Nam, theo đánh giá của Viện
nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương thì khu vực DNNVV đã giải quyết việc
làm cho 51% lực lượng lao động cả nước.Riêng trong lĩnh vực phi nông nghiệp
hiện có khoảng 7,8 triệu người làm việc trong khu vực DNVVN, chiếm tới
khoảng 79,2% tổng số lao động phi nông nghiệp và chiếm khoảng 22,5% lực
lượng lao động trong cả nước. Có thể nói đây là một sự đóng góp to lớn của các
DNNVV. Nó không chỉ góp phần làm tăng thu nhập, cải thiện đời sống, tạo
nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà nước mà từ đó còn góp phần hạn chế tệ
nạn xã hội (do không có việc làm), khai thác được nguồn nhân lực dồi dào của
đất nước
Các DNNVV đang là nơi có nhiều thuận lợi nhất để tiếp nhận số lao động


9

nông thôn tăng thêm mỗi năm đồng thời còn tiếp nhận số lao động từ các doanh
nghiệp Nhà nước dôi ra qua việc cổ phần hóa, giao bán, khoán, cho thuê hoặc
phá sản.Ởnhiều nước,nhất làởcácnước châuPhivà châuÁ, khu vực doanhnghiệp
siêu nhỏ chiếmđa số trong lực lượnglao động.Các doanhnghiệp có từnămnhân
viên trở xuốngchiếmmộtnửa lực lượng laođộng phinôngnghiệpởkhu vực châu
MỹLatinh và haiphần ba lực lượng laođộngởchâuÁ.Ở TháiLan, cứ 4 việc

làmphinông nghiệp mớiđược tạora thì trong đócác doanh nghiệp của khu vực
kinh tế không chính thức chiếm3 việc làm, còn ởInđônêxia thì con số nàylà
mộtnửa.Hay ởInđônêxia, các doanh nghiệp có từ5 nhân viên trởxuống chiếmgần
mộtnửa

số

việc

làmtrong

ngànhchế

tạo,trong

khicácdoanh

nghiệp

nhỏchiếmthêm18%.
b. Tạo nên ngành công nghiệp và dịch vụ hỗ trợ quan trọng
Trong cộng đồng doanh nghiệpViệt Nam thì DNNVV là loại hình DN
chiếm đa số và chủ yếu trong nền kinh tế. Số tiền thuế và phí mà các DN này đã
nộp cho nhà nước đã tăng 18,4 lần sau 10 năm. Sự đóng góp đã hỗ trợ lớn cho
việc chi tiêu vào các công tác xã hội và các chương trình phát triển khác. Do vậy
đã tạo tạo ra 40% cơ hội cho dân cư tham gia đầu tư, có hiệu quả nhất trong việc
huy động các khoản tiền đang phân tán, nằm trong dân cư để hình thành các
khoản vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh phát triển các ngành công nghiệp hỗ
trợ, tạo nên ngành công nghiệp và dịch vụ hỗ trợ quan trọng vì DNNVV thường
chuyên môn hóa vào sản xuất một vài chi tiết được dùng để lắp ráp thành một

sản phẩm hoàn chỉnh.
Ở phần lớn các nền kinh tế, các DNNVV là những nhà thầu phụ cho các
doanh nghiệp lớn. Sự điều chỉnh hợp đồng thầu phụ tại các thời điểm cho phép
nền kinh tế có được sự ổn định. Vì thế, DNNVV được ví là thanh giảm sốc cho
nền kinh tế.
c. Là trụ cột của kinh tế địa phương


10

Nếu như doanh nghiệp lớn thường đặt cơ sở ở những trung tâm kinh tế
của đất nước, thì DNNVV lại có mặt ở khắp các địa phương và đóng góp quan
trọng vào thu ngân sách, vào sản lượng và tạo công ăn việc làm ở địa phương.
Sự phát triển của các DNNVV ở nông thôn sẽ thu hút những người lao
động thiếu hoặc chưa có việc làm và có thể thu hút số lượng lớn lao động thời
vụ trong các kỳ nông nhàn vào hoạt động sản xuất- kinh doanh, rút dần lực
lượng lao động làm nông nghiệp chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ,
Những người lao động trong các DNNVV vẫn sống ngay tại quê hương bản
quán, không phải di chuyển đi xa, không tạo ra các hệ lụy xã hội cho việc di dân
lên các thành phố lớn, giảm áp lực cho các thành phố lớn về an sinh xã hội.Các
DNNVV hình thành tại các khu vực kinh tế địa phương, tạo ra các khu vực tập
trung các cơ sở công nghiệp và dịch vụ nhỏ ngay ở nông thôn, tiến dần lên hình
thành những thị tứ, thị trấn, hình thành các đô thị nhỏ đan xen giữa những làng
quê, là quá trình đô thị hoá phi tập trung. Quá trình đô thị hóa diễn ra như vậy
khá ổn định và vững chắc, tạo điều kiện cho kinh tế địa phương phát triển.
d. Làm cho nền kinh tế năng động, góp phần tăng giá trị GDP cho quốc
gia
Xét về mặt lý thuyết vì DNNVV có số lượng lao động dưới 300 người,
doanh thu dưới 100 tỷ đồng nên hoạt động và cơ cấu của loại hình doanh nghiệp
này dễ điều chỉnh và thay đổi khi có những biến cố lớn xảy ra.

Theo Hiệp hội DNNVV Việt Nam (VINASME), có đến hơn 97% doanh
nghiệp đăng ký ở Việt Nam là DNNVV. Khối DNNVV này đã tạo ra trên 40%
tổng sản phẩm quốc nội, tạo ra hơn 1 triệu việc làm mới mỗi năm, chủ yếu mang
lại lợi ích đặc biệt cho nguồn lao động chưa qua đào tạo. Khối này cung cấp ra
thị trường nhiều loại hàng hóa khác nhau đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng
trong nước như trang thiết bị và linh kiện cần thiết cho các ngành sản xuất hàng
tiêu dùng và các ngành thủ công nghiệp, ngoài ra còn cung cấp hầu hết các sản
phẩm trong nhiều ngành công nghiệp truyền thống thu hút nhiều lao động như
giầy dép, chiếu cói, thủ công mỹ nghệ….Việc mở rộng và phát triển các
DNNVV góp phần không nhỏ trong việc làm tăng GDP cho quốc gia hàng năm.


