Tải bản đầy đủ (.docx) (95 trang)

Luận văn nghiên cứu thực trạng và giải pháp phát triển sản xuất dưa chuột, khoai tây và cà chua hàng hóa ở huyện tân yên, tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (681.37 KB, 95 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG
LÂM

HÀ ĐĂNG TRIỆU

NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT DƯA CHUỘT, KHOAI TÂY
VÀ CÀ CHUA HÀNG HÓA Ở HUYỆN TÂN YÊN,
TỈNH BẮC GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

THÁI NGUYÊN 2015


HÀ ĐĂNG TRIỆU

NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT DƯA CHUỘT, KHOAI TÂY
VÀ CÀ CHUA HÀNG HÓA Ở HUYỆN TÂN YÊN,
TỈNH BẮC GIANG
Ngành: Phát triển nông thôn
Mã số: 60.62.01 16

LUẬN VĂN THẠC SĨ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đinh Ngọc Lan



3

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng toàn bộ số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung
thực và chưa hề được bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn
và các thông tin trích dẫn trong luận văn này đã được ghi rõ nguồn gốc.

Thái Nguyên, ngày 02 tháng 11 năm 2015
TÁC GIẢ

LỜI CẢM ƠN

Hà Đăng Triệu

Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự cố gắng của bản thân, tôi còn nhận được sự
giúp đỡ nhiệt tình của nhiều cá nhân, tập thể trong và ngoài nhà trường.
Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa Kinh tế và Phát
triển nông thôn - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên đã hết lòng giúp đỡ và truyền đạt
cho tôi những kiến thức quý báu trong suốt quá trình học tập tại trường.
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc nhất tới cô giáo PGS.TS. Đinh Ngọc Lan đã tận
tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực tập và hoàn thiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn cán bộ, nhân viên các cơ quan, ban ngành, UBND các
xã và nhân dân trên địa bàn huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang đã nhiệt tình giúp đỡ, tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình nghiên cứu đề tài.
Cuối cùng tôi xin bày

tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè đã
động


viên giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu đề tài.
Xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, ngày 02 tháng 11 năm 2015


4

TÁC GIẢ

MỤC LỤC

3.1.2.
Tân

PHỤ LỤC

Hà Đăng Triệu

Kết quả thực hiện phát triển sản xuất cây trồng hàng hóa của huyện


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ATSH:

An toàn sinh học

ADQTKT:

Áp dụng quy trình kỹ thuật


BQ:
BVTV:

Bình quân
Bảo vệ thực vật

CNH - HĐH:
CPPB:

Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
Chi phí phân bổ

DT:

Diện tích

FAO:

Tổ chức Nông lương của Liên hợp quốc

HTXNN:

Hợp tác xã nông nghiệp

KTTB:

Kỹ thuật tiến bộ

CC:


Cơ cấu

LĐ:

Lao động

NN:

Nông nghiệp

NN&PTNT:

Nông nghiệp và phát triển nông thôn

PT:

Phát triển

SXHH:

Sản xuất hàng hóa

SX:

S ản xuất

SPHH:

Sản phẩm hàng hóa


TM- DV:

Thương mại - Dịch vụ

TSCĐ:

Tài sản cố định

XNK:

Xuất nhập khẩu

GTSX:

Giá trị sản xuất

GDP:

Gross Domestic Products
(Tổng sản phẩm quốc nội) Ủy ban nhân

UBND:

dân

DANH MỤC CÁC BẢNG


Bảng 2.1: Diện tích, năng suất, sản lượng cây rau hàng hóa tỉnh Bắc Giang



7

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương và giải
pháp nhằm thúc đẩy chuyển dịch nền kinh tế nông nghiệp

và nông

thôn theo hướng nền kinh tế hàng hóa nhỏ lẻ sang nền kinh tế thị trường hiện đại,
đáp ứng yêu cầu hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới, đặc biệt khi chúng ta đã
tham gia thực hiện AFTA, APEC, WTO và đang tiếp tục đàm phán Hiệp định đối tác
thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng nông
nghiệp nước ta đã đạt được thành tựu khá toàn diện và to lớn, nền nông nghiệp tiếp
tục phát triển với tốc độ khá cao theo hướng sản xuất hàng hoá, nâng cao
suất, chất lượng và hiệu

năng

quả đảm bảo vững chắc an ninh

lương thực quốc gia. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI tiếp tục khẳng
định: “Phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu
quả và khả năng cạnh tranh cao, thân thiện với môi trường, gắn sản xuất với chế biến
và thị trường, mở rộng xuất khẩu”.
Trong mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chương trình nông nghiệp của tỉnh Bắc
Giang giai đoạn 2010- 2015 đã nhấn mạnh: Nhiệm vụ là đưa diện tích trồng cây thực

phẩm từ 21,0 nghìn ha (năm 2010) lên 25,5 nghìn ha vào năm 2015, đạt sản lượng
286,0 nghìn tấn. Chỉ đạo xây dựng một số vùng chuyên canh sản xuất rau hàng hoá
phục vụ công nghiệp chế biến, xuất khẩu như dưa chuột bao tử, cà chua, cà rốt, nấm
ăn, khoai tây... với quy mô 1,45 nghìn ha tại các huyện: Hiệp Hoà, Tân Yên, Lạng
Giang, Việt Yên và Yên Dũng [27].
Huyện Tân Yên là một huyện miền núi của tỉnh Bắc Giang, với 22 xã và 2 thị
trấn, tổng diện tích đất tự nhiên của huyện là 20.789,63 ha [26]. Cơ cấu cây trồng
nông nghiệp chủ yếu: Lúa xuân- lúa mùa; lúa xuân- lúa mùa- cây vụ đông; cây màu
vụ xuân- lúa mùa và cây màu vụ đông. Cơ cấu cây trồng này mới đáp ứng những nhu
cầu tối thiểu của người dân địa phương. Để tăng thu


8

nhập của người dân ở một địa phương thuần nông cần phải có giải pháp tối ưu đó là
cải tiến cơ cấu cây trồng sao cho tạo ra giá trị cao hơn nhiều lần so với canh tác
truyền

thống phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã

hội trong

vùng và quan trọng hơn hết là bền vững về môi trường.
Cây rau hàng hóa đã được trồng ở nhiều địa phương trong cả nước cho thu
nhập cao hơn nhiều lần so với cây lúa hai vụ trên năm và điều kiện cuộc sống của
người dân những địa phương đó cũng không ngừng được cải thiện theo thời
gian. Nhóm cây rau phục vụ

chế biến cũng đã chứng tỏ hiệu quả


kinh tế cao hơn nhiều lần cây rau sản xuất tiêu dùng nội bộ. Tuy nhiên, những năm
qua diện tích rau hàng hóa của huyện còn thấp. Chính vì vậy, nghiên cứu phát triển
sản xuất cây trồng nông nghiệp hàng hóa là hết sức cần thiết để đưa nông nghiệp của
huyện lên một vị trí cao hơn, nâng cao thu nhập, đời sống cho người dân.
Sau thời gian đưa vào canh tác, sản xuất cây dưa chuột, khoai tây và cà chua
được chính quyền cũng như người dân trong huyện coi đây là những cây trồng phù
hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng, trình độ sản xuất của người dân có thể phát
triển mô hình cải tiến một vụ lúa, 2 vụ màu cho thu nhập kinh tế cao hơn so với mô
hình truyền thống khác. Theo tính toán trung bình những hộ trồng nhóm cây này có
thu nhập tăng từ 1,5- 3 lần so với cây trồng cũ, đảm bảo cho việc tái sản xuất, tích
lũy làm giàu cho nông dân trong huyện.
Xuất phát từ vấn đề trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu
thực trạng và giải pháp phát triển sản xuất dưa chuột, khoai tây và cà chua hàng
hóa ở huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang".
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
2.1.

Mục tiêu chung

Đánh giá thực trạng sản xuất cây trồng chủ lực là cây dưa chuột, khoai tây và
cà chua, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển mở rộng sản xuất
nhóm cây này theo hướng sản xuất hàng hóa trên địa bàn huyện Tân Yên, tỉnh Bắc
Giang.
2.2.

Mục tiêu cụ thể


9


-

Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển sản xuất hàng
hóa nói chung và cây dưa chuột, khoai tây, cà chua hàng hóa trên địa bàn
huyện nói riêng.

-

Đánh giá thực trạng tình hình sản xuất dưa chuột, khoai tây và cà chua trên
địa bàn huyện.

-

Phân tích khó

khăn, thuận lợi, cơ hội và thách thức để phát triển dưa

chuột, khoai tây và cà chua hàng hóa trên địa bàn huyện.
-

Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển sản xuất dưa chuột, khoai
tây và cà chua hàng hóa trên địa bàn huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang trong
thời gian tới.

3. Ý nghĩa của đề tài
3.1.

Ý nghĩa khoa học

Bổ sung và hệ thống hóa một số kiến thức về cây trồng hàng hóa, các yếu tố

ảnh

hưởng đến sự phát triển cây trồng hàng hóa, cụ thể ở đây là cây dưa

chuột, khoai tây và cà chua.
Cung cấp những dẫn liệu về thực trạng phát triển cây dưa chuột, khoai tây và
cà chua hàng hóa trên địa bàn huyện Tân Yên, từ đó đưa ra những giải pháp chung
nhằm khắc phục những khó khăn, tồn tại, thúc đẩy phát triển cây hàng hóa. Đồng
thời,là tài liệu tham khảo cho các độc giả quan tâm nghiên

cứu

khoa học về vấn đề cây trồng hàng hóa.
3.2.

Ý nghĩa trong thực tiễn

Đề tài có thể góp phần khắc phục những vấn đề bất cập mà chính quyền cũng
như các hộ gia đình trồng cây hàng hóa đang gặp phải.
Có thể đưa ra các giải pháp thiết thực giúp người nông dân phát triển cây trồng
hoàng hóa, đồng thời kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở cho các nhà lãnh đạo,
quản lý, các ban ngành của huyện, xã đưa ra phương hướng để phát huy những tiềm
năng thế mạnh, giải quyết những khó khăn, trở ngại nhằm phát triển cây trồng hàng
hóa ngày càng hiệu quả và bền vững.


1
0

Chương 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1.

Cơ sở lý luận về phát triển sản xuất

1.1.1.

Một số khái niệm

1.1.1.1.

Khái niệm về tăng trưởng và phát triển

Tăng trưởng và phát triển đôi khi được coi như nhau, nhưng thực chất chúng có
những nét khác nhau và có liên hệ chặt chẽ với nhau. Tăng trưởng kinh tế thường
được quan niệm là sự tăng thêm về quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời
kỳ nhất định [19]. Tăng trưởng được đánh giá bằng tỷ lệ thu nhập quốc dân (GNP)
và sản phẩm quốc nội (GDP) hàng năm. Phát triển kinh tế được hiểu là một quá trình
lớn lên hay tăng tiến về một mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định, trong
đó bao gồm sự tăng thêm về quy mô


cấu

sản lượng

về sự tiến bộ

về


kinh tế. Trong thựctế phát triển

kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế phải hài hòa
với công bằng và tiến bộ xã hội, đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân
dân. Tăng trưởng kinh tế là tiền đề vật chất hỗ trợ cho việc thực hiện công bằng xã
hội. Ngược lại công bằng xã hội lại tạo ra động lực vững chắc
để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hiệu quả kinh tế phải gắn với hiệu quả kinh tế- xã
hội. Đây là tiêu chuẩn quan trọng của phát triển kinh tế nói chung và phát triển nông
nghiệp nói riêng.
1.1.1.2.

Hàng hóa, sản xuất hàng hóa

Hàng hóa là vật phẩm do lao động của con người tạo nên để trao đổi, là thứ sản
phẩm để trao đổi, thông qua lưu thông trên thị trường thực hiện giá trị và mang lại
hiệu quả để tái sản xuất chứ không phải để tự cấp, tự túc, tự sản, tự tiêu. Hàng hóa có
hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng.
Hàng hóa không chỉ bao gồm những sản phẩm đầu ra của sản xuất mà còn bao
gồm các yếu tố đầu vào của sản xuất, mọi quan hệ kinh tế trong xã hội đều được tiền
tệ hóa thông qua thị trường.