11

e. Thu hút vốn và khai thác các nguồn lực sẵn có trong dân cư tốt
Vốn đầu tư là 1 yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất. Vốn là yếu tố cơ bản
để khai thác và phối hợp các yếu tố sản xuất khác như lao động, đất đai, công
nghệ và quản lý để tạo ra lợi nhuận cho các chủ doanh nghiệp. Vốn có vai trò to
lớn trong việc đầu tư trang thiết bị, cải tiến công nghệ, đào tạo nghề, nâng cao
trình độ tay nghề cho công nhân cũng như trình độ quản lý của chủ doanh
nghiệp. Hiện nay các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiến hành sản xuất kinh doanh
nhưng lại rơi vào tình trạng thiếu vốn. Các ngân hàng không có khả năng cung
cấp đủ nguồn vốn kinh doanh cho doanh nghiệp. Ở trong nhân dân tình trạng
nguồn vốn dư thừa và nhàn rỗi còn nhiều nhưng lại không huy động được do
chính sách tài chính tín dụng của Chính phủ và các ngân hàng chưa thực sự gây
được niềm tin đối với những người có vốn nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư.
Trong lúc này thì nhiều DNNVV đã tiếp xúc trực tiếp với người dân và huy
động được vốn để kinh doanh hoặc bản thân chính người có tiền đứng ra đầu tư
kinh doanh thành lập doanh nghiệp với số vốn tự có và huy động của người thân
mình. Dưới khía cạnh đó, DNNVV có vai trò to lớn trong việc huy động vốn để

phát triển kinh tế.
f. Góp phần tăng cường và phát triển các mối quan hệ kinh tế, tạo cơ sở
để hình thành các doanh nghiệp lớn.
Các DNNVV hình thành và phát triển trong những ngành nghề khác nhau
luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau và có mối liên kết với các doanh nghiệp
lớn. Nhiều doanh nghiệp nhỏ ra đời chỉ nhằm mục đích làm vệ tinh cung cấp các
sản phẩm cho các doanh nghiệp lớn. Mối quan hệ giữa doanh nghiệp nhỏ và các
doanh nghiệp lớn cũng chính là nguyên nhân thành công của nền kinh tế Nhật
Bản trong nhiều thập kỷ qua. Do đó khi các doanh nghiệp nhỏ ở Việt Nam phát
triển sẽ góp phần tăng cường các mối quan hệ liên kết hỗ trợ lẫn nhau giữa các
DNNVV và giữa các doanh nghiệp nhỏ với các doanh nghiệp lớn. Nhờ đó mà
các rủi ro kinh doanh sẽ được chia sẻ và góp phần tăng hiệu quả kinh tế xã hội.
Kinh nghiệm phát triển kinh tế ở nhiều nước cho thấy hiện nay phần lớn
các công ty và các tập đoàn kinh tế đa quốc gia đều trưởng thành từ các
DNNVV. Với cách xem xét đó doanh nghiệp nhỏ và vừa chính là nguồn tích lũy


12

ban đầu cho các doanh nghiệp lớn. Hầu hết các cơ sở dân doanh ở Việt Nam khi
mới ra đời do thiếu kinh nghiệm và chưa thật hiểu biết về thị trường nên họ
thường lựa chọn quy mô kinh doanh vừa và nhỏ để bắt đầu sự nghiệp kinh
doanh . Sau một thời gian tích lũy thêm vốn, kinh nghiệm và khẳng định được vị
thế của mình trên thị trường họ mới tiến hành mở rộng kinh doanh và phát triển
với quy mô lớn hơn.
g. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa là nơi ươm mầm những tài năng kinh
doanh, đào tạo rèn luyện các nhà doanh nghiệp.
Kinh doanh qui mô nhỏ sẽ rèn luyện các nhà doanh nghiệp làm quen với
môi trường kinh doanh. Bắt đầu từ kinh doanh qui mô nhỏ và thông qua điều
hành quản lý kinh doanh qui mô nhỏ và vừa, một số doanh nhân sẽ vươn lên trở

thànhnhững doanh nhân lớn, tài ba, biết đưa doanh nghiệp mình nhanh chóng
phát triển. Thực tế cho thấy không ít các công ty khổng lồ trên thế giới như
Sony, Mistsubishi...đều xuất phát từ những DNNVV, thậm chí rất nhỏ.
1.2. Công nghiệp hỗ trợ và tầm quan trọng của việc phát triển công nghiệp
hỗ trợ đối với nền kinh tế.
1.2.1. Công nghiệp hỗ trợ
Công nghiệp hỗ trợ theo Tiếng Anh là Supporting Industry – SI còn được
gọi là công nghiệp phụ trợ hay công nghiệp bổ trợ. Công nghiệp hỗ trợ (CNHT)
là khái niệm được hiểu ở nhiều góc độ khác nhau giữa các quốc gia khác nhau
và các tổ chức khác nhau.
Xét về mặt lịch sử, thuật ngữ CNHT xuất hiện lần đầu tiên ở Nhật Bản.
Quan niệm của người Nhật cho rằng, nếu xem toàn bộ quy trình sản xuất một
sản phẩm như một quả núi thì các ngành công nghiệp hỗ trợ đóng vai trò chân
núi, các ngành công nghiệp lắp ráp sản xuất hoàn tất sản phẩm cuối cùng đóng
vai trò đỉnh núi. Với quan niệm của người Nhật như vậy cho chúng ta thấy được
tầm quan trọng của ngành CNHT. Ban đầu khái niệm CNHT ở Nhật Bản chỉ
được dùng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN), những doanh nghiệp
này đóng góp nhiều cho sự phát triển cơ sở hạ tầng công nghiệp ở quốc gia cũng
như ở các quốc gia khác trong khu vực châu Á mà có vốn đầu tư từ Nhật Bản.
Cho đến năm 1993, trong chương trình phát triển CNHT Châu Á, khái niệm
CNHT đã được Bộ Kinh tếThương mại và Công nghiệp Nhật Bản (METI)


13

thông qua một cách chính thức, theo đó coi CNHT là ngành công nghiệp quan
trọng trong phát triển kinh tế Nhật Bản.
Theo đó, METI đã định nghĩa CNHT được hiểu: là các ngành công
nghiệp cung cấp các yếu tố cần thiết như nguyên vật liệu thô, linh kiện và vốn…
cho các ngành công nghiệp lắp ráp bao gồm ô tô, điện và điện tử. Hiện nay

CNHT ở Nhật được hiểu là “ một nhóm hoạt động công nghiệp cung ứng các
đầu vào trung gian(Không phải nguyên liệu thô và các sản phẩm hoàn chỉnh)
cho các ngành công nghiệp hạ nguồn.(Theo Ohno K. 2007 Building supporting
industries in Vietnam, VDF&GRIPS)
Khái niệm CNHT ở Nhật Bản nhanh chóng được nhiều quốc gia quan tâm
đến và được hiểu ở nhiều nghĩa khác nhau. Tại Thái Lan, theo Văn phòng phát
triển công nghiệp hỗ trợ Thái Lan (Bureau of Supporting Industries
Development - BSID) thì CNHT được hiểu: Công nghiệp hỗ trợ là các ngành
công nghiệp cung cấp linh kiện, phụ kiện, máy móc, dịch vụ đóng gói và dịch vụ
kiểm tra cho các ngành công nghiệp cơ bản (nhấn mạnh các ngành cơ khí, máy
móc, linh kiện cho ô tô, điện và điện tử là những công nghiệp hỗ trợ quan trọng)
Ở Đài Loan, theo Bộ Công nghiệp thay vì sản xuất sản phẩm với tất cả
các bộ phận chi tiết (sản xuất trọn gói), các công đoạn sản phẩm sẽ được chuyên
môn hóa thành từng phần và mỗi ngành công nghiệp chỉ sản xuất một phần của
sản phẩm đó. Quá trình chuyên môn hóa như vậy được gọi là công nghiệp hỗ
trợ.
Tại Hoa Kỳ, quốc gia đặc biệt quan tâm đến phát triển công nghiệp trong
nền kinh tế. Năm 2004, phòng Năng lượng Hoa Kỳ lần đầu tiên đề cập đến
CNHT- coi đó là ngành công nghiệp của tương lai. Theo đó:CNHT là những
ngành sử dụng nguyên vật liệu và các quy trình cần thiết để định hình và chế
tạo ra sản phẩm trước khi chúng được lưu thông đến ngành công nghiệp sử
dụng cuối cùng (end-use indutries). Khái niệm của phòng Năng lượng Hoa
Kỳtập trung chủ yếu vào mục tiêu tiết kiệm năng lượng. Do đó, công nghiệp hỗ


14

trợ theo quan điểm của cơ quan này là những ngành tiêu tốn nhiều năng lượng
như than, luyện kim, thiết bị nhiệt, hàn, đúc…
Ở Việt Nam Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg về chính sách phát triển một

số ngành công nghiệp hỗ trợ định nghĩa:Công nghiệp hỗ trợ là các ngành công
nghiệp sản xuất nguyên vật liệu, phụ kiện, phụ tùng linh kiện, bán thành phẩm
để cung cấp cho ngành công nghiệp sản xuất, chế biến, lắp ráp các sản phẩm
hoàn chỉnh là tư liệu sản xuất hoặc sản phẩm tiêu dùng .
Như vậy có thể thấy rằng khái niệm CNHT dùng để chỉ những ngành
công nghiệp sản xuất bán thành phẩm: ngành sản xuất trung gian cung cấp linh
phụ kiện, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu đã qua chế biến theo các quy trình
sản xuất nhất định để lắp ráp các sản phẩm cuối cùng. Mục đích tồn tại ngành
CNHT là để cung cấp nguyên liệu đầu vào cho ngành sản xuất thành phẩm quan
trọng của nền kinh tế như sản xuất công nghiệp, chế biến và lắp ráp. Do đó
muốn nền kinh tế quốc gia phát triển thì ngành CNHT phải vững chắc.Ngành
CNHT kết hợp với ngành công nghiệp sản xuất, lắp ráp tạo thành tổng thể ngành
công nghiệp quốc gia của mỗi nền kinh tế.
Nhìn chung, các khái niệm về CNHT trên đây đều nhấn mạnh tầm quan
trọng của các ngành công nghiệp sản xuất nguyên vật liệu đầu vào cho ngành
sản xuất thành phẩm. Tuy nhiên mỗi khái niệm CNHT của mỗi quốc gia lại xác
định một phạm vi khác nhau cho ngành công nghiệp này. Vì vậy rất cần có một
cách hiểu tổng thể và khái quát về CNHT, để từ đó xác định được đó là ngành
công nghiệp nào của nền kinh tế, nó hỗ trợ cho cái gì và đối tượng nào được
nhận hỗ trợ.
Ở Việt Nam, kế thừa những hiểu biết về ngành CNHT của các quốc gia
phát triển đi trước, các nhà hoạch định chính sách đã đưa ra khái niệm CNHT
khá cụ thể và áp dụng tại Việt Nam trong Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ. Ngoài ra, để ban hành chi tiết hơn những chính sách phát
triển CNHT. Chính phủ đã ra Quyết định số 1483/QĐ- TTg ra ngày
26/8/2011ban hành danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ trong ngành ngành