1
1

Sản xuất hàng hóa là việc sản xuất ra những sản phẩm với mục đích đem bán
để thu về giá trị của nó và có giá trị thặng dư để tái sản xuất mở rộng.
Sản xuất hàng hóa là quá trình sản xuất ra sản phẩm để bán, không phải là để
tiêu dùng cho nhu cầu của chính người sản xuất ra sản phẩm đó.
“Sản xuất hàng hóa chính là cách tổ chức kinh tế xã hội trong đó sản phẩm đều

do những người sản xuất cá thể, nhưng là sản phẩm nhất

định,

thành thử muốn thỏa mãn nhu cầu của xã hội thì cần phải có mua bán sản phẩm (vì
vậy sản phẩm trở thành hàng hóa) trên thị trường” [13] .
Sản xuất hàng hóa nông nghiệp càng phát triển thì thu nhập của người nông
dân càng được nâng cao, thị trường nông sản lưu thông sẽ làm tăng giá trị của các
nông sản phẩm, từng bước đưa đời sống của người nông dân tiến tới đời sống tốt
hơn. Nếu nông nghiệp vẫn giữ lối sản xuất cũ thì khả năng tích lũy của nông dân hầu
như không có, thu nhập của họ sẽ không vượt qua nghèo khổ, đối với quy mô sản
xuất của hộ gia đình nếu như không có chuyên môn hóa, sản xuất
một ít, nuôi nhiều loại

mỗi loại

vật nuôi thì kết quả cao

nhất cũng chỉ thỏa mãn nhu cầu về đời sống tinh thần cũng như tại nạn rủi ro. Sản
xuất

nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa là hướng đi đúng đắn

giúp cho người nông dân có thu nhập cao nhất.
1.1.2.

Sự cần thiết phát triển sản xuất cây hàng hóa

Cây trồng nông nghiệp cung cấp cho chúng ta nhiều loại thực phẩm không thể
thiếu trong bữa ăn hàng ngày, cung


cấp nhiều Vitamin, chất

khoáng, chất xơ và còn có tính dược liệu cao mà các thực phẩm khác không thể thay
thế được.
Việt Nam có khả năng sản xuất cây trồng nông nghiệp quanh năm với số
lượng, chủng loại rất phong phú đa dạng, trên 60 loại trong vụ đông xuân, trên 20
loại trong vụ hè thu, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa và xuất khẩu. Để nâng cao
thu nhập cho người sản xuất và các tác nhân trong chuỗi giá trị cây trồng ở Việt


1
2

Nam, việc xác định các loại cây trồng chủ yếu cung cấp cho thị trường nội địa, xuất
khẩu và mối liên kết của thị trường với các khách hàng tiềm năng với đảm bảo về
chất lượng, VSATTP là cần thiết.
Phát triển sản xuất cây nông nghiệp hàng hóa cho phép tăng thêm khối lượng
nông sản hàng hóa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, tăng nguyên
liệu cho chế biến, góp phần thúc đầy quá trình chuyển dịch



cấu kinh tế nông thôn, chuyển nền sản xuất nông nghiệp tự cấp, tự túc sang nền nông
nghiệp hàng hóa thực hiện công nghiệp hóa- hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, tạo
giá trị cao, thu nhập cho người nông dân.
Phát triển sản xuất cây hàng hóa cho phép các địa phương khai thác có hiệu
quả yếu tố, khí hậu, đất đai, lao động nông nghiệp, nông thôn thúc đẩy quá trình cải
tạo đất đai, thiết kế lại đồng ruộng, tổ chức sản xuất, sử dụng hiệu quả hơn nguồn lực
khác ở nông thôn.

Phát triển sản xuất cây trồng theo hướng sản xuất hàng hóa sẽ tạo động lực mới
cho các hộ nông dân trên cơ sở sản xuất ngày càng nhiều sản phẩm hàng hóa có chất
lượng cao, giá thành hạ đáp ứng cao nhất cho nhu cầu của thị trường nhằm tăng thu
nhập. Sản xuất hàng hóa làm thay đổi tập quán sản xuất tự cấp, tự túc với hai vụ lúa
trước đây.
Ngoài ra phát triển sản xuất cây trồng theo hướng sản xuất hàng hóa còn tạo
thêm nguồn thức ăn cung cấp cho ngành chăn nuôi phát triển, cùng với ngành trồng
trọt tạo nên nông nghiệp cân đối bền vững, góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, phát triển nông nghiệp vững chắc và hiệu quả.
1.1.3.

Đặc điểm của sản xuất cây trồng hàng hóa

Thứ nhất, sản xuất cây trồng hàng hóa có rất nhiều tiềm năng như: Tiềm năng
về

diện tích; tiềm năng về lao động; tiềm năng tăng khối lượng hàng

hóa; tiềm năng giá trị sản xuất do từng cây trồng có giá trị kinh tế; tiềm năng về tăng
thu nhập bằng tiền cho nông dân trồng lúa, nếu được khai thác đúng đắn, hợp lý sẽ


1
3

đóng góp đáng kể vào chuyển nền nông nghiệp sang sản xuất hàng hóa, đồng thời
cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro như: Thời tiết, thị trường, trình độ tổ chức quản lý thấp
kém, công nghệ chế biến nông sản còn lạc hậu.
Thứ hai, sản xuất cây trồng hàng hóa đòi hỏi trình độ tổ chức sản xuất và trình
độ thâm canh rất cao đồng thời cũng mang tính thời vụ cao.

Đối tượng sản xuất cây hàng hóa chủ yếu là cây trồng cạn và ngắn ngày trên
cùng một mảnh đất có thể trồng nhiều loại cây, nếu không tổ chức tốt không thành
hàng hóa.
Sản xuất cây hàng hóa phải giải quyết quan hệ giữa các đối tượng cây trồng,
vùng sản xuất nên phải tổ chức tốt thì mới có hiệu quả.
Yêu cầu kỹ thuật của cây trồng đòi hỏi rất cao và phải chỉ đạo thật cụ thể, đúng
thời vụ, đúng quy trình thâm canh

mới đạt hiệu quả. Sản xuất cây

trồng hàng hóa đòi hỏi rất khắt khe về thời vụ gieo trồng và sử dụng lao động, cũng
như các yếu tố đầu vào, các nguồn lực trong nông thôn. Vì vậy, phải tổ chức gieo
trồng đúng thời vụ và quản lý sử dụng các nguồn lực (vật tư, lao động, tiền vốn) hợp
lý trong quá trình sản xuất thì mới cho hiệu quả cao.
Mặt khác, quy trình sản xuất cây trồng hàng hóa rất phức tạp và đa dạng bao
gồm các tiêu chuẩn kinh tế- kỹ thuật nhất định, nên cần phải sử dụng một lực lượng
lao động ở nông thôn có kiến thức khoa học và kỹ thuật trong hầu hết các khâu sản
xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu
quả.
Thứ ba, sản xuất cây trồng hàng hóa có khối lượng sản phẩm lớn cồng kềnh
khó vận chuyển, hàm lượng nước trong sản phẩm cao, nhiều loại dễ hư hỏng đòi hỏi
phải tổ chức có tính hệ thống từ khâu vận chuyển, chế biến, bảo quản và tiêu thụ sản
phẩm trong từng tiểu vùng và toàn vùng mới có hiệu quả.
Sản xuất cây hàng hóa đòi hỏi phải tổ chức tốt hệ thống các yếu tố đầu vào:
Thủy lợi, vật tư, giống, vốn, kỹ thuật.