15


dệt may; da giầy; điện tử - tin học; sản xuất lắp ráp ôtô, cơ khí chế tạo và các sản
phẩm hỗ trợ cho công nghiệp công nghệ cao.
Trong ngành dệt may, các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ được ưu tiên phát
triển gồm xơ thiên nhiên như bông, đay, gai, tơ tằm và xơ tổng hợp. Vải, hóa
chất, chất trợ, thuốc nhuộm, phụ liệu ngành may như cúc, khóa kéo, băng chung
cũng được ưu tiên.
Ngành da giầy: 6 sản phẩm được ưu tiên phát triển là da thuộc, vải giả da,
đế giầy, hóa chất thuộc da, da muối và chỉ may giầy.
Các sản phẩm như linh kiện điện tử, quang điện tử cơ bản; linh kiện thạch
anh; vi mạch điện tử; pin dùng cho máy vi tính xách tay, điện thoại di động...
cũng thuộc diện được ưu tiên phát triển.
Ngành sản xuất lắp ráp ôtô được Thủ tướng ưu tiên phát triển các lĩnh vực
động cơ và chi tiết động cơ; hệ thống lái; hệ thống phanh; bánh xe; linh kiện
nhựa cho ôtô.
Các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ của ngành cơ khí chế tạo như khuôn
mẫu, đồ gá dụng cụ - dao cắt thép chế tạo... cũng thuộc danh mục được ưu tiên.
Trong ngành công nghệ cao, các cụm linh kiện, phụ tùng cho hệ thống
thiết bị sản xuất điện năng từ năng lượng mới và năng lượng tái tạo; các loại chi
tiết nhựa chất lượng cao cũng là những sản phẩm được ưu tiên phát triển.
Việc phát triển công nghiệp hỗ trợ được xem là một trong những chính
sách ưu tiên hàng đầu của Việt Nam nhằm thúc đẩy sự phát triển của ngành
công nghiệp, góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất
nước.
i.

Đặc điểm của công nghiệp hỗ trợ
- Tính đồng bộ và liên kết: Trong quá trình sản xuất công nghiệp luôn có

sự tác động liên kết và đồng bộ lẫn nhau. Sản phẩm đầu ra, quá trình sản xuất
của ngành này lại là sản phẩm hỗ trợ hay đầu vào của ngành khác. Thậm chí để

sản xuất ra sản phẩm hỗ trợ cũng phải cần đến công nghiệp hỗ trợ cho bản thân


16

nó. Xét trong mối quan hệ nhất định, sự đan xen tác động lẫn nhau như thế sẽ
tiếp tục cho đến khi hình thành sản phẩm cuối cùng. Một sản phẩm hoàn chỉnh
có thể được sản xuất ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau cũng như được
sản xuất ở nhiều khu vực địa lý khác nhau. Mặc dù sản phẩm của công nghiệp
hỗ trợ nằm ở các vị trí khác nhau về địa lý cũng như khác nhau về công nghệ
trong chuỗi giá trị sản xuất sản phẩm cuối cùng nhưng vẫn đảm bảo tính phân
chia và đa cấp trong chuỗi giá trị sản xuất để khi lắp ráp vào sản phẩm cuối cùng
hoàn thiện và đồng bộ về mặt kỹ thuật sản xuất. Trong hệ thống đa cấp của công
nghiệp hỗ trợ, các nhóm cung ứng luôn phụ thuộc và tạo tiền đề cho nhau phát
triển và luôn hướng tới phục vụ ngành lắp ráp. Từ đó xuất hiện phổ biến trong
hình thức tổ chức sản xuất công nghiệp theo kiểu thầu phụ/ vệ tinh, liên doanh,
liên kết trong một mạng lưới tổ chức sản xuất, phối hợp và thống nhất có tính
hợp tác cao giữa các doanh nghiệp chính và các doanh nghiệp công nghiệp hỗ
trợ. Chính mối liên kết này làm cho nền công nghiệp sản xuất trong nước cũng
như nền công nghiệp sản xuất nước ngoài gắn bó chặt chẽ với nhau trong chuỗi
giá trị sản xuất sản phẩm, chuỗi phân công lao động không thể tách rời nhau dựa
trên mối quan hệ về lợi ích, lợi thế so sánh quốc gia và hiệu quả kinh tế.
- Tính đa dạng về công nghệ và trình độ công nghệ: Để có được một sản
phẩm lắp ráp hoàn chỉnh trước khi đưa ra thị trường, trong quá trình sản xuất đòi
hỏi sự đa dạng về công nghệ và trình độ công nghệ để tạo ra các chi tiết khác
nhau. Do đó các sản phẩm công nghệ hỗ trợ đều đòi hỏi mức độ công nghệ khác
nhau, liên quan đến nhiều trình độ và lĩnh vực công nghệ khác nhau. Từ lĩnh
vực có trình độ công nghệ cao, phức tạp đến các sản phẩm gia công cơ khí. Từ
đặc điểm đó có sự phân công lao động và chuyên môn hóa cụ thể. Những sản
phẩm chi tiết đòi hỏi độ tinh xảo về kỹ thuật và công nghệ cao sẽ do các doanh

nghiệp có tiềm lực về công nghệ đảm nhận, thường được sản xuất ở các quốc
gia có trình độ phát triển công nghệ cao. Ngược lại những chi tiết hay sản phẩm
có kỹ thuật sản xuất không quá khó thì sẽ do các doanh nghiệp có trình độ công
nghệ thấp hơn cung cấp, thường sẽ được triển khai tổ chức sản xuất ở các quốc
gia đang phát triển.


17

- Thị trường tập trung và ngày càng mở rộng. Đặc điểm của thị trường
ngành công nghiệp hỗ trợ không chỉ đáp ứng nhu cầu ngành mà còn đảm bảo
tính liên ngành không chịu ảnh hưởng của yếu tố không gian và địa lý mà chỉ
phụ thuộc vào việc các sản phẩm có nằm trong chuỗi giá trị về công nghệ, đảm
bảo yếu tố kỹ thuật và cạnh tranh cao sao cho đáp ứng được nhu cầu của doanh
nghiệp lắp ráp hay các doanh nghiệp chuyên sâu. Vì người tiêu dùng cuối cùng
của ngành công nghiệp hỗ trợ là các doanh nghiệp lắp ráp nên thị trường của
ngành CNHT không rộng như thị trường của các sản phẩm tiêu dùng khác.
Thậm chí thị trường của một số ngành còn bị thu hẹp hơn. Do vậy hoạt động của
các doanh nghiệp hỗ trợ phụ thuộc nhiều vào hiệu quả hoạt động và kinh doanh
của các doanh nghiệp chuyên sâu. Từ đó khiến các doanh nghiệp hỗ trợ phải linh
hoạt tìm kiếm thay đổi để phục vụ các chi tiết, linh kiện cho nhiều hãng lắp ráp
khác nhau, đồng thời tích cực tìm kiếm các thị trường chuyên biệt mang tính đặc
thù cho mình và xu hướng phát triển sang nước ngoài. Điều này lý giải xu
hướng các nhà lắp ráp thường chuyển dịch từ các nước phát triển sang các nước
đang phát triển, các nước có nền công nghiệp hóa diễn ra sau. Theo đó thì
CNHT chính là tiền đề cho các nước đang phát triển thực hiện nội địa hóa ngành
sản xuất công nghiệp hiện đại trong nước của mình.
- Đội ngũ lao động có trình độ tay nghề cao vì họ là người trực tiếp vận
hành máy móc thiết bị, những kiểm soát viên về chất lượng sản phẩm, các kỹ
thuật viên được đào tạo trình độ chuyên môn sâu. Vì một trong các tiêu chuẩn

khắt khe đầu ra của công nghiệp hỗ trợ là chất lượng sản phẩm vì nó phải đảm
bảo tiêu chí khắt khe về chất lượng của sản phẩm cuối cùng và đồng bộ về kỹ
thuật đối với các sản phẩm và chi tiết khác. Do đó để đảm bảo tỷ lệ nội địa hóa
các ngành sản xuất công nghiệp hiện đại đảm bảo tính cạnh tranh của quốc gia
thì ngoài việc sở hữu được hệ thống các máy móc thiết bị hiện đại thì các quốc
gia nói chung và các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ nói chung phải lưu ý và
phát triển đội ngũ nhân lực có tay nghề, có trình độ cao và được đào tạo chuyên
môn sâu.


18

1.2.3. Tầm quan trọng của việc phát triển công nghiệp hỗ trợ đối với nền
kinh tế
Từ những phân tích trong khái niệm CNHT cho thấy vai trò quan trọng
của việc phát triển CNHT đối với nền kinh tế mỗi quốc gia. Riêng với Việt
Nam, là một nền kinh tế còn non trẻ, kinh nghiệm phát triển công nghiệp còn
hạn chế, chúng ta đang kế thừa những thành quả của các quốc gia khác trong
khu vực và trên thế giới có nền công nghiệp phát triển thì vai trò của ngành
CNHT càng phải được coi trọng. Phân tích các vai trò này, nghiên cứu đã chỉ ra
trên các mặt sau:
Thứ nhất, CNHT là động lực trực tiếp tạo ra giá trị gia tăng cho ngành
công nghiệp sản xuất chính, CNHT giúp tăng sức cạnh tranh của sản phẩm
công nghiệp chính và thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa
của đất nước.
CNHT được coi là nền tảng, là cơ sở để sản xuất công nghiệp phát triển
mạnh hơn. Chất lượng sản phẩm đầu ra cuối cùng của các sản phẩm công nghiệp
chính phụ thuộc rất lớn vào chất lượng của các sản phẩm chi tiết, linh kiện được
sản xuất từ ngành công nghiệp hỗ trợ. Do vậy, nếu công nghiệp hỗ trợ kém phát
triển thì các ngành công nghiệp chính sẽ không có khả năng phát triển hoặc nếu

phát triển được thì chi phí sẽ cao hơn, giá thành sản phẩm cao, dẫn đến sản
phẩm chính của doanh nghiệp sẽ không có khả năng cạnh tranh. Nếu CNHT của
quốc gia chỉ bó hẹp trong một số lĩnh vực thì ngành sản xuất chính cũng bị lệ
thuộc và ảnh hưởng nghiêm trọng.
Thứ hai, nhờ có hoạt động của ngành CNHT phát triển thì khả năng
chuyên môn hóa sản xuất mới được thực hiện, năng suất lao động sẽ tăng cao,
giá thành sản phẩm hoàn thiện có xu hướng giảm.
Trong quá trình sản xuất, các doanh nghiệp trong ngành CNHT thường có
xu hướng tập trung sản xuất, chuyên môn hóa vào 1 chi tiết hoặc 1 công đoạn
của sản phẩm. Đó thường là những sản phẩm có thế mạnh của các doanh nghiệp
CNHT. Các doanh nghiệp trong cùng lĩnh vực CNHT lại có xu hướng liên kết,
hợp tác với nhau để cùng cung cấp nguyên liệu, chi tiết cho quá trình sản xuất


19

sản phẩm hoàn chỉnh. Do sự phối hợp này là phổ biến và khá chặt chẽ nên giúp
doanh nghiệp sản xuất chính tăng năng suất lao động, số lượng sản phẩm hoàn
thiện tăng lên, số sản phẩm hỏng, lỗi giảm làm cho giá thành sản phẩm có xu
hướng giảm theo.
Thứ ba, phát triển CNHT chính là bước căn bản để hội nhập nền kinh tế
với khu vực và trên thế giới.
Hiện nay phần lớn sản phẩm của ngành CNHT đều do các doanh nghiệp
có quy mô vốn và lao động vừa và nhỏ đảm nhiệm bởi ở đó có họ có thể chuyên
môn hóa sản xuất cao. Sản phẩm của ngành CNHT được sử dụng là đầu vào cho
những ngành công nghiệp chính của những tập đoàn công nghiệp lớn có vai trò
chi phối kinh tế toàn cầu. Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, khi các quan hệ hợp
tác được thiết lập, sản phẩm công nghiệp hỗ trợ sẽ là một bộ phận hiện hữu,
không tách rời, cấu thành trong các sản phẩm của các tập đoàn công nghiệp đa
quốc gia hàng đầu thế giới của Mỹ, Nhật Bản, châu Âu... Công nghiệp hỗ trợ