1
4


Sản xuất cây hàng hóa đòi hỏi tổ chức tốt và có hiệu quả hệ thống sản xuất:
Phân vùng, bố trí cây trồng, xác định hệ thống cây trồng, thực hiện thâm canh trên
toàn bộ diện tích sản xuất.
Sản xuất cây trồng hàng hóa đòi hỏi phải tổ chức tốt hệ thống sau thu hoạch,
bảo quản, chế biến tiêu thụ kịp thời thích ứng và phù hợp với từng tiểu vùng và toàn
vùng. Sản phẩm cây trồng khi thu hoạch xong cần phải tiêu thụ nhanh chóng mới có
hiệu quả kinh tế cao. Nếu không tiêu thụ được ngay cần tổ chức tốt khâu bảo quản,
chế biến. Do đặc điểm về sản phẩm riêng của từng cây trồng và do đặc điểm sinh vật
học cũng như kinh tế và kỹ thuật của chúng mà đòi hỏi các vùng nông thôn tích cực
đẩy mạnh quá trình CNH- HĐH nhất là công nghiệp chế biến nông sản phẩm ở nông
thôn, cũng như tăng cường xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng phục vụ
đắc lực cho SXHH thì phát triển SXHH cây hàng hóa sẽ cho hiệu quả cao [14].
1.1.4.

Vai trò phát triển sản xuất cây trồng hàng hóa

1.1.41. Phát triển sản xuất cây hàng hóa góp phần chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông
nghiệp một cách hiệu quả mang lại giá trị hàng hóa cao
Những năm gần đây cơ cấu kinh tế nông nghiệp nước ta bước đầu đã gắn
phương thức truyền thống với phương thức công nghiệp hóa và đang từng bước giảm
bớt tính tự cấp, tự túc, chuyển dần sang sản xuất hàng hóa và
hướng mạnh ra xuất khẩu.
Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp là quá trình đưa sản xuất nông
nghiệp từ trình độ thấp kém lên trình độ tiến bộ được thể hiện bởi đặc trưng biến đổi
về tỷ lệ phần trăm giữa các loại sản phẩm nông nghiệp,

giữa các bộ

phận cấu thành của ngành và nội bộ từng ngành cụ thể, giữa các yếu tố đầu tư cho
sản xuất, theo đó nội dung bao gồm: Chuyển dịch cơ cấu sản phẩm hàng hóa trồng

trọt và chăn nuôi (khối lượng và giá trị); chuyển dịch cơ cấu giống cây trồng cũng
như vật nuôi; chuyển dịch cơ cấu diện tích đất nông nghiệp,
đất canh tác,

đất gieo trồng; chuyển

dịch cơ

cấu lao động sản xuất nông


1
5

nghiệp và nội bộ ngành nông nghiệp; chuyển dịch cơ cấu vốn đầu tư cho sản xuất
nông nghiệp, nội bộ ngành và các khâu sản xuất.
Muốn cho việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp đạt chất lượng mang
tính toàn diện và hiệu quả cần phải đặc biệt quan tâm đến các vấn đề như: Vùng và
tiểu vùng sinh thái; thành

phần kinh tế trong sản xuất nông

nghiệp; chất lượng sản phẩm nông nghiệp; đầu tư cho sản xuất nông nghiệp theo
hướng gia tăng hàm lượng khoa học công nghệ mới, kỹ thuật tiên tiến và quản lý
hiện đại,...
1.1.4.2.

Phát triển sản xuất cây trồng theo hướng sản xuất hàng hóa đáp ứng

yêu cầu phát triển bền vững

Hiện nay, nhân loại đang phải đương đầu với nhiều vấn đề hết sức phức tạp và
khó khăn: Sự bùng nổ dân số, ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái,. Nhiều
nước trên thế giới đã xây dựng và phát triển nông nghiệp theo quan điểm nông
nghiệp bền vững.
Phát triển nông nghiệp bền vững vừa đáp ứng nhu cầu của hiện tại, vừa đảm
bảo nhu cầu các thế hệ tương lai [10]. Một khái niệm khác cho rằng: Phát triển nông
nghiệp bền vững là sự quản lý, bảo tồn sự thay đổi về tổ chức và kỹ thuật nhằm đảm
bảo thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người cả cho hiện tại và mai sau. Để
phát triển nông nghiệp bền vững ở nước ta cần nắm vững mục tiêu về tác dụng lâu
bền của từng mô hình, để duy trì và phát triển đa dạng sinh học.
Phát triển sản xuất cây trồng hàng hóa bền vững phải dựa trên các tiêu chí sau:
- Bền vững về mặt sản xuất: Sản phẩm được tạo ra không những phải khai thác
lợi thế tự nhiên (đất đai, khí hậu, thời tiết.), lợi thế về mặt kinh tế (lao động, vốn,
trình độ sản xuất, cơ sở hạ tầng hiện có.), về mặt xã hội và môi trường (tạo ra được
sự liên kết trong nông thôn, xây dựng nông thôn mới và cải tạo được môi sinh môi
trường...).
-

Bền vững về thị trường tiêu thụ: Sản phẩm sản xuất ra đáp ứng được thị hiếu


1
6

tiêu dùng của thị trường trong nước và xuất khẩu về khối lượng, chất lượng và
giá cả có tính cạnh tranh cao. Có thị trường tiêu thụ ổn định và tạo khả năng
mở rộng thị trường mới. Thị trường ở đây được hiểu là thị trường tiêu dùng
sản phẩm cùng thị trường nguyên liệu sản phẩm cho công nghiệp chế biến.
-


Bền vững về môi trường kinh tế, xã hội nông thôn: Sản xuất sản phẩm

hàng hóa

phải gắn với phát triển

sản phẩm đa dạng, đáp ứng nhu

cầu tiêu

dùng tại chỗ và sử dụng lao động, tài nguyên tại chỗ, phải là sản phẩm sạch, không
gây ô nhiễm môi trường, phá hoại môi trường, môi sinh.
Gắn được sản xuất, chế biến với môi sinh môi trường nông thôn, tạo điều kiện
xây dựng một cơ cấu kinh tế mới phù hợp, bền vững: Gắn được sản xuất với chế biến
để vừa sử dụng được nguyên liệu tại chỗ, giảm được chi phí vận chuyển, thu hút
được lao động tại chỗ, tạo thêm được việc làm; đa dạng hóa sản phẩm nhằm sử dụng
tiềm năng đa dạng của điều kiện tự nhiên, đất đai và lao động của từng địa phương,
tăng thu nhập cho hộ gia đình, tạo điều kiện để sản phẩm hàng hóa phát triển thuận
lợi, hiệu quả.
1.1.5.