nhờ đó mà trở thành một bộ phận tham gia vào hệ thống sản xuất chuyên môn
hóa quốc tế. Giá trị sản xuất của công nghiệp hỗ trợ sẽ được nằm trong chuỗi giá
trị sản xuất công nghiệp của khu vực cũng như toàn cầu.
Hội nhập quốc tế thể hiện sự liên kết và phối hợp giữa các công ty trong
ngành CNHT cùng tham gia vào quá trình sản xuất linh kiện, chế tạo công cụ,
thiết bị, chi tiết nhỏ cung cấp cho chuỗi sản xuất trên toàn cầu ở mọi quốc gia.
Vì vậy chỉ có các công ty trong lĩnh vực CNHT mới có thể tham gia được, các
công đoạn lắp ráp, hoàn thiện không có được tính chất toàn cầu này.
Đối với việc tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu, nếu như công
nghiệp hỗ trợ không phát triển sẽ làm cho các công ty lắp ráp và những công ty
sản xuất thành phẩm cuối cùng khác sẽ phải phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu. Dù
những sản phẩm này có thể được cung cấp với giá rẻ ở nước ngoài nhưng vì
chủng loại chi tiết quá nhiều, chi phí vận chuyển chuyên chở, bảo hiểm gia tăng
sẽ làm tăng chi phí nhập khẩu đầu vào, giá thành sản phẩm sau hoàn thiện sẽ
tăng lên đáng kể. Ngoài ra, khi các công ty lắp ráp và hoàn chỉnh sản phẩm còn
bị rủi ro về tiến độ thời gian do thời gian vận chuyển và nhập hàng. Các công ty


20

này còn gặp phải khó khăn trong việc quản lý nếu phải nhập phần lớn linh kiện,
chi tiết từ nhiều đối tác trong lĩnh vực CNHT từ nhiều quốc gia khác.
Thứ tư,ngành công nghiệp hỗ trợ phát triển có hiệu quả lại tạo điều kiện
thu hút được đầu tư nước ngoài và tạo ra tăng trưởng kinh tế trong nước bền
vững.
Hiện nay, yếu tố thu hút đầu tư nước ngoài của các quốc gia thiếu vốn
không phải là nhân tố lao động giá rẻ. Trong tính toán năng suất lao động cho
thấy, hiệu quả lao động của các quốc gia được coi có chi phí nhân công rẻ lại rất
thấp hơn nhiều lần so với những quốc gia có chi phí lao động cao. Vì vậy, giá
nhân công rẻ chưa chắc đã thu hút doanh nghiệp nước ngoài đầu tư. Vậy để thu

hút vốn đầu tư cần yếu tố của ngành CNHT.
Thực hiện mục tiêu nội địa hóa các ngành công nghiệp hiện đại, các quốc
gia xây dựng chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ. Khi CNHT phát triển sẽ
thu hút FDI, tỷ lệ của chí phí về CNHT cao hơn nhiều so với chi phí lao động
nên một nước dù có ưu thế về lao động nhưng CNHT không phát triển sẽ làm
cho môi trường đầu tư kém hấp dẫn. Hiện nay phần lớn các sản phẩm cuối cùng
thuộc các thương hiệu lớn của nước ngoài, nếu chúng ta phát triển được hệ
thống công nghiệp hỗ trợ cho ngành đó sẽ là động lực để các tập đoàn đó tính
toán đầu tư đặt nhà máy hay xưởng sản xuất vào trong nước. Từ đó làm gia tăng
quá trình hội nhập và hợp tác quốc tế. Đối với công nghiệp lắp ráp có thể tận
dụng lao động giá rẻ, tuy nhiên đến một mức độ nào đó khi các tập đoàn kinh tế
không thấy cơ hội nữa họ sẽ rời bỏ đi. Thay vào đó, xu thế ngày nay các tập
đoàn kinh tế, công ty nước ngoài, các nhà đầu tư sẽ chú trọng tham gia hoạt
động sản xuất kinh doanh, xây dựng nhà máy vào những khu vực mà tại đó họ
có thể tận dụng được một ngành công nghiệp hỗ trợ tốt, đáp ứng được nhu cầu
mua sắm linh kiện, chi tiết sản phẩm hay như các hợp đồng cung cấp, đặt hàng
sản xuất các chi tiết, đơn vị sản phẩm phục vụ cho dây chuyền sản xuất, chuỗi
giá trị sản phẩm. Các DN hoạt động trong ngành CNHT nội địa cũng không phải
mất chi phí tiền bạc và thời gian về nghiên cứu phát triển do công đoạn này đã
được các tập đoàn đầu tư, các công ty đa quốc gia thực hiện. Do vốn đầu tư


21

được rải ra cho nhiều DN nên phân tán, hạn chế được rủi ro, khủng hoảng nếu
có. Phần lớn các DN công nghiệp hỗ trợ có quy mô nhỏ, nên có thể thay đổi mẫu
mã, đổi mới hoạt động sản xuất nhanh, ứng phó linh hoạt với biến động của thị
trường.
Giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư FDI và ngành CNHT có mối quan
hệ tương hỗ với nhau. Nếu trong nước các chính sách phát triển công nghiệp ưu

tiên hoặc dành nhiều ưu đãi cho CNHT thì sẽ có cơ hội thu hút được đầu tư.
Ngược lại, trong nhiều trường hợp khi các doanh nghiệp FDI đầu tư đi trước sẽ
lôi kéo các công ty khác (kể cả công ty nước ngoài và công ty khu vực địa
phương) đầu tư phát triển công nghiệp hỗ trợ.
Thứ năm, phát triển CNHT sẽ có tác động khuyến khích quốc gia ứng
dụng, sử dụng khoa học công nghệ cao, lực lượng lao động có cơ hội được tiếp
xúc, học hỏi, nâng cao tay nghề.
CNHT là những ngành công nghiệp chế tạo cơ khí, vì vậy việc tiếp cận
với khoa học ứng dụng cao là yếu tố bắt buộc với người lao động. Thông qua sự
phát triển của CNHT, người lao động sẽ được khuyến khích, phát huy tinh thần
đổi mới, sáng tạo trong công việc, cũng như làm quen với những quy tắc khắt
khe của yêu cầu chế tạo sản phẩm, linh kiện. Người lao động trong CNHT sẽ
học hỏi được nhiều hơn, có cơ hội để kiểm tra trình độ tay nghề và chuyên môn
kỹ thuật, trong khi hoạt động lắp ráp là những công việc đơn thuần, lặp đi lặp
lại, trình độ tay nghề của công nhân không có cơ hội được nâng cao, tiếp cận với
tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Thứ sáu, ngành công nghiệp hỗ trợ còn có những đóng góp quan trọng
trong sự ổn định kinh tế, xã hội, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa.
Ngành CNHT trong nước phát triển là lúc mà các công ty, các đơn vị sản
xuất, doanh nghiệp trong nước tự sản xuất được các chi tiết, linh kiện sản phẩm,
đồng nghĩa với việc không còn phải nhập khẩu linh kiện để phục vụ cho xuất
khẩu, từ đó sẽ có tác động hạn chế nhập siêu, tăng nguồn thu ngoại tệ, đồng thời
giảm được tình trạng lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Ngành công nghiệp hỗ trợ
phát triển tự động nó sẽ có tác động tăng tỷ lệ nội địa hóa, giảm giá thành sản