Điều kiện để phát triển sản xuất cây trồng hàng hóa

Thứ nhất,

người sản xuất cây phải chuyển từ phương

thức sản xuất tự

cấp, tự túc sang phương thức sản xuất để bán.

Trong sản xuất nông nghiệp nói chung và phát triển sản xuất cây hàng hóa nói
riêng, người nông dân phải từ bỏ được tập quán và thói quen sản xuất là để phục vụ
nhu cầu của bản thân. Họ dám bỏ tiền và sức lực vào sản xuất sản phẩm cây hàng
hóa nào mà họ có khả năng nhất, còn những sản phẩm nông sản khác mà khả năng
của người nông dân sản xuất kém hơn thì họ dám quyết định không sản xuất và sẽ
mua ở thị trường khi có nhu cầu tiêu dùng.
Thứ hai, có thị trường tiêu thụ rộng lớn và sản phẩm có chất lượng cao, giá
thành hạ đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng trong và ngoài nước.
Các nông hộ sản xuất cây hàng hóa phải biết sản xuất ra sản phẩm nào có chất
lượng cao, đem lại lợi ích nhất đối với họ, có nghĩa là người sản xuất phải biết lựa


1
7

chọn những giống cây nào được người tiêu dùng đánh giá cao phù hợp với thị hiếu
tiêu dùng và họ dám bỏ tiền ra mua theo giá mà người tiêu dùng có thể chấp nhận
được.
Thứ ba, phải
công nghiệp



cơ sở vật

chất đủ mạnh,

nhất




chế biến,

bảo quản, đường giao thông và phương tiện vận chuyển thuận lợi.
Sản phẩm cây hàng hóa phải được vận chuyển từ nơi sản xuất đến nơi tiêu
dùng đúng thời gian, đúng kênh, đúng luồng và kịp thời, có nghĩa là phải có điều
kiện thông thương cho sự trao đổi nông sản nội vùng, ngoại vùng.
Dù sản xuất cây trồng có thể phát triển, tăng quy mô và khối lượng, song nếu
điều kiện giao thông chuyên chở không có, hay đường giao thông không thuận lợi
hoặc phương tiện vận tải và những điều kiện đó yếu kém thì cũng
khó có thể phát triển sản xuất cây trồng theo hướng SXHH. Ngoài ra, phát triển sản
xuất cây hàng hóa cần có hệ thống tưới tiêu tốt để đảm bảo đủ nước cho nhu cầu sinh
trưởng và phát triển đạt hiệu quả cao.
Thứ tư, phải phát triển công nghiệp nông thôn với những công nghệ kỹ thuật
tiên tiến, cơ sở chế biến, bảo quản nông sản phù hợp.
Cơ sở chế biến, bảo quản và công nghệ hiện đại cũng là điều kiện không thể
thiếu để phát triển sản xuất cây trồng theo hướng SXHH.
Ngoài các điều kiện trên để phát triển mạnh sản xuất cây trồng hàng hóa phải


giống cây trồng,

nhất là giống có năng suất, giá trị cao, khả năng

chống chịu sâu bệnh tốt, phù hợp với điều kiện sinh thái cụ thể của từng vùng, từng
địa phương. Phải có công nghiệp nông thôn phát triển với những công nghệ kỹ thuật
tiên tiến,

cơ sở chế biến bảo quản nông sản phù hợp giúp cho


nông dân tiêu thụ sản phẩm kịp thời, nâng cao chất lượng nông sản, giảm giá thành
sản phẩm
1.1.6.

Nội dung phát triển sản xuất cây trồng hàng hóa


1
8

Phát triển sản xuất cây trồng hàng hóa là quá trình tái sản xuất cây trồng mở
rộng, trong đó quy mô sản xuất sau lớn hơn quy mô sản xuất trước trên cơ sở thị
trường chấp nhận, những sản phẩm tạo ra với mục đích đem bán để thu về giá trị của
nó và có giá trị thặng dư để tái sản xuất mở rộng.
-

Mở rộng quy mô sản xuất: Khuyến khích, có chính sách hỗ trợ người sản
xuất cây trồng từ quy mô nhỏ lẻ, manh mún lên quy mô lớn, tập trung. Tuy
nhiên về lâu dài không làm ảnh hưởng đến an ninh lương thực.

-

Gắn

với công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ với sản xuất cây

trồng, khuyến khích các nhà máy chế biến đầu tư sản xuất trên địa bàn.
-

Mở rộng các kênh thị trường tiêu thụ, các cơ quan chức năng hỗ trợ người

sản

xuất bằng việc tìm hiểu và nghiên cứu thị trường, tìm hiểu

sản

phẩm mà thị trường cần từ đó đưa ra các khuyến cáo cho người sản xuất.
1.1.7.

Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển cây trồng hàng hóa

* Yếu tố điều kiện tự nhiên: Sản xuất nông nghiệp gắn liền với điều kiện tự
nhiên như đất, nước, khí hậu, thời tiết... Điều kiện tự nhiên ảnh hưởng đến việc sản
xuất loại sản phẩm gì? chất lượng ra sao? Và đó cũng là cơ sở hình thành các vùng
sản xuất, vùng chuyên môn hoá. Vị trí địa lý cũng là yếu tố quan trọng cho việc phát
triển

sảnxuất nông sản hàng hoá. Vị trí gần thị trường tiêu

thụ,

giao thông thuận lợi... là yếu tố lợi thế cho tiêu thụ và giảm chi phí sản xuất, kích
thích sản xuất phát triển.
* Yếu

tốthị trường: Thị

trường là nhân tố quyết định đến việc phát

triển sản xuất hàng hoá nói chung và nông sản hàng hoá nói riêng. Khi mà nhu cầu

của thị trường tăng, thị trường mở rộng sẽ kích thích sản xuất phát triển, khi nhu cầu
giảm làm sản xuất hàng hoá giảm. Người sản xuất luôn quan tâm đến việc nắm bắt,
mở rộng và ổn định thị trường để đảm bảo cho sản xuất của mình. Thị trường ở đây
không chỉ là thị trường tiêu thụ sản phẩm, mà người sản xuất còn quan tâm đến thị
trường tài chính, thị trường lao động, dịch vụ, vì các yếu tố này có liên quan đến quá


1
9

trình sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá cần có thị trường, hệ thống tổ chức tiêu
thụ và quảng bá sản phẩm của mình mới có thể đảm bảo cho quá trình sản xuất ra
sản phẩm hàng hoá và tiêu thụ được thông suốt.
* Yếu tố

khoa học công nghệ: Do yêu cầu của thị trường đòi hỏi sản

phẩm hàng hoá có số lượng và chất lượng ngày càng cao, ổn định, đảm bảo khoa học
kỹ thuật, ứng dụng công nghệ

mới vào sản xuất

nhằm tạo

ra

giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao, chất lượng tốt, tạo ra sức cạnh tranh cho
hàng hoá. Tiến bộ khoa học được áp dụng trong bảo quản, chế biến, bao bì đóng gói
sẽ làm giảm thất thoát sau khi thu hoạch, đảm bảo chất lượng sản phẩm. Đây là yếu
tố quyết định đến nâng cao chất lượng và tiêu thụ sản phẩm. Đối với nước ta từ một

nước có điểm xuất phát thấp, sản xuất nông sản vẫn dựa trên cơ sở thủ công lạc hậu
cho nên nhân tố khoa học và công nghệ là vấn đề then chốt để thúc đẩy quá trình
phát triển nông sản hàng hoá và tạo lợi thế cạnh tranh.
Là một yếu tố tác động mạnh và trực tiếp đến việc sản xuất nông sản
hàng hoá. Ở một nơi nào đó, nếu trình độ dân trí quá thấp thì cơ cấu kinh tế sẽ thay
đổi rất chậm. Bởi trình độ nhận thức và vận dụng các quy luật kinh tế, khả năng nắm
bắt và dự báo các diễn biến phức tạp của nền kinh tế trước mắt và lâu dài làm cho
các lựa chọn, quyết định đầu tư vào sản xuất dễ xảy ra sai lầm và nhiều khi quyết
định sản xuất theo phương thức và cơ cấu cũ lại là quyết định an toàn của người sản
xuất, dẫn đến cơ cấu kinh tế chậm được thay đổi. Như vậy, trình độ dân trí cũng ảnh
hưởng lớn tới tốc độ và quá trình
hàng hoá. Để thúc đẩy mạnh sản

sản

xuất nông sản

xuất

nông sản hàng

hoá cần phải tăng cường khoa học kỹ thuật, kiến thức về kinh tế, kinh doanh cho
người nông dân và các chủ trang trại.
* Cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng: Cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu
hạ tầng có vai trò hết sức quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động
của từng đơn vị kinh tế cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự phát triển


2
0


của kết cấu hạ tầng sẽ là một trong những điều kiện vật chất quan trọng cho
sự phát triển nền kinh tế và các phúc lợi khác.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, thông tin đóng vai trò quan trọng cho
cả người mua và người bán, cả người sản xuất và người tiêu dùng. Vấn đề thông tin
ở các vùng nông thôn hiện nay chưa được chú trọng và cũng là nguyên nhân làm cho
thị trường ở nơi ấy không phát triển. Do không có thông tin hay thông tin không
chính xác, người mua phải mua với giá đắt và người bán phải bán với giá rẻ, tư
thương ép giá những người sản xuất ra sản phẩm. Đây là một trong những nguyên
nhân làm cho giá nông sản thấp và giá cả mặt hàng công nghiệp ở nông thôn cao,
gây bất lợi cho nông dân. Phải xây dựng được hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật cho
mạng lưới thông tin về các vùng nông thôn làm cho thị trường phát triển.
Mặt khác, đường sá giao thông, phương tiện vận chuyển được củng cố và
nâng cao để

vận chuyển nông sản hàng hoá đến mọi nơi, mọi thị

trường một cách nhanh chóng là điều kiện tiên quyết. Khối lượng hàng hoá nhập
khẩu lớn, đòi hỏi hệ thống kho tàng bảo quản, hệ thống bến bãi, bến cảng với
những thiết bị hiện đại có công suất lớn. Ngày nay nhu
hỏi các

sản phẩm hàng hoá có

cầu đòi

chất lượng, sử dụng tiện lợi, các sản phẩm

đó được sản xuất trên những máy móc thiết bị hiện đại. Chính vì vậy, cơ sở vật chất
kỹ thuật và kết cấu hạ tầng hiện đại là nền tảng để sản xuất hàng hoá nói chung và

sản xuất nông sản hàng hoá tốt.
*

Quản lý vĩ mô của Nhà nước: Nếu thể chế quản lý vĩ mô ổn định và mềm dẻo
sẽ

tạo điều kiện đổi mới liên tục cơ cấu và công nghệ sản xuất phù

hợp với điều kiện thực tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng và phát triển nhanh.
Ngược lại, một thể chế không phù hợp sẽ gây ra những cản trở mất ổn định,
thậm chí dẫn đến phá vỡ những quan hệ cơ bản làm cho nền kinh tế rơi vào
tình trạng suy thoái.
Nhà nước thực hiện các chức năng của mình bằng cách chịu trách nhiệm phần
lớn sản xuất các hàng hoá công cộng, sử dụng công cụ thuế và ngân sách để điều tiết