22

xuất công nghiệp, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa. Ngoài ra, ngành CNHT
phát triển sẽ tạo ra hiệu ứng kéo các ngành công nghiệp khác phát triển, giải

quyết công ăn việc làm, tạo giá trị gia tăng cho nền kinh tế, kích thích tiêu dùng
trong nước, đóng góp tăng trưởng kinh tế và làm giảm tỷ lệ người nghèo.
Cuối cùng, phát triển CNHT là điều kiện đủ để phát triển các cụm liên kết
ngành (industrial cluster)– công cụ rất hữu hiệu giúp nâng cao tính cạnh tranh
của doanh nghiệp, của quốc gia, đổi mới công nghệ và phát triển kinh tế vùng –
thông qua xây dựng mạng lưới các nhà cung ứng sản phẩm đầu vào cho các
doanh nghiệp khác trên cùng khu vực và trên toàn thế giới.
1.3. Đánh giá lợi thế của các doanh nghiệp nhỏ và vừa khi tham gia vào lĩnh
vực công nghiệp hỗ trợ
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế, Việt Nam có tiềm năng rất
lớn để phát triển những ngành công nghiệp hỗ trợ, đặc biệt là các ngành có tiềm
năng xuất khẩu lớn như hóa dầu, chế biến nông sản xuất khẩu, kinh tế biển, công
nghệ thông tin, ôtô… dựa trên những lợi thế vốn có của các doanh nghiệp nhỏ
và vừa hiện nay. Đánh giá những lợi thế vốn có của các DNNVV khi tham gia
lĩnh vực CNHT, nghiên cứu đã chỉ ra những lợi thế đó là: DNNVV vốn đầu tư
ban đầu ít, thu hồi vốn nhanh và hiệu quả; có cơ chế quản lý gọn nhẹ; năng
động, linh hoạt, dễ thích nghi với những thay đổi của môi trường kinh doanh;
DNNVV tận dụng tối đa nguồn lực (tài sản, vốn, lao động,..) trong sản xuất kinh
doanh; và DNNVV có thể chiếm lĩnh được những thị trường nhỏ chuyên biệt,
hoặc mang tính chất đặc thù.
Các lợi thế cụ thể của các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam khi tham
gia lĩnh vực CNHT
- Thị trường
Ở Việt Nam, nhu cầu thị trường linh phụ kiện cao, hiện nay dung lượng
thị trường một số ngành đã đủ lớn để tập trung phát triển ngành cung ứng linh
kiện và phụ tùng, đặc biệt là ngành Điện, Điện tử. Dự báo trong tương lai không
xa các ngành Điện, Điện tử sẽ có xu thế tăng cao để đáp ứng nhu cầu của người
dân. Khi thu nhập của người dân tăng lên, họ sẽ tự giải phóng sức lao động bằng



23

chân tay cho chính mình, máy móc sẽ thay thế sức lao động của con người, họ
có xu thế lao động chân tay ít đi, lao động trí óc tăng lên. Con người sẽ tìm đến
những máy móc điện tử hiện đại phục vụ mình trong cuộc sống.
- Các khoản thuế, phí tương đối thấp
Chính phủ Việt Nam có những chính sách ưu đãi đặc biệt dành cho những
doanh nghiệp tham gia vào phát triển lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ như những ưu
đãi về tài chính như thuế, phí, về nguồn vốn vay với lãi suất thấp; những ưu đãi
về cơ sở hạ tầng đất đai về đầu tư, về nguồn nhân lực, rồi chính sách khuyến
khích thành lập các DN sản xuất công nghiệp hỗ trợ, xây dựng các quỹ đặc thù
riêng cho công nghiệp hỗ trợ, hình thành tổ chức đầu mối để thực hiện sự quản
lý Nhà nước dẫn dắt liên kết các DN làm công nghiệp hỗ trợ. Cụ thể như: Nghị
định 75/2011/NĐ-CP về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu, thông tư
96/2011/TT-BTC, thông tư 14 và thông tư 20/2012/NHNN, Nghị định số
120/2010/NĐ-CP, nghị định số 142/2005/NĐ-CP ngày 14/11/2005 và Nghị định
số 121/2010/NĐ-CP ngày 30/12/2010 về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước...
Những yếu tố này đảm bảo tạo một cơ chế ưu đãi tốt cho các doanh nghiệp trong
lĩnh vực CNHT, thúc đẩy CNHT trong nước phát triển.
- Nguồn nhân lực
Nhân tố quan trọng nhất cho sự phát triển CNHT là nguồn lao động có kỹ
thuật cao do hàm lượng công nghệ trong sản phẩm CNHT là rất lớn. Số lượng
nguồn nhân lực ở các doanh nghiệp Việt Nam tương đối lớn, chi phí nhân công
thấp hơn các quốc gia trong khu vực. Số lượng các trường ĐH, cao đẳng chuyên
nghiệp, cao đẳng nghề trong các lĩnh vực đào tạo cơ khí, chế tạo, điện, điện tử
viễn thông, công nghệ thông tin ở Việt Nam gia tăng nhanh chóng. Số lượng học
sinh, sinh viên theo học các ngành kỹ thuật ngày càng nhiều có thể đảm bảo cho
yêu cầu về nhân lực trong phát triển CNHT. Ngoài ra, nhân lực tham gia CNHT
của Việt Nam còn trẻ, khả năng sáng tạo, say mê nghiên cứu, ứng dụng lớn, có
thể tiếp thu và ứng dụng KHCN kỹ thuật cao trong sản xuất kinh doanh.