2
1

thu nhập và kiềm chế các hoạt động làm tổn hại đến môi trường. Nhà nước sử dụng
công cụ tài chính và tiền tệ tác động đến sản xuất, công ăn việc làm, giá cả của một
nền kinh tế. Trong các nhân tố tác động để phát triển sản xuất nông
hàng hoá,

sản

mỗi một nhân tố tác động ở các khía cạnh khác

nhau, kết quả phát triển nông sản hàng hoá là kết quả tác động tổng hợp và đồng bộ
các nhân tố, đặc biệt là nhân tố thị trường và nhân tố quản lý vĩ mô của Nhà nước

giữ vai trò quan trọng nhất. Nhà nước và các chính sách Nhà nước, đặc biệt chính
sách liên quan đến phát triển nông nghiệp nông thôn, khoa học công nghệ... có vai
trò hết sức quan trọng trong việc định hướng sản xuất nông sản hàng hoá. Các chính
sách của Nhà nước có tác động trực tiếp đến các quyết định sản xuất của người dân.
Bởi có cơ chế chính sách đúng đắn, xây dựng kết cấu hạ tầng vững mạnh và định
hướng thị trường chính xác sẽ có tác dụng phát huy những nhân tố khác và sau đó
chúng đồng thời tác động để thúc đẩy sản xuất nông sản hàng hoá.
* Yếu tố xã hội: Người lao động tham gia sản xuất và tiêu thụ nông sản hàng
hoá thường trải rộng trên địa bàn, cho nên yêu cầu nguồn lao động vừa thường xuyên
vừa thời vụ. Bởi vậy, cũng cần lực lượng lao động có trình độ chuyên môn, tay nghề,
kinh nghiệm, trình độ quản lý và marketing. Như vậy, có nguồn nhân lực đáp ứng
yêu cầu cho sản xuất nông sản hàng hoá sẽ có điều kiện, cơ hội phát triển nhanh và
tiếp cận với thị trường. Hiện tại nước ta sản xuất nông sản hàng hoá còn đang ở trình
độ lao động thủ công là chủ yếu, cho nên lao động đóng vai trò quyết định. Chúng ta
đang thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn rất cần lực
lượng lao động có trình độ, có tay nghề cao để thúc đẩy nhanh quá trình phát triển
sản xuất hàng hoá.
Để phát triển sản xuất hàng hoá, cần có vốn đầu tư, các thành phần kinh tế
tham gia vào sản xuất cần phải xây dựng nhà xưởng, mua sắm máy móc, thiết bị,
công nghệ, phương tiện vận chuyển... đều cần vốn. Trong sản xuất công nghiệp, vốn


2
2

đầu tư cho vùng sản xuất nguyên liệu cũng đóng vai trò quyết định cho quá trình sản
xuất nông sản hàng hoá. Muốn đảm bảo cho sản phẩm có khối lượng lớn và chất
lượng cao đòi hỏi phải đầu tư cho hệ thống tưới nước, điện, hệ thống giao thông,
công nghệ sản xuất tiên tiến... Cho nên việc huy động vốn đầu tư hết sức quan trọng,
có ảnh hưởng lớn đến việc mở rộng sản xuất.

Để sản xuất hàng hoá có hiệu quả không chỉ đầu tư cho các doanh nghiệp sản
xuất mà còn đầu tư cho các cơ sở vật chất kỹ thuật, kết cấu hạ tầng như đường giao
thông, hệ thống điện, hệ thống thông tin, hệ thống cảng biển, sân bay, hệ thống vận
tải, nhà kho... Những công trình đầu tư này bao gồm đầu tư chung của quốc gia, của
các ngành dịch vụ, nhằm nâng cao năng lực hoạt động của các ngành dịch vụ, đảm
bảo cho sản xuất và tiêu thụ hàng hoá thông suốt, ...
Đẩy mạnh phát triển vùng sản xuất hàng hoá không thể thiếu vai trò quản lý
của Nhà nước. Quản lý vĩ mô của Nhà nước thông qua hệ thống pháp luật được thể
hiện qua luật pháp và chính sách được thực hiện thông qua bộ máy quản lý Nhà
nước. Hành lang pháp luật phù hợp tạo ra động lực to lớn thúc đẩy sản xuất phát
triển. Đường lối tự do hoá thương mại, Luật đất đai, Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư
nước ngoài, các chính sách đầu tư, tín dụng, thuế, phát triển các thành phần kinh tế,
đã có tác động to lớn đến quá trình chuyển từ cơ chế kinh
hoạchhoá tậptrung sang

sản xuất hàng hoá theo

tế kế
cơ chế thị

trường, định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước.
1.2.

Cơ sở thực tiễn về phát triển sản xuất cây trồng nông nghiệp hàng

hóa ở một số nước trên thế giới và ở Việt Nam
1.2.1.

Kinh nghiệm sản xuất nông sản hàng hóa của Trung Quốc


* Cải cách cơ chế quản lý kinh tế, kết hợp giữa kế hoạch với thị trường ở Trung
Quốc: Trình tự cải cách kinh tế kết hợp giữa kế hoạch và thị trường ở Trung
Quốc được chuyển biến dần dần qua 3 thời kỳ từ thấp đến cao [4].


2
3

Một là, thừa nhận kế hoạch là công cụ chính, còn thị trường là phụ để điều tiết
nền kinh tế.
Hai là, đi đến nhất trí là phải kết hợp kế hoạch với thị trường trong điều tiết
kinh tế.
Ba là, chuyển

sang tư tưởng phát triển kinh tế thị trường xã hội chủ

nghĩa (từ tháng l0/1992). Phân biệt kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa dựa trên sự
khác nhau về: Sở hữu tư liệu sản xuất, phân phối và mục tiêu kinh tế, xã hội. Kinh tế
thị

trườngxã hội chủ

nghĩa ở Trung Quốc

dựa trên sở hữu

công cộng về tư liệu sản xuất. Phân phối có lợi cho đại đa số nhân dân lao động và
phân phối theo lao động là chính, đồng thời phân phối theo sở hữu tài sản, vốn, đất
đai. Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa chạy theo hiệu quả mà bỏ qua công bằng xã
hội, còn kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa coi trọng cả công bằng xã hội và hiệu

quả.
*

Chính sách đất đai và khoán ở Trung Quốc: Quyền sở hữu đất đai ở Trung
Quốc cho đến nay vẫn thuộc về sở hữu Nhà nước. Trung Quốc đã tách quyền
sở hữu với quyền sử dụng thông qua hình thức khoán ruộng đất cho tập thể,
sau đó khoán cho các hộ. Đồng thời đã bước đầu hình thành cơ sở ban đầu
của thị trường đất đai. Nhà nước tách quyền sở hữu với quyền sử dụng, giao
đất nông nghiệp cho tập thể quản lý và giao khoán cho nông dân sử dụng
thông qua hình thức nhận khoán. Nhà nước cũng chính thức công bố đất đai là
hàng hoá. Thị trường đất đai ở Trung Quốc coi như chính thức hình thành từ
tháng 12/1987.
* Chính sách chuyển đổi cơ cấu kinh tế: Đã thực hiện chính sách phát triển

nhiều thành phần kinh tế. Ngoài sở hữu công cộng gắn liền với các doanh nghiệp
quốc doanh, khuyến khích các thành phần kinh tế khác, bao gồm kinh tế cá thể, xí
nghiệp tư doanh, các hình thức chung vốn và cổ phần kinh doanh, xí nghiệp chung
vốn giữa Trung Quốc với nước ngoài, xí nghiệp hợp doanh giữa Trung Quốc với
nước ngoài, xí nghiệp 100% vốn nước ngoài,...


2
4

-

Về cải cách kinh tế nông thôn có thể chia làm 2 giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất
từ 1978 - 1984: Đến cuối năm 1984, cả nước Trung Quốc có 5,69 triệu đội
sản xuất, trong đó có 99% số đội đã thực hiện khoán sản lượng hay khoán
toàn bộ đến hộ, chiếm 98,2% số thôn, 96,3% số hộ, 98,6% đất canh tác trong

cả nước. Giai đoạn thứ hai từ năm 1984 đến năm 2000 nhằm tập trung thúc
đẩy sản xuất hàng hoá và sử dụng lực lượng lao động trong nông thôn bằng
một loạt chính sách: Tăng cường phát triển lực lượng sản xuất đẩy mạnh lưu
thông hàng hoá ở nông thôn, hình thành nhiều hình thức thương nghiệp, cải
cách cơ chế hợp tác xã cung tiêu, thực hiện thu mua theo hợp đồng và mua
bán tự do trên thị trường. Khuyến khích phát triển kinh tế hộ, tạo điều kiện ưu
đãi về vốn, tín dụng cho các gia đình sản xuất chuyên môn hoá để tăng nhanh
sản phẩm hàng hoá trên thị trường. Tạo sự chuyển biến trong phân công lao
động và tận dụng tối đa lao động dư thừa trong nông thôn thông qua việc
khuyến khích phát triển xí nghiệp Hương Trấn và dịch vụ [4].

-

HTX và mối quan hệ giữa HTX với hộ nhận khoán: Phát triển toàn diện chế
độ hợp tác ở nông thôn theo 3 hình thức: Tổ chức hợp tác mang tính khu vực,
tổ chức hợp tác mang tính chuyên môn hoá phục vụ nông nghiệp theo ngành
nghề, tổ chức hợp tác liên ngành nông- công- thương nghiệp.
Về mối quan hệ giữa hộ gia đình nhận khoán và HTX, hình thức khoán toàn bộ

thể hiện luận cứ khoa học và thực tiễn về quản lý của HTX trên 3 khía cạnh: Thực
hiện nguyên tắc kết hợp giữa nguyên tắc thống nhất kinh doanh và phân tán kinh
doanh, đảm bảo tính ưu việt của tập thể và tính tích cực của cá nhân được phát huy;
sự sáng tạo và bước phát triển mới trong thực tiễn về lý luận hợp tác hoá nông
nghiệp; có tác dụng xoá bỏ sự trì trệ trong sản xuất nông nghiệp, thúc đẩy nông
nghiệp từ kinh tế tự cấp và nửa tự cấp sang sản xuất hàng hoá.
- Trong nông nghiệp, sự đa dạng quan hệ sở hữu trong nông nghiệp và nông
thôn thể hiện ở chỗ phát triển mạnh mẽ các xí nghiệp Hương Trấn. Các xí nghiệp
Hương Trấn đã giữ vai trò hết sức quan trọng từ năm 1987 khi người nông dân được



2
5

xác lập vai trò sản xuất và kinh doanh hàng hoá ở nông thôn.
Nguồn gốc hình thành các xí nghiệp Hương Trấn bao gồm nhiều thành phần
kinh tế: Xí nghiệp tập thể do xã, thôn lập ra; xí nghiệp do liên hội nông dân lập ra;
cũng có thể do cá thể lập ra nhưng lực lượng chủ yếu hình thành nên xí nghiệp
Hương Trấn là nông dân. Xí nghiệp Hương Trấn đã góp phần thay đổi bộ mặt kinh tế
- xã hội ở nông thôn Trung Quốc [4].
*

Chính sách giá cả: Trung Quốc đã liên tục có chính sách tăng giá thu mua
nông sản, năm 1974 nâng giá lên 20,1%, năm 1980 tăng lên 8,1%, từ năm
1981 mỗi năm tăng 3%. Giá mua ngũ cốc ngoài nghĩa vụ không vượt quá
50% giá trong nghĩa vụ. Nông sản thừa được bán theo giá thoả thuận. Xóa bỏ
cơ chế nhà nước độc quyền thu mua nông sản, thực hiện cơ chế mua theo hợp
đồng. Thay thế nộp thuế bằng hiện vật sang nộp bằng tiền mặt.
Giai đoạn sau này tiếp tục chính sách nới lỏng giá cả bằng 3 phương án nới

lỏng hơn nữa phần lớn giá nông sản; nới lỏng giá 10 loại hàng tiêu dùng công
nghiệp,

thựchiện cơ chế 2 giá đối

với tư liệu sản xuất công nghiệp.

Đồng thời xúc tiến điều chỉnh một phần cơ cấu giá cả, nâng cao thích đáng giá mua
lương thực, giá một số loại thuốc lá và rượu, giá mua 4 loại thực phẩm chủ yếu ở
thành thị [10].
* Chính sách

trường nội

tự do hoá

thương mại: Về lưu thông, tiêu thụ trên thị

địa, đến cuối năm 1982 Trung Quốc

chủ trương hình thành hệ

thống luân chuyển hàng hoá song song, bao gồm một bên là khu vực quốc
doanh và công tư hợp doanh (đã có từ trước) và bên kia là tư nhân và tập thể. Chính
phủ kiểm soát bán buôn. Việc điều chỉnh cung cầu thông qua các hợp đồng buôn bán
nên giá cả được duy trì ổn định. Trong hơn 20 năm qua hệ thống hoạt động ngoại
thương độc quyền và tập trung cao đã được cải cách từng bước và phân quyền thông
qua giao quyền nhiều hơn cho các tập đoàn thương mại và các hãng sản xuất. Hệ
thống kế hoạch thương mại này đã được thay đổi dần từ kế hoạch pháp lệnh hoàn
toàn sang kết hợp giữa pháp lệnh và hướng dẫn

với sự

điều

chỉnh linh hoạt


×