- Thu hút đầu tư FDI


24

Chính phủ Việt Nam luôn coi trọng đầu tư FDI với nền kinh tế, trong
nhiều năm qua, lượng vốn FDI đổ vào Việt Nam tăng nhanh chóng. Chính phủ
đang cố gắng tạo ra một môi trường đầu tư ổn định, an toàn, có có hiệu quả để
thu hút các nhà đầu tư đổ vốn vào thị trường Việt Nam. Các đối tác từ các quốc
gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Hoa Kỳ là những đối tác có lượng
vốn FDI cao. Gần đây, một số tổ chức quốc tế, đặc biệt là UNIDO, Chính phủ
Italia cũng đang có những nỗ lực để hỗ trợ phát triển các cụm liên kết ngành điều hỗ trợ đáng kể cho CNHT.
- Khả năng hội nhập kinh tế quốc tế của các doanh nghiệp
Sau khi Việt Nam tham gia tổ chức WTO, khả năng hội nhập và sẵn sàng
hội nhập của các doanh nghiệp tăng lên nhanh chóng. Các doanh nghiệp đã tự
trang bị cho mình vũ khí để vươn ra tầm quốc tế. Ngày nay, không một tập
đoàn, một doanh nghiệp nào còn thực hiện sản xuất khép kín theo mô hình tích
hợp dọc từ sử dụng nguyên liệu sơ chế để sản xuất các linh kiện, phụ tùng cho
đến lắp ráp hoàn chỉnh. Các công đoạn khác nhau trong qui trình sản xuất được
thực hiện tại các chi nhánh khác nhau trong cùng một doanh nghiệp đa quốc gia
hoặc mua từ các doanh nghiệp hỗ trợ khác ngoài mạng lưới.
Do đó quá trình toàn cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Minh chức cho
điều này, có thể thấy một sản phẩm hoàn chỉnh có xuất xứ từ 1 nước nhưng các
chi tiết, phụ tùng của có thể xuất phát từ nhiều nước khác nhau. Quá trình
chuyên môn hóa này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ
phát triển, nhưng lại tùy thuộc vào khả năng hội nhập quốc tế. Các doanh nghiệp
nhỏ và vừa của Việt Nam được đánh giá có khả năng hội nhập kinh tế, song sự
am hiểu về luật pháp và các quy định thương mại quốc tế của các doanh nghiệp
Việt Nam, khả năng ngoại ngữ của các doanh nghiệp Việt còn ở mức hạn chế.
1.4. Kinh nghiệm từ việc phát triển công nghiệp hỗ trợ của các quốc gia

trong khu vực và bài học cho Việt Nam
1.4.1. Nhật Bản
Nhật Bản là quốc gia được nhắc đến với nền công nghiệp phát triển bậc
nhất ở Châu Á, là tấm gương về tinh thần và sự nỗ lực vươn lên trong khó khăn


25

cho các quốc gia noi theo. Nhắc đến Nhật Bản người ta thường nói về sự “thần
kỳ”, chỉ trong một thời gian ngắn Nhật Bản đã trở thành nền kinh tế đứng thứ 2
trên thế giới và thứ nhất ở Châu Á.
Là nước công nghiệp có hàng loạt tập đoàn lớn đang khẳng định vị trí
hàng đầu trên thế giới. Để có được thành quả như hiện nay, Chính phủ Nhật Bản
đã đưa ra chiến lược phát triển CNHT, từ chỗ phụ thuộc vào công nghệ của
nước ngoài thành quốc gia tự chủ và dẫn đầu về công nghệ như hiện nay. Để
phục vụ nhà máy lắp ráp, Nhật Bản có hàng nghìn các DN vệ tinh khác chuyên
sản xuất các linh kiện phụ tùng hỗ trợ cho DN đó.
Ngoài ra, Chính phủ Nhật Bản đánh giá rất cao vai trò của các DN nhỏ và
vừa trong việc phát triển ngành công nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Từ năm 1936, Nhật Bản đã có Quỹ Tài chính đầu tư vốn cho DNNVV để giúp
các DN này vay vốn được dễ dàng hơn và tiếp cận được vốn trong thời gian
ngắn. Bên cạnh những hỗ trợ về mặt tài chính, Chính phủ Nhật Bản còn hỗ trợ
các DN về công nghệ…
Trong quá trình hình thành CNHT của Nhật Bản, điều đáng chú ý là hệ
thống CNHT hoàn toàn do các DN tư nhân phát triển lên. Chính phủ chỉ có
những chính sách hỗ trợ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các DN hoạt động và
phát huy năng lực. Điều này bắt buộc bản thân DN lớn cũng như DNNVV của
Nhật Bản đều có sự nỗ lực và năng lực làm việc rất cao. Đây chính là sự khác
biệt để tạo ra sự thành công của các DN Nhật Bản.
Kinh nghiệm tại Nhật Bản cho thấy, ở mỗi địa phương của nước này đều

có cơ sở dữ liệu riêng với sự tham gia của các quan chức chính quyền, các DN
và các nhà nghiên cứu. Đây chính là các cơ sở dữ liệu thông tin để phát triển
ngành CNHT. Các cơ sở dữ liệu này có chất lượng cao cung cấp thông tin chi
tiết về các nhà cung cấp, tạo điều kiện dễ dàng hơn cho hoạt động của các DN
trong ngành CNHT.
Bên cạnh đó, vấn đề nguồn nhân lực cũng là một trong những chiến lược
mà Nhật Bản đầu tư rất nhiều thời gian và công sức. Chính sách phát triển
nguồn nhân lực được phối hợp thực hiện ở tất cả các cấp nhằm khuyến khích lao


×